MỞ ĐẦU
Trên mảnh đất Việt Nam, 54 dân tộc anh em cùng sinh sống như 54 loại
chỉ sắc màu rực rỡ dệt nên tấm thổ cẩm hình chữ S. Trong đó, sự đa dạng,
phong phú, những đặc trưng, đặc điểm tiêu biểu của từng dân tộc thể hiện qua
văn nghệ dân gian chính là một phần tạo nên bản sắc dân tộc trong văn hoá Việt
Nam. Đặc biệt những câu truyện cổ tích, truyền thuyết hay sử thi hào hùng đều
được coi là những dấu ấn chứng minh cho quá trình đấu tranh và giữ gìn đất
nước của dân tộc ta trong nhiều thế kỷ qua hay chính là những điệu múa, những
lời ca tiếng hát, những câu ca dao, tục ngữ được hình thành trong chính đời sống
sinh hoạt hằng ngày mang dấu ấn của cư dân nông nghiệp gắn bó với thiên
nhiên, muông thú với các vũ điệu tả cảnh sản xuất,săn bắn.Chính những điều đó
đã tạo nên những đặc trưng rất riêng biệt cho mỗi dân tộc, mỗi vùng miền trong
cả nước từ đó thu hút được sự chú ý từ các nước trên thế giới, góp phần vào kho
tàng văn hóa của thế giới nói chung và của kho tàng văn hóa Việt Nam nói riêng.
Nếu như chúng ta biết đến dân tộc Thái với những điệu múa xòe uyển
chuyển, dân tộc Tày với những làn điệu hát Then mộc mạc, giản dị hay là dân
tộc Pà Thẻn với điệu nhảy lửa độc đáo và đặc sắc thì đến với dân tộc Gia Rai
chúng ta biết đến với những trường ca hay các câu chuyện sử thi nổi tiếng như “
Đăm Di đi săn” “ Xinh Nhã”. Tất cả những loại hình nghệ thuật đó đã tạo nên
bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc góp phần vào nền văn hóa của dân tộc Việt
Nam. Tạo dấu ấn với bạn bè quốc tế về một đất nước đa dân tộc và đa màu sắc
văn hóa.
Là một sinh viên đang theo học chuyên nghành quản lí văn hóa. Trong
quá trình học bộ môn chuyên nghành “ Văn hóa các dân tộc thiểu số”, tôi đã
được trang bị những kiến thức chuyên sâu và hiểu rõ hơn về từng vấn đề của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam như : Kinh tế, trang phục, tín ngưỡng, ma chay, nhà
ở, ẩm thực, lễ hội, , thiết chế xã hội, văn nghệ dân gian,hôn nhân. Từ đó cho
thấy được mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có một nét văn hóa đặc trưng riêng.
Giúp tôi hiểu được về đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của đồng
bào các dân tộc thiểu số và đó cũng là vốn nền tảng kiến thức để tôi tìm hiểu,
1
nghiên cứu sâu hơn về giá trị văn hóa dân gian của người Gia rai.
Trong bài tiểu luận của tôi tập chung vào nghiên cứu lĩnh vực “ Văn nghệ
dân gian” của người Gia Rai tại tỉnh Gia Lai.
2
PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ
HỘI,NGUỒN GỐC LỊCH SỬ CỦA NGƯỜI GIA RAI Ở
TỈNH GIA LAI
1.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của người Gia Rai ở
tỉnh Gia Lai
1.1.1 Đặc điểm vị trí địa lý
Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía bắc Tây Nguyên trên độ cao
trung bình 700 - 800 m so với mực nước biển.Với diện tích 15.536,92 km², tỉnh
Gia Lai trải dài từ 12°58'20" đến 14°36'30" vĩ bắc, từ 107°27'23" đến
108°54'40"kinh đông.Phía bắc Gia Lai giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp tỉnh
Đak Lak, phía tây giáp Campuchia với 90km là đường biên giới quốc gia, phía
đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.
Vùng đất tỉnh Gia Lai ngày nay là địa bàn cư trú lâu đời của các dân tộc
Jrai, Bahnar có tập quán sống thành từng làng. Trước khi người Pháp đặt ách đô
hộ lên Tây nguyên, các dân tộc Gia Lai đang ở giai đoạn cuối của xã hội nguyên
thuỷ chuyển sang giai đoạn xã hội có giai cấp.
1.1.2 Đặc diểm về kinh tế
* Công nghiệp
Trên cơ sở nguồn tài nguyên nông lâm nghiệp và khoáng sản, mở ra triển
vọng phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến
nông lâm sản với quy mô vừa và lớn.
Trong sản xuất vật liệu xây dựng, trước hết với nguồn đá vôi tại chỗ có
thể phát triển sản xuất xi măng phục vụ cho một phần nhu cầu các tỉnh phía Bắc
Tây Nguyên và các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Hiện có hai nhà máy sản xuất xi
măng với công suất 14 vạn tấn/năm. Với nguồn đá granit sẵn có, phong phú về
màu sắc có thể chế biến ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất
khẩu.
Trong chế biến nông lâm sản, với trữ lượng gỗ lớn trong tỉnh và khả năng
nhập khẩu gỗ từ các nước Đông Nam Á đảm bảo ổn định nguyên liệu cho sản
3
xuất chế biến các mặt hàng gỗ lâu dài, chế biến song mây, sản xuất bột giấy. Từ
mủ cao su có thể chế biến các sản phẩm cao su dân dụng và công nghiệp chất
lượng cao; Chế biến cà phê xuất khẩu, chế biến đường, chế biến dầu thực vật,
chế biến sắn, chế biến hoa quả và súc sản đóng hộp.
Ngoài ra còn có thể phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng khi đã
xác định được địa bàn và trữ lượng cho phép.
*Nông nghiệp
Do đặc trưng là đất đỏ bazal (vì Biển Hồ là miệng của một núi lửa tạm
ngừng hoạt động), ở thành phố PleiKu và các huyện vùng cao của Gia Lai có thể
canh tác các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, điều... Riêng huyện Đăk
Pơ và thị xã An Khê thì thích hợp cho việc trồng cây ngắn ngày, do chịu ảnh
hưởng khí hậu của vùng giáp ranh (Bình Định). Huyện Đăk Pơ là vựa rau của cả
vùng Tây Nguyên, hàng ngày cung cấp trên 100 tấn rau cho các khu vực ở miền
Trung và Tây Nguyên.Đồng thời các huyện Đông Nam tỉnh Gia Lai như Phú
Thiện, Tx Ayunpa, Iapa, Krông pa là vựa lúa của cả khu vực Tây Nguyên.
*Du lịch
Xuất phát từ điều kiện địa lý, là vùng núi cao có nhiều cảnh quan tự nhiên
cũng như nhân tạo, Gia Lai có tiềm năng du lịch rất phong phú. Đó là những khu
rừng nguyên sinh với hệ thống động thực vật phong phú, nhiều ghềnh thác, suối,
hồ như Biển Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng. Biển Hồ được xem như là một đôi
mắt của thành phố núi Pleiku.
Nhiều núi đồi như Cổng Trời MangYang, đỉnh Hàm Rồng. Cảnh quang
nhân tạo có các rừng cao su, đồi chè, cà phê bạt ngàn. Kết hợp vời các tuyến
đường rừng, có cácc tuyến dã ngoại bằng thuyền trên sông, cưỡi voi xuyên rừng,
trekking...
Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn
hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là Jarai
và banah thể hiện qua kiến trúc nhà Rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền
thống, qua y phục và nhạc cụ...
Thêm vào đó, Gia Lai có bề dày lịch sử được thể hiện qua các di tích lịch
4
sử văn hóa như khu Tây Sơn thượng đạo, di tích căn cứ địa của anh hùng áo vải
Tây Sơn Nguyễn Huệ; quê hương của anh hùng Núp; các địa danh Pleime, Che
reo...
Những điểm du lich trong thành phố không nhiều, ngoài khu vui chơi giải
trí là hồ Đức An, sân vận động và rạp chiếu phim, và rất nhiều quán cà phê. Có
rất nhiều thác quanh thành phố như: thác Dakthoa, thác Phú Cường, thác Lồ Ô,
thác Chín tầng, ...
1.1.3 Đặc điểm về xã hội
Dân số tỉnh Gia Lai đến cuối năm 2008 có 1.188,5 nghìn người (28,9%
dân số thành thị, còn lại 71,1% dân số nông thôn), mật độ 76 người/km 2,bao
gồm nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Tỉnh Gia Lai có cộng đồng nhiều
dân tộc chung sống, người Kinh chiếm 52% dân số, còn lại là người Gia Rai
(33,5%), Ba Na (13,7%), Giẻ Triêng, Xơ Đăng, Cơ Ho, Nhắng, Thái, Mường..
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, Toàn tỉnh Gia Lai có 10 Tôn giáo
khác nhau chiếm 312.272 người, Trong đó, nhiều nhất là Công Giáo có 114.822
người, đạo Tin Lành có 110.114 người, xếp thứ ba là Phật giáo có 84.214 người,
đạo Cao Đài có 2.971 người, cùng các đạo khác như Bahá'í có 59 người, Phật
Giáo Hòa Hảo có 41 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 23 người, Minh Lý Đạo
có 18 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 5 người, ít nhất là Hồi Giáo với
4 người
1.2 Khái quát về tộc danh và nguồn gốc lịch sử của người Gia Rai tại
tỉnh Gia Lai
1.2.1 Tộc danh và ngôn ngữ
Người Gia Rai hay Jarai, Jrai, là một dân tộc cư trú ở miền trung Việt
Nam và một ít ở Campuchia. Người Gia Rai còn có các tên gọi khác là người
Jrai, có các nhóm phương ngữ Jrai Chor, Jrai Mơthur, Jrai Hơdrung (Hơbâo),
Jrai Tơbuan, Jrai Arap.
Người Gia Rai nói tiếng Gia Rai, một ngôn ngữ thuộc phân nhóm ngôn
ngữ Chăm của ngữ tộc Malay-Polynesia trong ngữ hệ Nam Đảo. Người Gia Rai
5
thuộc nhóm chủng tộc Austronesia.
Người Gia Rai là một nhánh lớn của tộc người Rang Đê cổ hay còn gọi là
người Ê Đê cổ được ghi chép khá nhiều trong các bia ký Chăm Pa, sự tấn công
của đế quốc Mông Cổ, sau này là Nam Tiến của người Việt đã đẩy bộ phận
người Chăm Pa lên vùng bình nguyên Cheo Reo hòa hợp với người Ê đê cổ tạo
ra nhóm tộc người tự gọi là Anak Jarai tức con cái của Jarai.Trong văn hóa và
tính cách của người Gia Rai có nhiều yếu tố Chăm Pa trung đại so với người Ê
đê chịu ảnh hưởng đứt gãy của yếu tố Lâm Ấp Chăm Pa cổ đại. Người Giarai
còn giữ được yếu tố ngôn ngữ Rang Đê cổ đó là ngôn ngữ đa âm hơn so
với người Ê Đê láng giềng.
1.2.2 Dân số và địa bàn cư trú
Người Gia Rai (Jrai) sinh sống và cư trú chủ yếu tập trung ở tỉnh Gia
Lai (90%), một bộ phận ở tỉnh Kon Tum (5%) và phía bắc tỉnh Đăk Lăk (4%).
Khoảng vài ngàn người Gia Rai sinh sống tại khu vực Ratanakiri, Campuchia nhưng
chưa có số liệu chính thức từ Viện thống kê quốc gia Campuchia.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Gia rai ở Việt Nam
có dân số 411.275 người, cư trú tại 47 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người
Gia rai cư trú tập trung tại tỉnh Gia Lai (372.302 người, chiếm 29,2% dân số
toàn tỉnh và 90,5% tổng số người Jrai tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Kon
Tum (20.606 người), Đắk Lắk (16.129 người). Đây là dân tộc bản địa có số dân
đông nhất Tây Nguyên.
1.2.3 Nguồn gốc lịch sử
Vào năm 1471 Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép về sự kiện người
Chămpa đầu hàng quân Đại Việt của Vua Lê Thánh Tông như sau: Một lúc sau,
đứng xa trông thấy toán quân đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp trên mặt
thành, bèn bắn luôn ba tiếng pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ quân thần võ
phá cửa đông thành tiến vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt
được hơn ba vạn tù binh và chém được hơn bốn vạn thủ cấp. Ngô Nhạn dẫn
tướng đầu hàng là bác ruột Trà Toàn tên là Bô Sản Ha Ma. Lê Thánh Tông sai
6
trưng bày những thứ người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến xin hàng mà ở Đại
Việt không có, sai viên quan đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp
bạc, hình như thanh kiếm, vua hỏi vật gì. Hoàn trả lời rằng đó là đồ của nước
Chiêm từ xưa, người làm quốc vương phải có vật đó để truyền cho con cháu.
Quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tông, nhà vua
cho Trà Toàn được sống. Hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 3 âm Lịch (1471).Cuộc
Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng
người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng
bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Rang đê có trước, từ đó hình
thành ra nhóm tộc người mới Anak Jarai.Nhóm Rang Đê vùng thung lũng sông Ba
tự gọi mình là Ană Garai. Ană Pô Garai chính là cụm danh xưng Ană Pô Kurung
Garai (Pô Krung Grai là cách gọi tôn xưng thái tử Champa là Harijit (Rochom Mal)
lãnh đạo người Rang Đê đánh đuổi Mông Cổ. Kurung hay Krung trong ngôn
ngữ Rang Đê và Malay cổ có nghĩa là thủ lĩnh. Dần dần, Pô Krung Garai hay Pô
KLong Garai phiên âm thành Jarai. Jarai tách khỏi khối bộ tộc Rang Đê để tự nhận
mình là Anăk Jarai với ý nghĩa là những đứa con của Vua Chế Mân (Pô Krung
Grai, Pô Klong Grai hay anak Jarai,DRai) Tiểu quốc Jarai (tên gọi khác: Ala Car
Pơtao Đêgar/ Dhung Vijaya/Nam Vijaya / Nam Bàn / Nam Phan / Nam
Phiên/Chămpa Thượng) là một tiểu quốc cổ của các bộ tộc Nam Đảo ở Tây
Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia Rai và người Ê Đê hình
thành từ khoảng cuối thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau khi phân rã ra thành
các bộ tộc độc lập vào khoảng cuối thế kỷ 19.Tiểu quốc này được cai trị bởi các
vị tiểu vương mà người Việt gọi là Thủy Xá - Hỏa Xá tức là Pơtao Apui - Pơtao
Êa.Theo tương truyền các vị Vua là hiện thân của Thần Gươm Y Thih (nhân vật
trong các truyền thuyết của người người Ê đê và Jarai. Một tài liệu khác ghi là
20 "đời vua" tiểu quốc Jrai, là người kế tục giữ gươm thần do chàng Y Thih để
lại. Có kiến khác cho rằng gươm thần của các Pơ tao thực ra là các bảo vật
truyền ngôi của hoàng gia Chăm Pă sau khi Lê Thánh Tông tiêu diệt thành
Vijaya (Đồ bàn, Bình Định). Xét về hình thái tộc người Rhade (Ê Đê) lui về phía
nam và cùng các nhóm Jarai thực ra la một dân tộc Rang Đê, hai nhóm tộc
7
người này bị phân li do nguyên nhân lịch sử mà trong tiếng Jarai gọi là thời kỳ
Phara. Nghĩa là cuộc chia ly anh em.
1.3 Khái quát về đặc điểm văn hóa của người Gia Rai ở tỉnh Gia Lai
1.3.1 Văn hóa vật chất
Nhà ở :Nhà sàn cho mỗi gia đình một vợ một chồng mẫu hệ. Kiến trúc có
hai loại. Nhà sàn dài kiểu la-yun-pa, dài 13,5 m và rộng 3,5m là kích thước trung
bình cho mỗi nhà. Nhà được phân thành hai phần: bên mang và bên óc. Cửa bên
óc chỉ quay về hướng Bắc và bên óc dành cho những người đàn bà - chủ gia
đình mẫu hệ. Trong nhà có hai bếp. Nhà nhỏ kiểu Hđrung với kích thước rộng
3m x dài 9m. Chiều cao từ đất lên đòn nóc không quá 4,50m. Cửa chính thông
ra sàn phơi chỉ quay về hướng Bắc. Hai bên cửa chính có hai cửa sổ. Trong nhà
chỉ có một bếp.
Ăn : Gạo tẻ là lương thực chính; lương thực phụ là ngô. Thức ăn có rau,
muối, ớt, canh rau, lâu lâu mới có bữa thịt, cá. Bữa cơm hàng ngày có thể cả gia
đình ngồi quanh nồi cơm, bát ớt... hoặc chia thành từng phần cho mỗi người.
Bữa tiệc, lấy ché rượu cần làm trung tâm, quanh đó có các món ăn đựng trên bát,
đĩa hoặc lá chuối để vừa ăn, vừa uống. Khi rượu ngà say có hát, nhảy múa, đánh
chiêng. Trừ trẻ thơ, mọi người bất kể nam nữ đều hút thuốc lá
Trang phục:Người Gia Rai ít nhiều gần với trang phục của người Ê đê,
nhưng Có nét riêng trong phong cách tạo hình và trang trí. Mặc dù hoa văn trang
trí cụ thể các nhóm khác nhau nhưng có thông số chung của tộc người.
+Trang phục nam: thường nhật, nam đội khăn, theo lối quấn nhiều vòng
trên đầu rồi buông sang một bên tai, hoặc quấn gọn ghẽ như khăn xếp của người
Kinh. Khăn màu chàm. Nhìn chung nam giới Gia Rai đóng khố. Khố này thường
ngắn hơn khố ngày hội, là loại vải trắng có kẻ sọc.
Ngày lễ họ mang khố màu chàm (dài 410 cm × 29 cm), khố loại này được
trang trí hoa văn màu trắng, đỏ thành các đường viền ở mép khố, đặc biệt hai
đầu với các tua trên nền chàm. Có nhóm ở trần, có nhóm mang áo (loại cộc tay
và loại dài tay màu chàm, khoét cổ chui đầu). Loại ngắn tay thường có đường
viền chỉ màu trắng bên sườn. Loại dài tay giống phong cách áo dài nam Ê8
đê hay Mnông.
Cũng giống như mọi dân tộc nào biết dệt vải, may trang phục, người Giarai chế tác sợi từ quả cây bông và giữ nguyên màu sợi là màu trắng. Việc tạo ra
các sắc màu cho sợi là cả một quá trình kinh nghiệm của người Gia-rai. Đặc biệt
họ có truyền thống chế "thuốc nhuộm" từ các thảo mộc có trong thiên nhiên mà
trong quá trình sinh sống họ đã thuộc tính nết và công dụng của từng loài. Để
tạo ra màu đen hay màu xanh thẫm, họ dùng cây chàm. Các bước thao tác được
tiến hành như sau: đầu tiên người Gia-rai đi bắt một loại ốc suối có tên là Bràng,
đem giã nhỏ, đổ nước vào lọc, lấy thứ nước đó đổ vào ché ngâm khoảng một
tháng. Tiếp theo, dùng đọt chuối, vỏ chuối và rễ cây Kha krông, Kha chót bỏ
chung vào cối giã cho thật kỹ, trộn tất cả với Có nét riêng trong phong cách tạo
hình và trang trí. Mặc dù hoa văn trang trí cụ thể các nhóm khác nhau nhưng có
thông số chung của tộc người.
Sợi trắng tự nhiên, rồi bỏ vào ché ngâm. Khi sợi đã ngả màu đen thì đem
phơi khô. Nước nhuộm còn lại được cất giữ trong ghè và khi cần lại có thể sử
dụng với các bước như vừa mô tả. Màu đỏ trong trang phục của người Gia-rai
chiếm một tỉ lệ khá đậm đặc. Trong cuốn "Hoa văn các dân tộc Gia-rai, Bana", Từ Chi, một nhà nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam có giới thiệu: “Để tạo
ra màu đỏ, người Gia-rai tìm nguyên liệu thực vật "là một loại quả không có
lông" là nguyên liệu chính, ngoài ra còn có một loại vỏ là cây Tơnung. Trong
khi đi điền dã Dân tộc học, tôi được biết thêm người Gia-rai ở vùng Chư pảh
còn tạo ra màu đỏ bằng cách dùng một loại cây có tên là Nhau trộn với mỡ dê
rôì đem đun thật sôi, sau đó lấy sợi tự nhiên màu trắng nhúng vào đó, nhấc ra và
nhúng vào loại nước xa bon (một loại thuốc màu của người Lào). Thao tác đó
được lặp đi lặp lại vài lần cho đến khi sợi vải có màu đỏ tươi thì đem phơi khô.
Trong y phục của người Gia-rai, màu vàng thường được coi như nét điểm xuyết,
tạo nên sắc thái hài hoà theo thẩm mỹ của họ. Một số hoa văn như hoa cây mai,
hoa Blang được dệt bằng loại sợi màu vàng. Để tạo ra màu vàng, người Gia-rai
thường dùng củ Knhít (nghệ) như các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu. ở vùng Giarai ARáp có một loài thực vật nữa được dùng để tạo ra màu vàng nhuộm sợi. Đó
9
là loại lá Popẹ. Phụ nữ Gia-rai thường đốt lá rồi trộn với nghệ, sau đó giã nhỏ
hoà với nước suối để nhuộm. Cách làm này tạo cho sợi có màu vàng tươi hơn
nhiều so với màu từ nghệ. Duy nhất chỉ có sợi màu xanh là người Gia-rai khi
nhuộm vẫn phải dùng thứ phẩm hoá học được bán ngoài chợ. Ưu điểm của thứ
sợi được nhuộm bằng các thảo mộc tự nhiên là sợi giữ được màu tươi rất lâu,
qua thời gian năm tháng thứ màu đó không bị phai, bị nhạt. Từ các sợi với đủ
thứ màu sắc, người Gia-rai với bộ khung dệt bằng tay đã tạo ra trang phục của
mình như: váy, khố, áo, khăn... Đặc biệt, người Gia-rai rất thích màu đỏ, lấy màu
đỏ làm trọng tâm, làm chính trong y phục của mình. Màu đỏ được đặc tả ở hai
đầu khố nam với hoa văn lá đót buông dài bằng sợi, ở váy của phụ nữ thì phần
chân váy và miếng đắp ở đằng sau mông cũng được bừng lên sắc đỏ. Trong các
lễ hội lớn như lễ bỏ mả (Pờ Thi), lễ cúng hồn lúa (mụ Giạ), lễ cúng Giàng, lễ
cúng thần nước (Yàng Ia), lễ cúng thần lửa (Yàng Pui), dân làng Gia-rai trong
váy mới, khố mới, áo mới với sắc đỏ rực rỡ say sưa trong nhịp cồng chiêng với
điệu múa Xoang truyền thống của dân tộc mình.”
+ Trang phục nữ: Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy hoặc quấn gọn trên đỉnh
đầu. Áo là loại áo ngắn, chui đầu, phổ biến là kiểu chui đầu cổ "hình thuyền",
riêng nhóm Gia Rai Mthur lại có kiểu cổ thấp hình chữ V và các loại cổ phổ
biến. Trên nền chàm áo được trang trí các sọc hoa văn theo bố cục ngang thân áo
ở cổ, vai, ống tay, giữa ngực, gấu áo và hai cổ tay áo. Đó là các sọc màu đỏ xen
trắng và vàng trên nền chàm hoặc màu xanh nhạt diệp và màu chàm. Váy là loại
váy hở quấn vào thân (kích thước trên dưới 140 cm x 100 cm). Phong cách trang
trí trên váy cũng thiên về lối bố cục ngang với các đường sọc màu (như áo là
chính). Có nhóm ở Plây-cu với nguyên tắc trên nhưng được mở rộng thành các
mảng hoa văn ở giữa thân váy, nửa thân dưới áo và hai ống tay. Trang sức có
vòng cổ, vòng tay.
1.3.2 Văn hóa tinh thần
Nói đến dân tộc Gia-rai phải kể đến những trường ca, truyện cổ nổi tiếng
như “Đăm Di đi săn”, “Xinh Nhã”. Dân tộc Gia-rai cũng độc đáo trong nghệ
thuật chơi chiêng, cồng, trống, cạnh đó là đàn T’rưng, đàn Tưng-nưng, đàn
10
Klong-pút. Những nhạc cụ truyền thống này gắn liền với đời sống tinh thần của
đồng bào. Người Gia-rai hầu như hát múa từ tuổi nhi đồng cho đến khi già yếu,
không còn đủ sức nữa, mới chịu đứng ngoài những cuộc nhảy múa nhân dịp lễ
hội tổ chức trong làng hay trong gia đình.
Người Gia Rai có phong tục thờ cúng vạn vật hữu linh, trong đó thường
thờ cúng Thần Nhà (Yang sang), Thần Làng (Yang ala bôn), Thần Nước (Yang
ia); Thần Vua (Yang ptao) do Vua Nước (Pơ tao ta), Vua Lửa (Pơ tao put), Vua
Gió chuyên cúng trời đất, cầu mưa thuận gió hòa và mùa màng tươi tốt. Khi chết
người Gia Rai theo tục tất cả người cùng họ mẹ chôn chung một huyệt, người
đàn ông chết phải khiêng về chôn ở huyệt phía mẹ mình; trong huyệt chung ấy
các quan tài được xếp kề sát bên nhau theo chiều ngang rồi chồng lên theo chiều
dọc, khi quan tài cao bằng miệng huyệt thì lấy ván kê thêm bốn bề để chôn tiếp
vài ba lớp nữa mới làm lễ “bỏ mả” (Họa lui, Thi nga hay Bô thi)-một nghi thức
lớn trong quá trình tang lễ; ngoài ra họ còn tin rằng khi chết các linh hồn biến
thành ma, thậm chí có hiện tượng gán cho người có ma thuật làm hại gọi là ma
lai
Người Gia-rai luôn coi trọng đến nghi lễ đời người gắn liền với những
giai đoạn xác định như: Nghi lễ trong giai đoạn sinh: quan niệm về sinh đẻ; nghi
lễ trong thời kỳ người phụ nữ mang thai, gồm có: Nghi lễ cầu cho con khi chào
đời được dễ dàng sau ba tháng mang thai hay còn gọi là lễ nắn bụng, Nghi lễ cầu
cho mẹ sinh nở dễ dàng sau sáu tháng mang thai; Nghi lễ trong thời kỳ sinh đẻ;
Nghi lễ ở tuổi vị thành niên, gồm có: Nghi lễ đặt tên, Nghi lễ nhập hồn cho trẻ
(Yang Yun), Nghi lễ thổi tai (pơhet tơngia), Nghi lễ làm vòng đeo tay (ngă
kông).
Chính những tinh thần văn hóa đã giúp cho đời sống của người dân Gia
Rai ngày càng ổn định với một cuộc sống vui vẻ và tràn đầy năng lượng, hạnh
phúc, mọi người yêu thương, đùm bọc, đoàn kết lẫn nhau. Văn hóa tinh thần
cũng góp phần vào công việc lao động sản xuất, nương rẫy, nâng cao năng suất
lao động giúp cho cuộc sống đầy đủ, ấm no thúc đẩy kinh tế ngày càng phát
triển.
11
1.3.3 Văn hóa xã hội
Người Gia Rai sống thành từng làng (plơi hay bôn). Trong làng ông
trưởng làng cùng các bô lão có uy tín lớn và giữ vai trò điều hành mọi sinh hoạt
tập thể, ai nấy đều nghe và làm theo. Mỗi làng có nhà rông cao vút. Đây tộc
người duy nhất thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo có nhà rông, có thể do ảnh hưởng
của cư dân Ba Na thuộc ngữ tộc Môn-Khmer. Có nhóm A Ráp của người Gia
Rai thực ra là người gốc Ba Na đã bị Gia Rai hóa.
Đây là tộc người duy nhất ở Tây Nguyên đã có một tổ chức xã hội tiền
nhà nước với hai vua: vua Nước và vua Lửa, còn được gọi là Tiểu quốc Jarai.
Làng (Plơi hoặc Bôn) vừa là đơn vị cư trú vừa cấu kết thành tổ chức xã
hội, có một hội đồng gồm những ông già chủ trì chung (Phun pơ bút). Hội đồng
chọn người đứng đầu làng (Ơi pơ thun, Thap lơi hay Khoa plơi), có lệ làng gọi
là Kđi. Xã hội Gia Rai truyền thống có hình thức cố kết vùng gọi là Tơ ring.
Người đứng đầu Tơ ring là Khoa Tơ ring, giúp việc xét xử có Po phắt kđi và
Thao kđi. Tơ ring là cộng đồng lãnh thổ, khi có chiến tranh trở thành liên minh
quân sự.
Dòng họ theo chế độ mẫu hệ nên phả hệ hoàn toàn tính về dòng mẹ. Khối
cộng đồng máu mủ được tập hợp thành từng họ - Kơ nung hoặc Ðgioai. Mỗi họ
thường được phân chia nhiều ngành hoặc phân đôi, thành họ khác. Mỗi họ, mỗi
ngành kiêng một tô tem riêng. Gia đình nhỏ mẫu hệ là nét nổi bật của người Gia
Rai khác với trường hợp người Ê Ðê là đại gia đình mẫu hệ.
12
PHẦN II.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA
DÂN TỘC GIA RAI Ở TỈNH GIA LAI
2.1 Một số loại hình văn nghệ dân gian của người Gia Rai
2.1.1 Dân Ca
Giai điệu của dân ca Gia Rai thường nồng nàn, mạnh mẽ, sâu đậm, thiết
tha, vui buồn tột cùng, dễ đi sâu vào lòng người, thường được tiến hành theo
quãng 5 đúng đi xuống liền bậc (Sol-Fa-Mi-Do) Sự tiến hành của các giai điệu
có thể thay đổi nhưng tiết tấu thì ít khi thay đổi và thang âm thường được dùng
nhất trong âm nhạc dân gian của dân tộc Gia rai là Thanh âm #Đô mi #pha sol
si. Thí dụ bài Lên Rừng và Bơ hơ chim , dân ca Jrai.
LÊN RỪNG
“Chúng ta đi lên rừng.
Dắt theo dao bên mình.
Ôi đẹp sao núi rừng Tây Nguyên quê hương mình
Hãy lắng nghe vi vu
Tiếng núi rừng âm vang
Chúng ta đi lên rừng
Bên tai tiếng con chim ca mừng,
Xa xa suối reo,nghe tưng bừng
Tây Nguyên quê hương mình
Nơi đã sống bao đời
Chúng ta yêu cây rừng
Nước suối xanh trong lành
Nơi đã nuôi ta bao đời
Mùa đông tới giá lạnh,
tìm cành khô trong rừng
Ngồi quanh bếp lửa hồng
Lòng ta vui dạt dào.”
Nội dung của các bài dân ca rất đa dạng, bất cứ một điều gì trong cuộc
sống cũng có mặt trong lời hát. Chỉ cần có một cuộc tụ tập, một chút rượu cho la
13
đà, hoặc đơn giản là có mặt cả hai phiá nam và nữ, là có thể khởi hứng cho ca
hát.Hát nói cũng chính là một trong những đặc trưng riêng của các dân tộc miền
núi Việt Nam, hầu như dân tộc nào cũng có, có rất nhiều nội dung và làn điệu.
Mà đỉnh cao của hát nói, hát kể chính là thể lọai trường ca.Dân ca của người Gia
Rai thường được sáng tạo ra trong nhiều hoàn cảnh và trường hợp khác nhau,ví
dụ như trong:
a)
Dân ca trong lao động sản xuất:
Dân tộc Gia Rai sản xuất theo phương thức luân canh nương rẫy, chọc lỗ
tra hạt và theo tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”, thì việc cúng kiến các Yàng để cầu
cho mùa màng tươi tốt là điều không thể thiếu. Những bài cầu cúng trong các lễ
nghi theo nông lịch, cũng có xuất xứ giai điệu từ dân ca, và là nguồn gốc của thể
lọai hát- kể trường ca.
Đến lúc gieo hạt lại phải cầu xin :
“Này rượu một ché, gà một con/gà Yàng ăn gan, rượu Yang ngậm
cần/Yang thêm bông cho lúa, thêm hạt cho kê/Sâu ở gốc rễ hãy bắt sạch
trơn/Mọc lên được búp/Đức nên được trái”. (Bài cúng Jrai)
Ngoài dân tộc Gia Rai ra thì các dân tộc khác như Mnông, K’Ho,Ê Đê, Sê
Đăng cũng có những bài dân ca tương tự:
+ Để cúng thần đất khi lập buôn người chủ làng khấn :
“Tôi dẫn dắt gia đình/Tôi dẫn dắt làng buôn/Cầu thần chớ nói lời giận
dữ/ Cầuthần chớ mắng mỏ thân tôi”( Bài cúng Mnông)
+ Trong lễ cúng hồn luá phải cầu xin :
“Búi rơm cho to tựa tranh lợp nhà /Hỡi hạt thóc to,/Hỡi hạt thóc bé /Nay
mau về với ta”( Bài cúng K’Ho)
+ Đầu mùa sản xuất phải có lễ cầu mưa :
“Buôn đằng Đông mây lui nhanh xuống/Buôn đằng Tây mây cuốn nhanh
lên/Ước sao cho được trận mưa to/Ước sao cho được cả mưa rào” (Bài cúng Ê
đê )
+ Được muà lớn phải tạ ơn, hiến sinh bằng trâu :
“Tiết trâu đã xoa lên đầu/Cho dân làng sống lâu khỏe mạnh/Cho đầy chòi
14
lúa bắp”.( Bài cúng Sê đăng)
Phổ biến nhất là khi nghỉ ngơi, người ta đều có thể ca hát, giống như các
hình thức hát ví, hát lý, hát đố trong lao động sản xuất của người Việt.
b) Dân ca trong cuộc sống đời thường :
Dân tộc Gia Rai có hệ thống luật tục bằng văn vần, do những người thông
thái trong buôn, plêi nắm giữ. Khi có việc xảy ra ở trong cộng đồng cần có
người “ cầm cân nảy mực” để có thể giải quyết được mọi vấn đề, những vấn đề
đó xảy ra trong chính cuộc sống thường nhật của người dân Gia Rai cho nên họ
có thể sáng tạo những câu hát dân ca từ đời sống hằng ngày của họ, ví dụ như :
bài hát dân ca
Đi Thăm Bạn “Ơ Này, Beng Geng anh này !
Ơ Này, Tu Đê anh này
Làng Buông ta xa nhau
Làng Buông ta xa nhau
Khi xuân về (bơ o bơ)
Đi thăm bạn (bơ bơơ)”
Chỉ từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày mà họ có thể tạo ra những câu hát,
lời hát dân ca chân thật như vậy cho thấy họ có tình yêu âm nhạc như thế nào
cộng với sự sáng tạo của chính bản thân họ đã tạo nên những bài dân ca để lại
cho thế hệ đời sau’
Dân ca Gia Rai có các thể loại:
– Hát nói gọi là Knhă : Hát nói thường không có nhạc cụ đệm, như một
thứ tự sự, nghĩ gì nói đấy, với khách đến thăm, với cha mẹ già héo, với người
thân đi về thế giới bên kia , dặn dò con cháu những điều hay lẽ phải, phán xử
theo luật tục,bày tỏ niềm vui mừng, nỗi buồn bã với bất cứ sự việc gì diễn ra
trong làng buôn, kon, plei, bon . . . hay trong gia đình.
– Hát có nhịp điệu gọi là adoh: Ngược lại, những bài dân ca có nhịp điệu
thường được đệm bằng các loại ting ning, t’rưng, đinh năm . . . rộn ràng.
– Hát giao duyên gọi là nhik: câu hát dân ca rất mượt mà, thể hiện tình
cảm nồng ấm. Khi có bạn bè, anh chị em đến nhà chơi, tiếp họ ăn uống rồi, chị
15
lại hát hỏi thăm, chia sẻ công việc hàng ngày. Chị muốn qua việc gieo vần hát
dân ca, để lại ấn tượng cho anh em bạn bè, cũng muốn họ khen mình khéo léo.
– Hát kể trường ca gọi là hri : là cách hát duờng như là tự sự kể lại những cuộc
chiến hào hùng của người dân tộc Gia Rai.
Chính những lời hát chân thực, mộc mạc đó đã khắc họa lên được cuộc
sống bình dị, chân chất của nững người dân Gia Rai ở nơi đây, họ gửi gắm vào
trong những câu hát, những lời ca một hi vọng ước mơ về một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, sự yêu thương nhau, đùm bọc, bảo vệ lẫn nhau , rộng ra hơn cả còn
thể hiện được tình yêu dân tộc,tình yêu yêu đất nước sâu sắc của người dân tộc
Gia Rai.
2.1.2 Câu Đố
Đến nay, người Gia rai không những còn lưu truyền hình thức diễn
xướng sử thi dưới tên gọi hơri, khan, duy trì sinh hoạt ca hát (adôh) với nhiều
làn điệu, sử dụng luật tục (tơlơi juăt, tơilơi phian) trong xử phạt, có tập quán
diễn đạt bằng lời nói vần - pơđơk, trong một số trường hợp.mà còn lưu truyền
những câu đố dân gian hay và đặc sắc.
Câu đố Gia rai được người Gia rai nói chung gọi là pơđao - một hình thức
giải trí đơn thuần nhưng mang tính trí tuệ khá cao.Câu đố Gia Rai là những đơn
vị lời nói (có thể văn bản hóa) thường có vần do nhân dân sáng tác và lưu
truyền, được diễn đạt một cách lắt léo để đố nhau nhằm giải trí, rèn luyện tư
duy...
Thường thì câu đố có hai phần, lời đố và giải đố; mỗi câu đố thường có
một lời đố và một giải đố nhưng cũng có những câu đố có nhiều hơn một lời đố
và các giải đố tương ứng.Nội dung câu đố Jrai phản ánh, chứa đựng hầu hết các
vấn đề, các khía cạnh liên quan đến cuộc sống của đồng bào từ ngàn xưa đến
nay. Một số hình thức của câu đố Jrai:
a. Các kiểu câu đố:
Một câu đố Gia Rai, về nguyên tắc có:
- 1 lời đố và 1 giải đố;- 2 lời đố và 2 giải đố; - 3 lời đố và 3 giải đố;
- 4 lời đố và 4 giải đố, ...
16
b. Các kiểu lời đố:
Nếu giải đố thường là một từ, một ngữ,... thì một lời đố khi nói (đố), có
thể được thể hiện qua: 1 câu nói, 2 câu nói hoặc 3 câu nói...; khi viết (thể hiện
bằng chữ), một lời đố có thể là:
- 1 dòng;
- 2 dòng;
- 3 dòng,...
Về hình thức, có:
- Lời đố có một dòng, một vế;
- Lời đố có một dòng, hai vế;
- Câu đố có nhiều vế, mỗi vế là một lời đố độc lập;
- Câu đố có nhiều vế, mỗi vế không phải là một lời đố độc lập,...
c. Một số khuôn mẫu, công thức tạo lời đố:
- Về thời gian:
Khi còn... (thì), đến khi... (thì)
Khi này (thì)..., khi khác (thì) - Về không gian:
Khi ở... (thì), đến khi ở... (thì)
Ở chỗ này... (thì), ở chỗ khác... (thì)
- Sự đối lập, trái ngược:
- Các kiểu khác:
Danh từ + như + danh từ / động từ Không có + danh từ/ động từ
Ví dụ có một số câu đố sau:
Trên cạn không có màu
Dưới nước không có xương.
(là con gì?) (con đỉa)
Dây dài một cuộn
Kéo ra khắp chốn
(là cái gì?) (con đường đi)
Chém thì được
Mà nhìn không thấy đâu
(là gì?) (nước)
17
d. Về vần điệu:
Trong câu đố Gia Rai, vần điệu gần như là yếu tố quyết định đến sự tồn
tại của đa số các đơn vị lời đố. Nếu như vần chân chưa tìm thấy ở thể loại này
thì đây lại chính là nơi vần lưng xuất hiện một cách phổ biến.
2.1.3 Trường ca, sử thi
Tất cả mọi người biết đến dân tộc Gia Rai qua những trường ca,sử thi hào
hùng trong thời kì đấu tranh và bảo vệ tổ quốc.Người Gia Rai gọi trường ca là
Hri, đó là sản phẩm đích thực của nền văn minh nương rẫy, trường ca thường là
những câu chuyện kể dài, có vần, có điệu, thậm chí có vùng còn được diễn tả
hoặc minh họa bằng động tác, bằng hành động. Độ dài ngắn của trường ca cũng
khác nhau. Có tác phẩm chỉ kể một hai đêm, nhưng có tác phẩm kể bốn, năm
ngày chưa hết (tùy theo sức tưởng tượng phong phú hoặc trạng thái thăng hoa
của người kể). Trường ca thường chỉ kết thúc khi người anh hùng hoặc nhân vật
trung tâm đã đạt mục đích nào đó. Đặc biệt các trường ca của tộc người Gia Rai
thường có độ dài hơn so trường ca của các tộc người khác.Những trường ca
được mọi người biết đến của dân tộc Gia rai làHri : “ Xinh Nhã / Dăm Phu / Gi
Dông / Jing Chơ Ngă/ H’Bia Drang…”
Nội dung các trường ca, sử thi:
Nội dung các trường ca thường rất đa dạng và phong phú. Thông qua vai
trò diễn xướng của người diễn, người nghe có thể hiểu sự ra đời của con người.
Sự hình thành trời và đất ; biết rõ về phong tục mẫu hệ của người Gia Rai , tập
quán : Mua bán, canh tác nương rẫy, săn thú trong rừng, bắt cá dưới suối, cưới
xin, ma chay…, phong cách đối nhân xử thế, tính cộng đồng, khát vọng chống
kẻ thù, gìn giữ xây dựng và bảo vệ buôn, plei giàu có, vững mạnh. Đặc biệt, khát
vọng tự do hôn nhân, tình yêu đôi lứa thủy chung v.v… thì hầu hết trong tác
phẩm nào cũng được phản ánh rõ nét. Các trường ca thường nghiêng về kết thúc
có hậu bằng sự chiến thắng hoặc trở nên giàu có, hùng mạnh của các nhân vật
trung tâm.. Tóm lại, qua các trường ca, chúng ta có thể nhận biết được một
thông tin về xã hội của người Gia Rai cổ xưa.
Hầu hết các trường ca, sử thi thường là truyện dài kể về nhiều đời của một
18
hoặc nhiều gia đình, đan xen vào nhau, có liên quan đến nhau. thậm chí số lượng
nhân vật chính xuất hiện trong trường ca rất đông, lên tới vài chục. Các trường
ca đa phần xoay quanh các chiến công của những người anh hùng, không chỉ để
thắng kẻ ác bảo vệ và giữ gìn sự yên vui của buôn làng, hạnh phúc của từng gia
đình mà còn chống lại cả những thế lực nước ngoài, hoặc lượng siêu nhân đen
tối, mở mang ảnh hưởng, làm tăng thêm sự hùng mạnh của bộ tục bằng của cải
hay nô lệ chiếm được sau những cuộc chiến tranh, như chàng Xing Mnga (Jrai).
Những chiến công to lớn, tinh thần xả thân vì cộng đồng của những nhân
vật anh hùng; cảnh sống sung túc, hòa bình; hình ảnh rất đẹp của những người
phụ nữ tiêu biểu trong chế độ mẫu hệ hòa quyện trong một thiên nhiên tươi đẹp
và hào phóng, chính là hỉnh ảnh lý tưởng, khát vọng , ước mơ vươn tới, là hình
mẫu tôn thờ của cư dân vùng đất đỏ bazan.
Có thể điểm qua nội dung chính một số trường ca quen thuộc và phổ biến
của dân tộc Gia Rai như sau :
Hri “Nàng H’bia Đơrang” của người Jrai ở Gia Lai:
H’bia Đơrang là con gái nhà Trời, vì yêu chàng Rít nên nhiều lần làm
phép để chàng không thể làm quen với bất cứ cô gái nào dưới trần, và lén bay
xuống trò chuyện làm quen với Rít. Nhờ ông chú là thần nước mách bảo, Rít
dấu đôi cánh của Đơrang, nàng đành phải ở lại trần gian làm vợ Rít. Hai người
có một con trai là Dam Kơ Mong. Trong lúc Rit đi làm rẫy mới xa nhà, thấy
Dam Kơ Mong khóc, em của Rít là Sét chỉ chỗ chị dấu bộ cánh để dỗ cháu. Sét
cũng thích nên thường đòi chị bay cao cho mình xem. Vì bay quá cao, gió đưa
Hbia Đơrang đi không quay trở lại được. Sét vội vàng đi tìm rít báo tin xấu. Hai
cha con Rít xuống nước xin ông chú rèn cho đôi canh để bay lên trời tìm lại
Hbia Đơrang. Lên đến trời, Rít phải đánh thắng chú của vợ mới được đưa Hbia
Đơrang về trần gian.
Con của họ là Dam Kơ Mong lớn lên đẹp trai, khỏe mạnh. Muốn thử sức
mình, chàng xin đi đánh Kơ Roay Giăng, vì đây là một người luôn sẵn sàng
đánh nhau bất cứ ai. Nhờ được vợ Kơ Roay Giăng giúp đỡ, Dam Kơ Mong đánh
thắng, lấy luôn vợ của Kơ Roay Giăng làm vợ của mình.
19
Đây là một loại trường ca sinh hoạt, kể về tình yêu của đôi trai gái Hbia
Đrang và Rít, không mang tính sử thi.
Hri “Xinh Nhã” của người Jrai ở Gia Lai :
Vợ chồng Ya Rơ Kốt – Hbia Đá chịu khó làm ăn nên gàu có. Họ có một
con trai đặt tên là Xinh Nhã. Ngày làm lễ thổi tai cho con vợ chồng Ya Rơ Kốt
mời bạn là Ya Rơ Bú tới dự. Vốn đã sẵn ganh tỵ với sự giàu có của Ya Rơ Kốt
lâu nay, nên chỉ có một mình vợ là Hbia Guê bịa đặt chuyện nói xấu Ya Rơ Kốt
với chồng khiến Ya Rơ Bú nổi giận, kéo nô lệ tới đốt làng, giết Ya Rơ Kốt rồi
bắt H’Bia Đá về làm nô lệ.
Xinh Nhã được ông Gỗn cứu thoát, giao cho vợ chồng Xinh Yuê nuôi.
Lớn lên Xinh Nhã gặp và yêu nàng Bra Tang, được nàng kể cho hay ai là kẻ đã
phá tan nát gia đình chàng. Xinh Nhã tìm đến buôn của Ya Rơ Bú. Được H’Bia
Blao giúp đỡ chàng đánh thắng Ya Rơ Rú, cứu mẹ, trả được thù cha.
Để trả công H’Bia đã giúp mình, Xinh Nhã lấy nàng làm vợ còn Bra Tang
thì lấy chàng Xing Mưn dũng cảm.
Chuyện mang nhiều yếu tố anh hùng ca, chống áp bức.
Nhưng nếu gọi toàn bộ trường ca là sử thi thì có lẽ chưa hoàn toàn chính
xác, nên tách trường ca ra làm hai hệ thống :
a. Hệ thống những trường ca mang tính sử thi:
Những trường ca mang tính sử thi thể hiện trong nó không chỉ sự hình
thành trời đất, con người mang yếu tố thần thoại, mà còn cả quá trình hình thành
và phát triển của lịch sử xã hội, phản ánh rõ nét phong tục, tập quán của tộc
người Gia Rai, tạo nên một bức tranh toàn cảnh sinh động, là lời tự thuật của
mỗi tộc người về chính mình, như : Xinh Nhã, Dăm Phu, H’Bia Drang của
người Gia Rai
b. Hệ thống các trường ca sinh hoạt :
Hệ thống các trường ca sinh hoạt gồm các chuyện hát kể dài hoặc ngắn
dưới hình thức diễn xướng có giai điệu, có hoặc không có minh họa. Hình thức
này chiếm ưu thế hơn trong thể loại trường ca khác. Tác phẩm chỉ đơn thuần là
những câu chuyện dài, hát kể về sinh hoạt đời thường, về tình yêu đôi lứa, về
20
cuộc đấu trí giữa con người trần gian với các vị thần thánh, mà không phải lúc
nào các vị phần cũng chiến thắng.
Cả hai hệ thống này chỉ giống nhau ở cách thức lựa chọn và xây dựng các
hình tượng nhân vật : Có thể có một người, nhưng cũng có thể gồm nhiều người.
đanxen quanh những nhân vật chính đó là cảnh sắc thiên nhiên và sinh hoạt cộng
đồng cuả người Gia Rai.
Hình Tượng Nhân Vật Trong Trường Ca, Sử Thi Gia Rai:
Có nhiều loại nhân vạt, với nhiều tính cách xuất hiện trong sử thi, trường
ca của các dân tộc. Nhưng các nhân vật trung tâm bao giờ cũng là những chàng
trai cô gái khỏe đẹp, dũng cảm, có hoặc không có phép thần thông, hay có thể
được sự giúp đỡ của thần linh. Đối lập với những hình ảnh này là một loạt các
nhân vật phụ hung ác, cướp của, bắt người, muốn mở rộng phạm vi lãnh địa và
quyền lực. Có thể xép nhân vật trong các trường ca thành mấy nhóm như sau :
+ Các anh hùng dũng mãnh :
Họ là các tù trưởng hùng mạnh, có lòng can đảm, sẵn sàng xả thân chăm
lo đến sự sống còn của cộng đồng như Dam San, Dam Di, M’trong Dăm… Bao
giờ bên cạnh họ cũng có những người con gái vừa đẹp vừa thủy chung, vừa giỏi
giang, đã góp phần vào những chiến thắng của người anh hùng.
+Trở thành danh tiếng nhờ đánh nhau : Như các chàng Xinh Nhã, Xing
Mnga, Xing Chion thắng trong những cuộc đánh nhau trả thù cho gia đình hay
dòng họ hoặc tranh giàng ảnh hưởng, cùng với họ là các nàng Bra Tang, Bia
Rang Rai… yêu mãnh liệt và thủy chung, trong các hri của người Jrai.
+ Nhóm các tù trưởng phi nghĩa :
Đại diện cho những thế lực phi nghĩa hợm của, hiếu chiến, chuyên đi
tranh cướp đất đai, gái đẹp để phô trương thanh thế và tranh giành ảnh hưởng
như Mtao Mxây, Mtao Grứ, Tơ Dăm Hmă, Dăm Chút,Ya Rơ Bú… thì trường ca
nào cũng thấy xuất hiện.
Với những nhân vật này, các nghệ nhân bao giờ cũng dùng những hình
ảnh xứng đáng để miêu tả :
– Ya Rơ Bú trong Xinh Nhã (Jrai) thì “như cái nấm khô rúc dưới lá tranh,
21
lá lau…”
+ Nhóm các vị thần linh :
Ông Tú của người Jrai… mặc dù là thần linh (Yang) chi phối hoàn toàn
đời sống của con người, nhưng các vị này không hề có vị trí cao xa, cách biệt
mà được “nhân hóa” trở thành rất gần gũi (thậm chí còn là họ hàng với con
người dưới trần thế và thực ra được trân trọng bằng các dũng sĩ, tù trưởng hay
người đẹp). Các vị thần linh này cũng có kẻ xấu, người tốt. Thần tốt thì luôn phù
hộ, giúp đỡ cho những người anh hùng, cho các buôn làng như ông Tú, Yang
Kon kong, Kuach Yong… còn thần xấu thì nhỏ nhen, ích kỷ, mang tâm địa xấu
xa luôn tìm cách hại người trần, như các thần Liê, thần Sơng, Dong Kon
Nghe….
+ Hình ảnh những người phụ nữ :
Quán xuyến chủ đạo trong đa số các trường ca, bên cạnh hình ảnh những
người đàn ông anh hùng biết xả thân vì cộng đồng, vì dòng họ là những người
phụ nữ cùng cộng đồng khai hóa sản xuất, tạo dựng nên quyền bính trong gia
đình và đặc biệt là phát triển nòi giống. Họ cũng được nhắc đến với những vẻ
đẹp không ai bì kịp.
+Nghệ thuật ngôn ngữ :
Đặc trưng đầu tiên của diễn tấu trường ca là hoàn toàn sử dụng hình thức
văn chương truyền miệng. Người này kể, người khác nghe, người vùng này kể,
người vùng khác nghe, rồi khi kể lại ở nơi mình cư trú lại thêm khắc theo sự
tưởng tượng của mỗi người. Cứ thế mà nhân lên, mà lan rộng ra, đào sâu thêm,
thông qua tập quán, phong tục riêng của từng vùng. Cho nên, không thể coi văn
bản nào là chính thức, là nguyên gốc, nguyên thủy được. Ta chỉ nên hết sức trân
trọng sức sáng tạo ngh thuật của các nghệ nhân dân gian mà thôi. Truyện kể dài
hay ngắn hoàn toàn phụ thuộc vào trí tưởng tượng, óc sáng tạo và sự hưng phấn
của người kể (Pô Khan) tất nhiên còn phụ thuộc vào cả không gian và thời gian.
Điều này làm cho trường ca khác hẳn những câu chuyện cổ tích ngắn, chỉ kể về
một sự việc, một nhân vật (và không kể bằng giọng điệu hát). Có thể ví trường
ca, sử thi như những bộ trường thiên tiểu thuyết bằng văn vần của dân tộc Gia
22
Rai.
…Đặc biệt, nhiều trường ca, sử thi còn sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, vừa
nhấn mạnh vào sự việc vừa nêu được đặc trưng của phong cách diễn tấu ngôn
ngữ dân gian.
Những nghệ nhân kể sử thi là những “kho tàng sống”, góp phần lưu giữ
những giá trị tinh thần vô giá của người Tây nguyên, và đêm đêm bên bếp lửa
nhà sàn vẫn chậm rãi kể cho con cháu nghe, thường phải kể hàng chục đêm mới
xong… Để có thể thuộc lòng áng sử thi như vậy, đòi hỏi người kể sử thi phải có
tình yêu thiết tha và lòng say mê đối với vốn văn hóa vô giá của dân tộc. Với họ
mỗi lần kể sử thi là mỗi lần được nhập cuộc, được sống lại cái không khí cuộc
sống cộng đồng cách nay hàng trăm năm… Mặt khác, cái khung cảnh huyền ảo
của màn đêm, của không gian núi rừng như tạo nên một không - thời gian huyền
thoại mà cũng rất thực và sống động lạ thường… Nếu ai đã được nghe kể sử thi
thì hẳn không quên được cái ấn tượng của những đêm Tây Nguyên khi bên bếp
lửa bập bùng và bên ché rượu cần giữa nhà rông hay nhà dài, nghệ nhân hát kể
sử thi và xung quanh con cháu, buôn làng ngồi nghe như nuốt từng lời, như hòa
vào cái không gian huyền ảo, lung linh, lặng thầm cuộc sống.
Sử thi không chỉ có ở Việt Nam mà sử thi còn có trên các nước trên thế
giới,chúng ta đặc biệt được biết đến hai bộ sử thi nổi tiếng đó là sử thi Ô-đi-xê
và I-liat của Hi Lạp.Đó đều là những bản anh hùng ca sống mãi với thời gian,ca
ngợi những người anh hùng dũng cảm đấu tranh cho các thế lực xấu xa, đen tối,
sự cao cả,cái đẹp trong con người , đứng lên giành lại sự tự do cho dân tộc, đất
nước. thể hiện lòng yêu thương giữa con người với con người và lòng yêu đất
nước một cách mãnh liệt. Nội dung giống nhau đều là ca ngợi về những người
anh hùng bất khuất bên cạnh đó sử thi của mỗi quốc gia lại có những đặc trưng
riêng biệt tạo nên những giá trị khác biệt như sử thi của người Gia Rai thì do
một tập thể cùng nhau sáng tác và được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ
khác nên bị mai một dần còn sử thi của người Hi Lạp thì do một tác giả có tên
tuổi sáng tác và được viết trên dạng văn bản. Sử Thi gắn liền với xuất xứ nơi nó
sinh ra, do đó nó mang bản sắc dân tộc. Sử thi của người Gia Rai mang tính cách
23
Á Đông, tính cách dân tộc của Việt Nam. Sử thi của Người Gia Rai cũng có tính
hoành tráng, nhưng nó sống trong không gian văn hóa, không gian tâm linh Việt
Nam nên đặc điểm dân tộc, con người, văn hóa, tư duy thể hiện rất rõ: đó là sự
mộc mạc - đối chọi với chau chuốt; tình cảm sâu lắng - đối chọi với triết lý;
không gian nhỏ mà ấm cúng - đối chọi với sự hoành tráng kỳ vĩ. I-liat và Ô-đixê của người Hi Lạp.
Các trường ca, sử thi dù là ở bất cứ dân tộc nào, vùng miền nào, đất nước
nào cũng đều đã thể hiện những ước mơ ngàn đời nay của chung tất cả những cư
dân mong mỏi có một cuộc sống bình an, không bị các thế lực xấu hãm hại, có
hạnh phúc lứa đôi và một thiên nhiên trù phú để tạo dựng nên đời sống vật chất
của buôn, không chỉ dồi dào, no đủ, mà còn giàu có; tôn trọng những giá trị văn
hóa truyền thống lâu đời của ông bà…Góp phần vào kho tàng văn hóa của Việt
Nam nói riêng cũng như kho tàng văn hóa Thế Giới nói chung.
2.1.5 Nhạc cụ
Âm nhạc của dân tộc Giarai gắn liền với những huyền thoại, nó liên quan
đến từng giai đoạn của cuộc sống của con người đối với các thần linh. Âm nhạc
Giarai thường là sự kết hợp của những âm thanh nguyên sơ của núi rừng.Từ đó
người Gia Rai sáng tạo ra các nhạc cụ bằng chất liệu nguyên sơ nhất như Đàn
Goong, Đàn T’ rưng, cồng chiêng, đàn k’lông put,……
Đàn Goong
"Nghe tiếng đàn Goong nhịp tim xôn xao, nghe tiếng đàn Goong nhịp
chân nghiêng chao… tiếng đàn đinh Goong reo rắt, nói lời yêu nhau...”,là câu
hát hàng ngày theo bà con lên nương rẫy. Đàn Goong - một nhạc cụ dân tộc của
người Gia Rai được sử dụng nhiều trong lễ hội, những đêm tâm tình của các đôi
trai gái.
Goong là loại nhạc cụ họ dây chi gẩy phổ biến trong một số dân tộc sống
ở tỉnh Kon Tum và Gia Lai. Nó còn được gọi là Tinh Ninh (Ting Ning) hay Teng
Neng (cách gọi của người Ba Na vùng Măng Giang và An Khê - Gia Lai)
hoặc Puội Brol như người Giẻ Triêng ở huyện Đák Glay, Kom Tum gọi.
Goong là một ống tre lồ ồ dài khoảng 70 đến 90 cm, đường kính từ 5 đến
24
8 cm, hai đầu ống đều có mấu kín. Phía chân đàn, phần dưới mấu tre có mắc một
đầu dây vào, phần đầu dây còn lại quấn vào những trục lên dây bằng gỗ, cắm
xuyên qua ống ở phía đầu đàn. Ngày xưa, người ta dùng dây tơ se vuốt sáp
ong để làm dây cho đàn goong, ngày nay dây thường được tách ra từ cáp của
phanh xe đạp hay cáp của máy bay. Mỗi dây đàn phát ra một âm, được tăng độ
vang bằng ống tre. Tuy nhiên, có lẽ do ống tre có độ vang kém nên một số nghệ
nhân đã nghĩ ra cách gắn thêm nửa quả bầu khô rỗng ruột ở dưới các dây phía
chân đàn để làm tăng độ vang của âm thanh. Một số người khác lại gắn thêm
nửa quả bầu khô rỗng ruột (đường kính nhỏ hơn quả bầu kia một chút) vào phía
đầu đàn (nơi có trục vặn dây). Nửa quả bầu này không có mặt trên. 6 dây đàn
cho 6 âm: Đô1- Sol1 (cặp dây đôi 1) Sol1- Si1 (cặp dây đôi 2); Si – Mi (2 dây
đơn)
Đàn Goong có nhiều loại, tùy theo thiết kế, đàn có 10 dây đến 18 dây.
Lúc diễn, người ta chống ốc đàn vào bụng, đưa đầu đàn về phía trước thành một
góc 45 độ. Hai ngón út đỡ thân đàn, những ngón còn lại dùng để móc vào dây
đàn tạo ra âm thanh: lấy phần thịt của ngón tay bật dây từ dưới lên, không khảy
từ trên xuống.
Goong là nhạc cụ do nam giới sử dụng, thường dùng để diễn lại những bài
của cồng chiêng bằng hình thức độc tấu. Đôi khi, họ sử dụng goong để đệm hát.
Ngày nay, ngoài đệm hát và độc tấu, người ta còn sử dụng 2 -3 chiếc đàn goong
để đánh đồng âm cùng một lúc. Trên sân khấu chuyên nghiệp, người ta còn hòa
tấu đàn goong với những nhạc cụ của dàn nhạc nhẹ (theo bản hòa âm và phối
khí hiện đại).
Trai Gia Rai đi tán gái, lấy được vợ đều cần có đàn Goong. Những đêm
trăng sáng, trai gái thôn bản ngồi quây quần bên bếp lửa, nhờ tiếng đàn Goong
mà nhiều cặp đã thành vợ, thành chồng… Như cách nói của dân tộc mình, âm
thanh ấy lúc rạo rực như tiếng chim Chơ Rao, da diết như con thú hoang gọi bầy,
lúc êm đềm như buổi chiều Tây Nguyên dần tắt nắng, hiền dịu như suối chảy róc
rách. Tiếng đàn Goong cũng không thể thiếu trong những dịp vui, dịp lễ hội, các
chàng trai sử dụng để chơi độc tấu, đệm cho nhau hát, hoặc nhờ tiến đàn nói
25