Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Ảnh hưởng của các hiện tượng tôn giáo mới đối với đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.56 KB, 38 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Thế giới đang bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Xã hội loài người
đã có những bước tiến vô cùng to lớn trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội, khoa học kĩ thuật và nghệ thuật. Trong đó không thiếu tôn giáo, bởi nó chính là
một bộ phận cấu thành nên xã hội.
Tôn giáo một vấn đề tưởng chừng như vô cùng cũ kĩ, nhưng thực chất nó luôn
luôn mới mẻ. Cũng bởi vì tôn giáo nằm trong một bộ phận cấu thành nên xã hội này
nên cùng với sự thay đổi của loài người mà tôn giáo cũng có những sự biến đổi dù là
về nội dung hay chỉ là về hình thức. Tôn giáo - một hiện tượng xã hội phức tạp, chỉ có
thể giải thích nó một cách khách quan khoa học dựa trên những quan niệm của nền
tảng Triết học duy vật về lịch sử, cũng như nhận thức duy vật khoa học. Tôn giáo là
một hình thức phản ánh hư ảo, xuyên tạc đời sống hiện thực và đã ra đời cách đây
hàng chục nghìn năm. Nhưng ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ
thuật trên thế giới, tôn giáo dường như vẫn có sự phát triển đa dạng về hình thức và
rộng lớn về quy mô. Cả nhân loại đang chứng kiến một trào lưu xuất hiện những
“hiện tượng tôn giáo mới”. Các trào lưu “tôn giáo mới” có ảnh hưởng rất lớn đến mọi
mặt của đời sống xã hội, trong đó tác động tiêu cực là chủ yếu, tuy nhiên cũng không
thể phủ nhận những tác động tích cực.
Sự ra đời của hàng loạt các “tôn giáo mới” là một “bài toán” đối với chính sách
tôn giáo của mỗi quốc gia. Nhưng để đưa ra một chính sách đúng đắn đòi hỏi cần phải
có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về những ảnh hưởng của các “hiện tượng tôn giáo
mới” đối với đời sống xã hội.
Vì vậy, đề tài “Ảnh hưởng của các hiện tượng tôn giáo mới đối với đời sống xã
hội Việt Nam” góp phần đưa đến sự nhận thức đầy đủ, khách quan, cũng như thái độ
đúng đắn đối với các “tôn giáo mới”. Đồng thời, đề tài thực sự mang đến những giá trị
thực tiễn cho tác giả, là một dịp để hệ thống hóa, nghiên cứu và cập nhập, bổ sung
thêm kiến thức về vấn đề “tôn giáo mới”.
1


Chương 1.


BỐI CẢNH RA ĐỜI, HIỆNN TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN PHÁT
TRIỂN HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI Ở VIỆT NAM
1.1. Bối cảnh ra đời
1.1.1. Tình hình quốc tế
Hiện nay trên thế giới, hiện tượng tôn giáo mới đang là vấn đề quan tâm của
nhiều người. Nếu hiểu hiện tượng tôn giáo theo nghĩa đúng đắn của nó, rất ít người
không tham gia một hành động tôn giáo nào, có người tham gia vào nhiều hoạt động
tôn giáo khác nhau. Theo thống kê mới nhất của thế giới, gần 9/10 số dân theo một
tôn giáo hoặc có đức tin tôn giáo. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề tôn
giáo lan rộng khắp toàn cầu, đến nỗi có tác giả đã dự đoán thế kỷ XXI tôn giáo chiếm
vị trí quan trọng. Xu hướng hiện tượng tôn giáo cũng rất đáng chú ý. Trên thế giới, sự
hoài nghi về nội dung các tôn giáo, đặc biệt là Ki tô giáo tăng lên cùng với sự lung lay
của các tôn giáo chủ thể khác. Vẫn nhiều người tuyên bố là thành viên của Ki tô giáo
hoặc tôn giáo khác nhưng lại không muốn làm “tù binh” bởi những điều trong giáo lí
mà họ cho là đã lỗi thời. Họ muốn gửi đức tin trực tiếp với Chúa mà mỗi người lại có
thể hiểu khác nhau, ít đi chùa, giảm việc lễ bái… Tôn giáo đang phân rẽ, đang thế tục
hoá. Gần đây các giáo phái, các nhà tiên tri, các tôn giáo nửa mang tính thần bí, nửa
khoa học và những hiện tượng tôn giáo mới cực đoan xuất hiện rất nhiều.
1.1.2. Tình hình trong nước
Nước ta là một nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có sáu tôn giáo lớn
đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, hoạt động theo hiến pháp, pháp luật
và luôn đi cùng dân tộc. Tuy nhiên, từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, phát
triển kinh tế theo cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập... trong hoàn cảnh đó, nhiều vấn
đề bức xúc liên quan đến con người chưa thể giải quyết được thì tất yếu các hiện
tượng tôn giáo mới ra đời.
Sự ra đời của hiện tượng tôn giáo mới, một phần đã đáp ứng được nhu cầu tín
ngưỡng tâm linh của một bộ phận nhân dân, nhưng cũng có mặt trái của nó. Một số
2



người đã lợi dụng sự cả tin của người khác để hoạt động mê tín dị đoan để lừa gạt
quần chúng nhân dân.
1.2. Hiện trạng hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
1.2.1. Khái quát hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, từ năm 1980 đến nay, hiện tượng
tôn giáo mới ở nước ta đã có hơn 60 tên gọi khác nhau như: Long Hoa Di Lặc, Ngọc
Phật Hồ Chí Minh, Quanh minh tu đức, Đạo Bác Hồ, Đạo lẽ phải, Tam tổ Thánh hiền,
Đạo Bạch, Đạo Siêu hoá, Chân không, Thanh Hải vô thượng sư, Tâm linh đạo, Khổng
Minh thánh đạo hội, Từ Hạnh, Quán Tiêu, Tiên Phật nhất giáo, Đoàn 18 Hùng Vương,
Vô vi, Đạo Thánh Mẫu, Đạo Tám pháp, Huỳnh đạo, Tiên Thiên thuyết kỳ, Long Hoa
tam muội, Vô vi pháp, Long Hoa chính pháp, Lạc Hồng Âu Cơ, Trường ngoại cảm Tố
Dương, Phật bảo đại cầu, Thánh minh vì tình dân tộc, đạo Trần Hưng Đạo, Giành
quyền Nimô pháp, Thần linh tiên, Vô điểm thỉnh điểm tô, Đạo Vạt, Đạo Thiên Cơ,
Đạo Hoa Vàng, Đạo Thiên nhiên, Đạo Quần tiên, Đạo Nghiệp chướng, Võ đạo Phật tổ
Như Lai, Đạo con hiền, Đạo Chân đất, Phật nhất giáo, Tam giáo tuyên dương, Đạo
Thiên nga, Đạo Khổ hạnh, Đạo Minh Quang, Ômôtô giáo, Đạo Ômsaibaha, Quốc tổ
Lạc Hồng, Sokagakkkai, Đạo Cội nguồn, Nhất quán đạo, Hội Phật trời Vua cha
hoàng, Đạo khăn vàng, Đạo Bạch, Kinh hoa đào, Đoàn cách mạng Phật đản, Con rồng
cháu tiên, Cửu trùng thiên, Trung thiên vận hội, Đạo Tràng pháp hoa, Thiên linh cái,
Giáo ngoại biệt truyền diệu tâm, Chân lý.
Trong hơn 60 tên gọi trên, các tên gọi sau đây thực chất chỉ là một:
-Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Quang minh tu đức, Thánh minh vì tình dân tộc, Đạo
Bác Hồ.
-Long Hoa Di Lặc, Long Hoa Tam muội, Long Hoa chính pháp.
-Chân không, Đạo Siêu hoá, Đạo Tắm pháp, Đạo Chân đất, Hoa vàng
-Đạo Quần tiên, Tam tổ thánh hiền
3


-Vô vi khoa học huyền bí Phật pháp, Vô vi vô vi pháp

-Đạo Thiên nhiên, đạo Cổng trời
-Trường ngoại cảm Tố Dương, Chân lí
Do đó con số này còn lại là 50.
Con số đó cho thấy tình hình thực trạng tôn giáo và các hiện tượng tôn giáo mới
ở nước ta là rất đáng chú ý.
1.2.2. Một số hiện tượng tôn giáo mới điển hình
- Đạo Nhà Trời và Ngọc Đế giáo chủ
Đạo “Nhà trời” do Nguyễn Thành Công sinh ngày 10/5/1944 sáng lập ra từ năm
1979 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng đứng ra lập đạo Nhà Trời còn có Võ Việt
Hùng, Nguyễn Thành Công tự phong mình là Ngọc Sơn Lâm, hiệu là Ngọc Đế.
Giáo lí của đạo Nhà Trời là một số hổ lốn những điều mà Nguyễn Thành Công tự
đặt ra. Theo Nguyễn Thành Công thì Y là người thay mặt Ngọc Hoàng lãnh đạo thế
giới này. Bản thân Võ Việt Hùng cũng tự xưng là có Thánh nhập vào xác và những lời
phán dạy của Thánh. Hùng soạn ra kinh sách, vẽ bùa, ban bảo vật cấp phép cho những
tín đồ sau khi đã được “Ngọc Đế” công nhận. Thực chất đây là những hành động
tuyên truyền mê tín dị đoan, lừa gạt những tín đồ nhẹ dạ cả tin. Từ năm 1979 đến năm
1982, đạo này tích cực tuyên truyền, lôi kéo những người nhẹ dạ không chỉ ở thành
phố Hồ Chí Minh mà còn lan sang nhiều địa phương khác. Chúng cử ra những người
cầm đầu, phụ trách các chi nhánh ở các địa phương khác nhau và tìm ra một người
thấm nhuần kinh sách nhất để trụ trì các buổi thuyết giảng.
Năm 1981, Nguyễn Thành Công bị bắt vì tội truyền bá mê tín dị đoan, gây hậu
quả nghiêm trọng và bị phạt 2 năm tù giam. Năm 1984 Công được thả ra khỏi trại
giam, ra tù Y lập tức bắt liên lạc với đồng đảng, củng cố lại đạo Nhà Trời.
Để tạo vỏ bọc hoạt động, Nguyễn Thành Công xin phép chính quyền địa phương
lập tổ sản xuất dây curoa, liên doanh với hợp tác xã cơ khí Quê hương, đưa những đệ
tử cốt cán vào làm công nhân. Lợi dụng chính sách khai hoang của Nhà nước để trồng
4


cây công nghiệp, Nguyễn Thành Công còn cho chân tay xin khai hoang và lập ra làng

đạo Thiên Nhân ở huyện Đồng Phú (Bình Phước). Cư dân ở làng đạo này sống tập
thể, mặc quần áo màu xanh, ăn chay trường, làm việc và nghỉ ngơi theo hiệu lệnh và
hoàn toàn tách biệt khỏi sự quản lí của địa phương. Mặc dù xưng là Ngọc Đế, nhưng
bản thân Nguyễn Thành Công lại là con người chơi bời, dâm đãng, nhiều cô gái đã bị
Y lừa phỉnh bằng những lời hoa mĩ và có nhiều người đã nhận ra bộ mặt bỉ ổi của
Ngọc Đế.
Đạo Nhà Trời là một tổ chức tôn giáo mới hoạt động tuyên truyền mê tín dị đoan
dưới vỏ bọc là các cơ sở sản xuất, các làng sản xuất… Những kẻ sáng lập ra đạo “Nhà
Trời” thực chất là những kẻ lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của nhiều người để hưởng lợi
và gây rối, do đó đây là một tà đạo cần xoá bỏ.
-Thanh Hải vô thượng sư
Đạo này gắn với người sáng lập ra nó là Thanh Hải. Thị sinh năm 1948 ở Quảng
Ngãi, cha mẹ Thanh Hải làm nghề Đông dược và theo đạo Công giáo. Từ năm 1966 –
1972, Thanh Hải du học tại Anh, tốt nghiệp bằng Mastet văn chương. Năm 1972 –
1974 sang Đức làm phiên dịch tiếng Anh, Pháp, Hoa, Việt cho Hội đồng Thập Tự
quốc tế và lập gia đình riêng với một bác sĩ người Đức. Khi ở CHLB Đức, Thanh Hải
đã nhận Thích Như Điển làm thầy và tu tại gia. Trong thời gian làm phiên dịch cho
Hội đồng Thập Tự quốc tế, Hải có nhiều dịp đi qua những nơi có người Việt sinh sống
trong các trại tị nạn.
Đầu năm 1980, Thanh Hải li dị chồng và sang Ấn Độ tu hành. Năm 1989, Thị
chuyển về hành giáo tại Đài Loan lập ra đạo Tràng và tự xưng pháp danh là Thanh
Hải Vô Thượng sư, dùng pháp môn Quan Âm và thuyết Tam Ân để thu hút các môn
đệ. Thuyết Tam Ân cho rằng ngoài trái đất còn có thế giới khác tồn tại do Thượng Đế
ngự trị, các thế giới đó đều tốt đẹp hơn thế giới chúng ta, muốn lên được thế giới đó
con người phải trả hết nghiệp chướng… thông qua các từ thiện nhân đạo. Thanh Hải
đã đi tới nhiều nước để truyền bá đạo Tràng và lập được 18 cơ sở ở Đài Loan, 20 cơ
5


sở ở Mỹ và 4 cơ sở ở Úc. Từ năm 1995, tổ chức này mở rộng hoạt động và xây dựng

được một số cơ sở ở Ba Lan, Hung Ga Ry, Séc…
Từ năm 1991 tổ chức này đã truyền đạo vào Việt Nam thông qua một số Việt
kiều. Hoạt động của Thanh Hải rất phức tạp, bộc lộ rõ thủ đoạn sử dụng chiêu bài tôn
giáo, từ thiện để tuyên truyền chống lại chính quyền, chống cộng sản. Sự phát triển
của tà đạo này đã gây tác động xấu tới tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội.
-Long Hoa Di Lặc
Đạo này do Vũ Thị Loan sáng lập. Vốn là một cán bộ nhà nước về nghỉ hưu từ
năm 1991, do có nhiều thời gian rảnh rỗi, Vũ Thị Loan có điều kiện đi đến các đền,
chùa và sau đó sáng tác ra một hình thức tôn giáo của riêng mình gọi là “Long Hoa Di
Lặc”.
Để lôi kéo mọi người, Thị Loan cho dựng “phủ mẹ”, tại nhà ở xóm Mới, xã
Khánh Dương, huyện Yên Mô, Ninh Bình. Thị tuyên truyền rằng ai theo “Long hội”
của Thị và niệm kinh Di Lặc sẽ không bị ốm, vật nuôi không bị chết, mùa màng tốt
tươi…
Do tuyên truyền lôi kéo, đến năm 1999 đã có nhiều người đi theo làm đệ tử của
“Long Hoa Di Lặc”. Kinh sách của tà đạo này gồm: Kinh cứu khổ, Bạch y thần chú,
Kinh Di Lặc hạ sinh cứu kiếp, Kinh 10 điều khuyên tu… Phương tiện thờ cúng có
ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát, ảnh Địa Mẫu chân kinh, ảnh Bác Hồ và tượng Di Lặc…
khi lễ có cờ hộ, cờ tiên, chuông, mõ.
Đây là một tà đạo lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước để
hoạt động tuyên truyền mê tín dị đoan. Hoạt động của nó đã gây nhiều tiêu cực trong
đời sống của nhân dân và trật tự an toàn xã hội.
-Long hoa Tam muội (hay Long hoa Di Lặc, nhiều nơi còn gọi là Long hoa
chính pháp tu tại gia).
Người khởi xướng và tạo lập là Đào Thị Minh, sinh năm 1927 tại xã Minh Phú,
Huyện Sóc Sơn Hà Nội. Trong cuốn kinh “Di Lặc hoá sinh cứu kiếp” còn gọi bà Minh
là “Giáo chủ Di Lặc tôn Phật”.
6



Địa bàn hoạt động rất rộng gồm các tỉnh Hà Tây, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hải
Hưng, Phú Thọ, Nghệ An…
Kinh sách của tà đạo Long hoa Di Lặc chủ yếu dựa vào Kinh cứu kiếp Di Lặc,
Di Lặc hạ sinh cứu kiếp, thơ Mẫu giáng bút.
Để tuyên truyền, lôi kéo người tham gia vào tổ chức Long hoa Di lặc, bà Minh
đã sáng tác một tập gọi là “Kinh Đức Di Lặc cứu kiếp” gồm 6 bài kinh ngắn và 9 bài
kinh dài dựa theo kinh Phật giáo. Với những bài kinh này và với lời truyền miệng
rằng Đức Di Lặc sẽ thay Phật Thích Ca cứu giúp chúng sinh hoạn nạn; thời Phật
Thích Ca đã hết chuyển sang thời Đức Di Lặc cứu nhân độ thế, bà Minh và các tín đồ
thân cận đã lôi kéo được đông đảo người tin theo.
Trong thơ Mẫu giáng bút có nhiều nội dung phê phán đời sống trần thế, phê
phán cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước làm huỷ hoại đến nhiều sinh linh con người, hoặc nhìn cuộc sống trần thế toàn là màu đen, thơ theo kiểu lục bát, câu trên là
đời, câu dưới là đạo, đời là xấu, đạo là tốt. Vì vậy, phải đưa Di Lặc thay Thích Ca
giáng trần cứu giúp chúng sinh thoát khỏi cảnh chiến tranh đói khổ và đức Di Lặc
chính là hiện thân trong con người cầm đầu các nhóm tà đạo, mọi lời nói, hành động
của người cầm đầu tà đạo đều đúng, là ý của Phật Di Lặc, buộc mọi người phải tuân
theo.
Khác với các tà đạo khác, Long hoa Di Lặc lập bàn thờ ngay tại giữa nhà của
người cầm đầu tà đạo, treo 3 ảnh từ trái sang phải theo 3 cấp:
Đức Di Lặc tôn Phật
Quan Thế Âm Bồ Tát
Hồ Chủ Tịch
Việc thờ cúng trên bàn thờ rất đơn giản, gồm: Hoa tươi, nước lã, rượu trắng nên
đỡ tốn kém, phù hợp với thu nhập của người lao động nông thôn.
Hình thức thờ cúng là ngồi thiền và đọc Kinh cứu kiếp Di Lặc và thơ giáng bút,
dùng nước lã, rượu cúng chữa bệnh lấy tiền, nhiều trường hợp gây hậu quả nghiêm
trọng.
7



Hình thức tu hành chủ yếu là ngồi thiền và đọc Kinh cứu kiếp Di Lặc, thơ
giáng bút, dùng nước lã, rượu trắng chữa bệnh lấy tiền.
Số người tham gia: Tín đồ chủ yếu là phụ nữ, những người có hoàn cảnh éo le,
gặp khó khăn bế tắc trong cuộc sống, bệnh tật kéo dài.
Địa bàn xâm nhập: Đã xuất hiện ở một số địa phương.
Đặc biệt nghiêm trọng hơn là việc tà đạo Long hoa Di Lặc lợi dụng việc truyền
bá đạo để phê phán xã hội, nói xấu chế độ, phê phán lịch sử, gây tư tưởng hoang
mang trong quần chúng trên địa bàn, tổ chức các cuộc hành hương với danh nghĩa “về
cội nguồn” để huy động hàng nghìn người tham gia, gây mất trật tự công cộng, nhất
là trong thời điểm có các ngày lễ lớn của dân tộc.
-Chân lý ( Trường ngoại cảm tố Dương ):
Người khởi xướng tà đạo này: Do Trịnh Thái Bình giáo viên của Đại học Bách
khoa về nghỉ hưu thành lập.
Kinh sách của tà đạo này chủ yếu được viết bằng tay và photocopy lại dựa trên
các kinh đạo Phật biến tướng có thêm phần hướng dẫn chữa bệnh.
Hình thức thờ cúng tà đạo Chân lý cho rằng ngày nay trời đất giao hoà, Đức A
Di Đà và Ngọc Hoàng Thượng đế là một nên thờ cả hai, ngoài ra còn thờ Trần Hưng
Đạo đại vương cùng các đại tiên đại thần.
Hình thức sinh hoạt đạo chủ yếu là ăn chay, ngồi thiền, luyện khí công, tự chữa
bệnh và bán các đồ cúng lễ.
Đối tượng tuyên truyền tà đạo chủ yếu là số phụ nữ nghỉ hưu, số có khúc mắc
về đời tư, số có bệnh tật và hoàn cảnh gia đình khó khăn…
- Giáo ngoại biệt truyền diệu tâm
Tà đạo “Giáo ngoại biệt truyền diệu tâm”
Về tổ chức:
“Giáo ngoại biệt truyền diệu tâm” được hình thành ở Thanh Hoá từ năm 1988
do Lê Thị Tình ở Thiệu Giao - Thiệu Hoá và Trần Công Uẩn ở Đông Lĩnh - Đông Sơn
cầm đầu.
8



Trước đây, Số người tham gia tà đạo này đều là tín đồ Phật giáo theo bản hội
qui ở chùa Vồm (Thiệu Hoá), chùa Chanh, chùa Thanh Hà (Tp Thanh Hoá).
Từ năm 1988 đến năm 1991, trong các lần hành hương vào chùa Tâm Ấn (Hà
Tĩnh), Lê Thị Tình và Trần Công Uẩn tiếp thu một số kinh sách của Lưu Văn Ty và
Phạm Văn Kiệm, tu theo kiểu “Biệt truyền diệu tâm ấn”.
Sau khi tiếp thu những kinh sách của Lưu Văn Ty, Phạm Gia Kiệm ở Hà Tĩnh,
Lê Thị Tình về Thanh Hoá tuyên truyền, rủ rê, lôi kéo được một số người trong địa
phương Thanh Hoá ở các huyện, thị và thành phố tham gia đi khất thực, tổ chức
phóng sinh ở nhiều gia đình.
Tà đạo này hình thành theo các công đoàn, dưới công đoàn là tăng đoàn, dưới
tăng đoàn là từng nhóm đi khất thực (mỗi nhóm từ 3 đến 5 người), người cầm đầu
nhóm thường được gọi là thầy hoặc thầy cả tuỳ thuộc vào phạm vi hoạt động và mức
độ tín đồ tham gia.
Về kinh bổn và hoạt động của người theo tà đạo: Giáo lí của tà đạo dựa trên cơ
sở thuyết nhân quả của đạo Phật, kinh Hoa nghiêm tôn, kinh Bát nhã, kinh Đại thừa
và một số kinh sách cải biến từ đạo Phật chép tay.
Dựa vào thuyết nhân quả và luân hồi của đạo Phật, tà đạo này đã bóp méo và
xuyên tạc sự thật, cho rằng để thực hiện được 10 nghiệp lạch, để con người ta từ bỏ
được tham, sân, si thì phải làm phép xám hoá.
Nghi lễ của tà đạo này: Chủ yếu là phép xám hoá gồm hoá sinh, hoá nghiệp và
cao điểm là hoá thân không.
Đối tượng chúng nhằm tuyên truyền: Chủ yếu là phụ nữ goá chồng, sa cơ lỡ
lứa, người có vướng mắc về đời tư, lạc hậu, nhẹ dạ cả tin.
Địa bàn xâm nhập: Đông Sơn, Thiệu Hoá, TP Thanh Hoá, Hoằng hoá, Nga Sơn,
Quảng Xương, Sầm Sơn, Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Quan Sơn…
Hình thức tu hành: Chủ yếu là tu tại gia và đi khất thực.
Quá trình tu theo 4 giai đoạn:
9



- Lập Tam bảo “mượn tướng” ở từng hộ gia đình theo các hình thức mượn và
tụng niệm kinh Phật.
- Hạ Tam bảo cầu và vô tướng (không mượn tướng), giai đoạn này còn dùng
các kinh bổn của đạo Phật.
- Hành pháp trực trì tâm ấn (không mượn tướng) cúng lậy không chuông mõ,
chỉ cần đầu tư nghiên cứu Đại thừa pháp bảo đàn kinh.
- Phát hành lấy nghiệp, diệt nghiệp ác (Hoá), dùng cá, cua, xà phòng và các thứ
xin được trộn với dầu đốt hoá lửa và đốt luôn bàn thờ tam bảo. Mọi người ngồi xung
quanh đống lửa hong quần áo, đến khi mồ hôi chảy ướt quần áo thì cởi hết quần áo
nhảy quanh đống lửa.
Trong khi hành lễ, các tín đồ chạy xung quanh trong phòng kín rất mất vệ sinh
và kệch cỡm.
Giai đoạn này là giai đoạn cuối không còn hoá sinh, phóng sinh mà phải phá
hết tài sản trong gia đình, càng phá nhiều càng đắc đạo. Đó là con đường “ kiếm tìm
thích pháp” của tà đạo. Đồng thời kiếm tìm nhân duyên mới để chung sống như vợ
chồng không cần hôn phối, không phân biệt lứa tuổi, nghề nghiệp…
Nội dung, hình thức, nghi lễ của tà đạo này là mê tín dị đoan, trái với đạo đức
gia đình và thuần phong mĩ tục của quê hương, dân tộc; khi làm lễ nhập đạo thì phải
phá bàn thờ tổ tiên, cởi bỏ hết y phục, nhảy múa như người điên, đốt hết tất cả mọi
thứ hiện có, kể cả đồ ăn, quần áo…
Những người xuất gia khất thực phải trải qua một thời gian tu tích, về kinh
pháp và mặc áo nâu, cạo trọc đầu đi truyền giáo, xin tiền nuôi thầy, nuôi mình và mua
đồ vật làm lễ xám hoá.
Tà đạo này cho rằng, muốn thực hiện 10 nghiệp chướng, đặc biệt là tham, sân,
si thì phải từ bỏ mọi ham muốn và đốt đi những vật chất của thế giới trần tục…Vì vậy,
lễ nghi chính của tà đạo là phép xám hoá, người mới nhập đạo phải hoá bát hương,
bàn thờ trong nhà (có bạn đồng đạo chứng kiến); hàng ngày phải để dành một phần
10



thức ăn để đốt cùng quần áo đang mặc để rửa tội trần thế (cho tâm như cương), phép
hoá được tiến hành qua 3 giai đoạn:
Hoá sinh là đốt những con vật sống để chúng về kiếp người.
Hoá nghiệp là đốt đồ vật và thức ăn hàng ngày để xoá bỏ tội lỗi trần thế.
Hoá thân không (còn gọi là lễ nhục dục) là cởi bỏ hết quần áo cùng ngồi quanh
đống lửa làm tế lễ trời đất để xoá bỏ ham muốn nhục dục.
Đến giai đoạn cuối, phép xám hoá được khai thác và phát triển đến mức mê
muội, chúng cho rằng mọi tội lỗi của con người sinh ra là do lòng tham. Vì vậy, cần
phải diệt tham bằng cách không được làm giàu, không được lấy vợ đẹp, không được
ăn ngon, mặc đẹp, coi cuộc sống vợ chồng chỉ là nhân duyên tạm thời, phải luôn thay
đổi để tìm nhân duyên kiếp trước. Do đó, số xuất gia tu hành đều phải bỏ gia đình,
sống chung với nhau như vợ chồng, không phân biệt tuổi tác, xấu đẹp… miễn là nhân
duyên hoà hợp.
Do triết lí trên của tà đạo như vậy, nên một số đối tượng tham gia tà đạo như
Mai Văn Tốn ở xóm 6 - Nga Trường - Nga Sơn chặt phá cây cảnh trị giá gần 20 triệu
đồng, phá dỡ và đốt ngôi nhà ngói 5 gian để dựng túp lều tranh ở; gia đình bà Hiểu ở
Đông Lĩnh, Đông Sơn chặt hết cây ở trong vườn để hoá sinh; bà Lê Thị Liên ở Hoằng
Quí, Hoằng hoá bỏ đi khất thực, gia đình phải nhờ đến công an can thiệp mới đ ưa về
nhà được; đối tượng Lê Thị Hào 42 tuổi có chồng và một con gái đã hành đạo và do
nhân duyên phù hợp nên đã chung sống với Mai Văn Trọng (22 tuổi) như vợ chồng,
đốt nhà, dựng lều ở và được gia đình khuyến khích coi như một đặc ân để khi “nhân
duyên hết” sẽ đắc đạo…
Sự việc trên đây đã gây nên bất bình trong thôn xóm, gia đình, dòng họ, một số
nơi đã lên tiếng tố cáo các hoạt động vi phạm đạo đức, ảnh hưởng đến nếp sống văn
hoá bình thường ở địa phương như Nga Yên (Nga Sơn), Đông Lĩnh (Đông Sơn), Yên
Trường (Yên Định), Hoàng Trung (Hoàng Hoá)…đặc biệt trong giới tăng ni Phật tử
trên địa bàn Thanh Hoá đã có nhiều đơn kiến nghị, tố cáo tà đạo này lợi dụng tôn
11



giáo, đội lốt nhà tu hành bôi nhọ thanh danh Phật giáo, đề nghị chính quyền xử lí thật
nghiêm khắc.
Ngày 1/10/1993, Phòng PA38 phối hợp với Công an huyện Đông Sơn kiểm tra
tại nhà Đàm Thị Hiếu ở đội 5, xã Đông Lĩnh, Đông Sơn phát hiện 12 người (trong đó
có nhiều người lạ mặt cạo trọc đầu, mặc quần áo nâu, có 3 người phụ nữ cởi trần đang
ngồi quanh đống lửa), Phòng PA38 và Công an huyện Đông Sơn lập biên bản tạm giữ
12 người và chuyển toàn bộ hồ sơ về PA24 khởi tố và xử lí theo pháp luật hình sự.
Từ năm 1999 đến năm 2002, các cấp chính quyền, ban, ngành của tỉnh Thanh
Hoá đã chủ động tích cực phát hiện và ngăn chặn xử lí nên đã cơ bản giải quyết được
tà đạo này.
Ngoài ra còn nhiều tôn giáo mới, tà đạo khác như: Chân lý (Trường ngoại cảm
tố Dương), Chân không, Ngọc Phật Hồ Chí Minh…
1.3. Nguyên nhân của các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
1.3.1. Nguyên nhân khách quan
-Công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập, một mặt tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển vượt bậc. Mặt khác, sự biến đổi về cơ cấu xã hội; sự chuyển dịch cơ cấu
nghề nghiệp, tính cách lao động; sự thay đổi mô hình tâm lí; sự ảnh hưởng của quá
trình đô thị hóa; sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường...làm cho nhiều hiện tượng
tiêu cực trong xã hội nảy sinh. Tình trạng ăn cắp của công, móc ngoặc, cửa quyền, ức
hiếp dân lành, sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội, tình trạng những kẻ phạm
pháp, vô luân vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật mà không bị trừng trị... Tất cả đó
thúc đẩy hiện tượng tôn giáo mới ra đời.
Sự xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới phản ánh và phản kháng cái ác thắng cái
thiện.
-Toàn cầu hóa đã dẫn tới sự lan tràn ồ ạt của văn hóa phương Tây. Sự rối loạn
văn hóa tinh thần, sự rạn nứt các giá trị truyền thống của các dân tộc, cùng với hàng
loạt các hiện tượng phạm tội xã hội như: nghiện hút, buôn bán ma túy, buôn lậu, tham
nhũng, cướp giật, xã hội đen.... đã làm cho nhiều người cảm thấy lo lắng. Xã hội rối
12



loạn không yên, đạo đức lộn xộn, lòng người hoang mang lo sợ, đó chính là cao trào
cho sự phát triển hiện tượng tôn giáo mới.
- Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự hình
thành trật tự thế giới mới đã tác động mạnh mẽ đến tâm lí, tình cảm tốt đẹp, làm xáo
trộn tư tưởng của rất nhiều người.
-Do tác động của các thế lực phản động, thù địch dung dưỡng, tạo cơ sở cho sự
ra đời hiện tượng tôn giáo mới nhằm đạt mục đích của chúng.
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan của hệ thống chính trị các cấp
-Hệ thống chính trị các cấp nhận thức chưa kịp thời, chưa rõ về hiện tượng của
các tôn giáo mới, thậm chí ngỡ ngàng trước hiện tượng này. Vì thế, một số nơi việc
giải quyết từ phương diện lãnh đạo, quản lí xã hội vẫn còn là vấn đề bỡ ngỡ.
-Công tác quản lí xã hội còn bị buông lỏng ở một số địa phương; công tác quần
chúng thiếu sâu sát, không phát hiện kịp thời, tạo kẻ hở cho các hiện tượng tôn giáo
mới xâm nhập; khi phát hiện ra thì xử lí lúng túng, không dứt điểm.
-Từ phương diện chính sách, pháp luật đối với tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta, hiện đã và đang bộc lộ một số bất cập.

Chương 2.
13


NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC “HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI” ĐỐI
VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
2.1. Những tác động tiêu cực
2.1.1. Về kinh tế
2.1.1.1. Không tham gia sản xuất của cải vật chất
Phần lớn những người đến với các “tôn giáo mới” là tầng lớp bị tổn thương, phủ
nhận thế giới hiện tại, tìm đến sự xa lánh cuộc đời. Với niềm tin mù quáng vào mớ lý

thuyết kỳ quái của giáo phái, các tín đồ tự cách ly hoàn toàn khỏi xã hội. Họ chán
ghét tất cả: cuộc sống, gia đình, xã hội và đặc biệt là chán ghét lao động. Từ người
công dân bình thường, họ trở thành những “cục bướu thừa” của xã hội.
Họ sống nhưng không lao động, không tạo ra của cải vật chất, chỉ lo tham gia
vào các hoạt động, nghi lễ cúng tế quái đản và hoàn thành đầy đủ những điều răn dạy
của giáo chủ. Khi số lượng tín đồ này càng tăng thì thực sự ảnh hưởng có hại đến sản
xuất, đến chất lượng cuộc sống.
Thí dụ ở Việt Nam có “đạo Hà Mòn” tuyên truyền những điều ma mị rằng theo
“đạo Hà Mòn” thì không làm cũng có ăn, thiếu nợ ngân hàng, nợ của nhà nước chỉ
cần đọc nhiều kinh cầu nguyện sẽ được xóa nợ và ai đọc kinh càng nhiều thì sẽ được
Đức Mẹ đón lên thiên đàng sớm. Giáo lí của “đạo Hà Mòn” đã tác động tiêu cực đời
sống của nhân dân. Đó là việc người dân bỏ bê lao động sản xuất, nộp tiền cho các đối
tượng cầm đầu "Hà Mòn", ảnh hưởng đến đời sống kinh tế vốn đã rất khó khăn của
đồng bào dân tộc thiếu số.
2.1.1.2. Phá hoại, tiêu tán tài sản
Hầu hết các “tôn giáo mới” này đều đưa ra những dự đoán và các cách thức khác
nhau đón nhận ngày Tận thế. Các giáo phái ra sức tuyên truyền, lấy những tín lí, giáo
lí cổ xưa, cắt xén và vặn vẹo đi để hù dọa những người run sợ trước cảnh tượng của
ngày Tận thế kinh sợ: nhà cửa lay chuyển, động đất, trời sập, tất cả trở nên tối tăm mịt
mù, không còn gì để ăn, cả Trái Đất sẽ bị hủy diệt thành tro bụi.
14


Ngày tận thế được đề cập đến ở trong ba cuốn sách “Tin mừng” của Mathêu,
Marco và Luca với từ ngữ khác nhau: sự tận cùng, cuộc Quang Lâm, nước Thiên
Chúa, hồi chung cuộc… Về nội dung và ý nghĩa các khái niệm đó là nói đến quyền
năng cao cả và vinh quang của Chúa, niềm an ủi to lớn cho loài người. Về sau, các
nhà tu hành muốn kìm hãm cơn lũ phạm tội ác của con người nên đã dùng Tín lí như
những lời hăm dọa cảnh báo. Ngày tận thế kinh hãi đó cứ dai dẳng bám riết lấy cuộc
sống của con người, sợ hãi và cố gắng thoát ra khỏi ảnh hưởng của nó nhưng không

phải ai cũng xử lý làm được. Trong lịch sử đã có vô vàn các dự đoán, tiên tri về những
mốc thời gian cụ thể cho ngày Tận thế - giây phút cả thế giới bị hủy diệt thành tro bụi,
nhưng cuối cùng những ngày đó lần lượt trôi qua một cách vô sự và thế giới vẫn bình
yên.
Dù ở chân trời khác nhau nhưng các giáo phái đều khẳng định là sẽ có ngày Tận
thế. Mỗi giáo phái ở các địa phương lại có những màu sắc, hương vị “sáng tạo” riêng
về ngày Tận thế nhưng tựu trung là con người muốn tránh được ngày đó thì “phải ăn
năn, hối lỗi, phải chay tịnh cầu nguyện, xin được xá tội, tha lỗi, phải thống hối thật
sự bằng cách đem nộp trả hết của cải kiếm được của thế gian, rồi cùng nhau tự chết
trước mặt Thượng Đế để Ngài chứng kiến và cho lên Thiên Đàng trước ngày tận
thế”1.
Giáo chủ của các “tôn giáo mới” ra sức tuyên truyền kiếp nạn diệt thế để khủng
bố, bức bách tư tưởng tín đồ, rêu rao ngày Tận thế sắp đến, chỉ có ai theo họ thì mới
được cứu thoát. Các tín đồ đều tin một cách mù quáng vào ngày Tận thế. Họ nhất loạt
chuẩn bị chờ đón cái chết đến, không quan tâm đến cuộc sống nữa. Họ ngừng lao
động, ra sức phá hủy, tiêu tán tất cả của cải vật chất. Đặc biệt, ở nông thôn các tín đồ
cuồng nhiệt giết trâu bò để ăn uống, nhảy múa say sưa chờ đợi ngày Tận thế.
Ví dụ, các linh mục đứng đầu dòng Dami ở Hàn Quốc đã đưa ra lời tiên tri về
ngày Tận thế sẽ bắt đầu từ nửa đêm 28/10/1992 với cuộc Đại thế chiến thứ ba nổ ra,

1

Mai Thanh Hải, Ngày tận thế và hiện tượng các “tôn giáo” cực đoan, Nghiên cứu Tôn giáo, số 3, 2000.
15


cuộc đại hồng thủy sẽ hủy diệt loài người trong vòng 8 năm. Có tới 20.000 tín đồ đã
mù quáng tin và đi theo, họ tiêu tán, đập phá tài sản và tụ tập đón chờ ngày Tận thế.
Trong các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Australia… cũng có hàng chục đạo kì
quái ráo riết hoạt động “đón” ngày Tận thế theo cách riêng của mình. Có khoảng hơn

một nửa số đạo này vạch ra các cách khác nhau nhằm tự sát tập thể sau khi đã đem
toàn bộ của cải ra góp với giáo chủ để cùng nhau ăn uống, nhảy múa cuồng loạn.
Như vậy, việc gia nhập các “tôn giáo mới” rồi tự cách ly mình ra khỏi tập thể,
không còn tham gia sản xuất lao động, giành hết thời gian và sức lực cho việc cúng tế
và chờ đón ngày Tận thế đã tác động rất tiêu cực đến đời sống kinh tế. Nó làm giảm
số lượng và chất lượng của “lực lượng sản xuất”, phá hoại sản xuất.
2.1.2. Chính trị - xã hội
2.1.2.1. Vi phạm pháp luật, rối loạn trật tự an ninh xã hội, xâm hại đến nhân
phẩm, sức khỏe và tính mạng con người
Hiện nay, ở Mỹ và nhiều quốc gia khác, các nhà chức trách đang vô cùng đau
đầu khi mà một bộ phận thanh niên với tư tưởng ngông cuồng, điên loạn, thích những
cảm giác mạnh, man rợn tìm đến các tổ chức “tôn giáo mới”, thậm chí là lập ra những
tà đạo mới. Và một khi những thành phần này nổi “máu điên” thì chắc chắn sẽ có
người hoặc nhiều người bị sát hại một cách dã man. Đặc biệt là trong tình hình hiện
nay, chủ nghĩa khủng bố đã lan tràn, đến tận mọi ngõ ngách trên thế giới.
Tiêu biểu như giáo phái “Quỷ Sa tăng”, xuất phát từ nước Mỹ sau đó được các
môn đệ lan tỏa ra khắp thế giới với những mớ giáo lí quái đản: “tự ta là đế vương, trên
ta không có ai khác, cuộc sống trên trần gian chỉ là bước chuẩn bị để xuống địa ngục
mà ở đó ta sẽ hành hạ những đứa là kẻ thù của ta”. Nghi lễ của chúng đầy man rợ và
khiếp đảm, đó là các cuộc giết người, hiến tế cho Quỷ Sa tăng. Các tín đồ của môn
phái này thường cắt máu nạn nhân để uống và nhảy múa điên loạn. Sau đó thì những
tên này tự sát tập thể lần lượt bằng dao, rìu, búa. Tà đạo “Quỷ Sa tăng” đã trở thành
nỗi kinh hoàng tại các nước Âu Mỹ.
16


Hay ở Nhật Bản, ngày 20/3/1995, cả nước Nhật kinh hoàng vì hóa chất độc
sarin. Giáo phái AUM đã gây ra vụ tấn công bằng hơi độc sarin ở một nhà ga xe điện
ngầm Tôkyô làm 12 người chết và 5.000 người bị ngộ độc.
“Dịch bệnh” ngày Tận thế được các “tôn giáo mới” cuồng nhiệt rao giảng, lan

truyền cũng đã gây ra tác hại to lớn: hàng loạt các vụ tự sát tập thể và các vụ dùng bạo
lực tấn công xã hội thế tục, mà tổng số người thiệt mạng sẽ làm nhiều người phải giật
mình.
Loại thứ nhất là kích động tín đồ tự sát tập thể trước ngày Tận thế (họ gọi là
thăng thiên).
Năm 1978, giáo chủ giáo phái “Ngôi đền của nhân dân”, Jim Jones tuyên bố
ngày Tận thế sắp đến, triệu tập toàn thể tín đồ, uống thuốc tự sát, làm 912 người thiệt
mạng2.
Vụ tự sát tập thể của giáo phái “Thiên môn” ở Mỹ, 39 người tự tử, gồm 21 nữ và
18 nam, nằm trong độ tuổi 28 - 72. Họ tử tự bằng cách ăn bánh hoặc uống nước ép từ
quả táo cùng thuốc ngủ và rượu vodka. Vẻ mặt của họ rất bình thản, tựa như đang ngủ
say3.
Ở Thụy Sĩ, đêm 4 rạng sáng 5/10/1994, cảnh sát đã tìm ra tổng cộng 47 xác chết
bị thiêu cháy, tất cả đều là thành viên của giáo phái “Ngôi đền mặt trời”. Cảnh sát
cho biết tuy thi thể người chết có vết đạn, nhưng không có dấu hiệu kháng cự tại hiện
trường. Điều đó nói lên rằng họ đều tự nguyện chọn lấy cái chết. Cái chết tập thể của
giáo phái “Ngôi đền mặt trời” đã khuấy động đất nước Thụy Sĩ yên tĩnh4.
Loại hành động cực đoan thứ hai là dùng bạo lực tấn công xã hội thế tục.
Ở Anh (xứ sở đang có hơn 600 đạo kì quái), đạo “Đội quân của Chúa Giêsu”
tập trung tín đồ say sưa chè chén, nhảy múa suốt “mùa chay” trước ngày lễ Phục sinh,
mong Chúa báo ứng xem cần giết kẻ nào lấy máu bôi vào người để tránh ma quỷ ám
2

Xem Trần Nghĩa Phương, Vấn đề “tôn giáo mới” trong công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc,
Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, 2001.
3
Xem N.H, Vén bức màn bí ẩn về giáo phái “Thiên môn” và vụ tự sát tập thể ở Mỹ, Báo Tiền phong, số 33, 1997.
4
Xem Bóc trần những điều quái gở của giáo phái, Báo Giáo dục và thời đại, số 14, ngày 7/4/1996.
17



hại vào ngày Tận thế. Chỉ trong hai tháng, đã có hàng chục người bị giết hại một cách
bí mật và dã man. Cảnh sát nghi ngờ thủ phạm nằm trong các loại đạo kì quái này.
Đặc biệt, nhiều “đạo lạ” này đều chọn phương thức sinh hoạt tập thể theo kiểu
công xã để dễ bề khống chế. Để xây dựng và duy trì phương thức này, các giáo chủ
tìm mọi cách dụ dỗ hoặc cưỡng bức tín đồ quyên hiến tài sản, hô hào tín đồ cách biệt
với gia đình. Như vậy là những kẻ cầm đầu đã có hành vi xâm phạm tài sản, thậm chí
là nhân phẩm của nhiều công dân.
Giáo chủ giáo phái AUM bắt tín đồ phải hiến toàn bộ tài sản cho tổ chức. Ai
không nộp sẽ bị tay chân của giáo chủ bắt cóc và thủ tiêu.
Giáo chủ giáo phái “Ngôi đền của nhân dân”, Jim Jones quy định cho mỗi tín
đồ phải nộp một phần lương theo tỉ lệ nhất định, có khi đến hơn 25%.
Giáo phái David quy định tín đồ phải nộp toàn bộ tiền lương, tiền gửi ngân hàng.
Giáo chủ giáo phái “Ngôi đền mặt trời”, Luc Jouret bắt các tín đồ của mình bán
hết tài sản và đem nộp toàn bộ.
Giáo chủ giáo phái “Anh em những người da trắng” sai trẻ em lấy trộm tiền bạc,
đồ trang sức của gia đình đem nộp, dụ dỗ thanh niên thoát li khỏi gia đình, hiến thân
cho “Thượng đế sống”, “Thánh Mẫu Malira”,…
Bằng sự lừa gạt này, các giáo chủ tà giáo đã nắm trong tay một nguồn tài sản vô
cùng lớn. Từ đó tỏ ra ngông nghênh, hống hách, nắm quyền sinh quyền sát đối với các
tín đồ. Còn các tín đồ sau khi đã giao tất cả tiền của cho giáo chủ thì trở thành kẻ tứ
cố vô thân, chỉ còn cách duy nhất là nghe theo lời sai khiến của giáo chủ, nhẫn nhục
trong hoàn cảnh bị cưỡng bức và cách biệt với người thân gia đình.
Ở Việt Nam, hoạt động của các “đạo lạ” cũng đã gây nên những ảnh hưởng nhất
định đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo. Vào những
thập niên cuối thế kỉ XX, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chuyển
từ nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, ở nhiều nơi trong phạm vi cả nước, những
“đạo lạ” đã xuất hiện, có “đạo lạ” sau nhiều năm ngừng hoạt động nay xuất hiện trở

18


lại, có một số “đạo lạ” được du nhập từ nước ngoài vào. Qua tìm hiểu bước đầu, ở
Việt Nam hiện nay có khoảng 50 “đạo lạ” khác nhau. Trong đó, có nhiều loại hình
“đạo lạ” cực đoan, phản văn hóa như đạo Lưu Văn Ty ở Hà Tĩnh, đạo Phạ Tốc ở Sơn
La, đạo Chặt ngón tay ở Thành phố Hồ Chí Minh… Hoạt động của các “đạo lạ” đang
diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Nhiều
đạo ngay từ khi mới ra đời đã vi phạm pháp luật bởi không đăng kí hoạt động với
chính quyền. Duy nhất có hai trường hợp là xin hoạt động tôn giáo: “Trung Thiên vận
hội” của Lí Xương Lê (Bình Định) và “đạo Cội nguồn” của Khai Minh Châu (thành
phố Hồ Chí Minh). Nó gây khó khăn trong quá trình quản lí và thực hiện chính sách
tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
“Đạo Thầy Ty” còn có tên gọi là “đạo chân đất”, “đạo sex” xuất hiện ở Hà
Tĩnh (1991) do Lưu Văn Ty khởi xướng với những “mớ giáo lí” mê tín, phản khoa
học đã lừa gạt, xâm phạm tài sản và nhân phẩm nhiều người. Y bịa đặt ra cái gọi là
“Xả phú cầu bần” (bỏ cái giàu sang để nhận lấy cái nghèo đói), “phép thọ kí” (quan
hệ tình dục với “người trời”, chính là y) để trừ ma quỷ, dục lậu trong người, hành xác
(tu luyện trong bụi gai, cởi quần áo phơi nắng, ăn ở giữa đất, …).
Với kiểu hành đạo quái dị này đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về mặt xã
hội. Nhiều em học sinh và cả những người phụ nữ có tuổi vì sự nhẹ dạ cả tin đi theo
sự lôi kéo của bọn tay chân Lưu Văn Ty đã phải gánh chịu một cuộc sống nhục nhã,
đau khổ, luôn bị hành hạ, đe dọa. Cuộc đời của nhiều cô gái đã bị hủy hoại vì “phép
thọ kí” và quan hệ tình dục bừa bãi khi hành lễ. Nhiều nhà khuynh gia bại sản, nhiều
người trở thành thân tàn ma dại vì lối hành khất quái đản của Ty.
Đồng thời, không chỉ xâm hại, chà đạp nhân phẩm của những người phụ nữ, Ty
còn bòn rút từ những số tiền cúng dưỡng của đạo hữu (khoảng trên 600 triệu đồng) để
phục vụ cho cuộc sống sung sướng của bản thân. Không chỉ đi ngược lại sự phát triển
của xã hội, gây mất trật tự an ninh, tà đạo “chân đất” còn gây ô nhiễm môi trường với
việc “hóa lễ để “ban phước âm” (tín đồ dỡ nhà đem đốt hoặc thả trôi sông, chặt hết

cây cối trong vườn, chôn gia súc gia cầm, đốt quần áo…)
19


Đạo Phạ Tốc ở bản Pá Hè (Sơn La) do Cà Văn Liêng dựng lên. Những câu
chuyện hoang đường, những trò lừa bịp của Liêng và cha của y là Cà Văn Héo đã lừa
gạt dân trong bản tin theo. Y lấy rễ cây rồi tẩm đường sao khô, gọi là thuốc Gia Rưng
(thuốc trường thọ) lừa gạt là uống một viên sẽ sống thêm 3 năm và mang bán cho dân
với giá một đồng bạc trắng một viên. Y còn mua viên bi ve ngoài chợ và nói đó là
“ngọc trời”, ai muốn lên Mương Nưa thì phải mua và bán 10.000 – 20.000 đồng một
viên. Nguy hại hơn là khi chính quyền biết chuyện, sợ phải trả lại số tiền lớn đã chiếm
đoạt và sợ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, Liêng đã tập trung mọi người trong
bản đến nhà “triển khai gấp kế hoạch lên Mương Nưa”, gây nên vụ thảm sát ngày
2/10/1993 làm tổng cộng 53 người chết và 5 người bị thương. Không chỉ lừa đảo,
chiếm đoạt tài sản của dân, Liêng đã gây ra đêm máu Pá Hè với sự ra đi oan uổng của
nhiều sinh mệnh (trong đó có cả cháu bé Cà Văn Hữu mới chỉ một tháng tuổi).
Hậu quả của những việc làm mê muội do các “đạo lạ” gây ra đã ảnh hưởng trực
tiếp đến xã hội, vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an ninh xã hội.
2.1.2.2. Chống chính quyền
Không chỉ dừng lại ở các hành vi cực đoan chống lại xã hội, chống lại pháp luật,
làm rối loạn xã hội, một số “hiện tượng tôn giáo mới” còn có những biểu hiện, hành
động chống đối chính quyền, chống lại chính phủ, thậm chí là có mưu đồ tiến tới lật
đổ chính quyền.
Biểu hiện về mặt giáo lí là ra sức tuyên truyền, thuyết giáo cuồng nhiệt xây dựng
thiên quốc trên trần thế. Biểu hiện về mặt hình thức tổ chức là xây dựng một cơ cấu
giáo phái kiểu chính giáo hợp nhất hoặc mô phỏng chế độ nội các (của các nước
phương Tây) hoặc mô phỏng chế độ phong kiến (của một số nước tàn dư tư tưởng
phong kiến còn nặng nề ở phương Đông).
Điển hình là giáo phái AUM chủ trương xây dựng “quốc gia tự trị” lấy AUM
Phật pháp làm cơ sở, đặt ra hiến pháp và kế hoạch lật đổ chính phủ Nhật Bản. Giáo

phái này đã lập ra hơn 20 bộ phận tương tự như thể chế nội các của Nhật Bản.
20


Giáo phái AUM ra sức quân sự hóa, lập ra nội các quân sự hóa, có bộ phận phụ
trách phòng giữ, có bộ phận ứng phó với cảnh sát, có bộ phận phụ trách chuẩn bị tác
chiến, xây dựng kế hoạch vũ trang, có bộ phận phụ trách nghiên cứu vũ khí vi trùng,
… Để thực hiện kế hoạch này, AUM đã từng đề nghị Mỹ giúp kĩ thuật cao, đề nghị
Nga giúp vũ khí sát thương hàng loạt, tìm uranium ở Úc, tiến hành thí nghiệm tác
động của khí độc lên thần kinh. Đặc biệt, thông qua Đội phòng vệ Nhật Bản, giáo phái
này nắm được kĩ thuật chỉ huy quân sự và kĩ thuật sản xuất vũ khí hạt nhân, vũ khí vi
trùng và khí độc. Tiến hành thu hút các sinh viên, nhà khoa học giỏi của các trường
đại học có danh tiếng uy tín trong nước làm hạt nhân cho các lớp nghiên cứu sản xuất
khí độc và xưởng hóa học. Giáo phái AUM đã chế tạo hóa chất độc sarin-một chất
độc được bác sĩ Gerhard Schrader chế tạo vào năm 1938 để giúp Đức quốc xã làm vũ
khí hóa học và sinh học chống lại Đồng minh.
Hay giáo phái “Ngôi đền mặt trời” có quan hệ mật thiết với thế lực phát xít mới.
Giáo chủ Luc Jouret đã từng có quan hệ rất chặt chẽ với tập đoàn khủng bố hoạt động
ở Canađa, rồi sau đó tham gia tà giáo “Dòng phục hưng đền thánh”5.
Các giáo phái đó lấy chuyện ngày Tận thế và xây dựng thiên đường trên thế gian
để ra sức tăng cường quân sự hóa chống lại chính phủ. Giáo chủ Khoresh lấy danh
nghĩa tự vệ, từ tháng 10/1991 đến tháng 7/1992 đã chi 20 vạn đôla mua một lượng lớn
vũ khí, cất giấu trái phép trong kho và hầm ở trang trại của giáo phái. Trong đó có
súng bộ binh (AK14, AR15, M16), súng máy, súng ngắn, hơn 8.000 bảng đạn dược,
260 hòm súng… nhiều linh kiện có thể lắp ráp thành vũ khí tự động. Trong trang trại
của giáo phái còn có phân xưởng lắp ráp vũ khí và nhân viên kĩ thuật chuyên môn. Y
còn tổ chức cho tín đồ xem phim diễn tập quân sự và tổ chức huấn luyện quân sự
nghiêm ngặt. Khi cảnh sát Mỹ bao vây, họ còn chống cự lại bằng vũ khí kéo dài 45
phút, bắn chết 4, làm thương 16 nhân viên vũ trang Mỹ.
Có loại tà đạo này còn cuồng nhiệt phá hoại cục diện cải cách, làm tổn hại hình

tượng của Đảng (thông tri của TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 19/7/1999). Đó
5

Xem Trần Nghĩa Phương, Vấn đề “tôn giáo mới” trong công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc,
Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, 2001.
21


chính là “Pháp luân công” do Lý Hồng Chí sáng lập. Giáo phái này tuyên truyền tư
tưởng phản động: ngày Tận thế con người sẽ bị hủy diệt, khoa học kĩ thuật hiện đại
cũng phải bất lực, chính phủ không làm được gì, chỉ có “Pháp luân công” mới cứu
được nhân loại, chỉ có Lý Hồng Chí mới giúp mọi người lên Thiên đường, muốn vậy
phải chuyên tâm luyện Pháp luân công, không được đi theo một tín ngưỡng nào cả.
“Pháp luân công” có tổ chức chặt chẽ với mạng lưới chân rếp sâu rộng khắp các tỉnh
thành của Trung Quốc. Giáo phái còn có Hội nghiên cứu Đại pháp luân công ở Bắc
Kinh để chỉ đạo hoạt động, bao gồm 39 trung tâm mẹ, 1.900 trung tâm con, 28.000
địa điểm tập trung luyện tập, hơn 10.000 tổ cơ sở trên khắp cả nước. Đồng thời, Lý
Hồng Chí cho in hàng loạt băng đĩa để bán cho các tín đồ luyện tập, mở các dạy luyện
công. Ngày 25/4/1999, “Pháp luân công” tổ chức hàng vạn người biểu tình ở Bắc
Kinh, đưa yêu sách đòi chính quyền thành phố Bắc Kinh cho phép họ được tự do hoạt
động, bãi bỏ lệnh cấm các ấn phẩm của họ in ra, đòi chính phủ cho họ hoạt động quy
chế chính thức. Chính phủ và cơ quan an ninh Trung Quốc đã nhận thức đầy đủ tính
chất và tác hại to lớn của “Pháp luân công” nên kịp thời đối phó.
Ở Việt Nam, điển hình là“hiện tượng Hà Mòn” ở Tây Nguyên do bà Y Gyin
sáng lập. Tây Nguyên vốn là mái nhà của nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, là một
trong những vùng dễ bất ổn về chính trị. Sự ra đời của “đạo lạ” Hà Mòn đã làm tình
hình ở đây thêm phần phức tạp, khó khăn. Y Gyin tự đặt ra các “giáo luật” kỳ quái
buộc người “theo đạo” phải nghe theo, nếu không sẽ bị “Đức Mẹ” phạt: trong gia đình
nếu chồng hoặc vợ theo “đạo Hà Mòn” mà người kia không theo thì phải bỏ nhau;
người theo đạo không được uống rượu, không sinh hoạt cồng chiêng, không tập trung

đến nhà rông (thế là nhiều ghè rượu đẹp được lưu truyền trong gia tộc nhiều đời bị
người theo “đạo” của bà Y Gyin đập nát, những bộ chiêng bị xếp vào xó nhà và không
ai ra sinh hoạt cồng chiêng nữa). Người theo “đạo Hà Mòn” không được tiếp xúc với
người lạ, không đi học chữ, lấy nhau không cần làm đám cưới và không đăng ký kết
hôn; không tham gia các sinh hoạt, hoạt động do chính quyền, đoàn thể tổ chức và
không được nhận sự giúp đỡ của chính quyền. Đạo Hà Mòn còn tuyên truyền những
22


điều ma mị: theo “đạo Hà Mòn” thì không làm cũng có ăn, bị bệnh không uống thuốc
vẫn khỏi, thiếu nợ ngân hàng, nợ của nhà nước chỉ cần đọc nhiều kinh cầu nguyện sẽ
được xóa nợ và ai đọc kinh càng nhiều thì sẽ được Đức Mẹ đón lên thiên đàng sớm.
Do đời sống kinh tế khó khăn, nhận thức hạn chế nên tin theo giọng điệu hão
huyền, ma mị rỉ tai ấy đã thu hút khá đông người dân trong vùng theo và lan ra các
tỉnh khác. Số người theo Hà Mòn trên 3.500 người thuộc hai dân tộc Ba na và Sê đăng
ở 34 thôn, làng của 17 xã thuộc 11 huyện trên địa bàn 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và
Đắklắk (thời điểm năm 2011)6.
“Hiện tượng Hà Mòn” đã đem lại hậu quả không tốt đến đời sống nhân dân, an
ninh trật tự của khu vực, dễ bị các thế lực phản động lợi dụng cho mục đích chính trị.
Các cháu học sinh là con em gia đình theo “hiện tượng Hà Mòn” bỏ học nhiều,
ảnh hưởng đến việc học của các cháu, đến việc giáo dục chung của các trường ở khu
vực miền núi và ảnh hưởng đến nhận thức của người dân tộc vốn ít coi trọng sự
nghiệp học tập của con em (tại xã Ea Yiêng huyện Krông Pách, tỉnh Đắk Lắk cuối
tháng 4/2012 có 113 học sinh các cấp bỏ học). Việc tin chữa bệnh bằng cầu nguyện,
những điều nhảm nhí thay bằng đến các cơ sở y tế đã làm ảnh hưởng đến sức khỏe
của người dân; ảnh hưởng đến nhận thức trở lại của người dân tộc về việc chữa bệnh
bằng cầu cúng, bùa ngải.
Hoạt động của “hiện tượng Hà Mòn” đã vi phạm pháp luật về tôn giáo, là một tổ
chức không được Nhà nước công nhận, nhưng vẫn hoạt động, xúi dục, cưỡng ép
người dân theo; xúi dục tín đồ Công giáo bỏ đạo; tụ tập đông người để hành lễ.

Trong quá trình hoạt động “Hà Mòn” đã bị bọn Fulro lợi dụng, móc nối với
những phần tử đứng đầu các nhóm, lập ra bộ khung Hà Mòn Tây Nguyên và phân
công người phát triển “điểm nhóm Hà Mòn”. “Đạo lạ” này ảnh hưởng đến an ninh,
trật tự của cả khu vực với việc tuyên truyền gây chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc
6

Xem
/>ng_van_de_can_quan_tam (9h42pm 9/10/1012)
23


trong khu vực, giữa tín đồ Công giáo và người theo “hiện tượng Hà Mòn”; những
người đi theo tự nhận là “Công giáo Đêga”, tập hợp lực lượng gây mất ổn định về an
ninh ở một số địa bàn. Mục đích của bọn Fulro là phát triển, nhân rộng “Hà Mòn” để
nhà nước phải công nhận là “tôn giáo riêng” và tiếp tục lợi dụng tôn giáo này vào mục
đích phản động.
“Hà Mòn” là hiện tượng mang nặng tính dị đoan, mê tín, ra đời tại Tây Nguyên
lại là nơi mà tàn dư của bọn Fulro hoạt động nên rất dễ bị lợi dụng vào các hoạt động
vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc, làm băng hoại các giá trị
văn hóa, tín ngưỡng truyền thống và tôn giáo thuần túy của các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên; bị lợi dụng vào mục đích chính trị khi bọn Furlo lợi dụng để dựng lên cái gọi
là “Công giáo Đề ga” hay “Thiên Chúa giáo Đề ga” để tập hợp lực lượng, tuyên
truyền hoạt động ly khai, tự trị của Ksokok và đồng bọn chống phá Nhà nước và Đảng
ta7.
Như vậy, sự ra đời và hoạt động của các hiện tượng “tôn giáo mới” ngày càng
phức tạp và khó kiểm soát, quản lí. Nhiều “tôn giáo mới” đã có các hành vi vi phạm
pháp luật, làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, thậm chí là chống chính quyền. Bằng
việc truyền bá các đạo phản văn hóa, đưa ra các luận điệu gây hoang mang trong quần
chúng nhân dân đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống chính trị - xã hội của các quốc
gia.

2.1.3. Văn hóa – tư tưởng
2.1.3.1. Bức tranh tôn giáo càng trở nên phức tạp
Sự ra đời của nhiều “hiện tượng tôn giáo mới” làm cho bức tranh tôn giáo càng
trở nên phức tạp. Chúng phá vỡ quá trình vận động của tôn giáo truyền thống, chia rẽ
sự cố kết của tôn giáo đó. Có thể dẫn đến các cuộc xung đột tôn giáo, mà chủ yếu là
xung đột trong việc tìm kiếm, lôi kéo, tranh giành tín đồ cũng như mở rộng phạm vi
truyền bá, phạm vi ảnh hưởng.
7

/>24


Các tôn giáo truyền thống vốn có cả một quá trình lịch sử ra đời và phát triển lâu
dài, có hệ thống tín đồ rộng khắp. Trong khi đó, “hiện tượng tôn giáo mới” vừa mới
xuất hiện, để lôi kéo tín đồ, chúng ra sức bôi nhọ các tôn giáo truyền thống.
2.1.3.2. Giáo lí của các “hiện tượng tôn giáo mới” làm cho tâm lí xã hội
nghiêng về tư tưởng hữu thần, thu hẹp khoa học vô thần
Đối với vấn đề an ninh tư tưởng, với việc truyền bá những giáo lí hỗn độn, mang
nặng tính mê tín dị đoan của các “hiện tượng tôn giáo mới” làm cho tâm lí xã hội
nghiêng về tư tưởng hữu thần, thu hẹp khoa học vô thần. Đặc biệt, nhiều trào lưu “tôn
giáo mới” còn tuyên truyền có khả năng chữa bách bệnh với những phương pháp vô
cùng đặc biệt, phản khoa học. Thuốc chữa bệnh có thể chỉ là tàn hương, nước lã hay
thậm chí chỉ cần chăm chỉ đọc kinh là sẽ hết bệnh tật. Rõ ràng đây chỉ là những luận
điệu lừa bịp, mê tín, dị đoan. Nhưng có vô số người nhẹ dạ cả tin rồi nhận lấy hậu quả
“tiền mất tật mang”, thậm chí là bỏ mạng.
Ở Việt Nam có đạo nói tiếng lạ với phương châm chữa bệnh quái gở là họp
nhóm, hát thánh ca, cầu nguyện bằng tiếng lạ. Nhiều người tin theo, trong đó có bà
Nguyễn Thị Dung (trú ngụ 49/438 Trần Bình Trọng, Gò Vấp) bản thân đau ốm vì lao
phổi nhưng tin nói tiếng lạ sẽ chữa lành bệnh để rồi thiệt mạng vì bệnh và suy kiệt cơ
thể.

“Hiện tượng Long Hoa Di Lặc” cũng có chủ trương mê tín, dị đoan: khi bản
thân ốm đau hoặc súc vật trong nhà gặp bệnh, hoa màu, cây trái trong vườn bị mất
mùa chỉ cần lấy nước đặt trên bàn thờ vẩy vào là khỏi. Chính sự tuyên truyền mớ giáo
lí nhảm nhí đó đã gây nên bao cảnh thương tâm. Chẳng hạn như trường hợp của cháu
Nghiêm Hữu Lương, 3 tuổi ở Thiết Bình, Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội bị bệnh tiêu
chảy. Nhưng bố cháu nhất quyết không cho đưa đến bệnh xá mà để ở nhà và chữa
bằng tàn hương nước lã, cuối cùng chết một cách oan uổng. Hay chị Hoàng Thị Loan,
37 tuổi bị kiệt sức sau khi sinh nhưng vì tin theo đạo, không để mọi người đưa đi bệnh
viện mà chỉ ở nhà cầu khấn, dùng tàn hương nước lã nên đã chết sau vài ngày.
25


×