TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT CHÂU CHẤU ĐỎ CỦA MẠC NGÔN
SV 19.2015
Họ tên sinh viên chịu trách nhiệm chính: NGUYỄN THỊ LINH
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Khóa học: 2012 – 2016
Khoa: Khoa học xã hội
Quảng Bình, năm 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT CHÂU CHẤU ĐỎ CỦA MẠC NGÔN
SV 19.2015
Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học cơ bản
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài: NGUYỄN THỊ LINH
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Khóa học: 2012 – 2016
Giảng viên hướng dẫn: Th.S NGUYỄN THỊ QUẾ THANH
Quảng Bình, năm 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:
Họ và tên: NGUYỄN THỊ LINH
Sinh ngày: 12/ 06/ 1994
Nơi sinh: Hàm Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Khoa: Khoa học xã hội
Lớp: ĐHSP Ngữ văn
Khóa: 54
Địa chỉ liên hệ: Hàm Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình
Điện thoại: 01648871774
Email:
II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
* Năm thứ 1:
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Kết quả xếp loại học tập: Khá
Sơ lược thành tích: 7.91
Khoa: Khoa học xã hội
* Năm thứ 2:
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Kết quả xếp loại học tập: Khá
Sơ lược thành tích: 7.90
Khoa: Khoa học xã hội
* Năm thứ 3:
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Kết quả xếp loại học tập: Giỏi
Sơ lược thành tích: 8.78
Khoa: Khoa học xã hội
* Năm thứ 4:
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn
Kết quả xếp loại học tập: Giỏi ( học kì 1)
Sơ lược thành tích: 8.53 (học kì 1)
Khoa: Khoa học xã hội
Ngày 17 tháng 04 năm 2016
Xác nhận của khoa
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
LỜI CẢM ƠN
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Th.s
Nguyễn Thị Quế Thanh, người đã tận tình hướng dẫn tôi thực
hiện và hoàn thành đề tài này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn quý thầy cô giáo đã giảng dạy và
đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn khoa Khoa học Xã hội, Phòng Đào
tạo, Trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã
động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề
tài nghiên cứu.
Tác giả
Nguyễn Thị Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và và kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kì một công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ..............................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................6
5. Đóng góp của đề tài ...................................................................................................6
6. Cấu trúc đề tài .............................................................................................................7
NỘI DUNG: ....................................................................................................................8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG .........................................................8
1.1. Giới thuyết về giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật....................................................8
1.1.1. Giọng điệu trần thuật ............................................................................................8
1.1.2. Ngôn ngữ trần thuật ..............................................................................................9
1.2.Mạc Ngôn và hành trình sáng tạo nghệ thuật .........................................................10
1.3. Châu chấu đỏ - một thành công trong nghệ thuật trần thuật của Mạc Ngôn ........19
Chương 2: GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT ....................................................................24
2.1. Giọng bỡn cợt ........................................................................................................24
2.2. Giọng khoa trương .................................................................................................32
2.3.Giọng lạnh lùng .......................................................................................................37
2.4. Giọng tâm tình ........................................................................................................43
Chương 3: NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT........................................................................50
3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện .....................................................................................50
3.2. Ngôn ngữ đối thoại ................................................................................................ 56
3.3. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ..................................................................................63
KẾT LUẬN .....................................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................72
MẠC NGÔN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 . Mạc Ngôn được xem là hiện tượng lạ của nền văn học đương đại Trung
Quốc và thế giới. Đặc biệt tháng 10 – 2012 viện Hàn Lâm Thụy Điển trao cho ông giải
Nobel văn học như là minh chứng để một lần nữa khẳng định vị thế của ông trên văn
đàn. Với tâm hồn không lúc nào bình lặng, luôn vật lộn gay gắt và chiến đấu cho
những lý tưởng thiện lương trong con người, nên trong mỗi trang văn của Mạc Ngôn,
người ta có thể tìm thấy những trạng phức tâm hồn đại chúng muốn phá bỏ mọi khuôn
phép lề lối, quy chuẩn đạo đức xã hội để đạt trạng thái hoàn toàn tự do cả về thể xác
lẫn tâm hồn. Tác phẩm của ông chứa đựng những điều mới mẻ, đặc biệt là “sự bùng
nổ cảm giác” [2, tr.7] giúp đọc giả như nghe thấy, nhìn thấy, sờ thấy, ngửi thấy mùi vị
cuộc sống qua mỗi trang viết của ông. Ông đã góp thêm một tiếng nói mới, phong cách
mới trong việc tái hiện hiện thực cuộc sống và con người trong xã hội hiện đại bằng
những cách nhìn khác nhau, xen lẫn giữa tốt với xấu, thiện với ác, cao quý và thấp
hèn, đơn giản và phức tạp trong bản thân mỗi con người.
1.2. Mạc Ngôn viết rất nhiều thể loại, từ truyện ngắn đến truyện vừa, truyện dài đến
tiểu thuyết… Ở mỗi thể loại, tác phẩm của ông đều mang dấu ấn riêng, trong đó tiểu
thuyết là thể loại thành công nhất. Nói tới tiểu thuyết Mạc Ngôn, người ta đánh giá cao
thành công của ông về lối biểu hiện của văn học dân gian Trung Quốc kết hợp với văn
học hậu hiện đại phương Tây, trong đó nghệ thuật trần thuật là một trong những
phương diện tạo nên sức hấp dẫn, nét riêng cho phong cách Mạc Ngôn. Với lối trần
thuật xen lẫn giữa thực và ảo, giữa hiện tại và quá khứ rồi đến tương lai, sự luôn phiên
và thay đổi người kể chuyện khó xác định khiến cho người đọc như đang lạc vào ma
trận nhân vật mà nếu không tập trung chú ý, xâu chuỗi các sự kiện trong toàn bộ tác
phẩm, thì khó mà hiểu được tác phẩm và con người Mạc Ngôn.
Trong mười một tiểu thuyết Mạc Ngôn đã xuất bản, Châu chấu đỏ là tác phẩm để
lại ấn tượng sâu đậm với chúng tôi và cũng tiêu biểu cho nghệ thuật trần thuật của nhà
văn. Qua tác phẩm, ta thấy một Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển mình với
nhiều thói xấu hoành hành cuộc sống nơi phồn hoa đô hội những hủ tục, cùng sự đói
nghèo làm xơ xác những miền quê xa xôi hẻo lánh. Chúng tôi chọn đề tài “Giọng điệu
và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn” làm đề tài
nghiên cứu với mong muốn khám phá thêm tài năng, cá tính sáng tạo của nhà văn.
1
Trên cơ sở đó khẳng định những đóng góp về nội dung, nghệ thuật trong sự nghiệp
văn chương của Mạc Ngôn đối với nền văn học đương đại Trung Quốc.
2. Lịch sử vấn đề
Theo đánh giá của các nhà phê bình văn học Trung Quốc, bộ ba tác phẩm đã làm
nên “hiện tượng Mạc Ngôn” hay còn gọi là “Mạc Ngôn tam hồng” trên văn đàn nước
này bao gồm: “Cao lương đỏ, Châu chấu đỏ, Củ cải đỏ trong suốt”. Trong bộ ba tác
phẩm này, người ta thấy một Mạc Ngôn với phong cách kể chuyện nặng nề, u ám, với
những câu chuyện thật đến trần trụi về bản chất con người, những dục vọng đố kỵ
nhiều khi nằm cả ngoài tầm kiểm soát của con người, của xã hội Trung Quốc lúc bấy
giờ.
Kể từ khi xuất hiện trên văn đàn Trung Quốc, tên tuổi, tác phẩm Mạc Ngôn đã
thu hút được sự chú ý của công chúng và giới nghiên cứu trong nước cũng như trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Khi Mạc Ngôn được xướng tên với giải Nobel văn học
danh giá, nhiều độc giả Việt Nam - những ai đã đọc Mạc Ngôn đều cảm thấy nức lòng,
bởi vì ở Việt Nam - Mạc Ngôn đã từng làm nên cơn sốt sách với hàng loạt tác phẩm có
sức ám ảnh cho đông đảo bạn đọc như: Báu vật của đời; Đàn hương hình; Sống đọa
thác đày; Tứ thập nhất pháo; Thập tam bộ; Châu chấu đỏ và gần đây nhất là tiểu
thuyết Ếch. Ở Mạc Ngôn, người đọc nhìn thấy dũng khí của một cây viết vừa mãnh
liệt vừa tưng tửng, vừa cay đắng vừa hài hước, vừa đả kích vừa xót xa. Người đọc thấy
những hiện tượng xã hội tan nát, bê bối, bi thảm của thời cuộc, của xã hội Trung Quốc
phơi bày trong văn chương Mạc Ngôn. Nhưng đằng sau mỗi con chữ miêu tả hiện thực
chân thật ấy là cả một nỗi xót xa, cay đắng.
Ông là nhà văn có bút lực mạnh nhất Trung Quốc hiện nay, nhà văn thẳng thừng
và dấn thân, là “nhân vật khai phá của thế kỷ XXI” ở châu Á với hơn 40 giải thưởng
và danh hiệu. Đặc biệt là sự kiện giải Nobel văn học năm 2012 được trao cho Mạc
Ngôn, càng làm cho tên tuổi của ông có sức hút mạnh mẽ đối với giới nghiên cứu và
phê bình văn học. Từ những góc nhìn khác nhau, các nhà nghiên cứu có những cách
tiếp nhận riêng về nhà văn và tác phẩm của ông. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,
chúng tôi tổng hợp được một số vấn đề sau.
Trên báo chí, đặc biệt là báo điện tử xuất hiện nhiều bài phỏng vấn và bài viết
liên quan tới nội dung tác phẩm. Mạc Ngôn cũng được giới thiệu với độc giả Việt Nam
thông qua cuốn Mạc Ngôn và những lời tự bạch của dịch giả Nguyễn Thị Thại. Cuốn
2
sách là tập hợp các bài phỏng vấn của nhà văn, qua đó tác giả trình bày những quan
niệm của mình về sáng tác văn học, bật mí những thủ pháp nghệ thuật thường dùng và
dấu ấn tuổi thơ trong sáng tác. Có thể nói cuốn sách đã cho người đọc nhìn nhận nhiều
chiều về con người và sáng tác của Mạc Ngôn.
Trên báo Văn nghệ, số 5 tháng 12 năm 2003 có đăng bài viết Tiểu thuyết Mạc
Ngôn với độc giả Việt Nam của Hồ Sỹ Hiệp. Có rất nhiều bài báo, bài nghiên cứu phê
bình của các học giả nước ngoài cũng được dịch rộng rãi ở Việt Nam, trong đó phải kể
đến bài đăng trên báo Trung Hoa độc thư báo tháng 1 năm 2004 có tựa đề Chín nhà
văn ấn tượng nhất năm 2000 do Trần Sơn dịch. Bài viết tổng kết những bước đường
sáng tạo của Mạc Ngôn từ những tiểu thuyết đầu tiên. Tiếp đó, bài viết của Lê Huy
Tiêu “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn” in trong cuốn “Cảm nhận
mới về văn hóa văn học Trung Quốc”, đã khái quát đặc điểm nghệ thuật trong tiểu
thuyết Mạc Ngôn ở các phương diện: hình ảnh, cảm giác, giọng điệu, nghệ thuật tự sự,
ngôn ngữ, bản sắc dân gian. Bài viết của Nguyễn Thị Tịnh Thy trên tạp chí sông
Hương số 285 với tựa đề Mạc Ngôn - người vinh danh làng quê Cao Mật bằng bút
pháp hậu hiện đại kiểu Trung Quốc đã nêu lên ba vấn đề chính: Cao Mật – Trung
Quốc – nhân loại: duy nhất và tất cả, kết hợp đặc trưng tự sự truyền thống của Trung
Quốc với tự sự hiện đại và hậu hiện đại phương Tây, tái sinh những sách lược tự sự cổ
xưa nhất của Trung Hoa”.
Đứng trên lập trường chính trị, xã hội, nhiều nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã phê
phán mạnh mẽ các tiểu thuyết Mạc Ngôn. Khi tác phẩm Báu vật của đời xuất hiện, bàn
về tiểu thuyết này, trên báo Tiền phong, Nguyễn Khắc Phê trong bài viết “Tài phù
phép của Mạc Ngôn” đã nói đến thủ pháp lạ hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, mà Báu
vật của đời được xem là thể hiện tập trung nhất. Đây là tác phẩm có sức thu hút mạnh
mẽ sự quan tâm của độc giả và giới phê bình văn học ở Việt Nam. Bàn về nghệ thuật
tiểu thuyết Mạc Ngôn trong Báu vật của đời, dịch giả Trần Đình Hiến đã cho rằng
trong Báu vật của đời, Mạc Ngôn khai thác tối đa chất liệu dân gian truyền thống, chứ
không phải chịu ảnh hưởng của Marquez hay Faulkner. Chia sẻ quan điểm ấy, Phạm
Xuân Nguyên trong bài “Sự sinh, sự sống, sự chết” đăng trên tanviet.net, ngày
04/08/2005 cho rằng, về nghệ thuật viết tiểu thuyết Báu vật của đời của Mạc Ngôn
không hẳn là xuất sắc. Trong chừng mực nào đó, nó vẫn thuộc truyền thống của lối kể
chuyện mang tính cổ truyền Trung Quốc. Theo ông, cái độc đáo của cuốn tiểu thuyết
3
này là “Cái nhìn nghệ thuật – lịch sử, tỉnh táo và sắc sảo của nhà văn”. Trong khi đó,
Nguyễn Thanh Sơn lại nói đến sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp tiểu thuyết truyền
thống và tiểu thuyết hiện đại. Có cùng cách nhìn ấy, Võ Thị Hảo lại nói đến “Một bút
pháp hiện đại vượt khỏi những lối mòn”… Tiếp đó, nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn đã
được dịch, giới thiệu như: Đàn hương hình, Sống đọa thác đày, Cao lương đỏ, Cây tỏi
nổi giận, Ếch…
Ngày 12 tháng 8 năm 2006, “Hội nghiên cứu Mạc Ngôn Cao Mật” được thành
lập tại tỉnh Sơn Đông. Hội là diễn đàn nghiên cứu và trao đổi khoa học chuyên về các
sáng tác của Mạc Ngôn bởi “Mạc Ngôn là niềm kiêu hãnh của Cao Mật. Địa vị của
ông trên văn đàn Trung Quốc ngày một nâng cao, ảnh hưởng trên văn đàn thế giới
ngày càng lớn” (Mạc Ngôn nghiên cứu hội). Hội có tạp chí “Nghiên cứu Mạc Ngôn”,
website “Cao lương đỏ”, “Bảo tàng văn học Mạc Ngôn”. Bảo tàng là nơi giới thiệu
cuộc đời và thành tựu nghệ thuật của Mạc Ngôn, trình bày một cách sinh động quá
trình trưởng thành và phong cách đỉnh cao của một tác gia nổi tiếng bao gồm các bộ
phận chính là: “thành tựu văn học”, “con đường trưởng thành”, “vương quốc văn
học”, “gắn bó với quê hương”, “giao lưu văn học”. Ngoài ra còn có nhà chiếu phim,
phòng sáng tác, phòng trưng bày thư pháp và bản thảo, phòng tư liệu tác phẩm Mạc
Ngôn…
Trong cuốn sách Mạc Ngôn – nghiên cứu và tư liệu, tác giả Dương Dương đã
tổng hợp rất nhiều bài nghiên cứu về sáng tác của Mạc Ngôn được đăng tải trên các tờ
báo, tạp chí uy tín trong và ngoài nước. Đánh giá chung về nghệ thuật tự sự Mạc
Ngôn, Tôn Đông trong Quái tài Mạc Ngôn đã đưa ra mô thức tự sự như sau: “sinh
mệnh, cảm giác, hình ảnh là ba trụ cột lớn trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, chúng chống
đỡ mô thức tự sự của tiểu thuyết Mạc Ngôn” (Dương Dương, Mạc Ngôn nghiên cứu tư
liệu).
Dưới ánh sáng của nghệ thuật tự sự, những vấn đề như: người kể chuyện, điểm
nhìn, kết cấu, không gian - thời gian, ngôn ngữ với hàng loạt các thủ pháp của chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo để lật đổ thủ pháp tự sự truyền thống đã bước đầu được nói
tới. Trong luận văn Thạc sỹ của Hoàng Thị Bích Hồng về “Nghệ thuật trần thuật trong
phong cách tiểu thuyết Mạc Ngôn”, tác giả đã đề cập đến nghệ thuật miêu tả cảm giác
và những thủ pháp kì ảo với hiệu quả gián cách nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc
Ngôn. Trong luận văn Thạc sỹ “Nghệ thuật tự sự trong 41 chuyện tầm phào của Mạc
4
Ngôn” (Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2006), Trần Thị Thanh Thủy cho rằng yếu tố
quan trọng nhất tạo nên sự thành công cho tiểu thuyết 41 chuyện tầm phào chính là ở
chỗ tự bên trong tác phẩm chứa biết bao điều mới lạ. Tác giả đã phân tích những sáng
tạo và đổi mới của Mạc Ngôn trong tiểu thuyết này ở các phương diện: kết cấu, nghệ
thuật trần thuật, ngôn ngữ tự sự.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu tiểu thuyết Mạc Ngôn nói chung, Nguyễn Thị Tịnh
Thy với cuốn sách Tự sự kiểu Mạc Ngôn đã khảo sát đề tài trên ba phương diện: Người
kể chuyện và điểm nhìn tự sự; nghệ thuật tổ chức thời gian và kết cấu tự sự; nghệ thuật
kiến tạo ngôn ngữ và giọng điệu tự sự. Từ đó, tác giả đã chỉ ra những thành tựu và hạn
chế của nghệ thuật tiểu thuyết cũng như chỉ ra vị trí của Mạc Ngôn trong dòng chảy
tiểu thuyết Trung Quốc đương đại. Chúng tôi xem những nghiên cứu trên đây là tài
liệu quý báu có tính định hướng cho việc thực hiện đề tài này.
Có thể thấy, dù chưa nhiều nhưng nhìn chung các sáng tác của Mạc Ngôn, nhất là
tiểu thuyết được nhiều nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam quan tâm. Trong đó, các
tiểu thuyết nổi tiếng của Mạc Ngôn như: Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương
hình, Tứ thập nhất pháo, Thập tam bộ… đã được nhiều người đề cập trong những bài
viết của mình. Song việc nghiên cứu về nhà văn cũng như tác phẩm của ông vẫn chưa
nhiều, đặc biệt là những nghiên cứu về tiểu thuyết Châu chấu đỏ. Nghiên cứu về tiểu
thuyết Châu chấu đỏ, các nhà nghiên cứu hầu như chỉ mới tiếp cận dưới gốc độ nội
dung về chính trị, xã hội, con người... mà chưa có công trình nào chuyên đi sâu nghiên
cứu về giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết này.
Trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả của các nhà nghiên cứu, chúng tôi
mạnh dạn đề cập một cách tiếp cận giá trị đích thức của tác phẩm Châu chấu đỏ ở
phương diện giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Châu chấu đỏ của
Mạc Ngôn, đề tài tập trung khảo sát trên các bình diện, về giọng điệu: giọng điệu bỡn
cợt, giọng điệu khoa trương, giọng điệu lạnh lùng, giọng điệu tâm tình, về ngôn ngữ:
ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
Đề tài nghiên cứu tiểu thuyết Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn dựa theo bản dịch của
Trần Trung Hỷ, nhà xuất bản văn học phát hành năm 2004. Ngoài ra chúng tôi còn
khảo sát một số tiểu thuyết khác của ông để so sánh và đánh giá.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Giúp người viết chỉ ra những biểu hiện cụ thể
về giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn và
có cái nhìn khái quát về những thành công của nhà văn trong sự nghiệp sáng tác.
- Phương pháp hệ thống: Tìm hiểu giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu
thuyết Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn phải dựa trên hệ thống các phương diện thuộc về
giọng điệu và ngôn ngữ trong tác phẩm, đặt các phương diện đó trong một hệ thống,
một chỉnh thể. Phương pháp hệ thống giúp người viết hệ thống hóa các đặc điểm về
giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật của tiểu thuyết Mạc Ngôn nói chung và tiểu thuyết
Châu chấu đỏ nói riêng.
- Phương pháp loại hình: người viết sử dụng phương pháp này để phân loại, khu
biệt các hiện tượng về giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật của tác phẩm.
- Phương pháp so sánh: để làm nổi bật những đặc điểm về giọng điệu và ngôn
ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn, đồng thời góp phần
khẳng định cống hiến của tác giả về phương diện này. Đối tượng so sánh là tiểu thuyết
Châu chấu đỏ với những tác phẩm có cùng nội dung khác.
- Phương pháp xã hội học: để nghiên cứu sự tác động của xã hội đến tác phẩm.
5. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý thuyết
Đề tài góp phần vận dụng lý thuyết về giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật để
nghiên cứu tác phẩm Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn.
- Về mặt thực tiễn
Đề tài góp phần vào việc tiếp nhận, tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết Châu chấu
đỏ và phong cách tiểu thuyết Mạc Ngôn.
Đề tài được xem là nguồn tư liệu hữu ích cho việc tìm hiểu và nghiên cứu về
Mạc Ngôn, về nền văn học đương đại Trung Quốc.
Trong xu thế hội nhập, việc nghiên cứu, học tập các giá trị văn hóa của nhân loại,
trong đó có văn học như là một nhu cầu tất yếu để các quốc gia cùng thấu hiểu và xích
lại gần nhau.
6
6. Cấu trúc đề tài
Gồm có ba phần:
Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của đề tài
Phần nội dung:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
1.1. Giới thuyết về giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật
1.2. Mạc Ngôn và hành trình sáng tạo nghệ thuật
1.3. Châu chấu đỏ - một thành công trong nghệ thuật trần thuật của Mạc Ngôn
Chương 2: Giọng điệu trần thuật
2.1. Giọng bỡn cợt
2.2. Giọng khoa trương
2.3. Giọng lạnh lùng
2.4. Giọng tâm tình
Chương 3: Ngôn ngữ trần thuật
3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện
3.2. Ngôn ngữ đối thoại
3.3. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo.
7
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Giới thuyết về giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật
1.1.1. Giọng điệu trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường,
tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện thực được miêu tả, thể hiện trong lời văn,
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân
sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [6, tr.134].
Có thể nói giọng điệu chính là một phạm trù thẩm mỹ, là một trong những yếu tố
quan trọng cấu thành nên nét đặc trưng riêng cho phong cách của nhà văn. Giọng điệu
của tác phẩm, ở một mức độ nào đó phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng được miêu
tả cũng như cách cảm nhận về chúng của nhà văn. Song về cơ bản, giọng điệu bộc lộ
tình cảm chủ quan của nhà văn, thái độ và cách đánh giá của nhà văn đối với con
người và những biểu tượng được miêu tả. Giọng điệu còn phản ánh quan niệm nghệ
thuật, thị hiếu thẩm mỹ, làm nên cá tính sáng tạo của nhà văn. Tìm được một giọng
điệu phù hợp sẽ giúp cho nhà văn kể chuyện hay hơn, thể hiện được sâu sắc hơn lý
tưởng thẩm mỹ của mình.
Trong cuộc đời cầm bút của mình, Mạc Ngôn luôn mong muốn thể nghiệm được
ở sáng tác của mình những “sắc thái giọng điệu đa dạng” với hi vọng qua đó có thể
diễn tả được mọi cung bậc cảm xúc trước đời sống và cũng đồng thời mong muốn có
được những đóng góp, những cách tân về giọng điệu và ngôn ngữ trong nghệ thuật
trần thuật của mình. Chiếu theo lý thuyết về giọng điệu đa thanh của M.Bakhtin, lời
văn trong tiểu thuyết Mạc Ngôn đều là lời “đa thanh”, “hướng về người khác”. Từ
việc khảo sát giọng điệu trong mối tương quan với thể thống nhất của lời tự phát ngôn
độc thoại, lời đối thoại của các nhân vật và lời của người kể chuyện, chúng tôi nhận
thấy giọng điệu tiểu thuyết Mạc Ngôn là sự phối thanh của các bè bỡn cợt, lạnh lùng,
khoa trương, giễu nhại, bi cảm, tâm tình. Các “bè” này tương tác lẫn nhau một cách
bình đẳng, ăn ý, nhuần nhuyễn tạo nên sự phức điệu. Nổi bật trong tiểu thuyết Châu
chấu đỏ là giọng bỡn cợt, khoa trương, tâm tình và giọng lạnh lùng, qua đó giúp tác
giả phản ánh được hiện thực xã hội Trung Quốc trong thời kì chuyển mình và bày tỏ
thái độ của ông trước những hiện tượng bất bình thường trong những cái bình thường.
8
1.1.2. Ngôn ngữ trần thuật
M.Gorrky từng nói rằng :“Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Hơn bất cứ thứ chất liệu và
phương tiện nghệ thuật nào, ngôn ngữ cho phép người nghệ sỹ thể hiện sự sống động,
lung linh muôn màu muôn vẻ của thế giới tự nhiên, đời sống xã hội và tâm hồn con
người.
Theo từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ trần thuật là phần lời văn thể hiện quan
điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện đối với cuộc sống được miêu tả. Có
những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình
và biểu hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ trần thuật không những có vai trò then chốt trong
phương thức trần thuật mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền
đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả.
Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật có thể là đối thoại hay độc thoại. Đối thoại gắn
liền với việc những người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau; độc thoại không
nhằm hướng đến người khác và tác động qua lại giữa người và người. Ngôn ngữ trần
thuật của nhân vật có nhiều chức năng khác nhau như: chức năng phản ánh hiện thực,
chức năng tự bộc lộ của nhân vật, chức năng là đối tượng miêu tả của tác giả hoặc
chức năng thể hiện nội tâm… Tổng hợp những chức năng đó, thông qua trần thuật,
nhân vật kể lại cuộc đời của mình, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời,
lẽ sống, giúp người đọc lĩnh hội được tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Cùng với trần
thuật tác giả, trần thuật của nhân vật góp phần hoàn thiện bức tranh đời sống trong tác
phẩm. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ trần thuật của mình, làm phân hoá ngôn ngữ tiểu
thuyết, đưa vào tiểu thuyết nhiều tiếng nói khác nhau, đa thanh, đa giọng điệu.
Chúng ta không thể tuyệt đối hoá việc phân chia trần thuật của tác giả với trần
thuật của nhân vật vì với việc chuyển điểm nhìn từ phía người trần thuật sang điểm
nhìn của nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài khách quan đến điểm nhìn bên trong chủ
quan, rất khó phân biệt đâu là chủ thể của trần thuật. Và cũng nhờ di chuyển điểm nhìn
mà văn chương khám phá, chiêm nghiệm về cuộc sống và con người một cách đa diện
và có chiều sâu hơn.
Ngôn ngữ trần thuật giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống phương
thức tự sự, nó là sự thể hiện trên nền hiện thực toàn bộ tư tưởng, tình cảm của nhà văn,
giọng điệu, cấu trúc tác phẩm và cho thấy điểm nhìn trần thuật của nhà văn. Do đó,
9
qua ngôn ngữ trần thuật, người đọc nhận ra phong cách, cá tính của tác giả. Khảo sát
ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn, chúng tôi mong
muốn có cái nhìn toàn diện về quá trình sáng tạo của nhà văn.
Người kể chuyện trong tiểu thuyết Châu chấu đỏ của Mạc Ngôn là một cái tôi tự
thuật. Họ mang chức năng kép: vừa là người kể chuyện, vừa là nhân vật. Vì thế, ngôn
ngữ người kể chuyện trong Châu chấu đỏ thực chất cũng là ngôn ngữ của nhân vật.
1.2.Mạc Ngôn và hành trình sáng tạo nghệ thuật
Mạc Ngôn là một trong những nhà văn nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến
các nhà văn Trung Quốc và trên Thế giới trong đó có cả Việt Nam. Ông cũng được so
sánh với những văn hào như Franz Kafka hay Joseph Heller. Năm 2012 ông nhận giải
Nobel văn học, một lần nữa khẳng định vị trí quan trọng và tài năng của Mạc Ngôn
trong nền văn học thế kỉ XX trên văn đàn Trung Quốc nói riêng và quốc tế nói chung.
Để có được thành quả ấy, không chỉ có tài năng, mà ông đã trải nghiệm bằng chính
con người mình trong cuộc sống gia đình, quê hương, bằng sự nỗ lực không biết mệt
mỏi trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh ngày 17 tháng 2 năm 1955. Bút
danh của ông trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là luôn nhắc nhở bản thân mình “kiệm
lời” được ông lấy khi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay.
Ông sinh ra tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Quê hương Cao
Mật vốn là một vùng quê nghèo nàn, lạc hậu, nơi mà Mạc Ngôn đã từng ăn vỏ cây và
rau dại để sống sót qua tuổi thơ cơ cực, cùng với những hiện thực ngổn ngang trần trụi
của cuộc sống, con người, của thiên tai tàn phá khốc liệt đến tận cùng. Nhưng chính
nơi đây đã hun đúc cho tâm hồn và nguồn cảm hứng như một “cái bao tải khổng lồ”
trong tất cả các sáng tác của ông. Mạc Ngôn đã từng nói rằng, mọi thứ ông có được:
“đều xuất phát từ chiếc bao gai Đông Bắc Cao Mật rách tả tơi”, “chiếc bao gai rách
nát” là một cách nói rất hình tượng về một vùng đất “vừa anh hùng vừa thổ phỉ” – đó
chính là vùng đất Đông Bắc Cao Mật, nơi đã tạo nên một thiên tài Mạc Ngôn - nơi mà
nhà văn khai thác không biết mệt mỏi trong hành trình sáng tạo của mình.
Mạc Ngôn sinh ra trong một gia đình nghèo khổ không mấy khá giả nhưng rất yêu
văn chương, ham mê đọc sách. Trong làng nhà nào có nhiều sách Mạc Ngôn đều
mượn để đọc và những người lớn trong nhà là cả kho truyện kể. Cứ đêm đêm Mạc
Ngôn và các anh chị thi nhau kể chuyện. Cho tới bây giờ nhà văn vẫn nhắc tới được
10
300 câu chuyện. Chính gia đình là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn văn chương và nguồn
tài liệu khổng lồ cho nhà văn trong hành trình sáng tác.
Mạc Ngôn là đứa trẻ thích nói chuyện, rất thông minh, giỏi bắt chước và có trí
nhớ tốt. Tuy vậy nhưng cậu bé Mạc Ngôn là một đứa trẻ cô độc, nhút nhát. Tuổi thơ
của Mạc Ngôn là tuổi thơ của những khốn khó. Ông đã kể về tuổi thơ của mình: “hồi
nhỏ tôi đi chăn trâu, lúc nào bụng cũng đói, bị mệt bèn nằm dài ra đất ngẩn ngơ nhìn
mây trắng trên trời, bởi vì tôi cảm thấy đám mây trắng kia dường như sẽ lập tức biến
thành cái bánh bao rơi vào mồm tôi. Giờ nhìn thấy đường chân trời, tôi lại nhớ tới
thời niên thiếu nghèo khó của mình... Tôi đứng bên cửa sổ, nhìn dòng nước lớn lững lờ
trôi mà cảm thấy vừa rợn ngợp vừa tráng lệ. Một ấn tượng sâu đậm nữa chính là tiếng
kêu của hàng trăm ngàn con ếch, inh tai nhức óc, có khi ngay trong đêm khuya, nghe
như tiếng ma quỷ. Nước lũ và tiếng ếch kêu là hai nỗi ám ảnh lớn nhất quanh tuổi thơ
tôi” [30]. Từ rất sớm Mạc Ngôn đã thể hiện rõ là một đứa trẻ thông minh, lém lỉnh,
ham học và có khiếu văn chương. Đi học lúc sáu tuổi và biết đọc, chín tuổi đã đọc
nhiều quyển sách có được trong thôn: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử, Ông lão đánh
cá và con cá vàng, Cô bé bán diêm của Andecxen, Quán nhà Lâm của Mao Thuẫn,
Tường lạc đà của Lão Xá, Khuất Nguyên của Quách Mạc Nhược... Ông say mê sách
như những vụn sắt bị nam châm hút. Chính những cuốn sách ấy đã ảnh hưởng ít nhiều
đến các sáng tác của ông sau này, bởi nội dung giàu giá trị nhân văn, giá trị hiện thực
xã hội. Đồng thời những cuốn sách đó vô cùng hấp dẫn đã để lại ấn tượng khó quên
trong lòng tác giả ngay từ thời thơ ấu.
Trong cuốn tự truyện “Biến” đầu tiên của Mạc Ngôn là một kí ức nghèo khổ của
nhà văn. Ở trong cuốn tự truyện này, câu chuyện về cuộc đời của nhà văn được kể trực
tiếp và giản dị. Kỉ niệm đầu tiên trong chính cuộc đời ông được nhắc đến một cách đầy
xúc động đó là việc “bị xóa tên trong học tịch, đá đít khỏi trường” khiến ta thấy thấp
thoáng ẩn ức về sự nghèo đói, bị đối xử bất công vì nghèo. Đó là lí do mà Mạc Ngôn
đang học giở tiểu học (lớp 5) đành phải nghỉ học, đi làm nhiều việc khác nhau ở nông
thôn để mưu sinh.
Cách mạng diễn ra, ông cố gắng đi bộ đội để thoát nghèo. Nhưng miếng ăn nhọc
nhằn đã in quá sâu trong kí ức của nhà văn. Chiếc xe Gaz 51 Liên xô cũ màu xanh lá
mạ, những ước mơ của tuổi thơ ông cứ hiện lên trong từng giai đoạn cuộc đời như sự
ám ảnh chưa bao giờ dứt trong tâm trí Mạc Ngôn. Để rồi những kí ức ấy lại hiện về
11
trong những sáng tác của ông. Năm 1976 Mạc Ngôn gia nhập quân đội. Luôn ấp ủ
trong mình giấc mơ học Đại học để trở thành nhà văn, Mạc Ngôn đã giành nhiều thời
gian cho việc nghiên cứu sách về lí luận và chính trị rồi tập tành sáng tác. Năm 1984,
Mạc Ngôn đã trúng tuyển vào khoa Văn thuộc Học viện nghệ thuật quân giải phóng,
và năm 1986 ông tốt nghiệp. Năm 1988, Mạc Ngôn trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh
khoa lí luận sáng tác thuộc học viện văn học Lỗ Tấn, trường Đại học sư phạm Bắc
Kinh, lấy bằng thạc sĩ năm 1991. Hiện nay ông đang là sáng tác viên của cục chính trị
- Bộ tổng tham mưu quân giải phóng Nhân Dân Trung Quốc. Những kiến thức, những
trải nghiệm mà ông học được ở trường học đã góp phần không nhỏ đến sự nghiệp sáng
tác văn học của ông để rồi ông đã thăng hoa trên chính những trang viết của mình.
Mạc Ngôn là nhà văn có bản lĩnh và thông minh từ thưở thiếu thời. Ông hiểu sâu
sắc cuộc sống lam lũ, cùng khổ của người nông dân và nông thôn - nhất là vùng Cao
Mật quê hương ông.
Mặc dù được sinh ra ở vùng quê nghèo khó, trong một gia đình nông dân không
mấy khá giả, một tuổi thơ đầy cực nhọc cùng với những thăng trầm trong cuộc sống
nhưng tất cả sự nghèo túng ấy, sự khốn khó ấy là mạch nguồn, mạch cảm xúc, là thực
tại cuộc sống đầy sắc màu để làm nên một nhân cách, một thiên tài Mạc Ngôn đầy
nhiệt huyết, đầy xúc cảm, đầy tình yêu thương con người và yêu quý mảnh đất nơi
mình được sinh ra lớn lên.
Mạc Ngôn đã từng nói rằng: “sáng tác là nguồn sống của tôi, mặc dù phần lớn
chúng luôn khiến tôi mệt mỏi vì suy nghĩ và kiệt sức”. Khởi nghiệp từ những năm đầu
thập kỉ tám mươi của thế kỉ trước, nhưng Mạc Ngôn thật sự được chú ý sau khi viết
“Những dòng chảy mùa thu”, “Sông Cạn”… và đến “Cao lương đỏ” thì tên tuổi Mạc
Ngôn vụt sáng trên văn đàn Trung Quốc. Có thể nói, Mạc Ngôn là người đã lao động
cật lực trong suốt cuộc đời cầm bút của mình để tạo ra số lượng lớn tác phẩm phục vụ
độc giả trong nước và thế giới. Đọc những tác phẩm của ông, ta có thể hình dung khá
rõ quá trình vận động về tư tưởng, tình cảm cũng như những trăn trở, tìm tòi, đổi mới
cách tiếp cận, nhìn nhận đời sống và sự điêu luyện trong bút pháp trần thuật.
Ông Peter Englund, thư kí thường trực của Viện Hàn Lâm Thụy Điển nói trên
Guardian rằng: “Sự nghiệp văn chương của Mạc Ngôn có được là do gốc gác nông
dân”. Ông viết về nông dân, về cuộc sống nông thôn, về những đấu tranh để tồn tại,
đấu tranh cho phẩm giá và nhân cách của chính bản thân họ… Nếu như Mạc Ngôn
không phải là nông dân trải nghiệm bao nỗi vui buồn ở nông thôn thì cũng không có
12
Mạc Ngôn – nhà văn. Và Mạc Ngôn cũng tự nhận mình là một người nông dân “chui
ra từ ruộng cao lương của quê hương”. Phần lớn những tác phẩm của ông phản ánh
đời sống của nông dân trong các giai đoạn lịch sử. Hiện thực nông thôn mà ông phản
ánh là lịch sử chân thực nhưng được lạ hóa, mang đậm dấu ấn của chủ thể nhà văn.
Những cảnh bom rơi đạn nổ, máu chảy đầu rơi, thù hận và yêu thương, thú tính và
nhân tính hòa quyện vào nhau lại rất ly kì, hấp dẫn. Tác giả đã dẫn dắt người đọc vào
giữa lòng lịch sử khiến chúng ta như nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy mùi vị
tanh tưởi, cảnh tượng thần bí của cánh đồng cao lương vùng Đông Bắc Trung Quốc.
Là người từng trải nghiệm bao nỗi vui buồn, gắn bó sâu sắc với mảnh đất Cao Mật, vì
thế mảnh đất đó đi xuyên suốt trong các sáng tác của Mạc Ngôn, thể hiện linh hồn của
lịch sử đồng thời cũng thể hiện linh hồn của nông dân Trung Quốc.
Nhắc đến Mạc Ngôn không thể không nhắc đến thể loại tiểu thuyết. Ông thành
công ở nhiều thể loại nhưng thể loại ghi danh tên tuổi của ông với độc giả thế giới đó
là tiểu thuyết. Tiểu thuyết là một thể loại quá quen thuộc với mỗi chúng ta, song khi
đọc tiểu thuyết của Mạc Ngôn người đọc vẫn luôn bị cuốn hút bởi các yếu tố thực ảo,
hiện tại, quá khứ, thật giả lẫn lộn. Tất cả cứ hòa quyện vào nhau, tạo nên sự hấp dẫn
đến “mê hoặc”. Để có được thành công ấy, ngoài sự đam mê, tìm tòi, đó còn chính là
sự trải nghiệm cuộc sống.
Mạc Ngôn đã từng đưa ra nhiều định nghĩa về tiểu thuyết: “tiểu thuyết là sự ghi
chép những tưởng tượng ngông cuồng của nhà văn hay là sự kết hợp giữa cõi mộng
với sự thật, cũng có lúc nó là cái thùng chứa đựng những tình cảm của nhân loại. Tiểu
thuyết là lát cắt có tính sinh lý đời sống tinh thần của nhà văn…”. Trong “Bài ca cây
tỏi thiên đường”, nhà văn đã từng viết: “khi viết cuốn tiểu thuyết sát sao với hiện thực
xã hội, vấn đề lớn nhất mà tôi đối mặt thực ra không phải là chuyện tôi dám hay
không dám phê bình các hiện tượng đen tối trong xã hội mà là chuyện những cảm xúc
và lòng căm giận bừng bừng ấy có thể làm cho chính trị áp đảo văn học, khiến cho bộ
tiểu thuyết đó trở thành một phóng sự tường thuật sự kiện xã hội... Có thể là do tôi
từng trải qua cuộc sống gian khó lâu dài, điều đó khiến tôi có sự hiểu biết khá sâu sắc
về tính người. Tôi biết thế nào là dũng cảm thật sự, cũng hiểu được buồn thương là gì.
Tôi hiểu trong cõi lòng mỗi người đều có một vùng mờ ảo; cái vùng ấy khó có thể diễn
tả thỏa đáng bằng một từ ngữ đơn giản nó là phải hay trái, thiện hay ác… Chỉ cần là
một tác phẩm mô tả chuẩn xác, sinh động cái vùng mờ ảo đầy những mâu thuẫn ấy, thì
13
cũng tất nhiên sẽ vượt qua chính trị và có được những phẩm chất văn học ưu tú.”
[Trích trong Diễn từ Nobel, bản dịch của Nguyễn Hải Hoành ngày 13 tháng12 năm
2012].
Theo Mạc Ngôn, đã là tiểu thuyết thì ít nhất về ngôn ngữ tác phẩm sau phải khai
thác những yếu tố của tác phẩm trước, cốt truyện phải đa dạng và không thể là sự lặp
lại. Mỗi tiểu thuyết của ông là một con đường tìm tòi, sáng tạo độc đáo, tạo ra những
phong cách tiểu thuyết riêng. Tuổi thơ sống trong nghèo đói, trong những lo lắng và
tủi nhục về miếng cơm manh áo càng khiến cho Mạc Ngôn có cái nhìn về cuộc đời
chân thực hơn: “Tôi là người xuất thân từ tầng lớp thấp kém, nên tác phẩm của tôi
chứa đầy quan điểm thế tục. Nếu ai đó định tìm thấy những điều tao nhã sang trọng
trong tác phẩm của tôi, chắc chắn họ sẽ thất vọng. Đó là điều không thể. Người thế
nào nói lời thế ấy, cây nào thì quả ấy, chim nào thì tiếng hót ấy. Tôi lớn lên từ cái đói
rét cơ hàn, đã từng chứng kiến nhiều cảnh khổ đau và bất công trên đời, trong lòng tôi
tràn đầy cảm thông đối với nhân loại và phẫn nộ với sự bất công. Do đó tôi chỉ có thể
viết ra những tác phẩm như vậy” [16, tr.150].
Trong quan niệm của Mạc Ngôn, tiểu thuyết không chỉ có mùi vị mà còn có cảm
giác của sự sống. Nhìn chung, tiểu thuyết Mạc Ngôn bị ảnh hưởng bởi trường phái
cảm giác mới. “Khi viết, nhà văn phải huy động mọi giác quan của mình: Vị giác,
thính giác, khứu giác hoặc là một cảm giác kỳ diệu vượt qua tất cả mọi cảm giác kể
trên” [20, tr.19]. Nhiều người xem tiểu thuyết Mạc Ngôn là tiểu thuyết mới. Nó không
đơn thuần miêu tả hiện thực bề ngoài mà nhấn mạnh cảm thụ trực giác, đưa cảm giác
chủ quan vào trong khách thể nhằm tạo ra một hiện thực mới mẻ. Ngoài ra, tác giả còn
thể hiện nhiều chi tiết, sự kiện khác thường, độc đáo và khả năng kích thích hứng thú
cho người đọc. Khi miêu tả về cái chết, người ta tránh nói nhiều thì người kể chuyện ở
đây lại kể với cảm giác và truyền cảm giác ghê rợn cho người đọc chứ không phải là
nỗi đau trước cái chết thông thường. Trong quá trình sáng tác tiểu thuyết, Mạc Ngôn
luôn tìm cho mình một lối đi riêng. Ông đã từng mong muốn viết ra những thứ thuộc
về mình. Nó khác với những người khác, và cũng khác với các nhà văn phương Tây.
Chính niềm khát khao ấy là động lực giúp nhà văn không ngừng đổi mới trong quan
niệm và sáng tạo trong văn chương. Sự sáng tạo ấy theo ông không phải sự chen nhau
chạy theo mốt mà là cách viết những gì quen thuộc, với ngòi bút tả thực cùng sự tưởng
tượng của nhà văn để tạo ra những “mùi vị” không tồn tại và những sự thực không có
14
thực, làm cho tiểu thuyết có cảm giác của sự sống.
Ngòi bút của Mạc Ngôn là ngòi bút của văn chương “lạ hóa” và “phá cách”.
Trong tác phẩm của ông, chỗ nào cũng thể hiện tư tưởng vừa kế thừa vừa phát huy
truyền thống. Trung Quốc là đất nước mang nặng tư tưởng Nho giáo, có truyền thống
“kính lão trọng già” nhưng những nhân vật lớn tuổi trong các tác phẩm của Mạc Ngôn
lại rất phong tình, ân ái với nhau ngay ở trong ruộng cao lương (Cao lương đỏ). Các
nhân vật của Mạc Ngôn không bị ràng buộc bởi những quan niệm về sự sống và cái
chết, giữa linh hồn và thể xác, giữa bản năng và đạo đức. Mỹ học truyền thống phương
Đông rất coi trọng sự “tao nhã”, “trung hòa”, rất kiêng kị đưa những cảnh máu me
tanh hôi, hành động thú tính tàn bạo vào trong văn chương. Nhưng Mạc Ngôn lại
không e dè, mở toang cửa để “cái ác” tràn vào. Nào cảnh giết người theo kiểu Đàn
hương hình, hay theo kiểu Châu chấu đỏ, cảnh hãm hiếp phụ nữ, cảnh đại tiện ô uế,
cảnh giết người, cảnh xẻ thịt và ngũ tạng người chết… Tất cả cứ trần trụi phơi bày ra
như những gì nó vốn có.
Vương Trọng Tường - nhà văn tỉnh Hồ Bắc đã viết một số bài về mạc Ngôn,
trong đó có đoạn ông viết: “đọc sách của Mạc Ngôn với tôi đúng là một việc rất thú
vị”. Với thành công của tác phẩm điện ảnh “Cao lương đỏ”, tên tuổi của Mạc Ngôn
vượt ra khỏi biên giới Trung Quốc và vụt sáng trên văn đàn Thế giới. Tác phẩm đã góp
phần làm nên tên tuổi Mạc Ngôn. Đây là mốc son trên chặng đường văn học của ông.
Cao lương đỏ đưa độc giả trở về thập niên 1920 - 1930, trên mảnh đất quê hương của
chính tác giả - mảnh đất Cao Mật của tỉnh Sơn Đông. Những nhân vật trong truyện
hiện ra đầy cá tính, khí phách, sống ngang tàng, lạc quan như những ngọn cao lương
thẳng tắp vút lên trên bầu trời Cao Mật. Đây là nét tính cách điển hình của người dân
Cao Mật mà chúng ta sẽ gặp lại trong rất nhiều các tác phẩm sau này của Mạc Ngôn.
Cao lương đỏ ca ngợi tình yêu và sự tự do. Tác phẩm vừa khốc liệt, vừa bay bổng, vừa
rất thực mà lại hòa trộn cả những yếu tố kỳ ảo, phi thường.
Phong nhũ phì đồn (Báu vật của đời, 1995) là một bích họa lịch sử miêu tả Trung
Quốc thế kỷ XX qua lăng kính cuộc sống của một gia đình. Báu vật của đời là một tác
phẩm nổi tiếng khác trong vốn liếng văn chương của Mạc Ngôn. Nó từng là hiện
tượng của nền văn học Trung Quốc. Tác phẩm được Hội Nhà văn Trung Quốc trao
giải nhất ở thể loại tiểu thuyết năm 1995.
Báu vật của đời đem lại cái nhìn khái quát về giai đoạn lịch sử hiện đại của
15
Trung Quốc. Vẫn lấy bối cảnh chính là huyện Cao Mật, Mạc Ngôn đã đưa tới cho
người đọc những mảng sáng – tối, khuất – tỏ của lịch sử Trung Quốc trong vòng 100
năm. Tác phẩm là đại diện tiêu biểu cho phong cách sáng tác dựa trên đề tài lịch sử
của ông.
Châu chấu đỏ (2004) tập hợp những câu chuyện lặt vặt mà nhân vật chính hồi
tưởng lại những gì mà mình từng trải qua hoặc từng chứng kiến, là những câu chuyện
phản ánh một xã hội Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển mình với nhiều thói hư
tật xấu hoành hành trong cuộc sống phồn hoa đô hội. Cùng lúc đó thì thiên tai ập đến,
những hủ tục, cùng sự đói nghèo đang làm xơ xác tiêu điều những miền quê xa xôi hẻo
lánh. Miền quê xa xôi ấy chính là mảnh đất Cao Mật gắn bó thân thiết với Mạc Ngôn
không biết bao nhiêu là kí ức.
Đàn hương hình (2004) là câu chuyện về sự tàn bạo thuở đế chế phong kiến đang
sụp đổ. Sử dụng chất liệu văn học dân gian làm phông nền, tác giả đã thành công trong
việc khắc họa một giai đoạn lịch sử đẫm máu ở Trung Quốc từ năm 1895 – 1915, khi
đó Trung Quốc trở thành chiếc bánh ga-tô ngon lành để các đế quốc chia nhau xâu xé.
Triều đình Mãn Thanh thối nát, bất lực, quan lại đương thời hoặc tiếp tay cho giặc
hoặc ươn hèn, thối chí, đời sống nhân dân vô cùng rối loạn. "Lãnh tụ" của cuộc khởi
nghĩa chống quân Đức ở huyện Cao Mật khi đó chỉ là một ông bầu gánh hát. Tác phẩm
này đã đem về cho Mạc Ngôn giải Mao Thuẫn – giải thưởng văn học danh giá nhất tại
Trung Quốc thời bấy giờ. Chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng trong Đàn hương
hình là hý kịch Miêu Xoang, một loại nhạc dân gian phổ biến ở vùng đông bắc Cao
Mật. Tiểu thuyết một lần nữa khắc họa tính cách ngang tàng, khí khái, lạc quan của
người dân Cao Mật trên cái nền là những sự kiện Cách mạng nóng hổi. Đàn hương
hình ngoài việc giới thiệu về lịch sử của hý kịch Miêu Xoang còn cho người đọc biết
về lịch sử các ngón đòn tra tấn, tử hình ở Trung Quốc.
Sống đọa thác đày (2006) là cuốn tiểu thuyết kinh điển của nhà văn Mạc Ngôn,
miêu tả một cách chân thực về xã hội Trung Quốc suốt 50 năm từ 1950 – 2000, đặc
biệt xoay quanh đề tài đất đai với đủ dạng quan hệ giữa nông dân với đất đai, về kiếp
luân hồi sinh tử, về cuộc sống của nông dân Trung Quốc và tinh thần lạc quan, kiên
cường, mạnh mẽ của họ từ khi nhà nước Trung Quốc mới được thành lập tới nay.
Truyện viết về nhân vật chính Tây Môn Náo bị giết chết trong cuộc đấu tố địa chủ.
Một mực khẳng định mình chết oan nên Tây Môn Náo nhất quyết không chịu an phận
16
dưới địa ngục, kêu oan đòi đầu thai để trả thù hết những oán hận. Diêm Vương đã cho
Tây Môn Náo đầu thai thành lừa, trâu, lợn, chó, khỉ… để nhìn thấy hết chuyện đời,
chuyện người và xã hội Trung Quốc suốt 50 năm ở vùng nông thôn Cao Mật, những
nhận thức, hóa giải những hận thù, chiêm nghiệm ra nhiều bài học có ý nghĩa sâu sắc.
Thập tam bộ (2007) là một cuốn tiểu thuyết để lại ấn tượng sâu đậm với người
đọc. Trong tác phẩm, một phần đời sống đầy bi kịch của tầng lớp trí thức nói chung và
nhà giáo nói riêng được đề cập tới qua nhân vật không xác định, cốt truyện không xác
định, ngôn ngữ không xác định, không gian - thời gian không xác định, bởi tất cả là hư
vô, là những ẩn ức bị xáo trộn như chính sự phức hợp của đời sống phản ánh vào tư
duy. Tác phẩm là sự mơ hồ, đầy những hoài nghi bởi sau cùng ta không thể nhận ra ai
là nhân vật ngồi trong chuồng sắt kể về câu chuyện đời chua chát của những thầy giáo
dạy Vật lý.
Ếch (2009) tác phẩm mới nhất của Mạc Ngôn kể về truyền thống trọng nam
khinh nữ ở Trung Quốc, dẫn tới việc phá thai và bỏ mặc những bé gái kéo dài tới ngày
nay ở nhiều vùng nông thôn. Tác phẩm kể về câu chuyện một cô vợ lẽ ở nông thôn
Trung Quốc bị buộc phải phá thai và triệt sản, đồng thời phác họa những hệ lụy của
chính sách một con độc đoán của Trung Quốc.
Sự nghiệp văn học của Mạc Ngôn khá đồ sộ với 11 bộ tiểu thuyết dài, 30 truyện
vừa, 100 truyện ngắn, 5 tập tản văn, 9 kịch bản phim, 2 kịch bản kịch nói, ngoài ra còn
có những bài ký, phóng sự, tùy bút... tổng cộng trên 200 tác phẩm. Tác phẩm của ông
đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Nga, Việt Nam... có
sức ảnh hưởng lớn, và đạt nhiều giải trong và ngoài nước. Qua sự pha trộn vừa hư ảo
vừa thực tế, vừa mang tính lịch sử vừa mang tính xã hội đương đại, Mạc Ngôn đã tạo
ra một thế giới khiến người ta nhớ đến những sự phức tạp của cuộc sống nhưng vẫn
giữ phong cách văn chương Trung Hoa cổ và văn hóa dân gian truyền thống. Ngoài
tiểu thuyết, Mạc Ngôn còn xuất bản nhiều truyện ngắn và tản văn về những đề tài khác
nhau. Mặc dù ông giương mũi nhọn chỉ trích đối với xã hội đương thời nhưng ông
được xem là một trong những tác giả đương đại xuất sắc nhất khi viết về mảnh đất quê
hương của mình. Dù họ có nghèo nàn lạc hậu đi chăng nữa nhưng khi vào trong các
trang viết của ông đều trở nên sinh động, đẹp đẽ và thân thương.
Có thể nói Cao Mật là vương quốc văn học của Mạc Ngôn. Con đường đến với
nghệ thuật của Mạc Ngôn không phải là con đường “thuận buồm xuôi gió” mà đó là
17
một con đường quanh co, đầy trắc trở, khó khăn và gian lao. Song nhờ có ý chí, nghị
lực, kiên trì và có ước mơ, ông đã làm nên tên tuổi và sự nghiệp của mình trên văn đàn
văn học Trung Quốc và Thế giới. Ông còn khẳng định “với tư cách là một thành viên
của xã hội, mỗi nhà văn có quan điểm và cách nhìn riêng của mình, nhưng khi viết thì
họ phải lấy quan điểm nhân văn làm chủ yếu và chịu sự dẫn dắt của nó”. Với suy nghĩ
ấy cùng với cách viết về quá khứ, chọn phong cách hiện thực huyền ảo, phương thức
trần thuật độc đáo và khéo léo, Mạc Ngôn đã tạo cho mình một phong cách riêng khác
với các nhà văn đương thời.
Dù có không ít lời khen chê, nhưng không ai có thể phủ nhận được tài năng của
Mạc Ngôn, đặc biệt là những thành công mà Mạc Ngôn đã đạt được qua những tác
phẩm của ông.
Các giải thưởng văn học mà ông đã giành được :
Giải nhất hội nhà văn Trung Quốc cho tiểu thuyết Báu vật của đời tháng 12
năm 1995.
Giải Mao Thuẫn cho tiểu thuyết Đàn Hương hình.
Giải tiểu thuyết toàn quốc lần thứ tư 1987 cho Cao Lương Đỏ, Trương Nghệ
Mưu dựng thành phim và được giải Con gấu vàng ở Liên hoan phim Berlin 1998.
Giải văn học liên hiệp (Đài Loan).
Giải văn học nước ngoài Laure Batlin của Pháp.
Giải văn học quốc tế Nonino của Ý.
Giải thưởng lớn cho văn hóa Châu Á (Nhật ).
Giải Hồng lâu mộng cho tiểu thuyết Hoa ngữ thế giới ( Hồng Kông)
Giải Văn học Hoa ngữ New York (Mỹ).
Huân chương kỵ sĩ nghệ thuật văn hóa Pháp tháng 3 năm 2004.
Năm 2005, trong cuộc bầu chọn “sáu mươi nhà văn của thế kỉ XX” của Trung
Quốc, Mạc Ngôn được xếp thứ mười ba.
Tiến sĩ văn học danh dự do trường Đại học công khai Hồng Kông trao tặng
tháng 12 năm 2005.
Tiểu thuyết Ếch mới nhất đạt giải văn học Mao Thuẫn 2010.
Tiểu thuyết Cao Lương Đỏ đạt giải Nobel văn học tháng 10 năm 2012.
18