Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Văn nghệ dân gian của dân tộc XINH MUN ở tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.73 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
PHẦN THỨ NHẤT.............................................................................................2
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI,
NGUỒN GÓC LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC XINH MUN Ở TỈNH SƠN LA...2
1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của dân tộc Xinh Mun ở
tỉnh Sơn La....................................................................................................2
1.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý..........................................................................2
1.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội...............................................................2
1.1.2.1. Đặc điểm về kinh tế.........................................................................2
1.1.2.2. Đặc điểm về xã hội..........................................................................5
1.2. Khái quát về tộc danh và nguồn gốc lịch sử của dân tộc Xinh Mun ở
tỉnh Sơn La....................................................................................................5
1.2.1. Dân số, phân bố dân cư, nguồn gốc lịch sử........................................5
1.2.1.1. Dân số, phân bố dân cư...................................................................5
1.2.1.2. Nguồn gốc lịch sử............................................................................6
1.3. Khái quát về đặc điểm văn hóa của dân tộc Xinh Mun ở tỉnh Sơn La.......6
1.3.1. Văn hóa vật chất.................................................................................6
1.3.2. Văn hóa tinh thần................................................................................9
1.3.3. Văn hóa xã hội....................................................................................9
PHẦN THỨ HAI...............................................................................................10
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA DÂN TỘC
XINH MUN Ở TỈNH SƠN LA........................................................................10
2.1. Một sô loại hình văn nghệ dân gian.....................................................10
2.1.1. Nhạc cụ.............................................................................................10
2.1.2. Múa...................................................................................................11
2.1.3. Âm nhạc trong sinh hoạt cộng đồng.................................................13
2.1.4. Vè và hát đố......................................................................................14
2.2. Giá trị của văn nghệ dân gian đối với dân tộc Xinh Mun trong kho
tàng văn hóa Việt Nam................................................................................21



2.2.1. Giá trị lịch sử....................................................................................21
2.2.2. Giá trị văn hóa..................................................................................22
2.2.3. Giá trị cố kết cộng đồng...................................................................23
PHẦN THỨ BA. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA
DÂN TỘC XINH MUN..................................................................................24
3.1. Thực trạng............................................................................................24
3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc
Xinh Mun....................................................................................................25
3.2.1. Nâng cao công tác tổ chức quản lý...................................................25
3.2.2. Khai thác giá trị văn hóa truyền thống.............................................25
3.2.3. Đẩy mạnh xây dựng chính sách, đầu tư và phát triển các nghệ nhân
dân gian.......................................................................................................26
3.2.4. Nâng cao nhận thức của người dân..................................................26
KẾT LUẬN........................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................29
PHỤ LỤC...........................................................................................................30


MỞ ĐẦU
Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với nhau
trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi,
giành tự do, độc lập và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc hầu như có tiếng nói,
chữ viết và bản sắc văn hóa riêng
Bản sắc văn hoá của các dân tộc thể hiện rất rõ nét trong các sinh hoạt
cộng đồng và trong các hoạt động kinh tế. Từ trang phục, ăn, ở, quan hệ xã hội,
các phong tục tập quán trong cưới xin, ma chay, thờ cúng, lễ tết, lịch, văn nghệ,
vui chơi của mỗi dân tộc lại mang những nét chung. Đó là đức tính cần cù chịu
khó, thông minh trong sản xuất, với thiên nhiên - gắn bó hoà đồng, với kẻ thù không khoan nhượng, với con người - nhân hậu vị tha, khiêm nhường... Tất cả

những đặc tính đó là phẩm chất của con người Việt Nam.
Là sinh viên chuyên ngành Quản lý Văn hóa, trong quá trình học tôi đã
được trang bị những kiến thức chuyên sâu và hiểu rõ về từng vấn đề của các dân
tộc thiểu số như: kinh tế, trang phục, nhà cửa, ẩm thực, hôn nhân, ma chay, tín
ngưỡng, văn nghệ dân gian, lễ hội, thiết chế xã hội. Từ đó cho thấy mỗi dân tộc
mỗi vùng miền lại có một nét văn hóa đặc trưng riêng giúp tôi hiểu được về đời
sống vật chất cũng như văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số và
đó cũng nền tảng kiến thức để tôi tìm hiểu sâu hơn về giá trị văn nghệ dân gian
của dân tộc Xinh Mun.
Trong bài tiểu luận của tôi tập trung vào nghiên cứu “văn nghệ dân gian”
của dân tộc Xinh Mun ở tỉnh Sơn La.

1


PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI,
NGUỒN GÓC LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC XINH MUN
Ở TỈNH SƠN LA
1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của dân tộc Xinh
Mun ở tỉnh Sơn La
1.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý
Sơn La là tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, tỉnh có diện tích 14.125 km²
chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố.
Thành phố Sơn La nằm ở tọa độ 21°15' - 21°31' Bắc và 103°45' - 104°00' Đông,
cách Hà Nội khoảng 320 km về phía Tây Bắc. Phía bắc giáp các tỉnh Yên Bái,
Điện Biên, Lai Châu, phía đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, phía tây giáp
với tỉnh Điện Biên, phía nam giáp với tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Huaphanh (Lào),
phía tây nam giáp tỉnh Luangprabang (Lào). Sơn La có đường biên giới quốc gia
dài 250 km, chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km. Toàn tỉnh có 12

đơn vị hành chính (1 thành phố, 11 huyện) với 12 dân tộc.
Nói đến Sơn La là nói đến một vùng văn hoá đa dạng, phong phú, giàu
hương sắc và đậm đà bản sắc dân tộc bởi nơi đây có 12 dân tộc anh em cùng
chung sống đoàn kết. Mỗi dân tộc có cách ăn mặc khác nhau và có những di sản
văn hoá truyền thống độc đáo nhưng giữa các dân tộc lại có những nét chung bởi
sự giao hoà của 12 nền văn hoá. Dân tộc Thái (chiếm 54% dân số), dân tộc
Mông (chiếm 12% dân số), dân tộc Mường (chiếm 8,4% dân số), dân tộc Dao
(chiếm khoảng 2,5% dân số), dân tộc Tày, dân tộc Xinh Mun, dân tộc La Ha,
dân tộc Kháng, dân tộc Lào, dân tộc Hoa, dân tộc Khơ Mú.
1.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Đặc điểm về kinh tế
Trồng trọt: cây lương thực chính là cây lúa: lúa nếp, lúa tẻ và cây ngô.
Dân tộc Xinh Mun trông cây lương thực ở trên nương. Đồng bào chia nương
làm hai loại dựa vào phương thức canh tác: nương canh tác bằng gậy chọc lỗ,
nương canh tác bằng cuốc và nương canh tác bằng cày. Nương canh tác bằng
2


gậy chọc lỗ thường là nương mới khai phá, trên mặt đất còn nhiều mùn, dùng
gậy chọc lỗ để không làm xáo trộn đất, khi gặp mưa, mùn đất ít bị trôi đi, giữ
được độ màu mờ lâu hơn cho đất nương.
Nương cuốc là nương khi gieo trồng người ta dùng cuốc đê bố từng hố,
rồi gieo trồng xuống hố đó. Nương cuốc, thường là nương đã gieo trồng vài ba
vụ. Trên nương này, lớp mùn trên mặt đất đã bị mưa to rửa trôi đi, cho nên cần
cuốc sâu hơn xuống đất để khi gieo trồng, cây có cái “ăn”. Chiếc cuốc dùng để
làm nương, dân tộc Xinh Mun gọi là tha mứn.
Đây là chiếc cuốc có lưỡi dài khoảng 16cm, rộng khoảng 10cm, thuận tiện
cho việc canh tác nơi nương dốc, vừa thuận cho việc cuốc hố nho nhỏ để tra hạt,
vừa tiện cho việc móc gốc rễ những cây cỏ dại khi làm cỏ cho cây trồng.
Nương cày là nương thâm canh, gieo trồng các loại cây lương thực chính

hoặc cây lương thực phụ, các loại đậu đồ. Canh tác trên nương cày, dân tộc Xinh
Mun dùng trâu, hoặc bò làm sức kéo và thực hiện giải pháp kỳ thuật như: bón
phân cho cây trồng, tạo bờ cho nương giữ màu khỏi bị trôi nhanh, nhằm bồi bổ
thêm chất màu mỡ cho đất, để ổn định canh tác lâu dài.
Việc thu hoạch lúa, trước đây được thực hiện bằng cách dùng nhíp cắt
từng nhánh lúa, hoặc chỉ tuốt lúa bằng tay, về sau đồng bào dùng liềm để gặt.
Công việc đập lúa được thực hiện ở ngay trên nương. Trước đây, người ta dùng
các que tre, que gồ đập trực tiêp vào các lượm lúa, vê sau họ dùng néo.
Chăn nuôi: dân tộc Xinh Mun chăn nuôi gia súc, gia cầm trong từng gia
đình. Vật nuôi là những con trâu, bò, lợn, gà, dê. Đồng bào nuôi trâu, bò để kéo
cày, lấy phân bón ruộng, bán. Trâu, bò thường được coi là một nguồn tài sản của
gia đình. Nhà giàu có thường nuôi nhiều trâu, bò. Lợn. gà, dê,… được nuôi để
phục vụ các nghi lễ tôn giáo, kết hợp sử dụng làm thực phẩm trong các dịp lễ tết,
hội hè. Trước đây, dân tộc Xinh Mun chủ yếu chăn thả gia súc, gia cầm. Về sau
dân đã làm chuồng trại cho chúng gần nhà ở. Bên cạnh trồng trọt, công việc
chăn nuôi ngày càng được chú ý, có khả năng phát triển.
Khai thác tự nhiên: sinh sống ở vùng Tây Bắc, rừng cung cấp cho dân tộc
Xinh Mun nhiều lâm, thố sản. Dân tộc Xinh Mun thu hái các loại rau rừng,
3


măng, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong, củ mài,… Công việc thu hái lâm thổ sản
này diễn ra hàng ngày. Sau mỗi buổi chiều đi làm về chị em phụ nữ thường tranh
thủ hái rau, củ rừng về làm thức ăn bữa cơm chiều. Rừng Tây Bắc còn là nơi có
nhiều thú rừng to nhỏ khác nhau. Nam giới thường săn bắt các loại thú rừng
nhỏ: con cầy, con cáo, con khỉ, hoặc các loại chim muông… Mục đích săn bắt,
trước tiên nhằm mục đích bảo vệ mùa màng, sau đó là có thêm thịt cải thiện đời
sống. Với các loại thú nhỏ các hình thức săn bắt chủ yếu là dùng các loại bầy.
Dân tộc Xinh Mun còn săn bắn các loại thú lớn: hổ, báo, gấu. Đồng bào hay
dùng hình thức săn rình đối với các loại thú lớn này. Với thú lớn, ngoài mục đích

bảo vệ con người, bảo vệ gia súc, đồng bào còn dùng xương hổ đế nấu cao làm
thuốc bổ, lẩy mật gấu để chữa bệnh, khi một nơi nào đó trên cơ thổ người bị va
đập mạnh.
Ngành nghề thủ công: dân tộc Xinh Mun có một số nghề thủ công như
nghề đan lát tre, nghề rèn, nghề dệt, nhưng nhìn chung ít phát triển, ở một số bản
, người làm nghề rèn, nhưng do bản ít người, nhu cầu rèn ít, cho nên rèn không
có cơ hội phát triển. Một số chị em học nghề dệt của người Thái, nhưng rồi cũng
không phát triển được, vì đồng bào sinh sống trong môi trường xã hội Thái, sản
phẩm dệt của người Thái nhiều, đẹp, bán ở chợ đù thoả mãn nhu cầu về vải cho
cả dân tộc Xinh Mun cư trú trong vùng. Nghề đan lát mây, tre là phát triển hơn
cả. Họ đan gùi, đan mâm mây ăn cơm, đan ghế mây ngồi, đan hòm đựng quần
áo…. kỹ thuật đan của đồng bào khá tinh xảo. Đồ đan mây, tre gia dụng của
đồng bào được bà con các dân tộc trong vùng ưa thích.
Trao đổi, mua bán: sinh sống bằng nền kinh tế tự túc, tự cấp, dân tộc
Xinh Mun ít tham gia vào hoạt động buôn bán. Vùng dân tộc Xinh Mun cư trú
không họp chợ. Tuy nhiên, do nhu cầu cuộc sống, đồng bào cũng phải bán một
số nông, lâm, thổ sản để lấy tiền mua những yếu phẩm như dầu thắp, muối, kim,
chỉ thêu, giấy vở cho trẻ em đi học. Dân tộc Xinh Mun đem ra chợ bán gà, măng
khô, măng tươi, nấm hương, mộc nhĩ. Khách mua các hùng nông sản là những
thương lái, buôn bán nhỏ lẻ, chạy chợ từ nơi sang nơi khác trong vùng. Chợ
thường họp theo phiên và thường rất xa nơi đồng bào cư trú.
4


1.1.2.2. Đặc điểm về xã hội
Sơn La là một tỉnh miền núi, có 11 đơn vị hành chính (1 thành phố, 10
huyện) với 12 dân tộc cùng sinh sống. Dân số của tỉnh, theo số liệu thống kê
năm 2006, là trên 1 triệu người. Trong đó, dân số ở khu vực nông thôn là chủ
yếu, chiếm tỷ trọng 88,7%, khu vực thành thị chiếm 11,3%. Dân số trong độ tuổi
lao động khoảng 541 ngàn người, chiếm 54% dân số toàn tỉnh. Lao động nông,

lâm nghiệp chiếm gần 90% tổng số lao động. Lao động công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ và chế biến chiếm khoảng 10%.
Nhân dân các dân tộc Sơn La có truyền thống cách mạng, đoàn kết, yêu
nước. Chính trị, trật tự an ninh, quốc phòng trên địa bàn luôn được đảm bảo.
Trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề của lao động ở Sơn
La còn thấp so với yêu cầu phát triển. Cả tỉnh hiện nay chỉ có 01 trường đại học,
01 trường cao đẳng, một số trường trung cấp và trung tâm đào tạo nghề. Do vậy,
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức và lao động ở tỉnh phụ thuộc chủ yếu
vào các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội và các tỉnh khác. Điều này cũng gây
khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
1.2. Khái quát về tộc danh và nguồn gốc lịch sử của dân tộc Xinh
Mun ở tỉnh Sơn La
1.2.1. Dân số, phân bố dân cư, nguồn gốc lịch sử
1.2.1.1. Dân số, phân bố dân cư
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Xinh Mun ở Việt
Nam có dân số 23.278 người, có mặt tại 22 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Dân
tộc Xinh Mun cư trú tập trung tại tỉnh Sơn La (21.288 người, chiếm 91,5% tổng
số dân tộc Xinh Mun tại Việt Nam), Điện Biên (1.926 người), Đồng Nai (10
người), Nam Định (10 người), Hà Nội (10 người)... Tại Lào, họ được gọi
là người Puộc với dân số khoảng 2.146 người (theo Ethnologue) vào năm 1985.
Dân tộc Xinh Mun cư trú ở vùng biên giới Việt – Lào, chủ yếu ở 2 huyện
Yên Châu và Sông Mã, ngoài ra còn sống rải rác ở các huyện Mai Sơn, Thuận
Châu, Mường La. Dân tộc Xinh Mun còn có tên gọi là Puộc, Pụa. Tiếng nói dân
tộc Xinh Mun thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
5


1.2.1.2. Nguồn gốc lịch sử
Người Xinh-mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam.
1.3. Khái quát về đặc điểm văn hóa của dân tộc Xinh Mun ở tỉnh Sơn La

1.3.1. Văn hóa vật chất
Nhà ở: dân tộc Xinh Mun ở nhà sàn. Nguyên vật liệu làm nhà là gỗ, tre,
nứa, lá, những nguyên vật liệu này sẵn có ở trong rừng, chỉ mất công vào rừng
chọn, chặt lấy, không mất tiền mua. Sau khi chuẩn bị xong nguyên vật liệu làm
nhà, khâu quan trọng là chọn đất dựng nhà. Đồng bào chọn đất dựng nhà thông
qua hình thức bói. Trong khi bói dân tộc Xinh Mun làm khò xinh – một que tre
mỏng, dài khoảng 15 cm. Que tre này được bẻ gập thành từng đoạn, tượng trưng
cho linh hồn mỗi thành viên trong gia đình. Sau khi đã chọn được mảnh đất làm
nhà, gia chủ buộc khò xinh vào một cọc, rồi cắm cọc đó ở chính giữa nền nhà
tương lai. Khi làm xong nhà, trong nghi lễ lên nhà mới, tất cả các thành viên
trong gia đình ngồi trên sàn nhà ăn cơm, phải ngồi ngay đúng phía trên chính
cọc này. Đồng bào tin rằng, ngồi như vậy, con ma trong gia đình mới biết mọi
người để che chở. Dân tộc Xinh Mun rất kiêng chọn đất làm nhà trên nền nhà
cũ.
Ngày khởi công làm cũng được lựa chọn cẩn thận. Theo quan niệm của
đồng bào, làm nhà vào ngày nước (thuỷ – các ngày 2, 6, 8, 9 trong tháng) là
ngày tốt nhất. Người ta kiêng khởi công làm nhà vào ngày lửa (hoả – các ngày 1,
7). Đồng bào Xinh Mun cũng ít khi làm nhà vào các ngày 3, 5, 10, vì sợ sau này
sẽ cháy nhà.
Khi dựng nhà, dân tộc Xinh Mun rất coi trọng việc dựng “cột chính”, theo
tập quán, chủ gia đình phải mời ông cậu tới dựng cột này. Trên cột chính, đồng
bào treo một số hiện vật như: ta leo, khò xinh, ba, bốn vòng lạt nhỏ (tượng trưng
cho tiền bạc); con dao, cái thớt, gói muối (mong muốn sự no đủ)… Có nơi, đồng
bào còn buộc ở đầu cột chính cà chiếc cũ của chủ nhà (để báo cho ma bếp biết
người chủ của gia đình), một vài bông lúa, mai con ba ba (tượng trưng cho âm
vật) và một dùi gỗ tròn (tượng trưng cho dương vật). Việc tôn thờ âm, dương vật
phản ánh quan niệm phồn thực, mong muốn sự sinh con đẻ cái, mùa màng tươi
6



tốt. Ông cậu cũng là người đốt ngọn lửa đầu tiên trên bếp nấu cơm của căn nhà
mới. Ngọn lửa ấy được giữ không tắt trong suốt đêm đầu tiên. Hiện nay dân tộc
Xinh Mun làm mái nhà mai rùa như người Thái Đen. Bố trí nhà của dân tộc
Xinh Mun bao giờ cũng có một gian là nơi ngủ của khách và con trai chưa vợ.
Gian khách còn lại là nơi đặt thờ ma nhà. Các gian khách dành cho sinh hoạt gia
đình, có bếp riêng.
Kỹ thuật làm nhà đơn giản: cột là cây có sẵn ngoãm. chôn cột xuống đất,
gác cây que lên, dùng lạt hoặc dây rừng buộc, mái lợp bằng cỏ gianh. Nét đặc
trưng của ngôi nhà dân tộc Xinh Mun được thể hiện hình thù của mái. Đó là kiểu
mái nhà hình mai rùa, gồm hai mái chính và hai mái hồi. Loại mái này cũng gặp
ở người Thái Đen trong cùng vùng.
Trong nghi lễ vào nhà mới, ông cậu không chỉ được mời làm, mà còn là
người nhóm lửa đầu tiên trên chiếc bếp dùng để nấu cơm. Ngọn lửa đó không
được để tắt trong suốt đêm cùa buổi lễ. Giữ ngọn lửa cháy liên tục để chứng tỏ
rằng, ma bếp phải chiến thắng ma rừng.
Ăn: dân tộc Xinh Mun ăn cơm nếp, cơm tẻ, thích gia vị cay, uống rượu
cần, có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen.
Trang phục: dân tộc Xinh Mun không phát triển nghề trồng bông dệt vải,
cho trang phục của họ bị phụ thuộc vào nguồn vải và thậm chí cả kiểu dáng
trang phục của dân tộc cùng sinh sống trong vùng. Vùng Tây Bắc là vùng văn
hoá Thái, vì vậy trang phục dân tộc Thái đã ảnh hưởng lớn đến trang phục Xinh
Mun. Chính chị em phụ nữ người dân tộc Xinh Mun dùng trang phục Thái để
mặc. Do vậy, cơ bản trang phục phụ nữ Xinh Mun giống như trang phục chị em
phụ nữ Thái trong vùng, tức là cũng mặc váy, xửa cỏm và khăn piêu. Trang phục
truyền thống của phụ nữ Xinh Mun gồm có: khăn, áo, váy, thắt lưng…về cơ bản
không khác gì trang phục của phụ nữ Thái Đen.
Khăn Phụ nữ Xinh Mun trước đây thường chít khăn vuông bằng vải đen
bốn góc có tua chỉ xanh, đỏ. Ngày nay, đa số phụ nữ Xinh Mun đội khăn piêu.
Khăn được làm bằng vải bông nhuộm chàm, dài khoảng 150cm, rộng 35 –
45cm. Điểm đáng chú ý là piêu được trang trí bằng cút ở bốn góc và cạnh phía

7


hai đầu khăn. Số cút bao giờ cũng là số lẻ. Mỗi chùm 3 cút gọi là piêu cút xam,
chùm 5 cút gọi là piêu cút hả… Đồng bào tin rằng số lẻ là sự chung thuỷ, phụ nữ
đội khăn có số cút lẻ sẽ chung thuý cả đời với chồng con.
Áo của phụ nữ Xinh Mun giống như áo của phụ nữ Thái Đen. Đây là loại
áo ngắn (sửa cỏm khen ten), may bằng vải bông dệt thủ công, thân áo ngắn
ngang eo, cổ tròn, tay áo bó sát dài tới mắt cá tay, sửa cỏm mở khuy chính giữa
thân trước. Khuy bằng đồng, nhôm, có khi bằng bạc (mak pém) giống hình con
bướm (cáp bửa). Hàng khuy bên phải tượng trưng cho con đực (tở po), hàng
khuy bên trái là con cái (tô me). Mỗi chiếc áo “cỏm” thường có từ 11 – 12 đôi
“pém” Đôi khi khuy áo “cỏm” có hình con cà cuống (meng đa), hình con nhện
(xính xao) hoặc hình con ve sầu (chắc chắn)… Đặc điểm chính của loại áo này
là rất ngắn. Khi mặc hở phần thắt lưng bằng lụa tơ tằm, bó sát lấy cơ thể. Chính
những đặc điểm này của “áo cỏm” đã tôn thêm vẻ đẹp tự nhiên của cơ thể người
phụ nữ.
Váy (xín) của phụ nữ Xinh Mun thường may ngắn hở bắp chân. Váy may
bằng vải bông nhuộm chàm, ngày nay thường may bằng vải láng đen, lụa đen…
Váy được may kiểu khép kín, chu vi khoảng 100 – 120cm. Cạp váy khoảng 8cm
bằng vải hoa hoặc vải khác màu với thân váy. Gấu váy (tin)cao khoảng 3cm, bên
trong nẹp bằng vải đỏ. Ngoài áo, váy, khăn, phụ nữ Xinh Mun còn đẹp vòng tay,
vòng cổ, khuyên tai bằng bạc.
Trang phục truyền thống của nam giới Xinh Mun có phần hơi đơn giản.
Ngoài bộ quần áo mặc hàng ngày, người đàn ông Xinh Mun chỉ có thêm chiếc
khăn quấn trên đầu, chiếu túi đeo bên người khi đi nương, xuống chợ. Áo dài
ngang tới bắp chân, áo được may bằng vài dệt sợi bông, nhuộm chàm, có màu
xanh đen, giống chiếc áo dài của đàn ông Thái Đen, Khơ Mú... Thân áo được
may thành bốn mảnh, phía sau gồm hai mảnh ghép giữa sống lưng, phía trước là
hai mảnh. Cổ tròn, được may thành nẹp ôm xung quanh cổ khi mặc. Dải khuy

chạy từ cổ xuống áo, qua vai xuống nách và chạy dọc sườn trái xuống ngang
thắt lưng. Khi mặc áo này, dân tộc Xinh Mun hay cuốn trên đầu một chiếc khăn
bằng vải nhuộm chàm, dài khoảng 80cm. Cách quấn khăn của họ cũng giống
8


người Thái Đen: quấn mỏ rìu quay ra phía trước trán. Quần của đàn ông Xinh
Mun giống quần của nam giới Thái Đen. Quần thường may ngắn trên mắt cá
trên, ống rộng, nhuộm tràm. Quần không có cạp để luồn dây lưng mà dùng thắt
lưng buộc lại khi mặc.
1.3.2. Văn hóa tinh thần
Dân tộc Xinh Mun tin vào tín ngưỡng đa thần, quan niệm vạn vật hữu
linh, mọi vật kể cả vật vô tri vô giác đều có linh hồn. Con người cũng có linh
hồn, do đó sau khi chết đi phải thờ cúng, gọi là thờ cúng tổ tiên.
Ma chay: tiếng súng trong nhà báo hiệu có người chết, cùng lúc đó người
con trai ném ông đầu rau vào nơi thờ cúng tổ tiên bày tỏ một sự giận giữ truyền
thống. Mọi điều kiêng kỵ hàng ngày của gia đình cũng như của người con rể nay
được huỷ bỏ, người ta nấu cơm trên bếp sưởi, đặt tai ninh theo chiều ngang nhà,
con rể lo mọi việc cơm nước. Không dùng quan tài gỗ mà chỉ bó cót. Chọn đất
đào huyệt bằng cách ném trứng trên khu vực định sẵn, trứng vỡ ở đâu thì huyệt
được đặt ở đó. Nhà mồ được làm cẩn thận, có đủ thứ cần thiết tượng trưng cho
người chết. Dân tộc Xinh Mun không có tục cải táng và tảo mộ.
Thờ cúng: Thờ cúng tổ tiên hai đời, bố mẹ và ông bà. Biểu trưng cho nơi
thờ tổ tiên là một chiếc xương hàm lợn, ít trầu đựng trên nắp giỏ cơm, ống tre
đựng nước. Cúng vào các dịp cơm mới, đám cưới, nhà mới. Việc thờ cúng tổ
tiên, tuỳ nơi, có thể chỉ do anh cả, cũng có thể do các anh em trai cùng đảm
nhiệm. Bố mẹ vợ được thờ riêng ở một chiếc lán nhỏ, bên cạnh nhà, cơm nước
cúng được nấu ở ngoài nhà. Lễ cúng bản hàng năm rất được coi trọng.
1.3.3. Văn hóa xã hội
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ, phụ quyền là chủ yếu, nhưng những đại gia

đình gồm ba thế hệ hay các anh em trai đã có vợ vẫn sống chung trong một nhà
còn tồn tại khá đậm nét. Số lượng thành viên trong nhà khoảng 10-15 người,
cũng có nhà lên tới 20-30 người. Dân tộc Xinh Mun có nhiều họ nhưng phổ biến
nhất là hai họ: họ Vì và họ Lò

9


PHẦN THỨ HAI
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA
DÂN TỘC XINH MUN Ở TỈNH SƠN LA
2.1. Một sô loại hình văn nghệ dân gian
2.1.1. Nhạc cụ
Trong các lễ hội, cuộc vui dân tộc Xinh Mun đều gõ chiêng, đây là loại
nhạc cụ mà được dân tộc Xinh Mun sử dụng trong lẽ hội A Ma (lễ hội cầu mùa).
Chiêng là nhạc cụ Đông Nam Á thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình
tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có
hoặc không có núm. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để
đánh chiêng. Chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao. Nó
có nguồn gốc từ Trung Quốc và sau đó lan rộng đến Đông Nam Á và nó cũng có
thể được sử dụng trong phần nhạc cụ của dàn nhạc giao hưởng phương Tây.
Nghệ nhân chỉnh Chiêng hay người điều khiển giàn Chiêng là một nhạc
công giỏi, có khả năng thẩm âm, biết phát hiện và chỉnh sửa thanh âm lạc điệu
của từng Chiêng để đạt được âm thanh chuẩn của cả giàn Chiêng. Nghệ nhân
chỉnh Chiêng không chỉ chỉnh âm cho các chiếc Chiêng sai âm, mà còn chỉnh
âm cho các giàn Chiêng mới. Nghệ nhân chỉnh Chiêng được coi là báu vật dân
gian sống, bao hàm tính truyền thống và tính khoa học, không chỉ đơn thuần là
một kỹ thuật viên.
Công nhân tạo ra hai loại âm thanh riêng biệt. Một chiêng với một bề mặt
phẳng rất rung động ở nhiều chế độ, tạo ra "sự sụp đổ" chứ không phải là một

ghi chép được điều chỉnh. Loại chiêng này đôi khi được gọi là tam - tam để phân
biệt nó với những chú cồng của chú rồng đưa ra một ghi chú được điều chỉnh.
Trong các nhóm gamelan Indonesia, một số chiêng cồng kềnh được cố tình thực
hiện để tạo ra ngoài một nhịp beat trong khoảng từ 1 đến 5 Hz. Việc sử dụng
thuật ngữ "chiêng" cho cả hai loại công cụ này là phổ biến.
Trong lễ hội cầu mùa, tiếng chiêng và sáo cùng hòa nhịp tạo âm thanh cho
mọi người tham gia múa xòe và tăng bu xung quanh cây hoa "xặng bok". Trong
10


tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, trong sự nồng say của men rượu cần, tinh
thần của người dân được thăng hoa, mọi người thả mình theo những điệu múa,
trò chơi dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng dân tộc
Xinh Mun.
2.1.2. Múa
Lễ hội A Ma (lễ hội cầu mùa) là nét văn hoá tiêu biểu, đặc sắc của đồng
bào dân tộc Xinh Mun. Trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, trong sự nồng
say của men rượu cần, tinh thần của người dân được thăng hoa, mọi lo toan
thường nhật phút chốc tan biến, mọi người thả mình theo những điệu múa, trò
chơi dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng dân tộc Xinh
Mun, mang tính nghệ thuật và giáo dục cao như múa Tăng bu, To luồng, múa
kéo thuyền… chơi "to miếng" (đấu võ), chơi "giắc klsù" (bắt tổ ong)…
Múa Tăng bu – là điệu múa bằng cách nghệ thuật hóa động tác chọc lỗ tra
hạt trong lao động sản xuất vào điệu múa, những động tác tưởng chừng như khô
khan cứng nhắc nay trở nên uyển chuyển mềm mại và có nhịp điệu hơn. Đây
còn là tiết mục vui chơi thu hút được rất nhiều người tham gia, nhất là các thanh
niên nam, nữ. Trong các dịp lễ hội, họ rủ nhau từ các làng bản khác cùng về đây
tham gia múa cùng dân bản. Nhiều người đứng nối nhau xếp thành vòng tròn
lớn, một tay bám lên vai người đi trước, một tay cầm cây tăng bu.
Cây tăng bu được làm bằng một đoạn thân cây nứa, có đường kính thân

khoảng từ 4- 6cm, dài khoảng từ 1,4m - 1,6m tùy theo mỗi người. Sau một nhịp
dẫn, tất cả mọi người cùng vỗ mạnh cây tăng bu xuống sàn gỗ, tạo nên một dàn
âm thanh cộng hưởng. Dàn âm thanh này luôn được giữ nhịp rất đều, những
người tham gia múa vừa phải đảm bảo tạo ra âm thanh, vừa bước uyển chuyển
theo nhịp điệu và giữ nhịp cho đều.
Sau mấy vòng múa lại xoay chiều di chuyển một lần, cứ như thế vòng
múa tăng bu tạo cho người tham ra một cảm giác đầm ấm, đoàn kết, vui vẻ như
không hề biết dừng lại. Nếu có một thành viên nào muốn nghỉ sẽ tự rời khỏi
vòng và lập tức có thành viên khác thay thế, vòng múa không bị gián đoạn.
Có thể nói phần múa Tăng bu trong chuỗi các tiết mục văn nghệ thể dục,
11


thể thao, các trò chơi dân gian diễn ra trong lễ hội của người Kháng là phần chơi
hấp dẫn và kéo dài nhất. Đặc biệt các bạn trẻ nam nữ thanh niên tham gia rất
đông vui và kéo dài cho tới tận đêm khuya.
Ngày nay, phương thức canh tác theo hình thức chọc lỗ tra hạt vẫn còn
phổ biến trong đồng bào các dân tộc thiểu số, vì vậy điệu múa tăng bu mô tả
hình ảnh chọc lỗ tra hạt vẫn còn tồn tại trong đời sống văn hóa văn nghệ của
đồng bào. Nó như một sản phẩm kết tinh từ sự sáng tạo của đồng bào trong quá
trình lao động với một nền tảng âm nhạc dân gian phong phú, đặc sắc. Như vậy,
múa tăng bu không còn chỉ hạn chế trong một gia đình hay dòng họ mà nó là
ngày hội chung của cả bản, cả vùng.
Múa Tăng bu đã thể hiện được những nét truyền thống đặc trưng riêng
của dân tộc Xinh Mun nơi đây, góp phần làm phong phú thêm nền di sản văn
hóa của tỉnh Sơn La nói riêng và nền di sản văn hóa Việt Nam nói chung.
Ngoài múa Tăng bu dân tộc Xinh Mun còn có điệu múa “xòe họa”. Múa
xòe là một sinh hoạt văn hoá đặc sắc, một điệu múa phổ biến trong lễ hội . Múa
xòe còn có tên khác là "Xe khăm khen" (múa cầm tay). Múa xòe biểu hiện sự
đoàn kết thân thiện gắn bó, có tính tập thể, dân chủ cao, nên mọi người dân tộc

Xinh Mun đều biết múa xòe và yêu thích nghệ thuật xòe của dân tộc.
Vui nhất là "xòe họa", mọi người cầm mảnh vải dài nối tay nhau thành
vòng tròn nhảy "xòe" quanh cây hoa. Vừa xòe họ vừa nhảy, xòe mạnh, nhảy cao
được khuyến khích bằng những lời hô "họa, họa". Chỉ khi nào mọi người mệt lử,
xòe họa mới dừng. Múa xòe là nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Xinh
Mun trong mỗi dịp hội hè, mỗi động tác, mỗi dáng đi dáng đứng, cách xếp đội
hình đều là những cung bậc, sắc thái khác nhau mà điệu xòe mang lại.
Nhạc cụ chính phục vụ múa xòe là công và cống. Cống là loại trống dài
khoảng 1m, đường kính khoảng 45 cm làm bằng thân cây gỗ đục rỗng, hai đầu
bọc da trâu hoặc da bò. Công là loại trống dài từ 1,5 – 3 m, đường kính từ 5-7
cm, 2 đầu bịt da trâu, bò. Tiếng công trong, gọn, vang xa. Công còn có thể dùng
để báo hiệu khi bản làng có sự việc cần thiết triệu tập dân đến hội họp. Ngoài
tiếng công còn có tiếng chiêng vang rộn ràng tạo nên âm thanh lôi cuốn người
12


xem hào hứng nhập cuộc vui. Tiếng nhạc công, cống, chiêng hòa vang đệm theo
nhịp 2/4 tạo nên không khí tưng bừng ngày hội bản làng, đặc biệt sự nhún nhảy
của người chơi nhạc tạo nên sự rạo rực, tăng thêm sức sôi động của vòng xòe.
Xòe còn là nơi con người gửi gắm tình yêu của đồng bào dân tộc. Khi
tham gia vòng xòe trai gái được gần nhau, được lựa chọn bạn xòe, là nơi để thể
hiện tình cảm riêng tư. Vòng xòe gắn kết tình cảm con người với nhau. Người
múa xòe đứng thành vòng tròn nắm tay nhau, thường thì nam, nữ đan xen. Khi
múa, nếu vòng đơn thì vòng xòe quay ngược chiều kim đồng hồ, nếu vòng xòe
kép thì các vòng xòe quay ngược chiều nhau trông đẹp mắt. Một trong những
yếu tố thu hút người tham gia vòng xòe là sự dân giã, mộc mạc, dễ múa, dễ hiểu
và sức quyến rũ của nhạc lý.
Trong lễ hội Lộc Hoa của dân tộc Xinh Mun, cùng lúc tiệc rượu được bắt
đầu là tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng nhạc từ nhạc cụ "bàn sang" nổi lên rộn rã,
mọi người nắm tay bắt đầu múa xoè xung quanh cây nêu giữa nhà. Khác với xoè

Thái êm dịu, nhẹ nhàng, xoè quanh cây nêu lễ hội Lộc hoa rộn ràng, mạnh mẽ,
có phần quyết liệt hơn, ồn ã hơn nhiều, xoè múa say sưa, lúc cầm tay nhau, lúc
xoè khan, lúc dùng khăn nối vào nhau, tạo thành điệu xoè kéo co. Xoè khoảng 1
giờ, tiếng trống tiếng nhạc trầm dần, họ lại mời nhau uống rượu cần, rồi lại tiếp
tục xoè, hết đợt này đến đợt khác, kéo dài đến lúc phương đông hửng sáng mới
kết thúc, mọi người hoan hỉ xuồng cầu thang về nhà, để đến tối hôm sau lại đến
dự Lễ hội ở nhà người trong họ hoặc cùng mường cho đến khi hoa ban đã tàn,
măng đắng mọc cao.
2.1.3. Âm nhạc trong sinh hoạt cộng đồng
Hát gọi: là làn điệu phổ biến không kém gì khắp xứ, được dùng trong
nhiều hình thức sinh hoạt âm nhạc như các cuộc vui gặp gỡ, trong xòe vòng...
Nhạc điệu của khắp chiêu gần với khắp xứ, tính chất vui vẻ, trong sáng.
Hát ru: chứa đựng những tình cảm tha thiết của người mẹ, lời ru ngọt
ngào như dòng sữa mẹ đối với con yêu. Dân tộc Xinh Mun ru con bên nôi trên
nhà sàn, nhưng cũng có lúc đặt trẻ vào địu đeo ở trên lưng theo mẹ ra nương rẫy.
Hát giao duyên: là hình thức sinh hoạt âm nhạc dành cho trai gái đến tuổi
13


trưởng thành tìm hiểu nhau. Có nhiều hình thức hát giao duyên khác nhau tùy
theo hoàn cảnh và mục đích. Đây là một làn điệu thông dụng nhất trong các làn
điệu hát của dân tộc Xinh Mun. Tức là một làn điệu dân ca mà trai gái dùng để
tỏ tình, dùng để hát đối đáp, nên làn điệu này không một người nào không biết
hát, đặc biệt các cô gái lại là người hát hay hơn cả. Phần lời vừa trữ tình, vừa
lãng mạn, đôi khi nó được giao thoa với làn điệu kháy mua (tình yêu nảy nở
trong lao động)
Hát trên nương: là làn điệu phần lớn dùng để tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp.
Ở Sơn La người dân trên đường đi đến nương ruộng, hay đi về thường hát một
mình hoặc thổi khèn bè, pí pặp. Đôi lúc cũng được dùng trên nương ruộng, khi
chăn trâu, khi trên chòi canh lúa. Có những lúc vào đêm canh khuya, các chàng

trai mang khèn bè đi đến các bản xa có bạn gái để tìm hiểu. Khi họ đi qua những
cánh đồng, làng bản bồng bềnh trong sương, trong ánh trăng trên núi cao, họ đã
ứng tác ra những bài hát trữ tình (hoặc dựa trên lời cổ có sẵn).
Trong những năm gần đây, do sự thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội,
sự phát triển của công nghệ thông tin khiến văn hóa cổ truyền Sơn La nói riêng
và âm nhạc dân gian nói chung đang ngày càng bị thất truyền. Một số lễ hội chỉ
còn lại trong ký ức của người già, lớp trẻ hầu như ít để ý đến dân ca, dân nhạc
của dân tộc mình. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị âm nhạc dân gian nói
chung và âm nhạc dân gian Xinh Mun ở Sơn La nói riêng là một việc làm hết
sức cần thiết và cấp bách. Việc làm này cần sự quan tâm của nhiều người trong
cộng đồng và các cơ quan ban ngành. Tuy nhiên cần phải có một phương hướng
thống nhất, một biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề nêu trên.
2.1.4. Vè và hát đố
Cũng như nhiều dân tộc khác sinh sống trên đất nước Việt Nam dân tộc
Xinh Mun cũng có một nền văn hóa dân gian rất phong phú mang đậm dấu ấn
bản sắc riêng của dân tộc tiếng thơm truyền và được nhắc đến nhiều nhất là múa
và truyện thơ. Tất nhiên vè và hát đố cũng là một mảng đóng góp vào kho tàng
văn hóa dân gian phong phú đó.
Trên thực tế vè và hát đố hầu như không được lưu lại trên các văn bản viết
14


mà chỉ được lưu truyền theo con đường truyền khẩu nên rất dễ bị mai một và
tam sao thất bản. Vì thế quá trình sưu tầm biên dịch hát vè và hát đố đòi hỏi
người làm thực sự phải có lòng tâm huyết với văn hoá dân tộc và tính kiên trì cố
gắng càng hạn chế được nhiều sai sót càng tốt.
Trước tiên là nói về vè. Tựa như vè của dân tộc Kinh nội dung trong vè
của dân tộc Xinh Mun thường nói về những gì gần gũi thân thuộc diễn ra trong
cuộc sống hàng ngày. Ngôn từ được sử dụng trong vè thì mộc mạc giản đơn
không cầu kỳ thuận vần có nhịp điệu vì thế rất dễ thuộc và nhớ lâu.

Nội dung vè của dân tộc Xinh Mun đề cập đến là hết sức đa dạng phong
phú phản ánh đầy đủ muôn mặt cuộc sống. Qua vè ta có thể bắt gặp những hình
ảnh đầy thân quen về tự nhiên xung quanh đó là hoa là quả là cá.
Ví dụ:
- Hoa màu hồng hoa đào
Hoa thành kíp hoa sổ
Hoa người thương hoa sen...
- Quả có gai quả mít
Quả chỉ trời quả ớt
Quả đỏ máu củ nâu
Quả có sừng củ ấu...
- Cá mí vào đó
Cá giếc vào vợt
Cá vá cắn câu
Cá chày mắc lưới...
Là những lời động viên nhau cùng chăm chỉ lao động sản xuất:
- Trồng cây trồng ven rừng
Trồng cây trồng ven suối
Gái tay xinh cầm cuốc đi vun
Vun xong rồi lại xới
Xới cho cây trồng nở lá chồi non.
Hay là những câu vè đọc vui trong ngày tết:
15


- Hoa mận trắng
Hoa đào tươi
Gõ chiêng cồng xuân tết mới vui.
Hoặc là hình ảnh con người phải đối mặt đấu tranh với thiên nhiên thú dữ
để bảo tồn cuộc sống:

- Cây bương tương đầu hổ
Cây giang phang đầu hổ
Cây vầu đập đầu hổ
Cây nứa cứa đầu hổ...
Nhưng có lẽ nhiều nhất vẫn là những bài vè mang nội dung giễu cợt
những thói hư tật xấu lười lao động tham ăn ở bẩn ... mà ta vẫn thường bắt gặp
hàng ngày trong cuộc sống. Đó cũng chính là những lời góp ý giúp mọi người
nhận thức ra và điều chỉnh sửa chữa những tật xấu của bản thân để mà sống tốt
hơn.
Vè chế giễu kẻ lười biếng:
- Lười chẳng làm việc
Cơm hết canh hết
Nhai không mỏi hàm
Phơi ngửa nhìn trời.
Vè chế giễu kẻ tham ăn:
- Ăn nhiều bụng căng hết cỡ
Ngồi đánh đàn nom như bụng bà chửa...
Vè chế giễu kẻ ở bẩn:
- Phân lợn bết
Phân gà bôi
Phân hươu khô
Đến tận xa vẫn thối.
Vè chế giễu những gia đình đẻ nhiều đẻ dày:
- Bố nhà mẹ cửa
Con đống con đàn
16


Nhiều con lười nhác...
Không chỉ vậy nội dung vè của dân tộc Xinh Mun còn trực diện chế giễu

cả cường quyền đương thời và những người hành nghề tín ngưỡng Then Một.
Đối với cường quyền thì vè không hề che giấu cảm xúc cứ thế thể hiện
một thái độ chế giễu rất gay gắt quyết liệt thẳng băng dám so sánh mồm miệng
tạo với mồm chó mắt tạo với mắt cú vọ diều hâu. Và đồng thời khuyên con cháu
không nên quan hệ với nhà quan nhà tạo. Điều này không phải là ngẫu nhiên vô
cớ chỉ để đùa vui mà nó chính là kết quả được sinh ra từ ý thức muốn phản
kháng lại cường quyền đương thời của đồng bào Xinh Mun.
Vè chế giễu quan tạo
- Mồm tạo như mồm chó
Mắt cú vọ diều hâu
Dặn đời con đời cháu
Đừng đến nhà quan
Đừng van nhờ tạo.
Vè chế giễu quan lính tây:
- Chú dê con đội mũ chóp nhọn
Chóp nhọn là nhà tạo
Mặt méo xệch là lũ quan tây.
Còn đối với những người hành nghề tín ngưỡng Then Một thì thái độ của
vè phản ứng chế giễu nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên khi đọc lên người nghe vẫn cảm
nhận thấy được những ý ngầm cười nhạo thâm thuý. Then mang tiếng là tài giỏi
đấy có thể giao tiếp với thần linh với hồn vía người đã khuất đoán biết trước
được nhiều sự việc đấy nhưng có mỗi cái lối đường đồi đường gianh quen thuộc
để đi mà Then đi cũng lạc. Như thế thì còn kém cỏi hơn cả những người bình
thường ấy chứ. Một cũng vậy nổi tiếng là tài bắt ma trừ quỷ vậy mà hình
ảnh Một lại được thể hiện giống như một kẻ bất tài chỉ biết phồng mồm thổi bật
lên những tiếng kèn "phò phí ủn u" góp vui.
Mức độ vè cười chế giễu châm biếm Then Một nhẹ nhàng là thế. Nhưng
nếu đem ra xem xét trong bối cảnh thời điểm mà tín ngưỡng Then Mo (Một)
17



đang rất được tin tưởng và coi trọng gia đình nào xảy ra chuyện xấu hoặc có
người ốm cũng đều mời Then Mo đến hành lễ thì mới thấy việc dám đặt vè chế
giễu Then Mo cũng đã là việc làm táo bạo.
Vè chế giễu Then:
- Then tướng lên núi cao
Then tụng vào đồi trọc
Then già leo đồi gianh
Tìm đường về chẳng được.
Vè chế giễu Một:
- Một lào thổi kèn
Phò phí ủn u
Bói áo hành lễ
Ma nào làm cho.
Tuy mang những giá trị thực tế như vậy. Nhưng rất tiếc kể cả vào những
quãng thời gian mà vè được cho là đang lưu truyền thịnh hành nhất thì vùng
không gian phổ biến vè của dân tộc Xinh Mun vẫn rất bó hẹp. Nhiều bài vè chỉ
xuất hiện ở trong khu vực một mường thậm chí chỉ là một bản. Điều này có thể
do hai nguyên nhân chủ yếu:
- Giao thông ở miền núi trước đây rất khó khăn nên việc giao lưu văn hoá
bị hạn chế. Việc phổ biến lan rộng vè bằng con đường truyền khẩu lại càng bị
hạn chế hơn.
- Nội dung mà vè đề cập đến không mang tính khái quát tổng hợp mà chỉ
mang tính cục bộ phản ánh những sự việc xảy ra của riêng địa phương nên khó
được người dân ở địa phương khác tiếp nhận vì không hiểu.
Về phần câu đố của dân tộc Xinh Mun mới nghe qua các câu đố thoạt
tưởng là giản đơn. Nhưng thực chất nó đã được dân tộc Xinh Mun tổng hợp đúc
kết từ khả năng quan sát các sự vật các hiện tượng của cuộc sống xung quanh.
Và sau đó nó được trí tưởng tượng của con người vận dụng linh hoạt để sáng tạo
ra trò chơi câu đố giúp nâng cao đời sống tinh thần trong sinh hoạt văn hóa cộng

đồng. Đồng thời còn giúp cho con người ta rèn luyện thói quen tư duy nhanh
18


nhạy trong quan sát phán đoán.
Có thể đó là câu đố về những đồ vật thường dùng trong gia đình:
Ví dụ:
- Liếm ra ngoài liếm vào trong
Đau bụng nằm vào nơi xó cửa?
(Chiếc chổi).
Có thể đó những câu đố về hiện tượng tự nhiên:
- Không gõ cũng kêu?
(Trời sấm).
Có thể đó là những câu đố về cây cỏ côn trùng loài vật thậm chí là cả
những thứ quả đặc hữu địa phương mà khi đố thì chỉ có những người sống ở địa
phương mới hiểu:
- Gà mái to năm cánh một chân?
(Quả sổ).
- Hôn hoa rồi hôn lá
Hôn lá rồi hôn cành?
(Con bướm)
Cũng có thể đó là những câu đố liên quan đến công việc lao động sản xuất
thường ngày:
- Càng đập càng tròn
Càng gẩy càng béo?
(Đập bông và bật bông).
Đối với những câu những câu đố dễ người nghe đố nghe xong là đoán ra
ngay. Nhưng cũng có những câu đố hóc búa đầy sáng tạo khiến người giải đố
phải vò đầu bứt tai và chịu bó tay. Và nhiều khi câu đố được đưa ra vừa lắt léo
lại vừa kèm theo cả chất thơ trong đó. Chính cái chất thơ này đã tăng thêm khả

năng đánh lừa dẫn người giải đố lạc vào mê cung mơ hồ khó đoán. Cho đến khi
được nghe giải đố rồi thì thích thú bật cười lên vui vẻ.
Ví dụ:
- Tròn lông lốc anh ơi
19


Tròn be bé anh ơi
Ngủ cạnh người thương ngủ không được bởi nó
Hát cạnh người thương hát không hay bởi nó?
(Củ khoai sọ nướng)
Nhưng thú vị nhất là phải kể đến những câu hát đố. Một sự kết hợp tuyệt
vời giữa lời đố và dân ca. Làn điệu dân ca đã chắp thêm cánh nâng cao thêm giá
trị giải trí cho câu đố. Trí tưởng tượng suy đoán của con người được hòa lẫn vào
với sự lãng mạn bay bổng của cung bậc giai điệu thanh âm. Ví dụ:
- Lá đường xa gọi lá gì?
Lá đường xa gọi lá đa
Lá rộn ràng thăm người tình phương xa lá gì?
Lá rộn ràng thăm người tình phương xa lá thư... anh à!
Vè và hát đố không bị giới hạn về không gian và thời gian. Nó có thể
được diễn vào bất kể thời điểm nào trong ngày buổi sáng buổi trưa buổi tối vào
lúc đang lao động hay tranh thủ giải lao giúp giải toả bớt phần nào nỗi mệt nhọc
trong những giờ lao động hoặc là vào những buổi lễ vào các buổi sinh hoạt văn
hoá đông người vừa nhằm để vui chơi giải trí vừa để tăng cường mối quan hệ
hiểu biết trong cộng đồng. Và trong những buổi sinh hoạt văn hoá cộng đồng đó
hoặc trong những buổi hát đối trao duyên trai gái tuổi đang yêu đã dùng hát đố
như một cây cầu nối để tìm hiểu tâm hồn của nhau thử thách khám phá khả năng
tri thức của nhau xem có phải là người thông minh hoạt bát hay không xứng
đáng để mình trọn đời cùng đắp xây tổ ấm hay không? Vâng hát đố chính là một
người làm mối tài hoa giúp kết đôi lứa cho những trái tim đang yêu.

Tóm lại thông qua quá trình tìm hiểu vè và hát đố của dân tộc Xinh Mun
ta rất dễ dàng nhận thấy. Trong khi các câu vè ngoài việc miêu tả thế giới tự
nhiên còn có thể được sử dụng như một thứ vũ khí văn hóa để đấu tranh với
những mặt xấu trong xã hội thì các câu đố lại hoàn toàn nghiêng về mặt giải trí
tinh thần giáo dục nâng cao khả năng phán đoán. Cả hai đều được sáng tác dựa
trên tư duy nhận thức riêng của dân tộc về tự nhiên xã hội. Ngôn từ sử dụng để
chuyển tải nội dung của vè câu đố thì không cao siêu cầu kỳ mà mộc mạc gần
20


gũi với tất cả mọi người. Và cả hai đã có thời rất phổ biến thịnh hành trong sinh
hoạt văn hoá dân gian của đồng bào dân tộc Xinh Mun.
Tuy nhiên thật đáng tiếc: những vè và câu đố dân tộc Xinh Mun sưu tầm
được đều đã có tuổi từ cách đây hàng mấy chục năm. Hầu như không thấy vè và
câu đố mới được sáng tác. Đọc vè và giải trí bằng câu đố giờ không còn là nét
sinh hoạt văn hoá phổ biến như trước đây nữa. Quá trình sưu tầm tư liệu không
hề dễ dàng. Số người còn nhớ được vè và câu đố rất ít và đều từ tầm tuổi trung
niên trở lên. Hỏi đến những người trẻ thì hầu như không ai biết. Vì vậy nguy cơ
vè, câu đố của dân tộc Xinh Mun dần dần bị mai một theo thời gian rồi sau đấy
hoàn toàn bị biến mất hẳn là rất cao.
Có thể nói cho đến nay vè và câu đố đã đóng góp một phần giá trị cho nhu
cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần hàng ngày của đồng bào Xinh Mun. Về sau này
trong xu thế thay đổi ngày càng phát triển đi lên của kinh tế nhu cầu và cách
thức hưởng thụ văn hoá tinh thần của con người trong xã hội chắc chắn cũng đổi
thay theo. Ngày nay cùng với việc một số thói quen sinh hoạt văn hoá xưa cũ bị
vứt vỏ thay đổi theo nhu cầu thì những câu hát đố những câu vè cùng với sinh
hoạt hát vè hát đố không còn xuất hiện trong các hoạt động văn hoá tinh thần
thường ngày của đồng bào nữa. Nhưng thiết nghĩ việc sưu tầm và lưu trữ lại
thậm chí là thực hiện những công trình nghiên cứu sâu về hát đố bài vè một loại
hình sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian từng một thời là nguồn vốn sản phẩm

văn hoá gắn bó thân thiết với cuộc sống của đồng bào Xinh Mun để nó không bị
lãng quên bị mai một bị biến mất hoàn toàn cũng là điều đáng quan tâm và nên
làm.
2.2. Giá trị của văn nghệ dân gian đối với dân tộc Xinh Mun trong
kho tàng văn hóa Việt Nam.
2.2.1. Giá trị lịch sử
Văn nghệ dân gian là điểm hội tụ của nhiều thế hệ thuộc cộng đồng dân
tộc Xinh Mun. Thông qua các làn điệu dân ca, các điệu múa hay là các tín
ngưỡng dân gian, chúng ta thấy được quá trình phát triến của tộc người qua các
thời kỳ lịch sử. Qua đó, khơi dậy tình yêu quê hương, giáo dục tính nhân văn,
21


khơi dậy giá trị tiềm ấn của văn hóa làng bản và là điếm hội tụ có nhiều giá trị
lịch sử của làng và của tộc người.
Các câu ca dao hay các làn điệu múa được lưu truyền từ thế hệ nay sang
thế hệ khác, gắn liền với công lao to lớn của vị nhân thần đã có công lao xây
dựng quê hương, các vị tướng đã có công đánh giặc giữ làng và các vị thần phù
hộ để cho nghề nông, làm rẫy phát triển.Thông qua các nghi thức, các hình thức
diễn xướng, các trò chơi truyền thống, có thế thấy được lịch sử phát triến của
một làng quê từ xa xưa đến hiện đại, qua đó giáo dục truyền thống và tinh thần
cố kết cộng đồng bền chặt.
Đến với văn nghệ dân gian của dân tộc Xinh Mun, người xem không chỉ
được chứng kiến các nghi thức về một hệ thống lễ với những động tác thuần
thục, uy nghi mang tính nghệ thuật và biểu tượng cao, mà còn có dịp cảm nhận
được mối quan hệ hai chiều giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng; quá
khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau vừa thiêng liêng, vừa huyền ảo. Truyền
thống yêu làng, yêu nước được gìn giữ như một tài sản văn hóa cố kết cộng
đồng của đồng bào dân tộc Xinh Mun ở các tỉnh khu vực phía Bắc nước ta.
2.2.2. Giá trị văn hóa

Văn nghệ dân gian của dân tộc Xinh Mun là nơi giao lưu giữa các loại
hình văn hóa dân gian, từ các nghi lễ các làn điệu dân ca, các trò chơi dân gian,
nghệ thuật biểu diễn. Văn nghệ dân gian trở thành bức tranh mô tả tương đối
toàn diện đời sống văn hóa của dân tộc Xinh Mun các tỉnh vùng Tây Bắc, trở
thành một nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu được sau một năm
làm lụng vất vả trên nương rẫy.
Việc tổ chức các loại hình sinh hoạt dân gian là dịp để mọi người nghỉ
ngơi và đoàn tụ gia đình, gạt bỏ các điều ác để hướng tới cái thiện, làm tan đi
những nỗi ưu tư, phiền muộn, lo lắng trong cuộc sống hàng ngày để có sự thanh
thản. Đồng thời qua đó răn dạy, nhắc nhở con cháu nhớ ơn và tôn kính các vị
thánh hiền, tiền nhân có công khai phá, xây dựng, bảo vệ bản làng, quê hương.
Đối với đồng bào dân tộc Xinh Mun ở tỉnh Sơn La, do địa bàn cư trú cũng
như lịch sử quần cư, hiện nay dân tộc Xinh Mun không còn sống tập trung ở một
22


nơi, một khu vực cố định mà họ còn sống sang các tỉnh khác trong khu vực Tây
Bắc và họ sống xen kẽ cùng với các dân tộc anh em khác. Qua đó, họ vừa có cơ
hội giao lưu, đoàn kết, gắn bó hơn với các dân tộc khác, các tỉnh khác lân cận, từ
đó tạo sự giao lưu, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống
2.2.3. Giá trị cố kết cộng đồng
Đoàn kết là một truyền thống tốt đẹp của các dân tộc cần được phát huy
trong cuộc sống hôm nay. Chính vì vậy, Đảng ta luôn xác định: “ Vấn đề dân tộc
và đoàn kết dân tộc là vấn đề cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là nhiệm vụ cấp
bách của cách mạng Việt Nam” và yêu cầu phải “thực hiện tốt chính sách dân
tộc trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”,
đồng thời xác định thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân và cả hệ thống chính trị trong cả nước. Các địa phương, các tỉnh, ngoài việc
thực hiện chính sách đại đoàn kết các dân tộc còn triển khai tốt việc kết nghĩa
giữa các cơ quan, đơn vị với các địa bàn dân tộc thiểu số để giúp đồng bào phát

triển kinh tế- xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, củng cố quốc phòng.
Chúng ta khắc ghi lời Bác về tình đoàn kết giữa các dân tộc: “Đồng bào
Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xê Đăng hay Ba Na và các
dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Sông có thể cạn,
núi có thể mòn nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”.

23


×