TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
******
Tiểu Luận
Đề tài: Tư Tưởng Lão – Trang Trong Hát Nói
Họ và tên:
Lê Công Hiệp
Lớp:
cao học 2017
Chuyên ngành:
Văn học Việt Nam
Huế, ngày 6, tháng 3, năm 2018
Phần Mở Đầu
Lý do chọn đề tài
Ngay từ khi tiếp xúc với chữ viết và văn học, nước ta đã từng bước đánh dấu sự
trưởng thành và phát triển trên con đường học thức sáng tác văn chương với nhiều
tác phẩm có giá trị trường tồn được thế giới công nhận.
Cùng với sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc, nhiều thể tài, thể loại văn học
mới xuất hiện, mang đậm dấu ấn dân tộc đồng. Đồng thời cho thấy sức sáng tạo
của người Việt và quá trình dần thoát khỏi cái bóng của văn học Trung Hoa.
Trong số các hình thức thơ thuần việt, chúng tôi có mối quan tâm mang tính cách
đặc biệt đối với hát nói với tư cách là một thể tài văn học. Ở hát nói chúng tôi tìm
thấy được những nét rất khác biệt so với thơ thông thường. Nó là một loại hình văn
học nhưng cũng là một loại hình biểu diễn. Ngoài ra nó khác với những loại hình
thơ bác học khác, chúng tôi tìm thấy ở nó sự tự do, phòng khoáng trong cách diễn
đạt. Hơn nữa nó không phải thể loại ràng buộc chặt chẽ về niêm luật. Ở nó, người
ta có thể bộc lộ tròn đầy những tâm tư tình cảm muốn nói. Đặc biệt, nó tuy là một
thể tài văn học xuất hiện ở thời kỳ trung đại, tuy nhiên nó ra đời khi mà Nho giáo
đã bắt đầu bộc lộ những điểm hạn chế.
Với những nét đặc sắc ấy, thế nhưng mọi người vẫn còn rất mơ hồ về nó. Thậm chí
có những người chưa từng nghe về hát nói. Có những người khi nhắc đến hát nói
người ta chỉ nghĩ đến đó là hát ca trù. Họ đồng nhất hát nói là hát ca trù, mà quên
đi nó còn lại một thể tài văn học rất độc đáo.
Từ đó chúng tôi nghiên cứu đề tài tư tưởng Lão – Trang trong hát nói, với hy vọng
cung cấp cho mọi người cái nhìn khái quát về hát nói cũng như sự ảnh hưởng của
tư tưởng Lão – Trang trong hát nói.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, bố cục của tiểu luận bao gồm:
Chương 1: sơ lược về hát nói
Chương 2: những mặt biểu hiện của tư tưởng Lão – Trang trong hát nói
Phần Nội dung
Chương 1: Sơ lược về hát nói
1.1 Tổng quan về hát nói
1.1.1 Hát nói – với tư cách
là một loại hình biểu diễn sân khấu
Hát nói là một trong hơn bốn mươi thể cả trù – loại hình diễn xướng sân
khấu xuất hiện ở nước ta vào khoảng dưới triều Lý. Sở dĩ dám khẳng định như vậy
là bởi vì, dưới các triều đại tiền triều: Ngô, Đinh, Tiền Lê hay thậm chí là trước đó
nữa không hề thất ghi chép bất cứ điều gì về vũ và nhạc. Mãi đến thời nhà Lý mới
xuất hiện, chính xác hơn là có ghi chép về nhạc. Thời ấy những người đi hát được
gọi là các con hát, xướng nhi hoặc ca nương. Từ những dẫn chứng trên có thể tái
khẳng định ca trù xuất hiện ở nước ta và khoảng thời nhà Lý.
Nói về nhạc và vũ, ban đầu đây là những hình thức chỉ phục vụ cho vua
quan thưởng thức, và chỉ biểu diễn ở các dịp lễ tết mà thôi. Dần dà theo quá trình
biến thiên của lịch sử các triều đại, nó được phổ biến rộng rãi trong dân gian những
được cải biến sao cho đơn giản hóa và gần gủi với đời sống của người lao động.
Chứ thật ra, những buổi đầu người lao động chân lấm tay bùn đâu có nhu cầu về
giải trí và thưởng thức. Hay thậm chí họ còn không được tiếp xúc với những kiến
thức của Nho giáo thì lấy đâu để sáng tác và thưởng thức nhạc.
Ca trù có ba lối hát chính: hát chơi, hát cửa đình và hát thi. Trong đó, hát
chơi là lối hát ra đời sớm nhất vào khoảng dưới triều hậu Lê. Trong hát chơi, lại
gồm 15 thể: Bắc phản, Mưỡu, Hát nói, Gửi thư, Đọc thơ, Đọc phú, Chừ khi, Hát
ru, Nhịp ca cung bắc, Tỳ bày Kể chuyện, Hãm, Ngâm vọng, sấm cô đầu, Ả phiền.
Như vậy, hát nói là một trong 15 thể cả lối hát chơi. Hơn nữa có thể hát nói ra đời
vào khoảng triều hậu Lê. Tên gọi của thể này gắn chặt với ý niệm về lối hát ca trù,
người hát phải vừa hát vừa nói những đoạn lời hát theo những giai điệu nhất định
đi liền với những lời nói thường, tất nhiên là đã có cách điệu.
Dưới đây là hình thức diễn xướng của hát nói:
Người ca nữ (còn gọi là đào nương, ả đào hay cô đầu) vừa hát vừa gõ hai que gỗ
gọi là phách lên một cái sênh để làm nhịp; bên cạnh là một người kép gầy đàn theo
-đàn này được gọi là đàn đáy, chỉ được chơi duy nhất ở thể loại ca trù mà thôi;
trước mặt có một ông quan viên đánh những tiếng trống nhỏ để đệm vào gọi là cầm
chầu. Tiếng hát, tiếng phách, tiếng đàn và tiếng trống phải ăn nhịp với nhau theo
những luật riêng về tiết điệu. [3,tr 36]
Gọi là hát nói vì đây là một thể pha trộn giữa nhạc và thơ, có thể vừa hát vừa
nói. Những bài hát nói lúc biểu diễn thường do ca nữ đặt sẵn để biểu diễn. Nhưng
đôi khi có các quan viên cao hứng sáng tác ngay tại chỗ và nhờ ca nữ hát. Nguyễn
Công Trứ là một trong số các quan viên cao hứng ấy.
Như vậy, hát nói qua tiến trình hình thành và phát triển của mình đã để lại
dấu ấn khó phai trong lòng văn hóa dân tộc. Nó dần trở thành loại hình văn nghệ
dân gian không thể thiếu trong văn hóa tinh thần cảu người Viết. Đặc biệt, nó góp
phần hình thành nên một thể tài mới, độc đáo mang màu sắc Việt Nam.
Hát nói – một thể tài văn học
Cũng như kịch bản văn học và kịch, hát nói với tư cách là một thể tài văn
học cũng song hành với loại hình biểu diễn hát nói. Hát nói với tư cách là một thể
tài văn học thực chất ban đầu là những bài soạn thảo của các quan viên cao hứng
sáng tác sau đó nhờ các ca nương biểu diễn. Về sau được hệ thống lại, biên soạn lại
và quy ước thành một thể tài văn học.
Một bài hát nói hoàn chỉnh gồm 2 phần: phần thơ và phần nhạc. Ở đây, chỉ
xin nói đến phần thơ và xin tạm lược phần nhạc vì nó không liên quan đến chủ đề.
Trong một bài hát nói (phần lời) lại gồm 2 phần nhỏ: phần mưỡu và phần chính
(một số tài liệu gọi là phần hát nói).
Phần Mưỡu
Mưỡu là những câu lục bát đi kèm với bài hát nói, thường xuất hiện ở đầu
hoặc cuối bài hát nói nhằm nêu lên tư tưởng, chủ đề của bài hát nói. Như vậy, phần
mưỡu thường không bắt buộc trong một bài hát nói. Nó là phần thêm vào nhằm
diễn đạt chủ đề và tư tưởng của bài hát nói. Nó giống như phần nhan đề trong các
tác phẩm. Vị trí xuất hiện của phần mưỡu thường năm ở đầu gọi là mưỡu đầu hoặc
ở cuối bài gọi là mưỡu hậu. Tùy thuộc vào số lượng câu lục – bát trong phần mưỡu
mà ta có mưỡu đơn (1 câu lục – bát) và mươc kép (2 câu lục – bát).
1.1.2
Ví dụ: đây là bài hát nói có phần mưỡu đầu: Vịnh tiền Xích Bích– Nguyễn Công
Trứ
Mưỡu:
Gió trăng chứa một thuyền đầy,
Của kho vô tận biết ngày nào vơi?
Và đây là bài hát nói có phần mưỡu hậu: Già cưới nàng hầu – Nguyễn Công Trứ
Trẻ tạo hóa ngẩn ngơ lắm việc,
Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau.
Kìa những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ tơ đào còn manh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất tọa lê hoa áp hải đường.
Từ đây là tạc đá, nghi vàng.
Bởi đâu trước lựa tơ, chắp chỉ.
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
Tình đã chung lứa cũng phải vam,
Suốt kim cổ lấy làm phận sự,
Trong trần thế duyên duyên, nợ nợ,
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành.
Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một với mình là hai.
Càng già, càng dẻo, càng dai!
Phần chính
Hiện nay còn rất nhiêu tranh luận về bố cục của một bài hát nói. Thạc sĩ
Nguyễn Xuân Viện trong bài nghiên cứu Vị trí của hát nói trong dòng văn học chữ
Nôm chia bài hát nói thành 5 khổ: Số câu trong bài: 11 câu, 4 câu mưỡu
- Câu 1 và 2:
- Câu 3 và 4:
- Câu 5 và 6:
Tổng mạo
Thừa đề
Dùng thơ Thất ngôn / Cổ thi / Thơ Quốc âm
- Câu 7, 8, 9,10: Triển khai ý câu 5 và 6
- Câu 11: Tổng kết toàn bài.
Học giả Dương Quảng Hàm, thạc sĩ Trần Thị Hoài Dương trong luận văn tốt
nghiệp Nguyễn Công Trứ với thể tài hát nói, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi trong cuốn từ điển thuật ngữ văn học lại chia hát nói thành 3 khổ:
- Khổ đầu (4 câu) : câu 1-2 là lá đầu, câu 3-4 là xuyên thưa
- Khổ giữa (4 câu) : câu 5-6 là thơ luật (có thể là chữ Hán hoặc
Chữ Nôm), câu 7-8 là xuyên mau
- Khổ xếp (3 câu) : câu 9 là dồn, câu 10 là xếp, câu 11 là keo
Các nhà nghiên cứu Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong cuốn Việt Nam ca trù
biên khảo và một nhà nghiên cứu tên Huỳnh Vũ Hoàng Tuấn lại chia hát nói thành
6 khổ:
Khổ nhập đề : Câu 1 và 2, mở bài.
Khổ xuyên tâm : Câu 3 và 4.
- Khổ thơ hay Khổ đan : Câu 5 và 6, là hai câu thơ chữ Hán hay quốc âm (chữ Việt),
thường là 2 câu thơ đối nhau nêu ý chính của bài Hát.
- Khổ xếp : Câu 7 và 8.
- Khổ rải : Câu 9 và 10.
- Khổ kết: Câu 11, tóm tắt ý chính của toàn bài.
Nhưng tựu chung lại, cách chia của học giả Dương Quảng Hàm, Nguyễn Khắc Phi,
Trần Đình Sử, Lê Bá Hán là cách chia được nhiều người tán thành nhất, bởi nó đơn
giản, dễ nhớ.
1.2 Nguồn gốc ra đời và quá trình phát triển
-
Hiện nay, người ta không thể tìm ra chính ra thời điểm mà hát nói xuất hiện,
tuy nhiên qua những cứ liệu lịch sự chúng ta chỉ có thể khoanh vùng thời gian mà
thôi. Như đã đề cập ở phần trên, Hát nói là 1 trong 15 thể của hát chơi - 1 trong 3
lối hát chính của Ca trù. Hát chơi ở thời hậu Lê đã tồn tại. Ngoài ra, theo Phạm
Đình Hổ Vào niên hiệu Hồng Ðức (1470 - 1497), đời Lê Thánh Tông có thể đã
thấy xuất hiện dạng thức sơ khai của thể thơ hát nói. Suy ra hát nói xuất hiện muộn
nhất là thời hậu Lê. Nhưng bản thân ca trù xuất hiện vào khoảng thời Lý. Vì vậy có
thể khẳng định rằng hát nói ra đời vào khoảng từ thời nhà Lý đến thời nhà hậu Lê.
Chính xác hơn là khoảng cuối đời nhà Trần đầu đờn hậu Lê.
Theo Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề thì quá
trình hình thành và phát triển của hát nói - thể tài văn học được chia làm 3 giai
đoạn: sơ khởi - phát triển - suy tàn.
Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn sơ khởi - được tính từ thế kỷ XV - XVI với sáng tác
thơ Hát nói của Lê Đức Mao và Hoàng Sĩ Khải.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển rực rỡ của hát nói mà đỉnh cao là vào đời
Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX với các sáng tác bất hủ của Nguyễn Công Trứ, Cao
Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê...
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn suy tàn, bắt đầu với nền đổ hộ của người Pháp. Tuy
số quan viên, cô đầu tăng gấp bội, nhưng thực chất là để thoả mãn cho những nhu
cầu ăn chơi trác táng trụy lạc chứ không còn giữ nguyên được bản chất của một thú
chơi văn chương tao nhã.
Tuy là suy tàn, nhưng những giá trị, những tác phẩm của hát nói luôn mang
giá trị trường tồn và luôn có sức sống mạnh mẽ trong triến trình văn học Việt Nam.
Chương 2: những mặt biểu hiện của tư tưởng Lão – Trang trong hát nói
Đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, xã hội đầy những biến động rối ren: Lê
suy, Trịnh-Nguyễn phân tranh, Tây Sơn diệt Trịnh, Nguyễn diệt Tây Sơn. Xã hội
rối ren, kẻ sĩ - hiền tài trở nên bất đắc chí với thời cuộc. Hơn nữa, Nhó giáo bây giờ
đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định nếu không muốn nói là tụt dốc nghiêm
trọng. Con người có xu hướng quay về tìm lại chính mình, tìm về với Phật – Lão
nhằm mong tìm thấy sự yên bình nhàn hà chốn tịch mịch. Những tư tưởng ấy được
bộc lộ rất rõ trong thi ca thời bấy giờ. Hát nói cũng không phải là ngoại lệ mà hơn
thế nữa nó là thể loại tốt ưu nhất để lựa chọn. Trước hết, hát nói không mang tính
quy phạm cao, vả lại rất gần gủi với đời thường và sinh hoạt văn hóa tinh thần (ca
trù). Cũng chính vì thế, giai đoạn này, xuất hiện rất nhiều bài hát nói mang đậm tư
tưởng nhàn hạ. Qua đó chứng minh răng trong hát nói giai đoạn này có mang tư
tưởng Lão – Trang. Những bài hát nói tiêu biểu cho điều này phải kể đến: Vịnh chữ
nhàn, Thoát vọng danh lợi, Cầm kỳ thi tửu của Nguyễn Công Trứ; Hỏi Phỗng đá
của Nguyễn Khuyến; Phủ Doãn về hưu của Ưng Bình; Thăm chùa gặp tiểu của
Dương Khuê; Thanh nhàn là lãi của Cao Bá Quát…
2.1 Chán chường chốn của quan
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong con người mỗi nhà Nho luôn chịu ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo. Chính vì thế lúc thời trẻ họ
vùng vẫy chốn quan lộ tìm công danh, khi về già họ lui về sống với núi non, chơi
với hoa, thưởng nguyệt. Điều đó không phải là sai nhưng chưa đầy đủ khi soi chiếu
vào xã hội Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XVII đến đầu XIX – thời điểm xã hội rối
ren chính trị bất ổn. Giai đoạn này, lắm kẻ bất đắc chí với thời cuộc, họ dường như
không thèm khát con đường công danh nữa mà chỉ yêu thích sự nhàn hạ. Cũng có
những kẻ ra làm quan rồi lui, cũng lắm kẻ suốt đời tận tâm cho con đường hoạn lộ
về già lại vui vầy bên cảnh sơn thủy. Nhưng cũng nhiều những kẻ không chọn con
đường hoạn lộ mà chọn lấy cuộc sống điền viên hòa mình với sơn thủy.
Những cơ sự ấy được thể hiện khá rõ nét trong hát nói lúc bấy giờ. Trong
những bài hát nói của Nguyễn Công Trứ thể hiện rất rõ nét những điều trên. Đôi
lúc ông thể hiện mình là kẻ không thèm danh lợi, cũng lắm lúc ông chán nãn chốn
quan trường xem việc bước vào đó là điều ngu muội.
Như trong bài thoát vọng danh lợi:
“Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
Đám phồn hoa trót bước chân vào
Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể.”…
Dù là người từng nắm giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình nhà
Nguyễn, song lắm lúc ông cũng chán nản chốn quan trường. Kinh qua những rối
ren, những thăng trầm chốn quan trường khiến Nguyễn Công Trứ xem việc bước
vào con đường này là một sai lầm: “Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể”.
Hay trong Bài Vịnh chữ nhàn, ông viết:
“So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài.”
“Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài” thể hiện ông không hề nuối tiếc hay bận tâm
đến chốn quan trường. Cớ sao lại vậy? Một con người từng giữ chức thượng thư lại
có những lời nói phủ phàng như thế? Phải chẳng ông đã quá chán nản trước thời
cuộc, chán nản trước cảnh mục ruỗng của chính quyền?
Với Cao Bá Quát thì lại khác, ông chủ trương trả hết nợ tang bồng, dẫu lớn
hay nhỏ vẫn là công danh, không vướng bận không tham công. Chỉ là để trả cái
tang bồng với đời rồi lui về chốn điền viên để hưởng thụ cuộc sống. Cho thấy
dường như kẻ sĩ bấy giờ không còn mặn mà với con đường công danh, trái lại họ
chỉ xem đó như là món nợ với đời, đành phải trả mà thôi.
Hội công danh nhớn nhỏ cũng là
Thôi mặn nhạt đã trải qua mùi thế.
Tìm thú cũ hỏi thăm sơn thủy
Chén hoàng hoa ngồi lắng ngọn thu phòng
(Thanh nhàn là lãi – Cao Bá Quát)
Qua những dẫn chứng trên, có thể thấy với kẻ sĩ bấy giờ, công danh không
còn là lựu chọn tối ưu nữa. Trái lại, bây giờ họ chán chê chốn quan trường, chán
chê trước thời cuộc rối ren. Họ quay về với ruộng vườn, quay về với cuộc sống tự
do tự tại, cuộc sống vui vầy với hoa cỏ chim muông. Đây cũng là điều tất yếu sẽ
đến khi mà xã hội và những giá trị đạo đức Nho giáo đã đi vào thoải trào và xuất
hiện ngày càng nhiều những hạn chế không thể khỏa lấp. Không hành thì tàng,
không xuất thì xử đó là quy luật tất yếu không thể chối bỏ.
2.2 Chữ nhàn trong hát nói
Có thể nói, chỉ với một chữ là có thể biểu hiện trọn vẹn và rõ nét sự ảnh
hưởng của tư tưởng Lão – Trang lên hát nói: đó chính là chữ nhàn. Nhàn không có
nghĩa là không làm gì cả ăn không ngồi rồi, hay là chỉ “ngồi” một chỗ để người
khác tới phục vụ; nhàn có nghĩa là không vướng bận bất cứ thứ gì, thể hiện sự tự
do, tự tại không lo lắng tiền tài danh vọng, không tham lam, sân si sự đời. Theo
văn tự Hán, chữ nhàn (僩) được viết gồm chữ môn (僩) ở ngoài và chữ nguyệt (僩) ở
trong. Như vậy theo Hán tự, chính là một người ngồi trước cửa thưởng nguyệt.
Qua đó cho thấy, chữ nhàn theo Hán tự chỉ một người với một phòng thái tự do,
không lo lắng, vướng bận bất cứ chuyện gì.
Vì sao nói chữ nhàn là biểu hiện trọn vẹn và rõ nhất tư tưởng Lão – Trang
trong hát nói. Điều này phải kể đến quá trình phát triển của Lão giáo. Như đã biết,
Lão Tử là người sáng lập ra Lão giáo, nhưng Trang tử mới là người phát triển và
đưa Lão giáo đến gần hơn với mọi người. Trong quá trình phát triển của mình, Lão
giáo phân chia thành hai hướng chính: Lão giáo thần tiên và Lão giáo phù thủy.
Với Lão giáo thần tiên, các tín đồ tu dưỡng, rèn luyện bản thân hoặc luyện đan để
được trường sinh bất tử. Họ chọn những nơi hoang vắng để rèn luyện, hòa mình
với thiên nhiên; chính vì thế mà làm xuất hiện lối sống ẩn dật. Nó trở thành xu
hướng của kẻ sĩ lúc về già. Và sau này trở thành lựa chọn của những kẻ bất đắc chí
trước thời cuộc.
Vậy chữ nhàn xuất hiện trong hát nói như thế nào? Trong hát nói, có rất
nhiều bài đề cập đến chữ nhàn, có bài thì đề cập cách trực tiếp, có bài lại đề cập
cách gián tiếp. Đề cập trực tiếp như Nguyễn Công Trứ trong Vịnh chữ nhàn, gián
tiếp như Nguyễn Khuyến trong Hỏi phỗng đá, Cao Bá Quát trong Thanh nhàn là
lãi, Ưng Bình trong Phủ Doãn về hưu, Cầm kỳ thi tửu của Nguyễn Công Trứ,…
Như thế, tần suất xuất hiện của chữ nhàn trong hát nói là khá cao với nhiều tác
phẩm và nhiều tác gia. Vậy Bước đầu có thể khẳng định rằng hát nói mang trong
nó tư tưởng Lão – Trang.
Tuy rằng có khá nhiều bài hát nói đề cập đến chữ nhàn, song ở mỗi bài, chữ
nhàn lại mang nội hàn khác nhau.
Với Cao Bá Quát trong Thanh nhàn là lãi, chữ nhàn hiện lên với ý nghĩa là một
cuộc sống giản dị sau khi rời bỏ chốn quan trường, sống với núi non, mây trời và
thưởng thức những thú vui tao nhã.
“Tìm thú cũ hỏi thăm sơn thủy
Chén hoàng hoa ngồi lắng ngọn thu phòng”
Với Nguyễn Công Trứ trong bài Vịnh chữ nhàn, lại xem nhàn là một lối sống: sống
thanh tao, sống mà không màng lợi danh, sống cho phút giấy hiện tại, không tham
lam công danh tiền tài và đặc biệt là biết điểm dừng.
“So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài.
….
Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?
Cầm kỳ thi tửu với giang sơn,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.”
Hay trong bài Thoát vọng danh lợi:
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ,
Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt.
Mặc xa mã thị thành không dám biết,
Thú yên hà trời đất để riêng ta.
Chữ nhàn trong hát nói được biểu hiện rất đa dạng kể cả về hình thức lẫn ý
nghĩa. Nhưng tựu chung lại nó nói lên một vấn đề: con người thời bấy giờ không
còn mặn mà già với con đường công danh, thay vào đó họ chọn một cuộc sống,
một phòng cách sống ẩn dật để trốn tránh những thị phi ở đời.
Ngoài ra tư tưởng Lão – Trang còn được thể hiện dưới hình thức khác trong
hát nói, đó chính là hình ảnh tiên và bụt. Tuy rằng nó không xuất hiện thường
xuyên và mang tính hệ thống. Nhưng khi nghiên cứu tư tưởng Lão – Trang trong
hát nói, thoạt nghĩ không nên bỏ qua yếu tố này. Bởi vì Tiên, Bụt là sản phẩm của
Lão giáo.
Trong hoa thấp thoáng bổng người,
Chừng như tiên khách ra chơi động đào.
(Thăm chùa gặp tiểu – Dương
Khuê)
Dù rằng nó chỉ mang tính hiện tượng, song cũng xin đưa vào bài biết để mọi người
có cái nhìn đầy đủ hơn về tư tưởng Lão – Trang trong hát nói.
Phần Kết Luận
Cùng với sự ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Nho giáo trong văn chương,
tư tưởng Lão – Trang vẫn có chỗ đứng trong văn học, tuy nó không ảnh hưởng sâu
rộng và có hệ thống như Nho giáo, nhưng nó vẫn len lỏi trong nhiều tác phẩm văn
chương nói chung và hát nói nói riêng. Sự ảnh hưởng đó tuy rằng không mạnh mẽ
nhưng lại đưa tới cho hát nói những nét chấm phá rất đẹp. Hơn nữa nó là lựa chọn
khi mà những giá trị Nho giáo đang dần mất đi vị thế độc tôn của mình.
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy rằng, hát nói là một thể tài văn
học độc đáo mang đậm tính dân tộc, thế nhưng số phận của nó lại không được may
mắn như thơ lục bát hay song thất lục bát. Chính vì thế, muốn lưu giữ thể tài độc
đáo này, cần rất nhiều cố gắng của mọi người. Đồng thời, cần phải đưa hát nói đến
với nhiều người người hơn.
Ngoài ra, hát nói là mảnh đất rất màu mỡ cho công tác nghiên cứu về nó.
Tuy nhiên, số lượng các bài nghiên cứu về nó còn khá khiêm tốn về mặt số lượng
lẫn chất lượng. Trong thời gian tới, hy vọng sẽ có nhiều bài viết chất lượng về thể
tài độc đáo này.
Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Trương Chính (1983), Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn học, Hà Nội.
Đoàn Đỗ Bằng, Đỗ Trọng Huề (1994), Việt Nam ca trù biên khảo, NXB
TP.HCM.
Trần Thị Hoài Dương (2005), luận văn tốt nghiệp: Nguyễn Công Trứ với thể
tài hát nói, Trường Đại học Sư phạm Tp HCM, Tp HCM.
Nguyễn Xuân Diện (2006), Vị trí của hát nói (ca trù) trong dòng văn học chữ
nôm, Hội thảo Quốc tế về chữ Nôm Huế, Huế.
Hà Minh Đức (1993), Lí luận văn học, Hà Nội, NXB Giáo dục.
Dương Quảng Hàm (1955), Việt Nam thi văn hợp tuyển, NXB Bộ Giáo dục
quốc gia, Sài Gòn.
Dương Quảng Hàm (1956), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục quốc
gia, Sài Gòn.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Đức Mậu (1998), "Hát nói từ điệu thức ca trù đến thể loại văn học",
Tạp chí văn học, số 11, Tr.50-60.