MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................
MỞ ĐẦU.............................................................................................................
NỘI DUNG.......................................................................................................1
1.KHÁI QUÁT VỀ TỈNH GIA LAI VÀ TỘC NGƯỜI BANA........................1
1.1.Khái quát về tỉnh Gia Lai............................................................................1
1.1.1.Vị trí địa lý...............................................................................................1
1.1.2.Dân số .....................................................................................................1
1.1.3.Kinh tế-xã hội...........................................................................................1
1.2.Khái quát về tộc người Bana.......................................................................2
1.2.1.Dân số, nguồn gốc lịch sử, phân bố dân cư..............................................2
1.2.2.Đặc điểm về đời sống văn hóa của người Bana.......................................3
2.MỘT SỐ LOẠI HÌNH VĂN NGHỆ DÂN GIAN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI BANA..................................5
2.1.Một số loại hình văn nghệ dân gian............................................................5
2.1.1. Sử thi.......................................................................................................5
2.1.2.Thơ ca dân gian........................................................................................7
2.1.3.Dân ca. .....................................................................................................8
2.1.4.Múa dân gian..........................................................................................10
2.1.5.Nhạc cụ dân gian....................................................................................12
2.2. Lễ hội........................................................................................................13
2.2.1. Lễ hội đâm trâu.....................................................................................13
2.2.2. Lễ hội Sơmă Kơcham............................................................................15
2.2.3. Lễ tạ ơn mẹ............................................................................................16
2.3.Gía trị văn nghệ dân gian của người Bana đối với kho tàng văn hóa các
dân tộc Việt Nam.............................................................................................18
2.3.1. Gía trị lịch sử.........................................................................................18
2.3.2. Gía trị văn hóa, nghệ thuật....................................................................18
2.3.3. Gía trị nhân văn.....................................................................................19
2.3.4.Gía trị cố kết cộng đồng.........................................................................19
3.GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN NGHỆ
DÂN GIAN CỦA NGƯỜI BANA..................................................................20
3.1.Thực trạng việc bảo tồn những giá trị dân gian của người Bana tại Gia
Lai.
.........................................................................................................20
3.1.1. Ưu điểm.................................................................................................20
3.1.2. Nhược điểm...........................................................................................20
3.2.Giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của người Bana......21
3.2.1. Nâng cao công tác tổ chức quản lý........................................................21
3.2.2. Nâng cao ý thức người dân...................................................................22
3.2.3. Kết hợp giữa phát triển kinh tế và văn hóa...........................................22
3.2.4.Giáo dục và tuyên truyền.......................................................................22
KẾT LUẬN.....................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................25
PHỤ LỤC........................................................................................................26
MỞ ĐẦU
Mục đích là sinh viên chuyên ngành quản lý văn hóa, tôi luôn ý thức sự
cần thiết của kiến thức lý thuyết được học trên giảng đường Đại học Nội Vụ
Hà Nội và việc vận dụng kiến thức này vào thực tiễn. Trong quá trình học bộ
môn “Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” tôi được trang bị những kiến
thức chuyên sâu để hiểu rõ về từng vấn đề của các dân tộc thiểu số như: kinh
tế, trang phục, nhà cửa, ẩm thực, hôn nhân, ma chay, tín ngưỡng, văn nghệ
dân gian, lễ hội, thiết chế xã hội. Từ đó giúp tôi thấy được mỗi dân tộc mỗi
vùng miền lại có một nét văn hóa đặc trưng riêng, cho tôi hiểu được về đời
sống vật chất cũng như văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số và
đó cũng là vốn nền tảng kiến thức để tôi tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về giá
trị văn hóa dân gian của người Bana.
Việt Nam với 54 dân tộc anh em cùng chung sống, mỗi dân tộc, mỗi vùng
miền đều mang trong mình một nét bản sắc văn hóa riêng. Cũng như các dân
tộc khác, dân tộc Bana cũng có một kho tàng văn nghệ dân gian hết sức
phong phú, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam đa màu sắc. Dân tộc
Bana là một trong những tộc người sinh sống lâu đời ở Trường Sơn-Tây
Nguyên. Người Bana cư trú trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, phía
Tây Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa.
Trong bài tiểu luận này, tôi tập trung nghiên cứu về văn nghệ dân gian
của người Bana tại Gia Lai.
NỘI DUNG
1.
KHÁI QUÁT VỀ TỈNH GIA LAI VÀ TỘC NGƯỜI BANA.
1.1.
Khái quát về tỉnh Gia Lai.
1.1.1. Vị trí địa lý.
Gia Lai là một tỉnh vùng cao nằm ở phía Bắc Tây Nguyên trên độ cao trung
bình 700 đến 800 mét so với mực nước biển. Gia Lai có diện tích 15.495 km²,
trải dài từ 12˚58´ đến 14˚36´ vĩ bắc, từ 107˚27´ đến 108˚54´ kinh đông. Phía
Đông giáp với tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên; phía Tây giáp tỉnh
Ratanakiri của Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Bắc giáp Kon
Tum.
1.1.2. Dân số.
Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh Gia Lai đạt gần 1.322.000 người,
mật độ dân số đạt 85 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần
399.900 người chiếm 32% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt
922.100 người chiếm 68% dân số. Trong đó, người Việt (Kinh) chiếm 52%
dân số. Còn lại là các dân tộc Jrai (33,5%), Bana (13,7%), Giẻ-triêng, Xơđăng, Thái, Mường... Cư dân Gia Lai có thể chia làm hai bộ phận: Bộ phận cư
dân bản địa đã sinh sống ở Gia Lai từ lâu đời gồm dân tộc dân tộc Jrai và
Bana, bộ phân cư dân mới đến bao gồm người Việt và các dân tộc ít người
khác.
1.1.3. Kinh tế-xã hội.
Với số lượng dân cư chiếm ưu thế trong cộng đồng các dân tộc thiểu số,
ý thức về tộc người và vùng lãnh thổ tộc người khá rõ, lại sinh sống trên địa
bàn án ngữ các đầu mối giao thông huyết mạch nối bắc Tây Nguyên với các
tỉnh ven biển nam Trung Bộ nên người Bana ở Gia Lai chiếm giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh - quốc phòng. Đây là bộ
phận dân cư đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử hình thành và
phát triển của tỉnh.
Gia Lai có tiềm năng về thủy điện rất lớn với trữ năng lý thuyết khoảng 10,5
đến 11 tỷ kw, trữ năng kinh tế kĩ thuật là 7,1 tỷ kw với công suất lắp máy
1.502 MWh. Tổng thu ngân sách từ sau năm 1975 đến năm 1991 chỉ đạt 40 tỷ
đồng; năm 2001 đạt 256 tỷ đồng; đến năm 2010 đạt 3.200 tỷ đồng. Chất
lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt; GDP bình quân đầu
1
người năm 2011 đạt 19,5 triệu đồng; gấp 3,82 lần so với năm 2005; gấp 6,5
lần so với năm 2000.
Tiềm năng du lịch của Gia Lai rất phong phú; đa dạng với núi rừng cao có
nhiều cảnh quan tự nhiên và nhân tạo. Rừng nguyên sinh nơi đây có hệ thống
thực vật phong phú; nhiều ghềnh thác; suối; hồ như Biển Hồ là một thắng
cảnh nổi tiếng. Ngoài ra, Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời của đông bào
dân tộc, chủ yếu là dân tộc Giarai và Bana thể hiện qua kiến trúc nhà rông,
nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và nhạc cụ. Gia Lai còn
có các món đặc sản như rượu cần, cơm cháy, rượu nếp, phở khô và điêu khắc
nổi tiếng là Tượng nhà Mồ.
1.2.
Khái quát về tộc người Bana.
1.2.1. Dân số, nguồn gốc lịch sử, phân bố dân cư.
•
Dân số, phân bố dân cư:
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Bana ở Việt Nam có dân
số 227.716 người, cư trú tại 51 trên 63 tỉnh thành. Người Bana cư trú tập
trung tại các tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Bình
Thuận…. Tại tỉnh Gia Lai có 150.416 người; chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và
66,1% tổng dân số người Bana tại Việt Nam.
•
Nguồn gốc lịch sử:
Theo các nhà nhân chủng học thì người Bana có nguồn gốc thuộc chủng
Indonesia, tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ me. Vì sống rải rác trên
một địa bàn rộng lớn nên phong tục, tập quán của người Bana có thay đổi ít
nhiều theo phong thổ từng địa phương và sự giao lưu với xã hội bên ngoài.
Về tiếng nói, các nhánh người Bana cùng một thứ tiếng, tuy cũng có sự thay
đổi ít nhiều tùy theo địa phương. Về chữ viết, người Bana là dân tộc thiểu số
đầu tiên cư trú tại Tây Nguyên biết đọc, biết viết và biết làm tính. Năm 1861,
chữ Bana viết theo mẫu tự la tinh như chữ quốc ngữ được đặt ra và tồn tại,
phát triển cho đến ngày nay.
Người Bana có nước da ngăm đen, ngày xưa đàn ông để tóc dài tới cổ, ngày
nay thì tóc ngắn hơn. Người Bana có bản tính mộc mạc, chất phác, hiền lành
và hiếu khác, họ coi người Kinh là anh em nên đối đãi rất thân thiết. Tuy
nhiên, người Bana không muốn khách lạ đụng chạm đến phong tục, tập quán
kiêng cữ của họ. Muốn vào thăm một nhà nào thì phải được chủ nhân ưng
thuận; kỵ nhất là xông thẳng vào bếp núc (một số người Bana thờ thần ở bếp).
2
1.2.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa của người Bana.
•
Văn hóa vật chất
_Về nhà ở của người Bana thuộc loại hình nhà sàn. Cho đến nay nhà của
người Bana có rất nhiều thay đổi, hầu như không còn nhà sàn dải. Nhà sàn
ngắn của các gia đình nhỏ là hiện tượng phổ biến. Mặc dù có nhiều thay đổi
như vậy nhưng vẫn tìm được ở những địa phương khác nhau những ngôi nhà
cổ truyền Bana, nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai
mái phụ hình khum, dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có “sừng”
trang trí, với các kiểu khác nhau tùy từng địa phương. Nhà tre vách nhưng có
thêm lớp đố, ngoài được buộc rất cầu kỳ có giá trị như là một thứ trang trí. Bộ
khung nhà kết cấu đơn giản. Đã là vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của vì cột. Tổ
chức mặt bằng cũng đơn giản là 1 hiện tượng rất phổ biến hiện nay. Nhà sàn
thường dài từ 7m đến 15m, rộng từ 3m-4m, cao từ 4m-5m, sàn cách mặt đất
khoảng 1m đến 1,5m.[A1]
_Về trang phục:
Trang phục nam: nam giới Bana mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại áo cộc
tay, thân áo có đường trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam
mang khố hình chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che
một phần mông. Ngày rét, họ mang theo tấm choàng. Ngày trước nam giới
búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thường chít theo
kiểu đầu rìu. Trong dịp lễ bỏ mả, họ thường búi tóc sau gáy và cắm một lông
chim công. Nam cũng thường mang vòng tay bằng đồng.[A2]
Trang phục nữ: Phụ nữ Bana ưa để tóc ngang vai, có khi búi và cài lược
hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ
quấn bằng chiếc dây vải hay vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê, Mang
Giang hoặc một số nơi khác họ chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn
trên đầu. Trước đây, họ đội nón hình vuông hoặc tròn trên có thoa sáp ong để
khỏi ngấm nước, đôi khi có áo tơi vừa mặc vừa che đầu. Họ thường đeo chuỗi
hạt cườm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo
kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo ở hai, ba
ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa
tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà
răng mang theo quan niệm của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Bana mặc
áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn thân và váy. Áo có thể cộc tay hay dài tay.
Váy là loại váy hở, thường là ngắn hơn váy của người Ê Đê, ngày nay thì dài
3
như nhau. Quanh bụng còn đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào đó.
[A3]
_Về ăn uống, người Bana cũng như các tộc người khác thích ăn bốc,
không dùng đũa. Thường một ngày họ ăn hai bữa cơm: buổi sáng, trước lúc đi
rẫy hoặc xuống phố chợ; bữa tối ăn vào lúc tối mịt trước khi đi ngủ. Họ
thường nấu cơm buổi sáng, để dành ăn cả ngày. Cơm hay thức ăn nấu trong
những cái nồi đất miệng loe ra, không có nắp đậy, không có quai; thường đậy
nồi bằng lá chuối. Ngày nay, họ thường dùng nồi đồng hay xoong nhôm mua
của người Kinh để nấu ăn. Rượu là thức uống rất được ưa thích, phổ biến nhất
là rượu cần, rượu cần được ủ bằng cơm gạo nếp hay tẻ, bằng bắp, củ mì, bo
bo.
Nam nữ Bana đều hút thuốc lá. Thuốc được trồng tại chỗ. Sau khi thu
hoạch có thể thái thành sợi nhỏ và dùng tẩu để hút hoặc để nguyên lá khô
cuốn thành điếu để hút. Tẩu thuốc được làm từ thân tre, nứa hoặc bằng gỗ và
được tạo dáng đẹp.
•
Văn hóa tinh thần
Dân tộc Ba Na có nền âm nhạc rất phong phú. Nhạc cụ của Ba Na cũng
rất đa dạng gồm cả bộ dây, bộ hơi và bộ gõ. Múa dân gian Ba Na trong đó có
múa phục vụ nghi lễ và biểu diễn ở hội hè được nhiều người ưa chuộng.
Trường ca, Truyện cổ của dân tộc Ba Na cũng là những tác phẩm dân gian cổ
truyền độc đáo, có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Người
Ba Na có nhiều lễ hội như; Lễ tạ ơn cha mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn
thần lúa. Những lễ hội không chỉ là dịp để đồng bào tạ ơn trời đất cho vụ mùa
bội thu mà còn là dịp vui chơi,đánh cồng chiêng, uống rượu cần...và cũng là
dịp để người Ba Na thể hiện tài năng chế biến những món ăn vô cùng độc
đáo.
•
Văn hóa xã hội
Đối với người Bana, làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh. Chế độ mẫu hệ
tuy tan rã, địa vị nam giới có nâng cao, nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Tàn
dư mẫu hệ thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, gia tộc và trong hôn nhân. Sau
hôn nhân vẫn còn tập quán ở nhà vợ, hoặc ở luân phiên, mỗi bên một thời
gian. Chỉ sau khi có con đầu lòng mới dựng nhà riêng.
4
2.
MỘT SỐ LOẠI HÌNH VĂN NGHỆ DÂN GIAN VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI BANA.
2.1.
Một số loại hình văn nghệ dân gian.
2.1.1. Sử thi.
Ra đời và tồn tại như một mắt xích quan trọng trong cuộc sống, Hơmon-sử thi
của người Bana gắn liền với tên tuổi những anh hùng thần thoại, những anh
hùng của buôn làng Tây Nguyên nói chung, người Bana nói riêng, từng được
bao thế hệ ngưỡng vọng như Diông, Dư, Dăm Noi… Mang trong mình những
giá trị lịch sử, giá trị văn hóa về một giai đoạn lịch sử nhất định, Hơmon là
một phần bản sắc của dân tộc Bana, phản ánh lịch sử, xã hội cũng như tâm tư,
nguyện vọng của cộng đồng, đẹp như một khúc tráng ca.
Vừa mới đây thôi, loại hình diễn xướng bằng hình thức hát kể có sức sống
vượt thời gian ấy đã được Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch đưa vào danh
mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Cầm trong tay cuốn sử thi Giông
Trong Yuăn, tôi lại bị những lời hát đầy chất thơ mê hoặc:
“Ê…
Một cái làng đông vui
Hơn ba trăm nóc nhà to cao, rộng dài
Nhà nào cũng có buồng ngủ ấm áp bên trong
Nhà rông hơn ba trăm sải sừng sững
Đụng trời xanh mái cao ngất ngưởng
Rì rầm sông trôi dưới gầm sàn
Nước bạc, nước vàng
Mặt trời lấp loáng…”
Đây là câu truyện được hát kể theo trật tự tuyến tính, toàn bộ nội
dung được xoay quanh việc tranh chấp giữa các làng Bana xưa với nhau, qua
đó phản ánh cuộc sống và ước mơ chinh phục tự nhiên của con người và phản
ánh những cuộc chiến tranh của những người anh hùng. Mà cụ thể ở đây là
một bên do Giông Trong Yuăn-một người tài giỏi, oai phong là đại diện với
phe còn lại là Giông Ayôr Pôr Kuan; để rồi bên thua trận phải chấp nhận bồi
thường nhiều của cải để được sự tự do. Chuyện kết thúc với bữa rượu lớn kéo
5
dài trong sự hoan hỉ của tất cả mọi người; và khi mà hận thù đã hết, các làng
lại trở nên thân thiện, gần gũi.
Nội dung cơ bản xuyên suốt trong mỗi tác phẩm sử thi bao gồm 3
nhiệm vụ của người anh hùng là lấy vợ, lao động và đánh giặc, trong đó đánh
giặc là nhiệm vụ trung tâm. Giông Trong Yuăn cũng vậy. Lấy vợ là việc làm
của hầu hết các anh hùng trong sử thi của các dân tộc đều phải trải qua; nhưng
đó không phải là những cuộc hôn nhân bình thường mà là các cuộc hôn nhân
của xã hội sau thời đại anh hùng. Nếu trong Diông Trong Yuăn là cướp phụ
nữ về làm vợ, trong Diông Dư là giành lại vợ của mình bị cướp thì hành động
cứu phụ nữ bị cướp rồi lấy làm vợ lại được đặc tả trong Hơmon Đăm Noi,
Kon Kra-Kon Krung. Sự hình thành và thực hành Hơmon trải qua một quá
trình lâu dài, mà trong đó công đầu tiên và lớn nhất phải kể đến hoạt động
sáng tạo của các nghệ nhân hát-kể Hơmon. Họ là người am hiểu sâu sắc về
cộng đồng, văn hóa của dân tộc mình và có trí nhớ tuyệt vời để hát kể những
câu chuyện sử thi kéo dài nhiều đêm. Trong quá trình hát kể sử thi, họ đã vận
dụng và sáng tạo nên những câu chuyện về người anh hùng, về văn hóa, đời
sống xã hội của cộng đồng, dân tộc. Hơmon thường được chia thành nhiều
đoạn, mỗi khúc đoạn mô tả về một sự kiện, thậm chí một nhân vật, một hiện
tượng văn hóa.
Hơmon thường được hát-kể vào đêm không trăng. Nghệ nhân hát-kể
nằm trên đầu hồi nhà rông phía Tây và chìm trong bóng tối, chỉ có giọng hátkể vang lên trên nền đêm đen. Người nghe ngồi thành từng nhóm quanh
những đống lửa chăm chú lắng nghe diễn biến của sử thi từ sự kiện này sang
sự kiện khác, khiến cho mọi người hòa nhập với mạch kể của sử thi. Số lượng
đông đảo người nghe tạo thêm niềm hưng phấn cho tâm lý và giọng điệu, diễn
tấu của người kể, khiến cho câu chuyện về người anh hùng càng thêm hấp
dẫn, lôi cuốn. Trong không gian im ắng ấy, tiếng nghệ nhân ngân nga vang
lên, như vọng lại từ một không gian xa xôi thần bí. Cả người kể lẫn người
nghe đều bị nghệ thuật và không gian diễn xướng mê hoặc, dẫn dắt theo, như
sống trong diễn biến của câu chuyện. Đây cũng chính là điều làm nên sức
sống và sự truyền cảm của nghệ thuật diễn xướng hát kể của Hơmon tồn tại
qua bao thế hệ người Bana.[A4]
Di sản Hơmon của người Bana ở tỉnh Gia Lai là vô giá về mặt vật chất
cũng như tinh thần. Ở tỉnh Gia Lai, sử thi được phát hiện và công bố đầu tiên
vào năm 1982, là sử thi Đăm Noi của dân tộc Bana do nhóm tác giả Đinh Văn
Mơ, Tô Ngọc Thanh, Phạm Thị Hà sưu tầm và biên dịch. Đến nay, Gia Lai đã
6
công bố gần 20 sử thi. Những tác phẩm này không những có giá trị thuộc
phạm trù văn học dân gian, mở ra nhiều vấn đề nghiên cứu mới về lịch trình
phát triển xã hội, đất nước, con người của cư dân nơi đây, mà còn đóng góp
rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
2.1.2. Thơ ca dân gian.
Thơ ca dân gian của người Bana chủ yếu là tự sáng tác, khi có cảm
hứng hay bằng trái tim rung động và truyền miệng cho nhau. Những lời ca
mộc mạc có vần điệu rõ ràng, mang nội dung cụ thể ngắn gọn, dễ hiểu, dễ
thuộc. Từ bao đời nay thơ ca vốn là tiếng nói gần gũi của mỗi con người
Bana. Trong cuộc sống hằng ngày, tring các lễ hội đồng bào ở đây có thể thiếu
áo, váy đẹp, cơm thịt thơm ngon nhưng không thể thiếu được lời ca tiếng hát.
Từ những đứa bé mới chào đời, người mẹ Bana đã có bài Pơ nhông con, Ưm
Kom… để ru ngủ, cho đến tiễn người già ra đi cũng có bài: Hmon tiễn biệt.
Thơ của người Bana cũng có vần điệu, thường là thơ bốn chữ và sáu
chữ. Trong thực tế cuộc sống thơ của người Bana vùng này ít “sống” một
mình như thơ của anh em người Kinh. Thơ ra đời là chất liệu để cấu thành lời
ca (trước đây người Bana không có nhạc lý). chuyển tải ngay những nội dung
mà lời thơ muốn nói. Qua thực tế chúng tôi thấy những nghệ nhân, ở đây vừa
là người sáng tác thơ, vừa là người trình diễn nội dung đó qua làn điệu dân ca.
Bài hát mà mình sáng tác được mới đầu chỉ hát một mình, sau dần dần mới
truyền miệng để mọi người cùng hát.
Thơ dân gian của người Bana mang nhiều nội dung phong phú, đa
dạng, đi sâu vào nhiều lĩnh vực nhằm ca ngợi cái đẹp trong lao động sản xuất,
trong tình yêu nam nữ, tình yêu quê hương đất nước, thiên nhiên hùng vĩ.
Trên rừng có nhiều loài hoa đẹp là nỗi niềm cảm hứng của những nghệ nhân
làm thơ, ca. Hoa tượng trung cho cái đẹp, là niềm kiêu hãnh, là ước nguyện
của bao con người muốn vươn tới cái đẹp. Đồng bào người Bana phần lớn
sống trên các vùng rừng núi cao, gắn liền với rừng cây, chim thú, sông suối và
hoa thơm, quả ngọt. Mỗi con người ở đây họ rất yêu hoa như một thứ của quý
mà ông Yàng (Trời) đã ban cho họ. Ở nhà mọi người nhìn hoa qua cánh cửa,
lên rừng nhìn hoa qua các cành cây, sông suối, nhìn hoa lung linh qua ánh
nước…hoa mọc xung quanh con người…cho nên đời hoa và đời người đã đi
vào thơ ca của người Bana là thường tình, cụ thể và cũng rất mộc mạc.
“Cheng reh, oh liêm dang pơ kao chen reh
7
Wưeng long, oh liêm dang pơ kao veng long
Ơ drong đum, oh liêm dang pơ kao drong đum
Jur hum, oh liêm dang xem jong jur hum…”
Tạm dịch:
“Cheng reh, em đẹp như hoa Cheng reh
Trên cao, em đẹp như hoa trên cành cây cao.
A dong, em đẹp như hoa A dong đỏ giữa rừng.
Em đẹp như con chim xem jong xuống tắm sông trong…”
2.1.3. Dân ca.
Những làn điệu dân ca Bana còn lại ngày nay đều ở dạng truyền miệng
qua trí nhớ của người già nên đã bị mất mát khá nhiều. Khối lượng dân ca
Bana đã sưu tầm và bảo tồn cho đến nay khá phong phú và đặc sắc. Dân ca
Bana ngoài giá trị văn học, âm nhạc, còn có giá trị về lịch sử xã hội và dân
tộc. Hiểu dân ca Bana là phải hiểu từ cái gốc, xuất xứ và đặc điểm riêng.
“Tôi muốn xem hoa rung reng đẹp
tôi muốn xem hoa còn ở trên cây
nhưng còn sợ trên cây có kiến
còn sợ con ong chưa bay đi.”
Hay:
“Lấy mật đừng đốt con ong
Ăn quả đừng chặt mất gốc.”
Chỉ có họ, người Bana mới có cảnh như vậy, ý nghĩ như vậy. Ngay cả quan
niệm về cuộc sống vũ trụ và thần linh cũng thế. Đi đâu họ cũng thấy núi, ở
đâu họ cũng gặp rừng. Thần linh và cả con ma đều ở xung quanh họ, vừa xa
vời lại vừa gần gũi. Cái thế giới bên kia và thế giới bên này là một. Họ có mê
tín nhưng không ngu tín, cuộc sống buộc họ phải luôn tỉnh táo đề phòng.
Chính từ đặc điểm này đã sản sinh ra một nền dân ca Bana đặc sắc.[A5]
8
Có thể tạm chia dân ca Bana làm 3 thể loại: Khan hơ mon, hát ru và
bài cúng tế trong các lễ hội. Hát ru của người Bana có những nét riêng, trước
hết là kiểu cách ru của họ. Đồng bào Bana không có nôi, không có võng, thậm
chí giường nằm cũng không vì phải sống và lao động ở môi trường luôn có
thú dữ rình rập nên đứa con phải ở luôn bên mình. Nhỏ thì cõng trên lưng, lớn
thì dắt theo bên cạnh, đàn ông mang rựa ná đi trước, đàn bà mang gùi theo
sau. Người mẹ vừa trẩy bắp, gặt lúa vừa ru; vừa giã gạo, lấy nước vừa ru. Họ
ru không chỉ bằng lời mà bằng cả hơi ấm và sự chuyển động của thân thể theo
những tiết tấu nhịp điệu của lời ru, vừa êm ái lại vừa nhẹ nhàng. Lời ru bay ra
từ miệng quyện lẫn vào gió, vào nắng, vào hương hoa rót vào lòng đứa trẻ âm
thanh huyền diệu của bao la đất trời:
“Ngủ đi con ơi đừng khóc
Lớn mau chân tay như cây chò, cây trắc
Ngủ đi con đừng khóc
Cây lớn lên từ đất
Có gốc rồi mới có ngọn
Ngủ đi con ơi đừng khóc.”
Hát ru của người Bana không chỉ ở người mẹ mà ở cả người bà, người chị.
Trẻ con là tài sản của làng, ai cũng phải có trách nhiệm nâng niu, bảo vệ.
Bài cúng trong các lễ hội được xếp vào dân ca bởi nó cũng có chất văn
học và âm nhạc. Dân tộc nào cũng có nhiều lễ hội và có những bài cúng riêng
cho từng lễ hội. Người Bana trong lao động sản xuất có những bài cúng các
giai đoạn làm rẫy, từ chọn đất đến hội mừng ăn cơm mới có năm, sáu lễ cúng.
Từ con người mới sinh ra đến khi nằm dưới đất, cũng lắm thứ lễ cúng. Và các
lễ hội có lẽ bài cúng đâm trâu là lớn hơn cả, có bài cúng các vị thần linh, kể cả
bài cúng tiễn biệt con trâu cũng khá độc đáo. Trong khi các già làng xướng lời
cúng thì dàn cồng chiêng vẫn diễn tấu, làm cho buổi lễ hội thêm long trọng và
thiêng liêng, đi sâu vào tiềm thức trong mỗi người.
Trong môi trường văn học dân gian, Khan hơ mon là một tác phẩm
văn học tổng hợp, nó thu hút hầu hết các giá trị văn hóa vốn có của dân tộc:
thơ ca, thần thoại, truyền thuyết, âm nhạc, diễn xướng, để thành một tác phẩm
tự sự bằng văn vần hay những làn điệu dài hơi lấy các nhân vật anh hùng làm
trung tâm để biểu đạt tư tưởng, ý nguyện, quan niệm sống của cộng đồng. Sử
thi ra đời sau thần thoại vào buổi bình minh của loài người, thời kỳ có giai
9
cấp và tổ chức xã hội. Khan hơ mon là một sinh hoạt văn hóa độc đáo được kể
qua những ngữ điệu trầm bổng lôi cuốn của những nghệ nhân Bana. Không
gian trong sử thi Bana rất rộng, không chỉ có núi cao, rừng rậm mà còn có cõi
trời bao la, cõi âm huyền bí, có sông, có biển, lại còn có cả những làng dưới
đáy biển.
“…Mỗi bước đi váy hé da đùi lóe sáng
làm da trời bớt xanh biển bớt sáng…”
(Nàng Bia Bông trong sử thi Dyông wi win)
Dân ca Ba na có tính chất thiết tha, nồng nàn nhưng không bước đến tột cùng
của tình cảm do dùng nhiều quãng 4 ( Si-Mi hay Mi-Si). Giai điệu Ba na có
tính bình ổn, ít có đột biến, thường là những khúc nhạc ngắn, nhịp điệu đơn
giản.. Dân ca Ba na cũng đem cảm giác lắng dịu, êm đềm. Thang âm dân ca
Ba na Rơ ngao còn được gọi tên là đon, đen, ton, ten theo âm thanh phát ra
của bộ chiêng.
2.1.4. Múa dân gian.
Trong tiếng Bana, múa được biểu cảm bằng động từ Xoang. Xoang là
múa tổng hợp, múa nói chung, múa theo vũ điệu có sẵn, vũ điệu ăn sâu vào
tâm trí và tình cảm của mỗi người dân. Bên cạnh Xoang, đôi khi người dân
cũng dung từ Yun để chỉ các điệu múa, tuy nhiên yun chỉ là động tác nhú nhảy
đơn giản, nhiều khi ngẫu hứng, không theo bài bản, yun trong tiếng Ba na có
nghĩa là dập dềnh nhún nhảy.
Có rất nhiều điệu múa khác nhau, được trình diễn trong những dịp
khác nhau. Mỗi điệu múa lại được diễn tấu cùng với những nhạc cụ riêng,
trong đó cồng chiêng bao giờ cũng là nhạc cụ bắt buộc. Các điệu múa phổ
biến thường là múa bỏ mả (xoang p rự p sát a tâu), múa mừng lúa mới (xoang
sa k pô et b nao), múa cúng máng nước, mừng chiến thắng, múa trong tang lễ
người chết… Trong từng điệu múa trên lại có những điệu mua hợp phần như
múa trống, múa chia tay người chết, múa tạ ơn thần lúa…[A6]
Múa Bana mang một số đặc trưng đáng lưu ý. Thứ nhất, dù thể hiện
tình cảm khác nhau, có điệu múa sôi nổi, mạnh mẽ như múa trống, có điệu
múa vui vẻ, rạng rỡ như múa mừng lúa mới, có điệu múa lại êm đèm như
soang pơ sat a tâu, nhưng nhìn trên tổng thể, múa Bana có cử động chủ yếu là
thân thể (đàu, lưng, eo, hông) nhún nhảy êm dịu nhẹ nhang, cử động của chân
tay chỉ là phối hợp. Thứ hai, đội hình múa bao giò cung xếp theo hình tròn
10
hoặc hình vòng cung. Thứ ba, chiều vân dông của đội múa thường là chiều
ngược kim đông hồ từ đông sang tây, đặc biệt trong múa đám tang và múa bỏ
mả.
Thứ tư là múa sinh hoạt mang tính nghi lễ, tính tôn giáo trước khi đóng vai trò
giải trí, nói cách khác người ta chỉ có hội lễ cộng đồng.
Thứ năm, nhìn chung các điệu múa dù được diễn xướng trong các dịp
khác nhau, mang tên gọi khác nhau nhưng đều trực tiếp hay gián tiếp diễn tả
và tái hiện lại các sinh hoạt sản xuất và xã hội truyền thống đã và đang diễn ra
ở vùng rừng núi của người Bana.
Chẳng hạn múa ăn trâu tái hiện những động tác săn bắn, múa mừng lúa
vào kho tái hiện thao tác làm nương rẫy. Ở cấp độ cao hơn có thể khẳng định
múa Bana nhìn chung là nghệ thuật, là nhịp điệu của những người săn bắn,
hái lượm và gieo trồng.
Trong múa Xoang truyền thống của người BaNa không thể thiếu
những chiếc trống Chơ gút. Mặt trống được làm bằng da dê hoặc da bò. Trống
không đánh bằng dùi, mà vỗ bằng tay, do một người mang trống trước ngực
dẫn đầu (chỉ huy) dàn cồng chiêng, âm thanh của nó rộn rã, đầm ấm. Đánh
trống Chơ gút là cả một nghệ thuật vì trống chỉ huy cả đội hình cồng chiêng,
các cô gái nhẹ nhàng múa Xoang theo tiếng gọi rộn rã của trống và những
bước di chuyển nhịp nhàng cùng nụ cười giao cảm.
Trong tiếng cồng chiêng sống động, những điệu múa Xoang nhịp
nhàng, uyển chuyển của các chàng trai, cô gái đã cuốn hút mọi người cùng
vào vòng Xoang. Đội hình múa Xoang của người BaNa thường đi theo vòng
tròn ngược chiều kim đồng hồ, quay tròn theo cây nêu ngoài sân hoặc khu vực
trước nhà Rông. Đội hình Xoang tiến hành trong khi đang thực hiện những
nghi lễ của lễ hội thì gọi là Xoang nghi thức - những vũ điệu có nội dung nhất
định đối với từng loại lễ hội. Và bên cạnh đội hình Xoang nghi thức là Xoang
tự do, với sự tham gia tùy hứng của các thành viên khác trong cộng đồng.
Đối với người Bana, tùy theo những lễ hội có tính chất khác nhau, vũ
điệu Xoang có những biến đổi về đội hình, nhịp điệu, tiết tấu… cho phù hợp.
Xoang Samơk là vũ điệu trong lễ Samơk (lễ ăn lúa mới) vào dịp những vạt
lúa trên nương bắt đầu chín tới, lễ Samơk với những điệu Xoang Samơk sôi
nổi, đầy hứng khởi làm rộn rã buôn làng suốt 3 ngày liền. Khi kết thúc lễ
Samơk, người ta tiến hành điệu Xoang vòng tròn kéo dài thâu đêm suốt sáng
ngay trong nhà Rông hoặc dưới sân trước cửa nhà Rông để tất cả thành viên
11
cùng tham gia Xoang. Khi tiến hành lễ Bơ-thi (lễ bỏ mả), vũ điệu Xoang A
tâu chậm rãi, u buồn. Khi tiến hành lễ đâm trâu, Xoang Khiêl và Long Đeh là
vũ điệu dành cho các chiến binh thể hiện sức mạnh cộng đồng. Vũ điệu
Xoang Tơnơl hay Tap Sơgơr lại chỉ thực hiện khi nào cộng đồng Pơlêi làm lễ
cúng sân mới trên mảnh đất cư trú mơi…
2.1.5. Nhạc cụ dân gian.
Do sống gần gũi với núi rừng, nên hầu hết những nhạc cụ của người
Bana đều được làm từ các vật liệu có sắn trong tự nhiên như: đá, gỗ, tre, nứa,
lá, vỏ quả bầu khô...Những nhạc cụ này, tuy chế tác còn thô sơ, nhưng lại rất
độc đáo về hình thức và âm thanh thể hiện. Vì thế mà âm nhạc dân gian của
người Bana độc đáo, mang bản sắc riêng của dân tộc.
Cách đây hàng trăm năm, người Bana đã làm ra những nhạc cụ thể hiện
sự giao hòa, chinh phục của con người đối với thiên nhiên hùng vĩ. Đến nay,
đồng bào vẫn tạo tác và giữ gìn được nhiều nhạc cụ cổ truyền đặc sắc, chủng
loại đa dạng và gắn với nhiều cách thức biểu diễn như gõ, thổi, búng, gảy,
kéo, vỗ... Các loại nhạc cụ của người Bana gồm cả bộ dây, bộ hơi và bộ gõ.
Trong các loại nhạc cụ của người Bana, tiêu biểu nhất phải kể đến là bộ gõ: “
Chinh Goong” (cồng chiêng) và trống.
Cồng chiêng là nhạc cụ được làm bằng đồng thau, hình tròn có đường
kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm. Một dàn cồng chiêng của người Bana
thường có 3 chiếc cồng lớn hơn, ở giữa có núm và khoảng 10 chiếc chiêng rẹt
nhỏ hơn. Khi diễn tấu, người Bana dùng dùi gỗ quấn vải mềm để đánh. Cồng
càng to thì tiếng càng trầm, còn những chiêng càng nhỏ thì tiếng càng cao.
Mỗi bài cồng chiêng gồm nhiều bè, mỗi cá nhân sử dụng một cái cồng hoặc
chiêng.Trong các dịp lễ hội, âm vang tiếng cồng chiêng luôn rộn ràng, nhịp
nhàng và tinh tế. Âm nhạc cồng chiêng của người Bana đã góp phần làm
phong phú không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên,là một trong nhưng
thành tố để Uỷ ban văn hoá khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc công
nhận là di sản văn hóa thế giới.
Trong đời sống âm nhạc của mình, người Bana còn sử dụng và sáng
tạo nhiều loại đàn độc đáo như: đàn t’rưng, các loại đàn dây như: Ting Ning,
K'ni hay các loại đàn thổi ống như: K'long Put, Đing Jơng, Đing Hor...
Những loại nhạc cụ truyền thống này vẫn được lưu truyền đến ngày nay.
Trong cuộc sống của người Bana, đàn t’'rưng là loại nhạc cụ gõ phổ
biến. Đàn t'rưng làm bằng các ống tre, lồ ô hay nứa, có kích cỡ khác nhau,
12
được kết nối bằng dây mây với cách xếp ống to và dài ở phía trên, rồi đi dần
xuống là những ống ngắn và nhỏ hơn. Mỗi đầu ống đều bịt kín do còn đầu kia
được gọt vát một phần ống để tạo âm theo chuỗi âm thanh. Khi dùng dùi gõ
vào các ống sẽ tạo thành âm thanh cao thấp khác nhau. Âm sắc của đàn t'rưng
hơi đục, tiếng không vang to, vang xa, nhưng khá đặc biệt. Nghe tiếng đàn
t'rưng có cảm giác như tiếng suối róc rách, tiếng thác đổ, tiếng xào xạc của
rừng tre nứa khi gió thổi.
Trong các loại nhạc cụ của người Bana, đàn Tinh Ninh ( hay còn gọi
là đàn goong) được coi là cây đàn độc đáo nhất. Đàn goong là một đoạn ống
tre lồ ồ, hai đầu ống đều có mấu kín. Phía chân đàn có mắc một đầu dây, phần
đầu dây còn lại quấn vào những trục lên dây bằng gỗ, cắm xuyên qua ống ở
phía đầu đàn. Mỗi cây đàn goong thường có 10 đến 18 dây.Trước đây, người
Bana dùng dây tơ se vuốt sáp ong để làm dây đàn goong. Để tạo thêm độ
vang cho cây đàn, một số nghệ nhân đã nghĩ ra cách gắn thêm nửa quả bầu
khô rỗng ruột ở dưới. Tiếng đàn Goong thánh thót, nhưng không rộn rã như
đàn T’rưng, mà như thủ thỉ, tâm tình. Các chàng trai Bana thường chỉ đánh
đàn goong vào ban đêm, khi con trai con gái hẹn hò.
Trong quá trình lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, từ xa xưa, người
Bana còn sáng tạo nhiều loại nhạc cụ độc đáo khác như đàn:Pơ-Chet” ( còn
gọi đàn suối), đàn“ Reng reo”(đàn gió). Đây là hệ thống đàn làm từ tre, nứa,
lợi dụng sức nước, sức gió để tạo ra âm thanh. Ngoài ra, người Bana còn chơi
các loại nhạc cụ hơi như: Đing But (K'long Put ), Đing Jơng, Đing Hor (đàn
thổi ống),Hool( sáo ).
Đến với các buôn của người Bana vào lễ hội xuân, trong không gian rộng lớn
của núi rừng, bạn sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những nhạc cụ độc đáo của
người Bana. Âm nhạc dân gian của người Bana , không khí của những lễ hội
không chỉ thể hiện bản sắc dân tộc, mà còn cho thấy tâm hồn trẻ trung, tình
yêu nhiệt thành của người Bana đối với âm nhạc, đối với cuộc đời.
2.2. Lễ hội.
2.2.1. Lễ hội đâm trâu.
Lễ hội đâm trâu được người Bana gọi là x’trǎng, là một lễ hội tế thần
linh, ăn mừng chiến thắng, mừng mùa màng bội thu, mừng lễ hội mùa xuân
hay mừng các sự kiện trọng đại trong năm. Tuỳ theo hoàn cảnh ở từng địa
phương mà bà con tổ chức lễ đâm trâu.
13
Lễ đâm trâu thường được tổ chức vào khoảng thời gian từ tháng Chạp
cho đến tháng 3 âm lịch. Đó là là khi mùa màng thu hoạch xong, thóc đã được
đưa vào bồ, các gia đình được nghỉ ngơi. Người Bana tổ chức lễ đâm trâu là
để tạ ơn thần linh, đón mừng năm mới, cầu mong sức khỏe cho mọi người và
cầu chúc cho một năm mới mùa màng tươi tốt.
Lễ đâm trâu thường diễn ra trong 3 ngày đêm. Để chuẩn bị cho lễ
đâm trâu, người Bana phải chuẩn bị hàng tháng trời. Những người đàn ông
khoẻ mạnh trong buôn được cử vào rừng chọn những cây gỗ Pơlang thẳng,
đẹp nhất để làm cột Gưn, chọn những cây mây vàng bóng để bện thành sợi
dây vững chãi buộc trâu trong ngày lễ. Thường thì lễ đâm trâu tế Giàng (Thần
linh) được tổ chức vào sáng sớm, lúc mặt trời vừa lên. Dân làng chọn một con
trâu khỏe mạnh làm vật hiến sinh, con trâu này được coi như vị sứ giả chuyển
lời cầu khấn, ý nguyện của bà con tới các vị thần. Vào ngày lễ, trâu được đưa
đi tắm rửa sạch sẽ và cho ăn uống no nê rồi đem buộc bằng dây mây vào cột
Gưn mà người Ba Na gọi cây cột này là gưng sakapô. Đây là một cây cột gỗ
cao trên 5 mét, được trang trí hoa văn, hoa rừng và cờ rất đẹp. Trên đỉnh cột
thường đặt một biểu trưng hình chim Phượng hoàng bằng gỗ. Khi con trâu
được cột vào Gưng, làng cử đại diện gồm: già làng, thanh niên nam, nữ, trẻ
nhỏ dắt trâu đi vòng quanh cột vừa đi vừa nói những điều tốt đẹp. Đây cũng là
lúc bà con trong buôn tập trung lại và những nghi thức của buổi lễ bắt đầu.
[A7]
Chủ lễ là già làng, người có uy tín nhất cộng đồng đọc lời khấn trời
đất, cầu chúc mưa thuận gió hòa, dân làng khỏe mạnh, hoa trái mùa màng tốt
tươi… Khấn Giàng xong, con trai, con gái nhảy múa vòng tròn theo nhịp
cồng chiêng rộn rã, âm vang khắp núi rừng. Một người lớn tuổi được cử ra để
mời bà con và khách uống rượu cần thể hiện lòng hiếu khách. Tâm điểm của
lễ hội là các chàng trai trong buôn biểu diễn các màn võ truyền thống quanh
cột Gưn buộc trâu, trong khi các cô gái nối thành vòng xoang nhảy múa theo
nhịp cồng chiêng. Sau một đêm nhảy múa, ca hát, buôn cử 5 người đại diện
gồm 3 thày cúng và 2 già làng làm lễ hiến sinh đọc thần chú, xin dâng cúng
trâu cho thần linh và cầu nguyện những điều tốt đẹp còn mọi người ngồi nói
chuyện, uống rượu cần.
Suốt đêm hôm ấy bà con dân làng thức với con trâu, khóc thương
con trâu, bày tỏ tình cảm của mình với con trâu bằng bài hát “Khóc trâu”. Bài
hát với lời : lâu nay trâu sống cùng với con người, giúp đỡ người trong công
việc đồng áng nặng nhọc, nhưng vì làng có việc trọng đại, cần đến trâu để tạ
14
ơn Giàng, mong trâu vui vẻ thực hiện nhiệm vụ của mình. Sau buổi lễ, thịt
trâu được chia đều cho tất cả mọi người, từ già đến trẻ nhỏ trong buôn và cả
khách mời, ai cũng có phần đem về nhà, mang may mắn cho mọi người. Già
làng Bok Ny dân tộc Bana ở tỉnh Kon tum, cho biết: “Lễ hội để cầu mong
mưa thuận gió hoà. Sau khi lễ hội xong cũng là là kêu gọi bà con phát huy
tính tự lực tự cường, cùng nhau làm ăn cần cù để cuộc sống buôn làn ngày
càng phát triển đi lên”.
Lễ đâm trâu của người Bana cũng là dịp để con cháu ôn lại truyền
thống hào hùng của dân tộc, giúp lớp trẻ hình dung các bước thực hiện lễ đâm
trâu để lưu giữ truyền thống tổ tiên. Lễ hội đâm trâu góp phần giữ gìn nét văn
hóa dân gian của người Bana, làm phong phú thêm sắc thái văn hóa của dân
tộc Việt Nam.
2.2.2. Lễ hội Sơmă Kơcham.
Sơmă Kơcham là lễ hội lớn nhất trong năm – mở đầu cho một năm sản
xuất và các lễ hội khác trong năm của người Ba Na ở Mơ H’ra, xã Kông Lơng
Khơng, huyện KBang (Gia Lai).
Theo quan niệm của người Ba Na, con người từ khi sinh ra đến khi
xuống mồ phải trải qua nhiều quá trình của mối quan hệ ứng xử; mối quan hệ
Người – Người (cá nhân với cá nhân), mối quan hệ cá nhân với cộng đồng;
mối quan hệ cá nhân, cộng đồng với đấng siêu nhiên – Yàng. Trong khi điều
kiện sinh tồn của các dận tộc còn gặp rất nhiều khó khăn phải chống chọi với
thiên nhiên, thú dữ, bệnh tật, đói nghèo, chết chóc… mà trình độ nhận thức
khoa học của con người hạn chế. Do đó, vòng đời người cũng gắn liền với hệ
thống Lễ – Hội tương ứng trong mỗi thời kỳ, tình huống cụ thể. Có Lễ Bỏ Mả
(Pơ Thi), Lễ Ăn Trâu, Lễ hội mừng Nhà rông mới, Lễ cúng Sơmă Kơcham.
Vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch, khi hoa pơ lang thắp lên muôn
vàn đốm lửa giữa bầu trời ngập tràn ánh nắng cũng là tháng đồng bào dân tộc
Ba Na tiến hành lễ hội Sơmă Kơcham… Sơmă – tiếng Bana nghĩa là cúng;
kơcham là cái sân.
Để chuẩn bị cho lễ hội Sơmă Kơcham. Bà con phải dựng đàn tế lễ. Đàn lễ
thoạt trông đơn giản nhưng lại vô cùng cầu kỳ ở các chi tiết trang trí. Theo
quan niệm của người Ba Na, những người dựng đàn phải là những người “có
con mắt, cái tay của Yang cho” mới làm được việc này.[A8]
15
Cúng sân, hiểu theo nghĩa rộng là cúng đất làng. Đây là lễ hội lớn nhất trong
năm của người Ba Na mở đầu cho một năm sản xuất – đồng nghĩa với một lễ
hội đón mừng năm mới.
Lễ hội kéo dài suốt một ngày một đêm với mục đích thông báo cho
các vị thần linh biết các công việc sẽ làm trong năm, khấn cầu các vị phù hộ
cho mọi việc như sửa chữa nhà cũ, đốn cây làm rẫy… diễn ra suôn sẻ.
Đặc biệt là xin các vị “cho mưa xuống đúng lúc, nắng lên đúng thời”;
cây lúa “ban ngày bằng bụi sả, ban đêm bằng cây đa”; con người khỏe mạnh,
sinh sôi “như cây môn mọc”…
Lễ hội Sơmă Kơcham được người Ba Na tổ chức rất long trọng. Vật hiến tế
các vị thần linh là trâu, bò, rượu cần, cơm lam được chuẩn bị rất cẩn thận. Sau
phần lễ, tiệc ăn uống sẽ kéo dài suốt đêm.
Không gian làng như vỡ ra bởi điệu chiêng tơnơl và những vòng xoang rậm
rịch. Xưa kia khi gặp phải các việc bất trắc như ốm đau, dịch bệnh, mất
mùa… phải chuyển làng đi nơi khác, người Ba Na cũng phải tiến hành Sơmă
Kơcham. Bây giờ các làng Ba Na đều đã định cư. Nhưng lễ hội Sơmă
Kơcham, mọi làng vẫn giữ gần như nguyên vẹn.
2.2.3. Lễ tạ ơn mẹ.
Khi người con đã trưởng thành, có đủ điều kiện kinh tế sẽ tổ chức “Lễ
tạ ơn” để cảm ơn công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Đây là một nét đẹp
trong đời sống văn hóa ứng xử của người Bana.
Lễ cúng tạ ơn cha mẹ, người Bana gọi là Khop bơnê kơ me pa.
Thường được tổ chức vào tiết nông nhàn (Ning nơng), sau lễ mừng lúa mới.
Đây là lễ của người con ruột đã có gia đình, có nhà riêng và làm ăn khấm khá.
Sẽ tự nguyện thông báo với dòng tộc, bố mẹ về việc muốn tổ chức ngày lễ để
tạ ơn cha mẹ đã sinh và nuôi dạy mình nên người.
Tùy vào điều kiện kinh tế của người con quyết định vật cúng, nếu giàu
có thì mổ bò còn nếu không thì một con heo lớn, một con gà và một ghè rượu
ngon. Mặc dù lễ Cúng tạ ơn cha mẹ chỉ gói gọn trong từng gia đình, dòng tộc
nhưng Lễ được tổ chức khá long trọng trong hai ngày.[A9]
Ngày đầu tiên là dành cho phần lễ trong gia đình thân thuộc, còn ngày
hôm sau mới mời bà con, anh em ở làng xa đến ăn uống chung vui. Vào ngày
đã được sự đồng ý của cha mẹ. Gia đình người con sẽ mang lễ vật đến, một
ghè rượu ngon đặt giữa nhà và bắt đầu mổ gà và heo (bò). Lấy tiết con vật
16
cúng bôi lên ghè rượu, lấy một phần gan sống của các con vật đem xâu vào
cây tre rồi cột trên miệng ghè để cúng ông bà tổ tiên và một phần đem ra
ngoài sân cúng thần linh. Gà, thịt heo được nướng, xâu vào cây tre rồi cùng
cột vào cây nơi buộc ghè rượu. Họ sẽ lấy một nhánh lá rừng nhúng vào trong
ghè rượu cúng rồi phẩy rượu lên cha mẹ và con.
Tiếp theo cha mẹ và con sẽ lần lượt khấn vái thần linh, ông bà tổ tiên,
mời họ về cùng hưởng và chứng kiến sự hiếu thuận của con cháu. Cảm ơn họ
đã ban cho sự giàu có, no đủ, gia đình bình yên, hạnh phúc… Sau đó chính
tay người con sẽ làm các món ăn ngon dâng lên cha mẹ mình, theo khẩu vị
mà cha mẹ mình thích ăn nhất. Gà sẽ được lóc xương nấu cháo; heo sẽ lấy
phần thịt thăn đem nướng. Sau khi đã chuẩn bị xong, người con mang đến
dâng cho mẹ mình ăn trước và mời mẹ uống cang rượu cần đầu tiên rồi mới
đến cha, đồng thời cũng nhắc lại thời thơ ấu đã được mẹ nuôi nấng, nhờ có
dòng sữa mẹ nên mới lớn khôn và nhờ cha đã dạy dỗ, chở che nên được như
hôm nay. Người mẹ, cha nhận lời và cũng cảm ơn con đã biết hiếu thuận, nhớ
ơn sinh thành, cầu mong con sẽ không bị đau ốm và làm ăn ngày càng tốt hơn
nữa.
Khi người mẹ nếm cang rượu cần, xem như đã nhận phần đền đáp của
con mình. Rượu được chuyền tiếp tục cho cha rồi đến người con, thông
thường con ruột sẽ uống trước rồi sau đó mới đến dâu hoặc rể. Sau đó là bà
con thân thuộc và sau cùng mới bà con làng xóm.
Cuộc vui kéo dài đến hết ngày hôm sau. Cứ mỗi khách đến họ mang
theo ít gạo, vài quả trứng gà đã luộc sẵn, một ít tiền để biếu gia chủ, cầu mong
mọi sự điều tốt đẹp, gia đình ngày càng sung túc hơn. Để góp vui với chủ nhà,
đàn ông mang theo lít rượu, phụ nữ chai nước ngọt hay đồ ăn mà nhà mình có
sẵn. Khi đến họ rót rượu hoặc nước ngọt ra mời chủ nhà và khách đến tham
dự. Gia chủ lại bày thức ăn ra và họ cùng ăn uống, hát hò, chúc tụng vui vẻ.
Đặc biệt, người Bana tổ chức lễ tạ ơn cha mẹ như nhau cho hai bên nội,
ngoại. Nếu bên nào ở gần con hơn thì sẽ được tổ chức trước và bên kia cũng
được chọn ngày để con cháu tạ ơn giống như vậy. Đều này nói lên sự công
bằng trong văn hóa ứng xử của người Bana trong mối quan hệ của gia đình
hai bên.
Lễ tạ ơn cha mẹ chính là một nét đẹp mang đậm tính truyền thống và
giá trị nhân văn sâu sắc. Lễ đã để lại dấu ấn tốt đẹp cho mỗi người tham dự và
có sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng các dân tộc.
17
2.3. Gía trị văn nghệ dân gian của người Bana đối với kho tàng văn hóa
các dân tộc Việt Nam.
2.3.1. Gía trị lịch sử.
Văn nghệ dân gian của người Bana nói riêng cũng như của các dân tộc
thiểu số khác nói chung đều cung cấp một số tư liệu về nguồn gốc dân tộc,
quá trình di cư và những sinh hoạt văn hóa, xã hội của cộng đồng. Đầu tiên là
những câu chuyện, sử thi, những bài ca dao dân ca, hay những câu thơ của họ
đều là những tài liệu quý để tìm hiểu về nguồn gốc tộc người.
Văn nghệ dân gian mang giá trị lịch sử bởi những câu chuyện sử thi
theo lối hát-kể, những điệu hát dân ca, ca dao hay kể cả những tri thức bản địa
đều có từ lâu đời trải qua bao nhiêu năm thang trầm lịch sử những câu chuyện
đó vẫn được lưu truyền lại từ đời này sang đời khác. Ngày nay các cụ, già
làng vẫn thường tổ chức những buổi họp để kể những câu chuyện cổ tích và
hát những bài hát dân ca cho các cháu nghe. Hiện tại luôn tồn tại cùng với
lịch sử vì vậy cần phải giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán truyền
thống của dân tộc.
2.3.2. Gía trị văn hóa, nghệ thuật.
Văn nghệ dân gian của người Bana góp một phần không nhỏ vào kho
tàng văn hóa dân gian cổ truyền. Nó phản ánh cuộc sống lao động sản xuất,
nếp sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng của người Bana. Trong các lễ hội
có nhiều loại hình văn hoá nghệ thuật được trình diễn, các loại nhạc cụ dân
tộc như: chiêng, khiên… được sử dụng trong các dịp lễ, tết có khả năng biểu
cảm khác nhau, khi hoà tấu trở thành một dàn nhạc dân tộc rất độc đáo. Âm
nhạc cũng rất đa dạng tuỳ thuộc vào mỗi lễ thức cụ thể, có khi rất tĩnh
nghiêm, trầm lắng, có khi lại sôi động, vui nhộn tùy thuộc vào từng lễ. Bên
cạnh đó, với những bài thơ, những lời ca; những câu ca dao, tục ngữ; những
điệu nhảy trong các lễ hội rất độc đáo và mang tính vũ đạo cao.
Đây có thể coi là những giá trị văn hóa truyền thống quý báu được kết
tinh trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt của đồng bào Bana. Đó là
cơ sở, làm nền tảng cho việc sáng tạo những giá trị văn hóa mới vừa tiên tiến,
vừa đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phong phú, lành mạnh trong giai đoạn hiện
nay. Những giá trị nghệ thuật là nên tảng vững chắc cho sự phát triển ổn định,
thống nhất, đậm đà bản sấc dân tộc, góp phần cho nền văn hóa dân gian cổ
truyền Việt Nam nhiều màu sắc.
18
2.3.3. Gía trị nhân văn.
Gía trị nhân văn trong văn nghệ dân gian của người Bana được thể hiện
ở chỗ giáo dục con cái phải biết tôn trọng con người và vạn vật, không được
coi thường trời đất, thần phật, không được ngược đãi cha mẹ và những người
có công với bản làng quê hương, báo hiếu khi về già, thờ tụng khi chết đi. Từ
những câu chuyện sử thi cho thấy con người sống phải biết yêu thương nhau,
phải cho họ hạnh phúc mà họ mong muốn, cần phải làm việc thiện thì thần
linh mới phù hộ, không được làm việc ác nếu làm việc ác thù thần linh sẽ
trách phạt, cuộc sống sẽ không được ấm no, hạnh phúc.
Việc giữ gìn văn nghệ dân gian góp phần bảo tồn nhiều giá trị văn hóa
tộc người. Văn nghệ dân gian trong đời sống của các tộc người là một lối
sống của cộng đồng được ra đời, định hình, thử thách trong quá trình hình
thành và phát triển của các tộc người và nó như một nhu cầu tất yếu, một lẽ
đương nhiên cần có trong đời sống của cộng đồng người. Trong các lễ hội
biểu diễn văn nghệ dân gian với các điệu nhẩy múa uyển chuyển duyên dáng
của những người con Bana.
2.3.4. Gía trị cố kết cộng đồng.
Trong các ngày hội ngày lễ của người Bana thường diễn ra với sự tham
gia của nhiều người, họ là những người con cháu trong dòng họ, họ là những
người anh em họ hàng gần xa và cũng là cộng đồng anh em cùng chung sống
tại địa bàn xã, khi có việc gì họ thường chung tay giúp đỡ nhau. Do vậy, tinh
thần cộng đồng làng bản văn hóa gian của người Bana ở Gia Lai thể hiện khá
rõ. Mỗi khi gia đình nào làm Lễ, hay làm ruộng nương đều được sự giúp đỡ
từ việc đổi công cày cấy cho đến nấu nướng hay các công việc khác. Không
chỉ đến giúp đỡ mà họ còn đến chia vui với gia chủ. Mỗi khi gia đình có việc
lớn đều được sự giúp đỡ, sẻ chia này có tính luân chuyển, tự giác thành thông
lệ làm cho mọi người trong dòng họ, trong làng bản gần gũi với nhau, gắn kết
với nhau hơn. Tính cố kết cộng đồng làng bản trở lên chặt chẽ và bền vững
hơn.
Đặc biệt tính cố kết cộng đồng của người Bana thể hiện rõ ở trong các
lễ hội văn hóa truyền thống như lễ đâm trâu, lễ tạ ơn mẹ, lễ cưới hỏi…thể
hiện được tinh thần đoàn kết cộng đồng của dân tộc.
19
3.
GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN
NGHỆ DÂN GIAN CỦA NGƯỜI BANA.
3.1. Thực trạng việc bảo tồn những giá trị dân gian của người Bana tại
Gia Lai.
3.1.1. Ưu điểm.
Việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị văn nghệ dân gian của
người Bana đã có nững bước tiến triển mới. Trong các bản làng, người Bana
thường xuyên tổ chức các ngày lễ, ngày hội mang những giá trị văn nghệ dân
gian đến với quần chúng. Vào các dịp lễ hội, ngày tết dân tộc Bana trở thành
tâm điểm của các nhà văn hóa học và khách du lịch khi muốn khám phá văn
hóa độc đáo ở tộc người này.
Việc giới thiệu những nhạc cụ dân tộc, cũng như kể những câu
chuyện, những làn điệu dân ca… cho khách du lịch đến thăm quan, cũng như
kể lại cho đời con đời cháu nghe để hiểu về nét đẹp văn nghệ dân gian của
dân tộc mình và tiếp tục lưu truyền nó đến đời sau.
Hoạt động lễ hội đáp ứng như cầu sinh hoạt văn hóa, đời sống tín
ngưỡng tâm linh, giao lưu văn hóa tinh thần của nhân dân các dân tộc ở tỉnh,
xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, góp phần bảo tồn, phát huy văn hóa truyền
thống các dân tộc, quảng bá tiềm năng du lịch của tỉnh.
3.1.2. Nhược điểm.
Văn nghệ dân gian của dân tộc Bana là một kho tàng văn hóa quý báu.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nghệ nhân, nghệ sĩ và những người
am hiểu về văn nghệ dân gian đã cao tuổi, việc truyền dạy có phần hạn chế.
Mặt khác, thế hệ thanh, thiếu niên ngay nay không còn hứng thú với các loại
hình văn nghệ dân gian của dân tộc mình, dẫn đến không biết đến các làn điệu
dân ca, sử thi… Một số người đi lao động bên ngoài về, chịu ảnh hưởng sâu
sắc của văn hóa tiêu dùng, thậm chí còn nảy sinh tâm lý tự ti với văn hóa dân
gian, cho rằng đó là những thứ lạc hậu, dần dần từ bỏ âm nhạc, vũ đạo truyền
thống của dân tộc, khiến chúng đứng trước nguy cơ thất truyền. Ngoài ra, còn
do rất ít người ý thức đầy đủ được giá trị của việc giữ gìn văn hóa dân tộc
thiểu số trong công cuộc bảo tồn tính đa dạng của văn hóa quốc gia và thế
giới. Cùng lúc với việc theo đuổi nhu cầu vật chất, người ta đã quên đi ý
nghĩa và tầm quan trọng của văn hóa dân tộc thiểu số với việc duy trì cân
bằng sinh thái toàn cầu. Phần lớn vẫn không nhận thức được tầm quan trọng
20
của thời cơ bảo tồn văn hóa dân tộc, khiến văn hóa dân tộc tiêu vong hoặc đứt
đoạn.
Do tác động lớn từ cơ chế thị trường và quá trình hội nhập nên văn
nghệ dân gian của dân tộc đang bị pha tạp và dần mai một. Nhiều làn điệu dân
ca, điệu múa cổ truyền, nhạc cụ dân tộc, lễ hội dân gian, một số nghề thủ công
truyền thống và các phương tiện sinh hoạt hằng ngày bị thất truyền. Trong khi
đó, văn hóa truyền thống của dân tộc chưa được kiểm kê, đánh giá đầy đủ,
công tác bảo tồn, trùng tu, quản lý và phát huy giá trị văn nghệ dân gian chưa
được quan tâm đúng mức. Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ hoạt dộng
văn hóa còn thiếu. Việc thể chế hóa các văn bản quản lý, một số cơ chế chính
sách trong lĩnh vực văn hóa còn nhiều bất cập. Lực lượng cán bộ làm công tác
sáng tác, nghiên cứu khoa học còn thiếu, mức hưởng thụ văn hóa của người
dân còn thấp.
3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của
người Bana.
3.2.1. Nâng cao công tác tổ chức quản lý.
Để cá hoạt động văn nghệ dân gian được bảo tồn và phát huy tốt nhất thì
đòi hỏi các cấp ngành quản lý cần có sự quan tâm sâu sắc, quản lý chặt chẽ,
chính xác, khoa học. Nếu công tác tổ chức quản lý không được tốt, các cơ
quan chức năng không có chính sách đầu tư hợp lý, hiệu quả thì hoạt động
văn nghệ dân gian cũng không thể phát triển.
Để đảm bảo hoạt động văn nghệ dân gian phát triển thì can phải hoàn
thiện cơ chế, chính sách có những định hướng trong việc khai thác, quản lý
các hoạt động hỗ trợ, thức đẩy phát triển văn hóa dân tộc, phát triển du lịch.
Xây dựng cơ chế chính sách, hỗ trợ, khuyến khích phát triển văn hóa dân
tộc.
Xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý trong ngành văn hóa hội tụ đầy
đủ những yếu tố: kinh nghiệm, nhiệt tình, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có đạo
đức nghề nghiệp và có hiểu biết về văn nghệ dân gian của dân tộc thiểu số.
Hoạt động văn nghệ dân gian cần phải có những con người thật sự có
năng lực, yêu nghề, hiểu biết về văn hóa địa phương, văn hóa dân tộc, sự
nhiệt huyết, lòng yêu nghề, ham học hỏi…các yếu tố đó sẽ thúc đẩy con
người làm việc có hiệu quả, có chất lượng đối với công việc. Vì vậy đòi hỏi
công tác tuyển dụng trong ngành quản lý văn hóa của địa phương phải chặt
21
chẽ và nghiêm túc để tìm được những cán bộ có trách nhiệm. Từ việc công tác
tổ chức quản lý tốt thì các hoạt động văn nghệ dân gian sẽ được tổ chức tốt,
thu hút đông đảo khách du lịch, phát huy được giá trị văn hóa truyền thống.
3.2.2. Nâng cao ý thức người dân.
Để giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc mỗi người con Bana phải tự ý thức và bảo
vệ nó như chính bảo vệ nhịp sống của mình.
Tiếp nối những giá trị văn nghệ dân gian mà ông cha để lại, bảo vệ giữ gìn và
phát huy nó bằng cách thực hiện và sử dụng nó nhiều hơn trong các lễ hội
truyền thống cũng như trong cuộc sống thường ngày.
Giới thiệu cho du khách và con cháu biết đến những giá trị văn nghệ dân gian
đó chính là linh hồn của dân tộc mình.
3.2.3. Kết hợp giữa phát triển kinh tế và văn hóa.
_Phát triển bền vững trên cơ sở dung hòa giữa kinh tế và văn hóa, cần tận
dụng tối đa ưu thế về sinh thái tự nhiên và tài nguyên văn hóa của dân tộc
Bana, tìm kiếm điểm giao nhau giữa bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển
kinh tế.
_Kết hợp giữa khai thác văn hóa và phát triển: Cần tăng cường nhận thức kinh
tế của dân tộc Bana, đem phong tục văn hóa dân gian dân tộc tiếp cận thị
trường, áp dụng phương thức đưa và lợi dụng vốn của cá nhân, doanh nghiệp
vào công tác bảo tồn, khai thác văn hóa; biến nghệ thuật dân gian dân tộc
thành nguồn tài sản, kết hợp văn hóa truyền thống dân tộc Bana và phát triển
kinh tế hữu cơ, đồng thời từng bước phát triển thành điểm tựa của kinh tế văn
hóa. Bên cạnh đó, cần khai thác du lịch một cách hợp lý trên cơ sở thúc đẩy
khai thác, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống; khiến cho tinh hoa văn
hóa dân tộc được tôi luyện, truyền bá và phát triển rộng rãi, giúp cho nền du
lịch hiện đại và xã hội dân tộc Bana tìm được điểm giao nhau, thúc đẩy kinh
tế xã hội phát triển bền vững. Văn hóa dân tộc Bana đã qua quy hoạch khoa
học, quản lý thích hợp sẽ khiến ngành du lịch hiện đại và xã hội dân tộc Bana
tìm được tiếng nói chung khiến nó vượt qua quá trình công nghiệp hóa, trực
tiếp bước vào xã hội hậu công nghiệp hóa.
3.2.4. Giáo dục và tuyên truyền.
_Giáo dục trong nhà trường phải đưa môn học kế thừa văn hóa dân tộc vào
nội dung giảng dạy.
22