Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa đảng với nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.83 KB, 8 trang )

Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân:
Nhân tố quyết định sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng
lợi của cách mạng Việt Nam
Cập nhật lúc 17h7 - Ngày 30/09/2015

XÂY DỰNG MỐI LIÊN HỆ MẬT THIẾT GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN
DÂN:
NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ VỮNG MẠNH CỦA ĐẢNG,
LÀM NÊN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM*
TRƯƠNG TẤN SANG**
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là người làm nên lịch sử, gắn bó
mật thiết với nhân dân là bản chất của Đảng Cộng sản. Trong lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, ông cha ta cũng đã xác
định nhân dân là gốc của nước, "chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là
dân". Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác Lênin và những giá trị truyền thống của dân tộc, luôn luôn nhận thức sâu
sắc về vai trò của nhân dân, Người cho rằng: "Trong bầu trời không gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân"1. Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng trong suốt 80
năm qua, ở tất cả các giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều gắn bó mật thiết,
máu thịt với nhân dân. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong
80 năm qua rất đa dạng, phong phú, thể hiện ở một số nội dung, phương
thức sau đây:
Thứ nhất, mọi hoạt động của Đảng đều nhằm mục đích phục vụ Tổ quốc,
phụng sự nhân dân.
Từ khi ra đời đến nay, trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối của mình,
Đảng ta luôn xác định Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng,


đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng, khẳng định
toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân
chính của nhân dân, sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân
dân, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất
không lường được đối với vận mệnh của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: "Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng


ta không có lợi ích nào khác"2. "Tất cả đường lối, phương châm, chính
sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân..."3. Người
nói: "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC" 4. Sự thống nhất giữa
mục tiêu và lợi ích của Đảng với mục tiêu, lợi ích, nguyện vọng của nhân
dân là cơ sở nền tảng vững chắc của mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân.
Bằng việc đoàn kết, tập hợp, tổ chức và lãnh đạo toàn dân vượt qua muôn
vàn khó khăn, thách thức, Đảng ta đã từng bước thực hiện mục tiêu, lý
tưởng của mình: giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; đưa cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội; thực hiện đường lối đổi mới đạt được những thành
tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử; thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh". Những chiến thắng vĩ đại và thành tựu
to lớn của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm cho quần
chúng nhân dân càng thêm tin yêu, gắn bó với Đảng, thừa nhận sự lãnh
đạo của Đảng - lãnh tụ duy nhất, đáng tin cậy của mình. Vì vậy mà toàn
thể nhân dân Việt Nam đã gọi Đảng Cộng sản Việt Nam bằng hai tiếng gần
gũi, tin yêu: "Đảng ta".
Thứ hai, sau khi giành được chính quyền, Đảng chăm lo xây dựng chính
quyền thực sự "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"; xây dựng mối
liên hệ giữa Đảng với nhân dân thông qua mối quan hệ giữa chính quyền
với nhân dân.

Sau khi được thành lập, để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đem lại độc lập, tự
do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, Đảng ta đề ra mục tiêu, nhiệm
vụ đầu tiên là phải giành được chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đổ
chính quyền thực dân và phong kiến, xây dựng chính quyền của nhân dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta được làm chủ đất nước. Cuộc bầu
cử Quốc hội đầu tiên ngày 6-1-1946 và việc nhân dân tham gia xây dựng
Hiến pháp năm 1946 là biểu hiện tập trung nhất quyền làm chủ đất nước
của nhân dân ta. Hiến pháp năm 1946 và trong các bản Hiến pháp tiếp theo
đều quán triệt quan điểm: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo"5.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì một trong những kênh liên hệ quan
trọng nhất giữa Đảng với nhân dân là thông qua mối quan hệ giữa Nhà
nước với nhân dân. Vì vậy Đảng ta luôn luôn coi việc lãnh đạo, xây dựng,
tăng cường, kiện toàn Nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, để
Nhà nước là cơ quan quyền lực của nhân dân, để phục vụ lợi ích của nhân
dân, tất cả mọi cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước là


"đầy tớ, công bộc" của dân... Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì"6, Đảng ta đã lãnh đạo Nhà nước xây dựng hệ
thống pháp luật, đề ra và thực hiện có hiệu quả các chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, cơ chế, chính sách, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,
bảo đảm an ninh, quốc phòng, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nâng
cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, phát huy quyền làm chủ, cải
thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; xây dựng bộ
máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có phẩm chất và năng lực, toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ

nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận của các cấp chính
quyền có nhiều chuyển biến tích cực. Cán bộ, công chức, viên chức ngày
càng sâu sát cơ sở, gần dân, đổi mới tác phong công tác, phục vụ nhân dân.
Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức giữ mối liên hệ
thường xuyên và chặt chẽ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân. Đồng thời, Đảng lãnh đạo Nhà nước tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm hại tới lợi ích của
đất nước, của nhân dân... Nhờ đó, quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân
được củng cố tăng cường.
Thứ ba, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở mối
quan hệ giữa Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở nước ta đóng vai trò hết sức quan
trọng trong đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, đối tượng xã hội, là cầu nối
giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Chính vì nhận thức sâu sắc tầm
quan trọng của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cho nên ngay sau khi ra
đời, Đảng đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp
vào các tổ chức như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Tương tế, Ái hữu để xây
dựng lực lượng cách mạng cho nên cao trào cách mạng Xô viết
Nghệ - Tĩnh; xây dựng các tổ chức công nhân cứu quốc, nông dân cứu
quốc, phụ nữ cứu quốc... tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, phát triển lực
lượng chính trị hùng mạnh, kết hợp với lực lượng vũ trang, khi thời cơ
đến, đứng lên lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, xây dựng chính
quyền công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong suốt 30 năm tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, Đảng ta đã đưa công tác vận động quần chúng lên tầm cao
mới, động viên được toàn dân tích cực tham gia vào cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Với nhận thức sâu sắc "dễ mười lần không
dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong", Đảng đã lãnh đạo Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể tập hợp, đoàn kết các tầng lớp xã hội công



nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh niên, phụ lão, đồng bào các dân
tộc, tôn giáo trên khắp mọi miền của Tổ quốc, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài... gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân thương yêu,
đùm bọc, giúp đỡ, ủng hộ. Bằng phương thức này, Đảng đã động viên
được sức người, sức của, huy động cả nước đồng lòng đánh giặc, quyết
đánh và quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Trong hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta đã
không ngừng củng cố, mở rộng, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, đổi mới công tác vận động quần
chúng của Đảng. Nhiều chủ trương, đường lối, chính sách cơ bản về Mặt
trận Tổ quốc, xây dựng các giai cấp, tầng lớp, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài... của Đảng, Nhà nước được ban
hành, hoàn thiện, thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân ngày càng làm tốt hơn vai trò phối hợp thống
nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, động viên các tầng lớp nhân dân thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc
phòng, an ninh, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân, bảo vệ Đảng, chính quyền. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của
Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và nhân dân đã từng bước
phát huy vai trò, chức năng trong phản biện xã hội đối với việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng. Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân ngày càng mở rộng và đa dạng hóa các hình
thức tập hợp nhân dân, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng
cao vị trí, vai trò, tinh thần năng động, hướng hoạt động về cơ sở, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân
xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng đời sống ấm
no, hạnh phúc của nhân dân, do đó đã góp phần tăng cường mối quan hệ,

sự gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Thứ tư, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở sự
liên hệ giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân.
Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân phải được thông qua quan
điểm, đường lối chính trị của Đảng, hoạt động của các tổ chức trong cả hệ
thống chính trị và thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, qua sự
liên hệ, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, tính tiền phong, gương mẫu và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, tạo được sự tin yêu, mến phục của nhân dân. Chủ tịch Hồ chí
Minh nhiều lần căn dặn: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, làm cán bộ tức là suốt đời làm "công bộc", "đầy tớ" thật trung


thành của nhân dân. Trong bài báo Dân vận viết cách đây hơn 60 năm,
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ
Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt
Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận"7; Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội trong Điều lệ, quy chế, quy định của mình đều đề ra tiêu
chuẩn bắt buộc cán bộ, đảng viên phải vừa là người lãnh đạo, vừa là "đầy
tớ", "công bộc" của dân; không ngừng rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối
sống; gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân; chịu sự giám sát của
nhân dân.
Thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong những năm
gần đây, Đảng ta đã ban hành Quy định những điều đảng viên không được
làm, Quy định về đảng viên công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị
sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và
gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) yêu cầu cán bộ,
công chức xây dựng và thực hành phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, có trách nhiệm với dân"; "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm

dân tin". Pháp lệnh, và gần đây là Luật Cán bộ, công chức, đặc biệt chú ý
phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công
chức. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" những năm qua đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong xây
dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, rèn luyện bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách gần dân, tăng cường hiệu quả
công tác giám sát của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức,
đảng viên. Những điều này đã tăng cường mối liên hệ gắn bó giữa Đảng
với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.
Thực tiễn lịch sử 80 năm qua của cách mạng nước ta đã khẳng định mối
liên hệ mật thiết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là vấn đề có ý
nghĩa sống còn với Đảng và cách mạng Việt Nam, mối liên hệ đó đã không
ngừng được củng cố, tăng cường qua mọi giai đoạn của cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua muôn
vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vô cùng to lớn,
những thành tựu có ý nghĩa lịch sử chính là nhờ gắn bó máu thịt với nhân
dân, đoàn kết, tập hợp, phát huy được sức mạnh của toàn dân. Đây là một
trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam 80
năm qua.
Tuy nhiên, với tinh thần nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật, cũng cần thấy
rằng việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng sự gắn


bó, liên hệ mật thiết của Đảng với nhân dân vẫn còn không ít hạn chế, yếu
kém; nhiều nội dung trong chính sách xây dựng và phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc chưa được thực hiện đầy đủ. Việc cụ thể hóa đường
lối, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo, chính sách đối với công nhân,
nông dân, trí thức... trên một số mặt còn chậm và thiếu đồng bộ; ở không ít
nơi, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm; tâm trạng của một bộ phận

nhân dân, cán bộ, công chức, công nhân, nông dân, lao động, trí thức chưa
phấn khởi. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là của đồng bào dân
tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, một số đối tượng chính sách xã hội còn
nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo và tái nghèo ở vùng sâu, vùng xa, miền
núi, đồng bào dân tộc thiểu số còn cao; khoảng cách giàu nghèo giữa miền
núi và đồng bằng, thành thị và nông thôn còn xa, có xu hướng ngày càng
tăng. Công tác vận động quần chúng, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới còn chậm, vẫn còn biểu
hiện hành chính hóa và hình thức. Việc sâu sát cơ sở, nắm bắt tư tưởng,
tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, của các tầng lớp
nhân dân còn hạn chế. Công tác dân vận của chính quyền ở nhiều nơi còn
yếu. Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà gây khó khăn, phiền phức cho
người dân nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục. Một bộ phận cán bộ,
công chức, đảng viên thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị,
phẩm chất đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân... làm
giảm sút vai trò hạt nhân lãnh đạo và niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước. Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá,
xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta trên những vấn đề dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo, dân tộc để chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, phá
hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Ngày nay, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, kế thừa, phát huy
truyền thống vẻ vang của Đảng 80 năm qua cần phải tiếp tục xây dựng,
củng cố vững chắc mối liên hệ mật thiết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh
vực, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, tập hợp, đoàn kết, phát
huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện thắng lợi mục tiêu này là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong cả
hệ thống chính trị, trong đó, đặc biệt quan trọng là cần phải làm tốt những

vấn đề sau:
1. Đảng phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bởi chủ nghĩa Mác -Lênin


mới có quan điểm nhân dân là người làm nên lịch sử, đem lại ấm no, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân, là mục tiêu cao nhất của cách mạng và chỉ có
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mới thực sự đem lại ấm no, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Trên cơ sở đó, bám sát thực tiễn đất nước và thời
đại, Đảng cần phải tiếp tục làm rõ về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta cần xây dựng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; không
ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tập hợp đông đảo các
tầng lớp nhân dân, được nhân dân tin cậy; xây dựng được đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất và năng lực, tận tụy, gần
gũi, gắn bó với nhân dân, được nhân dân yêu mến, có đủ sức thực hiện
thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng nước
ta dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đem lại tự
do, hạnh phúc cho nhân dân.
2. Tiếp tục đổi mới, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, thực hiện tốt cải cách hành chính; giải quyết kịp thời,
đúng luật pháp đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như những
phản ánh của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân về những tâm tư,
nguyện vọng, nhu cầu bức xúc, chính đáng của nhân dân.
3. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần hướng mạnh về cơ sở, đa dạng hóa

các hình thức tập hợp quần chúng, tổ chức, động viên quần chúng nhân
dân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân
dân, của đoàn viên, hội viên; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng để thực sự là hạt nhân lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng
lợi các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
4. Tiếp tục quán triệt đường lối của Đảng, nâng cao hơn nữa nhận thức về
vị trí, vai trò của công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới. Trước
hết, quan tâm, tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương, Bộ
Chính trị (khóa XI) về giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí
thức, về thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, về công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài... Tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ,
toàn diện trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần Chỉ


thị số 30-CT/TW ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII); tiếp tục
thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"
và chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tạo động lực
mạnh mẽ để phát triển đất nước.
5. Động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện thắng lợi
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ sự thống nhất, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước...
___________________
*Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng l+2-2010.
**Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.276.

2,3,4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.555; t.10, tr.380; t.6, tr.183.
5. Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.8.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.56.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.699.



×