Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

các công ty hỗ trợ tc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.99 KB, 18 trang )

CHỦ ĐỀ: CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
I.CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.Khái niệm
Công ty chứng khoán (CTCK) là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được
thành lập, hoạt động theo luật chứng khoán (LCK) và các quy định khác của pháp
luật để thực hiện một, một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán theo giấy phép
do Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cấp: môi giới chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán.
2.Vai trò của công ty chứng khoán
Đối với các tổ chức phát hành:
+ Huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua
hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán có vai
trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
+ Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là
nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tưvà những nhà
phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các
trung gian mua bán. Các công tychứng khoán sẽ thực hiện vai trò trung gian cho
cả người đầu tưvà nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này, công ty chứng
khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường chứng
khoán.
Đối với các nhà đầu tư:
+ Giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu
tư. Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí
cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự biến
động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng nhưmức độ rủi ro cao sẽ làm cho
những nhà đầu tưtốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước
khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng khoán, với trình độ
chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tưthực hiện các khoản
đầu tưmột cách hiệu quả.



Đối với thị trường chứng khoán.
+ Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị
trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người
bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp
vào quá trình mua bán. Các công ty chứng khoán là những thành viên của thị
trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá.
Trên thị trường sơ cấp , các công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa
ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều
có sự tham gia định giá của các công ty chứng khoán.Các công ty chứng khoán
còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những
khoản đầu tưcủa khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty
chứng khoán đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình
ổn thị trường.
+ Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.Thị trường
chứng khoán có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì
công ty chứng khoán tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp 1,
do thực hiện các hoạt động nhưbảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các công ty
chứng khoán không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh
doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính được đầu tưvì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ dược mua bán giao
dịch trên thị trường cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người
đầu tư. Trên thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty
chứng khoán giúp người đầu tưchuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược
lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài
chính.
Đối với các cơ quan quản lý thị trường.
+ Cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị
trường để thực hiện mục tiêu đề ra. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai

trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa
là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường.
+ Một trong những yêu cầu của thị trường chứng khoán là các thông tin cần
phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường. Việc
cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề
nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần phải minh bạch


và công khai trong hoạt động. Các thông tin công ty chứng khoán có thể cung cấp
bao gồm thông tin về các giao dịch mua, bán trên thị trường, thông tin về các cổ
phiếu. trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tưv.v. . .Nhờ các
thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện
tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường.

3.Mô hình hoạt động
Hiện nay trên thế giới có hai loại hình hoạt động của công ty chứng khoán:
Công ty chuyên kinh doanh chứng khoán : Theo mô hình này, động kinh doanh
chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng
khoán đảm nhận, các ngân hàng không được trực tiếp tham gia kinh doanh chứng
khoán.
Ưu điểm của mô hình này:
+ Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
+ Tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hoá cao
hơn.Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Canada…
Công ty đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán:
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động vời tư cách là chủ thể kinh
doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này có ưu điểm là
ngân hàng có thể đa dạng hoá, kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt
rủi roc do hoạt động kinh doanh chung, khả năng chịu đựng các biến động của thị
TTCK là cao. Mặt khác, ngân hàng tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh

chứng khoán, khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm
của ngân hàng.
Tuy nhiên mô, hình này bộc lộ một số hạn chế như không phát triển được thị
trường cổ phiếu do các ngân hàng có xu hướng bảo thủ, thích hoạt động tín dụng
truyền thống hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu trái phiếu. Mặt khác, theo mô hình
này, nếu có biến động trên TTCK sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh
tiền tệ của ngân hang, dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính.


Do những hạn chế trên mà trước đây Mỹ và nhiều nước khác đã áp dụng mô hình
này, nhưng sau cuộc khủng hoảng năm 1933, đa số các nước đã chuyển sang mô
hình chuyên doanh chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì đến ngày nay.
Tại Việt Nam, do qui mô các ngân hàng thương mại nói chung là rất nhỏ bé, và đặc
biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ
yếu trong lĩnh vực thương mại ngắn hạn,trong khi hoạt động của TTCK thuộc lĩnh
vực vốn dài hạn.Khả năng khắc phục những yếu điểm này của ngân hang Việt Nam
còn rất lâu dài.Do đó, để bảo vệ an toàn cho các ngân hang,Nghị định 144/CP về
chứng khoán và TTCK qui định các ngân hang thương mại muốn kinh doanh
chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự có của mình thành lập một Công ty
chứng khoán chuyên doanh trực thuộc, hạch toán độc lập với ngân hàng
4.Nghiệp vụ của công ty chứng khoán
Nghiệp vụ môi giới:
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán
cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng
tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC.
Vì các quyết định đầu tư do chính khách hàng đưa ra nên họ sẽ phải tự chịu trách
nhiệm về kết quả.
Hiện nay, tất cả các công ty chứng khoán ở nước ta đều đang thực hiện nghiệp vụ
này. Nhân viên phòng môi giới của các công ty chứng khoán sẽ cung cấp thông tin
về các công ty niêm yết, các thông tin thị trường cho khách hàng bên cạnh đó họ sẽ

đại diện cho khách hàng trong việc thực hiện các giao dịch.Tuy nhiên đó mới chỉ là
"môi giới giao dịch" khi thị trường phát triển thì hoạt động môi giới phải đóng vai
trò là cầu nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán,
thông qua hoạt động môi giới nhà môi giới chứng khoán sẽ trở thành người bạn,
người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho
nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
Nghiệp vụ tự doanh:
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán là quá trình tự tiến hành các giao
dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Đây được coi là một khoản đầu tư của
công ty bởi vì hoạt động này được thực hiện nhằm mục đích thu lợi nhuận cho
chính công ty thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ
này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho
khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính công ty.


Hoạt động tự doanh được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGCK hoặc thị
trường OTC. Trên thị trường OTC hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, công ty chứng
khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán
nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với
khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Đối với các công ty chứng khoán ở nước ta hiện nay thì chỉ có một số công ty thực
hiện hoạt động này bởi vì theo quy định của pháp luật thì muốn thực hiện nghiệp
vụ này thì công ty chứng khoán cần đáp ứng được một số yêu cầu mà đầu tiên là
phải có vốn điều lệ 12 tỷ. Đây cũng là một điều bất lợi đối với một số công ty
chứng khoán khi không có đủ điều kiện về vốn trong khi đội ngũ nhân viên có
trình độ chuyên môn và khả năng phân tích.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành:
vụ bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán là việc thực hiện các đợt chào bán
và phân phối chứng khoán cho các doanh nghiệp cổ phần hoá ra công chúng và

thực hiện bảo lãnh. Có thể nói nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là một trong những
nghiệp vụ phổ biến.
II.SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
1.Khái niệm
Là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu được trên thị trường chứng khoán; là một
doanh nghiệp được hoạt động theo khuôn khổ pháp luật về chứng khoán và kinh
doanh. Hình thái điển hình của Thị trường chứng khoán tập trung là Sở Giao dịch
Chứng khoán (Stock exchange). Tại Sở Giao dịch Chứng khoán, các giao dịch
được tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham
gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
2.Đặc điểm
+ Cung cấp, đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc giao dịch chứng khoán
(địa điểm và hệ thống giao dịch). Đảm bảo việc giao dịch chứng khoán được diễn
ra thông suốt, đúng pháp luật và công khai kể cả giá cả.
+ Tổ chức niêm yết và giám sát các chứng khoán niêm yết, các tổ chức niêm yết.


+ Tổ chức và giám sát chặt chẽ quá trình giao dịch chứng khoán.
+ Giám sát chặt chẽ những người tham dự vào quá trình giao dịch.
3.Thành viên sở giao dịch chứng khoán
Nhà môi giới chứng khoán: Là người trung gian giữa người mua và người bán;
Có thể phân biệt các loại nhà môi giới khác nhau:
+ Nhà môi giới hưởng hoa hồng: sẽ nhận hoa hồng hay phí môi giới do khách
hàng trả sau khi hoàn thành dịch vụ giao dịch chứng khoán. Nhà môi giới hưởng
hoa hồng không bị rủi ro, vì họ không nắm giữ chứng khoán trong khi thực hiện
các hoạt động giao dịch của mình. Nhà môi giới hưởng hoa hồng là thành viên chủ
yếu của các Sở Giao dịch Chứng khoán.
+ Nhà môi giới chuyên gia chứng khoán: ở những nước phát triển, tại các Sở
Giao dịch Chứng khoán, mỗi loại chứng khoán được giao dịch tại một quầy giao
dịch nhất định. Trong mỗi một quầy có một số nhà môi giới chuyên môn được Hội

đồng Quản trị của Sở phân công thực hiện mua, bán một số loại chứng khoán nhất
định.
+ Nhà môi giới độc lập: không phụ thuộc bất kỳ công ty môi giới nào.
Nhà giao dịch cạnh tranh: là người mua, bán chứng khoán và thu lãi bằng chính
chênh lệch của giá mua vào và bán ra.
4.Cơ cấu tổ chức và hoạt động của sở giao dịch chứng khoán
Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan quản lý cấp cao nhất, HĐQT có các thành
viên đại diện là những người có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thị trường
chứng khoán. Thành viên HĐQT gồm: đại diện của công ty chứng khoán thành
viên; một số đại diện không phải là thành viên nhưtổ chức niêm yết; giới chuyên
môn; nhà kinh doanh; chuyên gia luật và thành viên đại diện cho Chính phủ.
Các đại diện của công ty chứng khoán thành viên được xem là thành viên quan
trọng nhất của HĐQT. Các công ty chứng khoán thành viên có nhiều kinh nghiệm
và kiến thức trong việc điều hành thị trường chứng khoán.


Quyết định của HĐQT có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của các
thành viên. Vì vậy, các đại diện của các thành viên nên được bày tỏ các ý kiến của
mình tại HĐQT.
Bên cạnh thành viên HĐQT là các công ty chứng khoán, cũng cần phải có những
người bên ngoài để tạo tính khách quan, giảm sự hoài nghi đối với các quyết định
của Hội đồng quản trị, khuyến khích quan hệ giữa SGDCK và các bên có liên
quan nhưcông ty niêm yết, các tổ chức dịch vụ chuyên môn…vv. Trên cơ sở đó,
HĐQT sẽ đưa ra những quyết sách phù hợp cho chính các thành viên bên trong và
thành viên bên ngoài cũng nhưtính thực tiễn của thị trường. Đối với các trường
hợp SGDCK do Chính phủ thành lập phải có ít nhất một đại diện cho Chính phủ
trong HĐQT để thi hành các chính sách của Chính phủ đối với hoạt động của
SGDCK và duy trì các mối quan hệ hài hoà và liên kết giữa các cơ quan quản lý
hoạt động của thị trường chứng khoán.

Số lượng thành viên HĐQT của từng SGDCK khác nhau. Tuy nhiên, các SGDCK
đã phát triển thường có thành viên HĐQT nhiều hơn số thành viên của SGDCK tại
các thị trường mới nổi. Lý do là HĐQT của các SGDCK đã phát triển thường có
nhiều thành viên là đại diện của các công ty chứng khoán thành viên (số lượng
công ty chứng khoán rất lớn) và cũng có số lượng thành viên tương ứng với mức
đó đại diện cho công chúng và các tổ chức khác đầu tưkhác. Ví dụ nhưHội đồng
quản trị của SGDCK Hàn Quốc (KSE) có 11 thành viên. Trong đó, có 01 Chủ tịch,
01 Phó chủ tịch, 04 Uỷ viên là giám đốc điều hành, 03 Uỷ viên đại diện cho công
chúng, 02 uỷ viên được cử ra từ các công ty thành viên. Đặc điểm của KSE là hơn
một nửa số thành viên HĐQT là các giám đốc điều hành SGDCK. Hội đồng quản
trị của SGDCK NewYork có 25 thành viên: trong đó có 01 chủ tịch, 12 thành viên
đại diện cho công chúng và 12 thành viên đại diện cho các công ty chứng khoán
thành viên SGDCK và các công ty có liên quan. Đại diện cho công chúng là các
công ty niêm yết, các học giả và các đại diện khác của công chúng. Hội đồng quản
trị của SGDCK Tokyo (TSE) có 27 thành viên, trong đó 6 thành viên đại diện cho
công chúng, 6 thành viên là các Giám đốc điều hành, 1 Tổng giám đốc điều hành
SGDCK và 14 thành viên đại diện cho các công ty chứng khoán thành viên của
TSE.
Hội đồng quản trị của SGDCK Hồng Kông có 31 thành viên, gồm các đại diện là
các cá nhân, giám đốc một số công ty chứng khoán thành viên, các thành viên môi
giới độc lập tại SGD, Tổng giám đốc điều hành SGDCK và Tổng giám đốc điều
hành Trung tâm thanh toán bù trừ ư lưu ký chứng khoán Hồng Kông.
Bầu chọn thành viên HĐQT


Bên cạnh thành phần HĐQT, phương pháp bầu chọn hoặc bổ nhiệm cũng biểu thị
vị trí của các thành viên. ở nhiều nước, hàng năm, tại đại hội thành viên HĐQT
được bầu trong số các công ty thành viên của SGDCK. Một số thành viên được
Chính phủ, Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán bổ nhiệm hoặc chỉ định.
Thông thường nhiệm kỳ của Chủ tịch và các uỷ viên là giám đốc điều hành có thời

hạn 3 – 4 năm, còn các đại diện cho công chúng có thời hạn ít hơn. Lý do vì Chủ
tịch và các Giám đốc điều hành là những người có chuyên môn cao và cần đến sự
ổn định và liên tục trong công việc điều hành dài hơn, còn các thành viên khác cần
có sự đổi mới. Các thành viên HĐQT có thể được tái bổ nhiệm, nhưng thường
không quá 2 nhiệm kỳ liên tục.
Tại SGDCK Hàn Quốc (KSE) với sự chấp thuận của Bộ trưởng Kinh tế – Tài
chính, Chủ tịch được bầu chọn tại Đại hội cổ đông trong số những người có kinh
nghiệm, hiểu biết tốt về lĩnh vực chứng khoán. Giám đốc điều hành cấp cao và các
giám đốc điều hành do Chủ tịch bổ nhiệm được sự chấp thuận của đại hội cổ đông.
Các đại diện cho công chúng, được sự chấp thuận của Bộ trưởng Kinh tế – Tài
chính, do Chủ tịch HĐQT bổ nhiệm trong số những người không tham gia trực
tiếp vào công việc kinh doanh chứng khoán, có kinh nghiệm và khả năng đánh giá
công bằng hoạt động thị trường. Các đại diện của thành viên được bầu chọn tại đại
hội cổ đông trong số đại diện của các công ty thành viên của SGDCK. Nhiệm kỳ
của các thành viên HĐQT là 3 năm.
Đối với SGDCK Hồng Kông, Hội đồng quản trị bao gồm: 18 người do các công ty
chứng khoán thành viên bầu chọn; 02 đại diện cho công ty niêm yết được HĐQT
bổ nhiệm với sự chấp thuận của Uỷ ban chứng khoán và hợp đồng tương lai; 07 cá
nhân (các nhân độc lập là người tham gia vào thị trường, hoặc chuyên gia tưvấn,
học giả về chuyên ngành chứng khoán) được HĐQT bổ nhiệm; 02 thành viên khác
do Chủ tịch HĐQT bổ nhiệm; 02 thành viên còn lại là Tổng giám đốc SGDCK và
Tổng giám đốc Trung tâm thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán
Quyền hạn của Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị SGDCK ra các quyết nghị về các lĩnh vực chính sau:
– Đình chỉ và rút giấy phép thành viên
– Chấp thuận, đình chỉ và huỷ bỏ niêm yết chứng khoán
– Chấp thuận kế hoạch và ngân sách hàng năm của SGD


– Ban hành và sửa đổi các quy chế hoạt động của SGDCK

– Giám sát hoạt động của thành viên
– Xử phạt các hành vi, vi phạm quy chế của SGDCK.
Ngoài ra HĐQT có thể trao một số quyền cho Tổng giám đốc SGDCK trong điều
hành.
Ban Giám đốc điều hành
Ban giám đốc điều hành chịu trách nhiệm về hoạt động của SGDCK, giám sát các
hành vi giao dịch của các thành viên, dự thảo các quy định và quy chế của
SGDCK. Ban giám đốc hoạt động một cách độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo trực
tiếp từ HĐQT. Ban giám đốc điều hành, bao gồm người đứng đầu là Tổng giám
đốc và các Phó Tổng giám đốc điều hành phụ trách các lĩnh vực khác nhau. Tại
nhiều nước, chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành
quy định không kiêm nhiệm và được hưởng lương của SGDCK (Như SGDCK Hàn
Quốc, Tokyo, New York và Istanbul). Trong khi đó, một số SGDCK khác hai chức
vụ nói trên do 2 người đảm trách (Hồng Kông, Thái Lan, Thượng Hải).
Các phòng ban
Chức năng của SGDCK càng nhiều, cơ quan quản trị cần phải chia thành nhiều
ban, các ban này có chức năng tưvấn, hỗ trợ cho HĐQT và Ban giám đốc điều
hành trên cơ sở đưa ra các ý kiến đề xuất thuộc lĩnh vực của ban. Ngoài ra, ở một
số SGDCK còn thành lập một số ban đặc biệt để giải quyết các vấn đề đặc biệt về
quản lý, tưvấn hoặc xử phạt. Tất cả hoặc một số thành viên của Ban là thành viên
HĐQT và nằm trong số các thành viên bên trong hoặc thành viên bên ngoài
SGDCK.
– Các phòng chuyên môn:
+ Phòng giao dịch
+ Phòng niêm yết
+ Phòng điều hành thị trường
– Các phòng Phụ trợ:
+ Phòng kế hoạch và nghiên cứu



+ Phòng hệ thống điện toán
+ Phòng tổng hợp – đối ngoại
– Các phòng về kiểm soát và thư ký.
Chức năng của một số phòng, ban chính:
Phòng kế hoạch và nghiên cứu: hoạt động trên 3 lĩnh vực: lập kế hoạch; nghiên
cứu; quan hệ đối ngoại.
Lĩnh vực lập kế hoạch: bao gồm các vấn đề liên quan đến việc thiết lập mục tiêu
quản lý; kế hoạch dài hạn vàkế hoạch kinh doanh kinh doanh hàng năm; phân tích
việc thực hiện kế hoạch;cơ cấu tổ chức nội bộ và kế hoạch tổ chức dài hạn; thu,
chi và phân bổ ngân sách tài chính; phát triển các dịch vụ sản phẩm mới; xem xét
các quy định và quy chế..vv.
Lĩnh vực nghiên cứu bao gồm: nghiên cứu và phân tích xu hướng của nền kinh tế;
các ngành kinh tế và các thị trường vốn trong nước và quốc tế; xuất bản các tài
liệu báo cáo nghiên cứu định kỳ; nghiên cứu và thống kê hoạt động hệ thống thị
trường vốn nội địa;
Lĩnh vực quan hệ quốc tế bao gồm: trao đổi thông tin với nước ngoài; thu thập các
tin về các thị trường chứng khoán quốc tế qua các nguồn thông tin nhằm theo dõi
xu hướng thị trường; hợp tác với các SGDCK, UBCK, các tổ chức quốc tế khác về
TTCK; xuất bản các ấn phẩm bằng tiếng Anh.
Phòng giao dịch:
Phòng giao dịch có các chức năng chủ yếu sau:
– Phân tích và báo cáo về biến động của thị trường.
– Đảm bảo duy trì sàn giao dịchvà các hệ thống khác tại sàn.
– Thay đổi thời gian giao dịch, biên độ giá, giá tham chiếu..vv.
– Quản lý giao dịch các chứng khoán (cảnh báo; kiểm soát; đình chỉ…).
Phòng niêm yết:


– Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn niêm yết(lần đầu, bổ sung, tái niêm yết, tách
gộp…)

– Kiểm tra, chấp thuận hoặc huỷ bỏ niêm yết chứng khoán.
– Nhận và phân tích các báo cáo tài chính của tổ chức niêm yết.
– Phân loại niêm yết theo nhóm ngành, xây dựng mã số chứng khoán niêm yết.
– Đề nghị chứng khoán đưa vào diện cảnh báo, kiểm soát, đình chỉ hoặc huỷ bỏ
niêm yết.
Thu phí niêm yết lần đầu và phí quản lý niêm yết hàng năm.
Phòng thành viên:
– Chấp thuận thành viên, đình chỉ và bãi miễn t-cách cách thành viên;
– Phân loại các thành viên.
– Quản lý thu phí thành viên và các quỹ khác.
– Phân tích, đánh giá hoạt động thành viên
Phòng công nghệ tin học:
– Thực hiện các vấn đề liên quan đến nghiên cứu, lập kế hoạch và phát triển hệ
thống điện toán.
– Các vấn đề liên quan đến quản lý và vận hành hệ thống điện toán.
– Các vấn đề liên quan đến việc quản lý thông tin thị trường qua hệ thống bảng
điện tử, thiết bị đầu cuối, mạng Internet..vv.
Văn phòng:
– Các vấn đề liên quan đến các hợp đồng ký với bên ngoài.
– Tài liệu, lưu trữ, in ấn, huỷ, công văn, giấy tờ…
– Các vấn đề liên quan đến người lao động, lương và quyền lợi người lao động.
– Lập kế hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.


– Các vấn đề liên quan đến kế toán, quản lý vốn và thuế.
– Mua sắm, trang thiết bị, tài sản.
– Xây dựng công trình trụ sở, quản lý thuê và cho thuê khác.

III. CÔNG TY QUẢN LÝ QŨY
1. Khái niệm và vai trò của CT quản lý quỹ

Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chứng khoán, cung cấp
dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và
tư vấn đều tư chứng khoán..
Vai trò của công ty quản lý quỹ:
-Thu hút vốn nhàn rỗi đưa vào đầu tư
- Ổn định thị trường thứ cấp
- Là tổ chức phát hành công cụ tài chính lớn
-Giúp tư vấn đầu tư
2.Mô hình hoạt động của công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ hoạt động trong ngân hàng đa năng toàn phần: Hoạt động của
quỹ như là một bộ phần của ngân hàng.
Công ty quản lý quỹ hoạt động trong ngân hàng đa năng một phần: Hoạt động của
quỹ chỉ được phép với tư cách là một công ty con, độc lập với hoạt động của ngân
hang
Công ty quản lý quỹ chuyên doanh: Hoạt động của quỹ chỉ kinh doanh duy nhất
hoạt động này, bao gồm:
- Công ty quản lý quỹ
- Công ty đầu tư


3. Nghiệp vụ của công ty quản lý quỹ
-Nghiệp vụ ngân quỹ: Công ty quản lý quỹ điều hành các hoạt động của quỹ đầu
tư chứng khoán
- Nghiệp vụ quản lý doanh mục đầu tư: là việc công ty quản lý quỹ quản lý một
cách chuyên nghiệp các danh mục đầu tư của khách hàng, đây là tập hợp các khoản
đầu tư thông qua việc nắm giữ nhiều loại chứng khoán, hàng hoá, bất động sản …
nhằm mục tiêu kiểm soát rủi ro và lợi nhuận..
-Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán:
Tư vấn cho khách hàng về chính sách đầu tư và chiến thuật đầu tư
Đào tạo, phổ cập kiến thức cơ bản và chuyên sâu về đầu tư chứng khoán

IV – HỆ THỐNG ĐANG KÍ, LƯU KÝ VÀ THANH TOÁN BÙ TRỪ CHỨNG
KHOÁN
1.Khái niệm
Đăng ký chứng khoán là việc Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD)
quản lý và ghi nhận các thông tin về quyền sở hữu chứng khoán và các quyền khác
của người sở hữu chứng khoán trên hệ thống của VSD. Theo quy định của Luật
chứng khoán, chứng khoán của công ty đại chúng phải được đăng ký tập trung tại
VSD. Như vậy, VSD là tổ chức đăng ký chứng khoán của tất cả các công ty đại
chúng, bao gồm các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch tại Sở giao dịch chứng
khoán, các công ty đại chúng chưa niêm yết.
Lưu ký chứng khoán là hoạt động nhận ký gửi, bảo quản an toàn, chuyển giao và
ghi nhận sở hữu chứng khoán của khác hàng trên hệ thống tài khoản lưu ký chứng
khoán do Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD) quản lý nhằm đảm bảo
các quyền và lợi ích liên quan đến chứng khoán của người sở hữu. Theo quy định
của Luật chứng khoán, chứng khoán của công ty đại chúng (bao gồm chứng khoán
của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và chứng khoán của các
công ty đại chúng chưa niêm yết) phải được lưu ký tập trung tại VSD trước khi
thực hiện giao dịch. Việc lưu ký chứng khoán của khách hàng tại VSD được thực
hiện theo nguyên tắc: khách hàng lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu ký và
thành viên lưu ký tái lưu ký chứng khoán của khách hàng tại VSD.


Thành toán và bù trừ chứng khoán là bước thực hiện cuối cùng để hoàn tất quá
trình giao dịch chứng khoán. Để thực hiện bù trừ và thanh toán giao dịch, toàn bộ
dữ liệu về kết quả giao dịch chứng khoán của các Sở giao dịch chứng khoán
(SGDCK) được chuyển sang Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) sau
khi kết thúc phiên giao dịch. Việc bù trừ tiền được VSD thực hiện cho từng thành
viên trên cơ sở bù trừ chung giữa số tiền được nhận và số tiền phải trả cho các giao
dịch có cùng ngày giao dịch tại các SGDCK, cùng ngày thanh toán và tách biệt
theo tài khoản của khách hàng trong nước, khách hàng nước ngoài và của chính

thành viên.
2.Tổ chức hệ thống đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Đăng ký chứng khoán:
Chứng khoán đăng ký tại VSD bao gồm cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ quỹ niêm yết/đăng ký giao dịch
trên các Sở Giao dịch chứng khoán và cổ phiếu/trái phiếu của các công ty đại
chúng chưa niêm yết đăng ký tại VSD. Toàn bộ chứng khoán đăng ký tại VSD theo
hình thức ghi sổ.
Các công ty đại chúng khi thực hiện đăng ký chứng khoán tại VSD phải cung cấp
cho VSD các thông tin về tổ chức phát hành, thông tin về chứng khoán đăng ký và
các thông tin về người sở hữu chứng khoán để VSD ghi nhận trên hệ thống của
VSD. Đâylà cơ sở để VSD xác minh tính hợp lệ về sở hữu chứng khoán của người
sở hữu và chấp nhận chứng khoán đưa vào ký gửi tập trung tại VSD. Chứng khoán
khi đã được đăng ký tại VSD, mọi thay đổi liên quan đến thông tin chứng khoán
đăng ký được thực hiện theo các quy định về quản lý thông tin của VSD
Lưu ký chứng khoán:
Hệ thống lưu ký chứng khoán trước đây ở Việt Nam được quy định rõ trong
Chương V- Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán – Nghị định 144CP,
gồm hai bước cụ thể:
Thứ nhất, việc lưu ký chứng khoán của các nhà đầu tư chỉ được thực hiện tại các
thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Do vậy, chứng khoán của
các nhà đầu tư sẽ được tập trung tại Trung tâm giao dịch chứng khoán và Trung
tâm lưu ký chứng khoán qua các thành viên lưu ký.


Sau đó, các thành viên lưu ký sẽ lưu ký chứng khoán khách hàng của mình tại
Trung tâm giao dịch và Trung tâm giao dịch, nơi họ đã mở tài khoản lưu ký của
chính mình. Khi đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam đóng vai trò là
Trung tâm lưu ký. Các thành viên lưu ký bao gồm các công ty chứng khoán và các

ngân hàng thương mại đã được Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước cấp phép hoạt
động lưu ký và đã đăng ký làm thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng
khoán.
Ví dụ, tính đến đầu năm 2007, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh có 14 thành viên lưu ký, trong đó 11 thành viên lưu ký là các công ty
chứng khoán và 3 thành viên lưu ký là các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Trước đây nhà đầu tư trong nước chỉ được lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu
ký trong nước - là các công ty chứng khoán hoặc các ngân hàng thương mại trong
nước. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được lưu ký tại thành viên lưu ký nước ngoài - là
các công ty chứng khoán liên doanh với nước ngoài hoặc các ngân hàng thương
mại liên doanh với nước ngoài hoặc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt
động hợp pháp tạii Việt Nam.
Quy định này đã được thay đổi, theo Quyết định số 51/2003/QĐ-BTC ngày
15/04/2003 của Bộ Tài Chính về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế
lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán, nhà đầu tư trong và ngoài có thể
mở tài khoản lưu ký chứng khoán ở bất kỳ thành viên lưu ký nào. Sau khi thành
viên hoàn tất việc tái lưu ký tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thì chứng khoán
đó mới được phép giao dịch.
Theo quy định, mỗi nhà đầu tư chỉ được mở một tài khoản lưu ký tại một thành
viên lưu ký. Do vậy nhà đầu tư cần tìm hiểu trước để lựa chọn một thành viên lưu
ký thích hợp cho mình. Trong trường hợp muốn đổi sang một thành viên lưu ký
khác, nhà đầu tư sẽ mở tài khoản lưu ký mới tại thành viên lưu ký mới, đồng thời
phải làm các thủ tục đóng tài khoản lưu ký tại thành viên lưu ký cũ và yêu cầu
thành viên lưu ký này chuyển số dư chứng khoán sang tài khoản lưu ký tại thành
viên lưu ký mới. Ngoài ra, có những trường hợp ngoại lệ, các đối tượng như Ngân
hàng Nhà nước hay tổ chức tín dụng được phép tham gia đấu thầu, phát hành hoặc
bảo lành phát hành trái phiếu Chính phủ cũng có thể mở tài khoản lưu ký tại Trung
tâm giao dịch như các thành viên khác.
Hệ thống lưu ký này là một cơ cấu “hai cửa”, hoặc có thể gọi “đa cấp”. Trong đó,
nhà đầu tư không thể trực tiếp lưu ký chứng khoán tại Trung tâm mà phải qua các

thành viên lưu ký và tất nhiên chịu một mức phí nhất định, và đối với các ngân
hàng thương mại dịch vụ nhận lưu ký là một hình thức kinh doanh ngày càng hấp
dẫn.


Thành toán bù trừ chứng khoán:
Theo quy định hiện hành, thanh toán chứng khoán được thực hiện qua Trung tâm
lưu ký chứng khoán (VSD), thanh toán tiền giao dịch chứng khoán được thực hiện
qua ngân hàng thanh toán và phải tuân thủ nguyên tắc chuyển giao chứng khoán
đồng thời với thanh toán tiền.
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là
NHTM được chỉ định thực hiện thanh toán tiền cho toàn bộ các giao dịch chứng
khoán diễn ra tại Sàn giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh - HOSE và Sàn giao
dịch chứng khoán Hà Nội – HNX.
Hệ thống này thực hiện các giao dịch sau: Mở tài khoản tiền gửi thanh toán bù
trừ giao dịch chứng khoán cho VSD và các thành viên lưu ký của VSD; hỗ trợ tiền
vay trong trường hợp thiếu thanh khoản theo hợp đồng hỗ trợ tiền vay bắt buộc đối
với BIDV; quyết toán tiền giao dịch chứng khoán qua việc hạch toán vào tài khoản
của thành viên mở tại BIDV
3. Quy trình đăng ký, lưu ký và thành toán bù trừ chứng khoán:
Đăng ký chứng khoán:
Các tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết làm thủ tục đăng ký chứng khoán
trực tiếp với VSD hoặc thông qua thành viên lưu ký là công ty chứng khoán. Quy
trình, thủ tục và hồ sơ đăng ký chứng khoán được quy định cụ thể tại Quy chế hoạt
động đăng ký chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 196/QĐ-VSD ngày
29/09. Việc quản lý tài khoản lưu ký chứng khoán tại VSD được thực hiện như sau:
Tổng số dư trên các tài khoản lưu ký chứng khoán của khách hàng mở tại thành
viên lưu ký phải luôn khớp với số dư các tài khoản lưu ký của thành viên lưu ký
mở tại VSD. Số dư chi tiết trên tài khoản lưu ký chứng khoán của từng khách hàng
tại thành viên lưu ký phải khớp với số liệu sở hữu của khách hàng đó tại VSD. Khi

phát hiện sai sót trong thông tin tài khoản lưu ký chứng khoán của thành viên hoặc
khách hàng của thành viên, VSD phải thông báo ngay cho thành viên và thành viên
có trách nhiệm điều chỉnh cho phù hợp. Chứng khoán lưu ký tại VSD là tài sản
thuộc sở hữu của khách hàng, được quản lý tách biệt với tài sản của VSD và VSD
không được sử dụng chứng khoán của khách hàng vì lợi ích của bên thứ ba.
Tại thành viên lưu ký, để đảm bảo quyền lợi của khách hàng lưu ký chứng khoán,
thành viên lưu ký phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán chi tiết cho từng khách
hàng và quản lý tách biệt tài sản cho từng khách hàng. Chứng khoán lưu ký của
khách hàng tại thành viên lưu ký là tài sản thuộc sở hữu của khách hàng và được
quản lý tách biệt với tài sản của thành viên lưu ký. Thành viên lưu ký không được
sử dụng chứng khoán trong tài khoản lưu ký chứng khoán của khách hàng vì lợi


ích của bên thứ ba hoặc vì lợi ích của chính thành viên lưu ký.
VSD cung cấp các dịch vụ về lưu ký chứng khoán dưới đây cho khách hàng:
-Ký
gửi
chứng
khoán
Rút
chứng
khoán
Chuyển
khoản
chứng
khoán
không
qua
giao
dịch

Phong
tỏa

giải
tỏa
chứng
khoán
Khi có các yêu cầu về ký gửi, rút, chuyể n khoản và phong tỏa/giải tỏa chứng
khoán tại VSD, khách hàng phải thực hiện thông qua các thành viên lưu ký nơi
mình mở tài khoản, thành viên lưu ký quản lý thông tin sở hữu chứng khoán của
người sở hữu trên hệ thống tài khoản lưu ký ghi sổ. Việc chuyển quyền sở hữu đối
với chứng khoán lưu ký tại VSD được thực hiện thông qua hình thức chuyển giao
ghi sổ tài khoản mà không phải chuyển giao chứng chỉ vật chất.
Quy trình và thủ tục lưu ký chứng khoán được quy định cụ thể tại Quy chế hoạt
động lưu ký chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 199/QĐ-VSD ngày
29/09/2017
của
Tổng
Giám
đốc
VSD.
Quy chế hoạt động lưu ký chứng khoán xem tại mục Pháp Lý trên website VSD
Thành toán bù trừ chứng khoán:
VSD áp dụng các phương thức bù trừ và thanh toán dưới đây cho các giao
dịch
chứng
khoán:
- Đối với giao dịch trái phiếu công ty: VSD thực hiện thanh toán theo kết quả bù
trừ
đa

phương
với
thời
gian
thanh
toán

T+1.
- Đối với giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ: VSD thực hiện thanh toán theo kết
quả

trừ
đa
phương
với
thời
gian
thanh
toán T+2.
- Đối với giao dịch trái phiếu Chính phủ: VSD thực hiện thanh toán theo từng giao
dịch
với
thời
gian
thanh
toán

T+1
Việc thanh toán giao dịch chứng khoán được thực hiện theo nguyên tắc:
- VSD thực hiện thực hiện thanh toán chứng khoán theo hình thức chuyển giao ghi

sổ thông qua hệ thống tài khoản lưu ký của thành viên lưu ký bên mua và bán đồng
thời điều chỉnh thông tin sở hữu tài khoản của người đầu tư mua và người đầu tư
bán; Ngân hàng thanh toán (Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam) thực
hiện thanh toán tiền theo kết quả bù trừ tiền của VSD thông qua hệ thống tài khoản
tiền của các thành viên lưu ký mở tại Ngân hàng thanh toán.
- Thanh toán giao dịch chứng khoán được thực hiện theo nguyên tắc: việc chuyển
giao chứng khoán tại VSD diễn ra chắc chắn và đồng thời với việc chuyển tiền tại
Ngân hàng thanh toán (nguyên tắc DVP - Delivery Versus Payment). Cơ chế thanh
toán giao dịch DVP cho phép các bên tham gia giao dịch loại bỏ được các rủi ro về
thanh toán, theo đó, bên mua và bán phải có đủ tiền và chứng khoán để đảm bảo
khả
năng
thanh
toán
giao
dịch
chứng
khoán.
Trình tự và thủ tục thanh toán bù trừ chứng khoán được quy định cụ thể tại Quy


chế hoạt động bù trừ thanh toán chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số
211/QĐ-VSD
ngày
18/12/2015
của
Tổng
Giám
đốc
VSD.


Tài liệu tham khảo:
/> /> /> />%E1%BB%A9ng_kho%C3%A1
/>


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×