TRƯỜNG ðẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
----
----
LÊ THỊ BÉ CHÍNH
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN HIỆN
THỰC MACXIM GORKI
Luận văn tốt nghiệp ðại học ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn:
TRẦN THỊ NÂU
Cần thơ,5-2008
PHẦN MỞ ðẦU
1.Lý do chọn ñề tài
Macxim Gorki – nhà văn của giai cấp vô sản. Tác phẩm của ông có ảnh
hưởng rất lớn ñến ñông ñảo quần chúng. Nhà văn yêu thương trân trọng con người,
viết về những người nghèo khổ bằng cả trái tim mình. ðọc truyện ngắn của M Gorki,
chúng ta càng tin yêu lạc quan hơn trong cuộc sống. Với nhà văn vô sản cái ñẹp tồn
tại ở mọi nơi ñặc biệt là ở những con người dưới ñáy cùng của xã hội. Việc tìm hiểu:
“Thế giới nhân vật trong truyện ngắn hiện thực M. Gorki” có ý nghĩa rất quan
trọng giúp chúng ta hiểu rõ hơn quan niệm của nhà văn về con người, về thực tại xã
hội Nga lúc bấy giờ. Hay chính những nhân vật ñược M. Gorki xây dựng sẽ tác ñộng
mạnh mẽ vào tâm hồn mỗi chúng ta. Mọi người sẽ yêu thương, trân trọng nhau hơn
và không ngừng ñấu tranh ñể vươn tới cái cao ñẹp.
2. Lịch sử vấn ñề
Macxim Gorki là người ñại diện lớn nhất của nền nghệ thuật vô sản là một
trong những nhà văn vĩ ñại nhất của nền văn học thế giới. Ông sáng tác nhiều thể loại
trong ñó truyện ngắn là thể loại ñược ñánh giá cao hơn cả. Trong lời giới thiệu quyển
“Tuyển tập truyện ngắn Macxim Gorki”, xuất bản năm 2007 tác giả ðỗ Xuân Hà có
viết nhận xét về quá trình nghiên cứu truyện ngắn của M. Gorki ở Nga: “Năm 1892
truyện ngắn ñầu tiên ñược ñăng báo tên tuổi ông làm xôn xao dư luận. Nếu 1897
trên báo chí chỉ có 10 bài phê bình nói về các tác phẩm của ông thì năm1899 ñã có
45 bài. Năm 1900 có 160 bài và năm 1901 con số ấy ñã lên tới gần 300” [9; tr.5].
Với số lượng các bài viết tăng nhanh như thế ñã chứng minh tầm quan trọng và ý
nghĩa tác phẩm của M. Gorki ñóng góp cho nền văn học nhân loại.
Trong bài giới thiệu quyển Truyện ngắn M. Gorki (Nxb giáo dục, 1978), tác
giả có ñề cập ñến hình ảnh những người nghèo khổ trong tác phẩm hiện thực của M.
Gorki “Nhà văn miêu tả nỗi ñau khổ của nhân dân ông ñã phơi bày ra ánh sáng bộ
mặt ñê tiện xấu xa của chế ñộ tư bản phong kiến Nga hoàng ñã ñẩy hàng triệu con
người vào cảnh bần cùng” [8; tr.11]. Và tác giả bài viết cũng ñưa ra nhận ñịnh:
“Những truyện ngắn của Gorki ñã mang vào nền văn học Nga và thế giới một luồng
gió mới ñã làm cho những người ñương thời phải thay ñổi những suy nghĩ ñã thành
nếp của mình về con người về cuộc ñời và cả về văn học thúc giục họ hành ñộng tiến
lên nhịp bước với thời ñại anh hùng, thời ñại bão táp Cách mạng…Trong những tác
phẩm của Gorki không những chất lượng mới của các nhân vật tích cực ñược khẳng
ñịnh mà nội dung sáng tác liên hệ một cách hữu cơ với cuộc ñấu tranh cách mạng
của nhân dân với công cuộc cải tạo thế giới với con ñường Cách mạng” [8; tr.18 ].
Nhà nghiên cứu lịch sử văn học Xô-viết Mê-lich Nu-ba-rôp trong chương viết
về tác giả Macxim Gorki khi giới thiệu thể loại truyện ngắn hiện thực có ñề cập ñến
thế giới nhân vật. Ông viết “Macxim Gorki ñưa người ñọc ñi sâu vào thế giới của
những con người nghèo ñói, cùng quẫn, bị lăng nhục và bị xúc phạm, bị xã hội tư
sản quất xuống “dưới ñáy” của cuộc sống. ðó là thế giới của những người phiêu
bạc, du thủ du thực, hành khất, trộm cắp và gái ñiếm” [3; tr.11]. Mêlich Nubarôp còn
so sánh ñiều khác biệt giữa hình ảnh người dưới ñáy trong tác phẩm của M. Gorki và
của các nhà văn hiện thực khác.mà theo tác giả là do sự khác biệt trong cách nhìn về
quần chúng lao khổ.
Còn trong quyển Lịch sử văn học Xô Viết T.1, Nxb: ðại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1982 của các tác giả: Nguyễn Kim ðính - Hoàng Ngọc Hiến
– Huy Liên có bài giới thiệu về cuộc ñời và sự nghiệp sáng tác của Macxim Gorki
cũng như những quan ñiểm nghệ thuật của nhà văn. Trong ñó, các tác giả cũng ñề
cập ñến những ñặc ñiểm của truyện ngắn hiện thực với hình tượng con người “du thủ
du thực” ñau ñớn, quằn quại trong thực tại cuộc sống.
ðiểm qua những giáo trình văn học Nga-Xô-viết và các bài nghiên cứu về
M.Gorki hầu hết những công trình nghiên cứu trên ñều có những ñánh giá xác ñáng
và sắc sảo về cuộc ñời cũng như những ñóng góp của nhà văn. Tuy nhiên chưa có
một công trình nghiên cứu về hệ thống nhân vật mà chỉ là những nhận ñịnh chung
hoặc về một số nhân vật nào ñó. Luận văn này là một sự tiếp nối của các nhà nghiên
cứu văn học Nga trước ñó. Người viết cố gắng khảo sát một số lượng khá nhiều
truyện ngắn hiện thực của Macxim Gorki (12 truyện); tập hợp và phân loại các nhân
vật ñể có cái nhìn khái quát về: “Hệ thống các nhân vật trong truyện ngắn hiện
thực của M. Gorki”
3. Mục ñích yêu cầu
ðề tài ñặt ra yêu cầu là tìm hiểu: “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn hiện
thực M. Gorki” ñể thấy rõ hơn hoàn cảnh xã hội Nga lúc bấy giờ, hiểu sâu sắc cuộc
sống của những người nghèo khổ, biết ñược ước mơ của những em thơ, khát khao
hạnh phúc tình yêu của những người phụ nữ, những ñau khổ quằn quại của con
người trước cuộc sống hay ñó chính là mong muốn vươn lên cuộc sống hạnh phúc
của ñông ñảo quần chúng. ðồng thời, thông qua hình tượng các nhân vật cũng có thể
hiểu thêm về tư tưởng, niềm tin của nhà văn về con người và cuộc sống.
ðọc tác phẩm và vận dụng kiến thức lý luận là yêu cầu tất yếu ñể phân tích
nhân vật theo hệ thống làm bật vấn ñề nghiên cứu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của ñề tài chỉ giới hạn trong lĩnh vực truyện ngắn hiện
thực của M. Gorki. Do ñặc ñiểm của một số tác phẩm truyện ngắn của M.Gorki có cả
yếu tố lãng mạn và hiện thực, nên người viết giới thiệu thêm một số truyện ngắn lãng
mạn. Tuy nhiên, những tác phẩm ñược chọn ñể khảo sát phần lớn chỉ là những truyện
hiện thực hoặc những truyện có yếu tố lãng mạn nhưng mang tính chất hiện thực
nhiều hơn. Trong quá trình chọn lọc người viết sắp xếp các truyện theo hệ thống
nhân vật chính: nhân vật trẻ thơ: Lão Arkhip và bé Lionka, Lenca…; nhân vật phụ
nữ: Câu truyện một ngày thu, Manva, Một người ñàn bà, Một con người ra ñời…;
nhân vật là những kẻ du thủ du thực như: Êmêlian Pilyai , Làm muối, Senkas, Người
bạn ñường của tôi, Cônôvalôp, Vợ chồng Ôrlôp,…
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả M.Gorki gần gũi và quen thuộc. Thế nhưng: “Thế giới nhân vật
trong truyện ngắn hiện thực của ông” là ñề tài chưa ñược nghiên cứu một cách có
hệ thống. Do vậy, ñể thực hiện ñề tài, ngoài việc tìm hiểu những sách lý luận liên
quan ñến nhân vật, ñọc tác phẩm, liệt kê nhân vật và phân loại,… người viết còn sử
dụng kết hợp nhiều phương pháp khác mà chủ yếu là phân tích và tổng hợp.
Chương 1: TÁC GIẢ MACXIM GORKI VÀ THỂ LOẠI
TRUYỆN NGẮN
1.1 Tác giả Macxim Gorki
1.1.1 Tiểu sử
Macxim Gorki sinh ngày 28 tháng 3 năm 1868
trong một gia ñình lao ñộng nghèo ở thành phố Nigiơnhi
Nôpgôrôt nằm bên bờ sông Vônga. Macxim Gorki là bút
hiệu.Tên thật của nhà văn là Alêchxây Măcximôvich
Pêscôp. Aliosa là tên thân mật.
Alêchxây Pêscôp mồ côi cha từ năm lên ba và mồ
côi mẹ từ năm lên mười. Alêchxây ñã trải qua thời thơ ấu thiếu tuổi thơ. Nhà văn nhớ
ñến thời thơ ấu của mình như một cơn ác mộng hãi hùng. Từ bé Alêchxây ñã chứng
kiến thói ñộc ác, hằn thù của mấy người cậu trong gia ñình ông ngoại. Bà ngoại
Aculina Ivanôpna là người bạn duy nhất, nguồn yêu thương sưởi ấm tâm hồn thơ dại
của Aliosa. Chính bà ñã khơi dậy trong lòng chú bé lòng yêu thích văn học dân gian.
Với những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết dân gian Nga, bà ñã nuôi dưỡng
tâm hồn sáng tạo nghệ thuật và tình yêu thương con người của nhà văn vĩ ñại tương
lai. Ngược lại ông ngoại Vaxili Kasirin lại là môt ông già keo kiệt, nóng tính nhưng
chính ông ñã dạy Aliosa biết ñọc và biết viết. Qua ông, chú bé lờ mờ cảm nhận ñược
cái gai góc của cuộc ñời.
Ngồi trên ghế nhà trường chả ñược bao lâu thì cái xưởng nhuộm nhỏ bé của
ông ngoại bị phá sản. Aliosa mới hơn mười tuổi ñã bị ném ra ngoài ñời tự kiếm sống
bằng nhiều nghề vất vả, gian khổ: bới rác, ñi ở, bẫy chim , khuân vác, phụ
bếp,…Trong thời gian này Aliosa có dịp tiếp xúc với nhiều người thuộc nhiều “bậc
thang” xã hội khác nhau.
Những năm niên thiếu ñầy ñắng cay ñã giúp Aliosa sớm tìm ñến với văn học
nghệ thuật như tìm một niềm vui lớn. Aliosa ngấu nghiến ñọc những tác phẩm của
các thiên tài nghệ thuật như: Puskin, Lecmôntôp, Gôgôn, Sêchxpia, Xecvantex,
Huygô, Banzăc,…Chính những tác phẩm ñó ñã mở ra chân trời mới giúp Gorki
“vượt cao hơn cái ñầm lầy rữa thối” của cuộc sống tư hữu, trưởng giả ñương thời.
Qua kinh nghiệm của bản thân, Aliosa ñã sớm nhận thức ñược trách nhiệm xã hội
chân chính, cao quý của văn học nghệ thuật ñối với xã hội và con người.
Với khát vọng cháy bỏng ñược học tập một cách có hệ thống, năm 1884
Alêchxây ñi Kadan ñể xin ñược thi vào trường ñại học ở ñấy nhưng không thực hiện
ñược vì cậu thuộc tầng lớp nghèo hèn trong xã hội. Ước mơ không thành nhưng
Aliosa không nản chí, vừa làm kiếm sống vừa miệt mài tự học. Chính ở ñây, Aliosa
ñã có dịp gặp gỡ những nhà hoạt ñộng cách mạng bí mật thuộc phái dân tuý.
Trong những năm 1888-1889 và 1891-1892 Alêchxây Pêscôp làm hai cuộc
hành trình lớn qua nhiều vùng của ñất nước. Và chính hai chuyến “thâm nhập thực
tế” này ñã làm giàu thêm vốn sống phong phú cho cây bút nghệ thuật thiên tài sau
này. Cuối 1891 Alêchxây ñến Tiphơlix làm việc trong một xưởng máy xe lửa. Trong
thời gian này Alêchxây Pêscôp bắt ñầu sự nghiệp văn chương với tác phẩm ñầu tiên:
“Bài ca cây sồi già”. Bài thơ không hay lắm nhưng Alêchxây không nản chí mà tiếp
tục nghiền ngẫm xây dựng những tác phẩm khác và ñược sự giúp ñỡ của nhà văn
hiện thực xuất sắc Côrôlencô.
Ngày 12 tháng 9 năm 1892 truyện ngắn Makar Suñra ñược ñăng trên báo
Kapka với bút hiệu Gorki. Một cái tên với ý nghĩa “Cay ñắng” mà chẳng bao lâu ñã
trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới. Trong khoảng thời gian tiếp theo Gorki ñã viết
hàng loạt những tác phẩm vừa mang tính chất lãng mạn vừa mang tính chất hiện
thực. Năm 1898, những tác phẩm ñầu tay của Macxim Gorki ñược xuất bản thành hai
tập với nhan ñề: Tuỳ bút và Truyện. Từ ñó M.Gorki nổi tiếng khắp nước Nga.
Năm 1905, M.Gorki tham gia hoạt ñộng cách mạng, công tác trong công nhân
và sinh viên, tổ chức nhà in bí mật. Những cảm tưởng và kinh nghiệm tích luỹ trong
thời kì ấy sau này ñã phục vụ cho ñề tài cuốn tiểu thuyết “Người mẹ”. Năm 1901,
M.Gorki bị bắt rồi bị trục xuất khỏi Nigiơnhi Nôpgôrôt. Tháng 10.1905 Gorki tham
gia sáng lập tờ báo “ðời sống mới”- Cơ quan Bônsêvich ñầu tiên xuất bản công khai
do Lênin trực tiếp lãnh ñạo. Gorki hoạt ñộng tích cực trong những ngày khởi nghĩa ở
Matxcơva vào tháng chạp năm 1905. ðầu năm 1906, ðảng ñưa Gorki ra nước ngoài
ñể tránh sự khủng bố của Nga hoàng, ñồng thời nhằm tuyên truyền cho Cách mạng
Nga ở Mỹ.
Tháng 5.1907 ñến năm 1913 M. Gorki hoạt ñộng cách mạng ở London và ở Ý.
Trong suốt những năm ấy, Gorki tham gia viết bài cho hai tờ báo Bônsêvich: Ngôi
sao và Sự thật.
Trong những năm ñầu của Cách mạng tháng Mười, Gorki tích cực góp phần
xây dựng nền văn hoá và văn nghệ mới Xã hội chủ nghĩa. Năm 1918 -1919, Gorki
tham gia tổ chức trường ðại học công nông, các nhà xuất bản: “Tủ sách nhân dân”,
“Văn học thế giới”, viết cho các tạp chí: Nhi ñồng, Rạng ñông ở phương Bắc, Khoa
học . Tháng 6 năm 1920, Gorki tham dự ðại hội Quốc tế cộng sản lần thứ hai.
Do phải trải qua ñời sống gian khổ trước ñây, Gorki mắc bệnh lao, những công
tác dồn dập trong những năm ñầu Cách mạng càng làm cho bệnh nặng thêm. Gorki
ñược Lênin, vị lãnh tụ, ñồng thời còn là người ñồng chí, người bạn sắp xếp cho ñi
nước Ý ñể trị bệnh và dưỡng sức từ năm 1921ñến 1928. Trong mấy năm ñó, mặc dù
sức yếu, Gorki vẫn cố tranh thủ sáng tác. Và kết quả là tập Những mẫu chuyện nước
Ý ñã ñược xuất bản. Ngày 28 tháng 5 năm 1928, Gorki trở về nước. Từ tháng 8 năm
1928 ñến cuối năm ấy, Gorki lại tiến hành cuộc hành trình trên ñất nước Liên Xô vĩ
ñại, thăm lại những nơi mà ông ñã trải qua thời tuổi trẻ. Kết quả của cuộc hành trình
này là một loạt bút ký trên ñất nước Xô Viết. Sau ñó, Gorki thành lập các tạp chí:
Các thành tích của chúng ta, Liên Xô kiến thiết, Người nông trang tập thể.
Năm 1934, Hội nhà văn Xô Viết ñược thành lập tại ðại hội lần thứ nhất của
Hội, Gorki ñã ñọc một bản báo cáo có tính chất cương lĩnh ñối với nền văn học hiện
thực Xã hội chủ nghĩa và ñược bầu làm Chủ tịch của Hội.
Trong những năm cuối của ñời mình, Gorki mặc dầu già yếu bệnh tật vẫn liên
tục hoạt ñộng. Tác phẩm chưa hoàn thành do cơn bệnh nặng, Macxim Gorki mất
ngày 18 tháng 6 năm 1936 trong niềm thương tiếc ñau ñớn của nhân dân Liên Xô và
của toàn thể nhân loại cần lao, của tất cả những nhà văn hoá, văn nghệ tiến bộ trên
thế giới. Chính phủ Liên Xô ñã làm lễ quốc táng cho Gorki. Bình ñựng tro di hài của
ông ñược an táng cạnh chân tường ñiện Kremli, trung tâm thủ ñô Matxcơva.
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác
Macxim Gorki chính thức bước vào văn ñàn với tác phẩm Makar Suñra ñược
viết 1892. Tiếp theo khoảng thời gian này là hàng loạt những tác phẩm: Cô gái và
thần chết (1892), Nàng tiên bé nhỏ và chàng chăn cừu (1892). Bà lão Idecghin
(1894), Lão Arkhip và bé Lionka (1893), Senkas (1894), Bài ca chim Ưng (1895), Vợ
chồng Ôrlôp (1897), Cônôvalôp và nhiều tác phẩm khác,…ðây là khoảng thời gian
M.Gorki tìm hướng ñi và xác ñịnh mục ñích sáng tác. Tác phẩm chủ yếu là truyện
ngắn và một số tiểu thuyết. Những tác phẩm ñầu tay vừa mang tính hiện thực vừa
mang tính lãng mạn ñược xuất bản thành hai tập nhan ñề là: Tuỳ bút và Truyện làm
cho tên tuổi M.Gorki nổi tiếng khắp cả nước. Năm 1899, Gorki hoàn thành truyện Ba
người và vở kịch Những người tiểu tư sản. Tiếp theo ñó là Bài ca Chim báo bão
(1901), Dưới ñáy (1902), Con người (1903), Những người ở ngoại ô (1904), Những
ñứa con của mặt trời (1905), Bọn dã man (1905)…
Khoảng thời gian từ năm 1905 ñến năm 1916 Gorki tham gia hoạt ñộng Cách
mạng sôi nổi và sáng tác những tác phẩm có giá trị mở ñầu cho nền văn học hiện
thực xã hội chủ nghĩa ở Nga. Tiểu thuyết Người mẹ và vở kịch Những kẻ thù (1906)
ñược xem là hai tác phẩm kinh ñiển ñặt nền mống cho chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa. ðây là thời kì mà tài năng nghệ thuật của Gorki chín muồi với nhiều
truyện ngắn, bút, kí, tiểu thuyết và kịch. Một số tác phẩm tiêu biểu như: ðồng chí!,
Ngày 9 tháng Giêng, Những cuộc phỏng vấn của tôi,…(1906), Lời tự thú (1908) viết
ở Capri (Ý), Một mùa hè (1909), Cuộc ñời của một kẻ vô dụng (1906-1908), Kịch:
Những tên cuối cùng (1908), Những kẻ kì quặc, ðồng tiền giả… Hai tác phẩm xuất
sắc viết từ năm 1909 ñến 1911 là: Thị trấn Ôcurôp và Cuộc ñời của Matvây
Côgiêmiakin. Bộ tiểu thuyết tự thuật ñặc sắc: Thời thơ ấu (1912-1913) ở Capri, Kiếm
sống viết trong hai năm 1914-1915, sau khi về nước. Tập thứ ba - Những trường ñại
học của tôi, ñược viết sau Cách mạng tháng Mười. Gorki rời nước Ý thân yêu ñể lại
tác phẩm xuất sắc: Những mẫu chuyện nước Ý gồm những bài ñăng trên báo từ 19101013 và tập truyện ngắn: Trên những nẻo ñường ñất nước Nga (1912-1917)…
Giai ñoạn sau từ 1917 ñến cuối ñời là khoảng thời gian Macxim Gorki sáng
tác rất sôi nổi. Ông viết rất nhiều và ở nhiều thể loại. Nhà văn viết tiếp về cuộc ñời
mình với Những trường ñại học của tôi và chùm truyện ngắn ñược xem là chùm thứ
tư của tiểu thuyết mang tên Những truyện ngắn tự thuật gồm bốn truyện: Anh chàng
gác ñêm, Thời buổi Côrôlencô, Về tai hại của triết học, Mối tình ñầu. Ngoài những
truyện ngắn tự thuật trên, trong những năm 20, Gorki còn viết một loạt những truyện
ngắn ñánh dấu một bước tìm tòi mới của mình: Kẻ ẩn sĩ, Truyện về cái phi thường,
Người dẫn ñường, Truyện về một mối tình vô vọng, Những con gián, ... Những năm
30 là tập ký Trên những nẻo ñường Liên bang Xô Viết và tập Truyện kể về những
người anh hùng. Về kịch nở rộ với: Xômôp và những người khác (1930-1931), Egor
Bulusôp và những người khác (1931), ðôxchigaep và những người khác (1932),
Vatxa Giêlêñơnôva (1935). ðặc biệt ở giai ñoạn này phải kể ñến hai tiểu thuyết lớn:
Sự nghiệp gia ñình Actamônôp và Cuộc ñời của Clim Xamghin. ðây là bản tổng kết
sinh ñộng mấy chục năm lao ñộng sáng tạo của nhà văn vô sản vĩ ñại. Ngoài ra M.
Gorki còn chỉ ñạo xây dựng một số chân dung văn học như: Lênin, Sêkhôp,
Côrôlencô, Êxênhin, Leptôntôi,...chỉ ñạo xây dựng bộ sách “Cuộc ñời của những
danh nhân”và “Tủ sách nhà thơ”. Nói về ñóng góp của Macxim Gorki trong lĩnh vực
lí luận và phê bình văn học trước hết phải kể ñến bộ “M. Gorki bàn về văn học” và
nhiều bài nghiên cứu phê bình ñăng trên các tạp chí...
Sau hơn bốn mươi bốn năm sáng tác liên tục không ngừng nghỉ, nhà văn vô
sản vĩ ñại ñã ñể lại cho văn học Xô Viết, văn học Cách mạng toàn nhân loại một di
sản vô giá: truyền thống Gorki. ðó là truyền thống nhà văn chiến sĩ “công khai gắn
liền với giai cấp vô sản” gắn liền sáng tác nghệ thuật với sự nghiệp Cách mạng xã
hội chủ nghĩa của giai cấp tiền phong của thời ñại; truyền thống gắn bó ruột thịt với
nhân dân- như lời ông khẳng ñịnh- “Sức mạnh sáng tạo nên mọi giá trị vật chất, cội
nguồn duy nhất và vô tận của những giá trị tinh thần”. Là truyền thống nhà văn- nhà
“nhân học” cách mạng luôn nồng nhiệt khát vọng “tình thương yêu chân chính ñối
với con người ñược tổ chức lại như một lực lượng sáng tạo” nhằm mục ñích giải
phóng hàng ngàn triệu nhân dân lao ñộng, ñưa con người lên ñịa vị là chủ thể sáng
tạo lịch sử.
Chính vì thấm sâu cảm hứng tư tưởng thẩm mỹ ñó, tác phẩm của Gorki ñã ảnh
hưởng trên toàn thế giới. Sự nghiệp văn học của ông thật vĩ ñại. Nhà văn hiện thực
xã hội chủ nghĩa ñầu tiên trên thế giới H.Bacbuyxơ sau Gorki ñã ca ngợi Gorki: “Ở
thời ñại chúng ta Gorki là bó ñuốc vĩ ñại chiếu sáng con ñường mới cho toàn thế
giới”. Nhà ñại văn hào Pháp R. Rôlăng ñã nói “Chưa hề bao giờ có một ai ngoài
Gorki ra ñã gắn liền ñược tuyệt vời ñến như thế những thế kỷ văn hoá thế giới với
cách mạng”. Nhà ñại văn hào Trung Quốc - Lỗ Tấn, nhận ñịnh “Gorki là người thầy
văn học của thời hiện ñại tên của Gorki tiêu biểu cho giai ñoạn mới trong lịch sử văn
học thế giới”. Vừa mới ñây nhà văn Aragông viết: “Gorki không chết ,Gorki ñược
nhân dân lao ñộng toàn thế giới yêu quý sẽ sống trong nụ cười của em bé trong vẻ
ñẹp của các cô gái, trong tuổi trẻ tự do của ñất nước hạnh phúc”.
ðối với Việt Nam có thể nói M. Gorki là nhà văn Xô Viết ñầu tiên ñược nhân
dân biết tới, là nhà văn nước ngoài ñầu tiên có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong việc bồi
dưỡng tư tưởng Cách mạng ( Nhận xét của Hải Triều khi viết sách giới thiệu Cuộc
ñời và sự nghiệp sáng tác của Gorki).
Gorki ñã khẳng ñịnh những nguyên tắc của phương pháp nghệ thuật mới trong
văn học. Bằng tấm gương của cả cuộc ñời mình, của toàn bộ cuộc ñấu tranh mà mình
theo ñuổi, ông cũng ñã khẳng ñịnh thế nào là nhà văn kiểu mới, nhà nghệ sĩ công
dân, người tham gia tích cực vào cuộc ñấu tranh cho Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Gorki ñã trở thành người ñại diện sớm nhất của nền nghệ thuật vô sản, là người khai
sinh ra văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của thế giới.
1.2 Thể loại truyện ngắn
1.2.1 Truyện ngắn lãng mạn
Cảm hứng chủ ñạo của những truyện ngắn lãng mạn là ca ngợi tự do, ca ngợi
những chiến công, ca ngợi con người. Viết những tác phẩm lãng mạn, Macxim Gorki
kế thừa truyền thống lãng mạn tiến bộ của những nhà văn Nga nổi tiếng như: Puskin,
Lecmôntôp,… Ngay từ nhỏ, nhà văn ñã say mê những hình tượng nhân vật lãng mạn,
anh hùng, yêu tự do trong sáng tác của Bairơn, Sile. Nhưng ñiều quan trọng ở ñây là
Macxim Gorki ñã tiếp thu một cách sâu sắc sức sống bất khuất, luôn vươn dậy mãnh
liệt của nhân dân biểu hiện trong những truyền thuyết, cổ tích, tráng sĩ ca của văn
học dân gian Nga. Gorki khẳng ñịnh chính những cảm hứng lãng mạn trong sáng tác
dân gian là ñộng lực thúc ñẩy mình viết tác phẩm lãng mạn.
ðặc ñiểm nổi bật của những truyện ngắn lãng mạn thời kỳ ñầu là cảm hứng
trữ tình lãng mạn của tác giả luôn gắn liền với những truyền thống tốt ñẹp tiềm tàng
trong nhân dân lao ñộng. Nhưng cảm hứng trữ tình toát ra từ những tác phẩm lãng
mạn của Gorki không phải ñưa con người rời xa thực tại xã hội ñương thời, mà trái
lại, gợi mở cho ñộc giả suy nghĩ sâu về những vấn ñề xã hội – chính trị ñương thời.
Những tác phẩm lãng mạn thời kỳ ñầu của Gorki biểu hiện những quan ñiểm
về sứ mệnh nghệ thuật, những quan ñiểm về nhân dân của nhà văn trẻ ñi lên từ cuộc
ñời của quần chúng cần lao. Qua những tác phẩm nghệ thuật nhắc nhở mọi người:
hãy nhìn kỹ, nhìn sâu vào những truyền thống tốt ñẹp của nhân dân và giải ñáp
những vấn ñề hiện tại, ñể ñi tới tương lai. Bằng ngôn từ sinh ñộng, Gorki biểu dương
ñề cao phẩm chất cao thượng, dũng cảm, anh hùng của con người. Những nhân vật
trong tác phẩm lãng mạn thời kỳ ñầu của Gorki là những con người kiên cường, bất
khuất yêu tự do: ðankô (Bà lão Idecghin), Lôikô Zôbar , Ratña (Makar Suñra),
Chàng chăn cừu (Nàng tiên bé nhỏ và chàng chăn cừu), Cô gái (Cô gái và Thần
Chết), Chim Ưng (Bài ca Chim Ưng)...
Có thể nói những tác phẩm lãng mạn của Gorki là những bản tuyên ngôn
khẳng ñịnh niềm tin yêu vào cuộc sống và con người, những bản luận chiến mạnh
mẽ chống lại những quan niệm xám xịt, ảm ñạm về cuộc sống ñầy rẫy trong những
thứ nấm ñộc của văn học suy ñồi ñang ngoi dậy và phát triển trong văn học Nga bấy
giờ. Ngay từ khi mới bước chân vào văn ñàn, ngòi bút của Gorki ñã quyết liệt chống
lại những thứ tư tưởng bi quan, tiêu cực, tuyệt vọng trong văn học. Xã hội ñang cần
những con người anh hùng dám xả thân vì nhân dân như anh hùng ðancô trong
truyện Bà lão Idecghin. Chàng ðancô anh dũng giương cao trái tim nóng hổi của
mình làm “bó ñuốc của tình yêu vĩ ñại ñối với con người ”, ñưa cả tập thể mở ñường
xuyên qua rừng rậm dày ñặc bóng tối ảm ñạm, nồng nặc hơi bùn vữa thối, vượt ra
với thảo nguyên và biển cả ngời ngời ánh sáng. ðancô dám băng lên phía trước,
nguyện làm người chiến sĩ tiên phong vì anh hằng tin mãnh liệt rằng cái “rừng” ngột
ngạt, ñầy ñộc khí này nhất ñịnh phải có chỗ tận cùng, kết thúc. Một sự trùng hợp rất
có ý nghĩa: năm 1895 cũng là thời ñiểm Lênin sáng lập ra tổ chức: “Hội liên hiệp ñấu
tranh giải phóng giai cấp công nhân”, ñánh dấu sự trưởng thành của phong trào
Cách mạng vô sản Nga ñang dâng dậy. Âm hưởng của những biến ñộng lịch sử rõ
ràng ñã dội vang vào nội dung hình tượng hoành tráng của ðancô bất tử. ðancô thật
sự trở thành một trong những hình tượng văn học ñẹp nhất của văn học nhân loại.Và
cũng chính âm hưởng lịch sử ngày càng ùa vào tác phẩm của Gorki ñã làm cho Bài
ca Chim Ưng (1895) ñược quần chúng ñánh giá như một bản tuyên ngôn Cách mạng
sinh ñộng. Nhà phê bình Macxit Vôrôpxki lúc ñó ñã nhận thấy rất rõ mối quan hệ
gắn bó giữa tính lãng mạn trong những tác phẩm của nhà văn trẻ với những biến ñổi
trong thực tại xã hội, với cuộc ñấu tranh của giai cấp vô sản. Ông nhận ñịnh rằng
chính những ñiều kiện xã hội trong thời kỳ Cách mạng ñang dâng dậy ñã sản sinh ra
trong tâm hồn Gorki những xúc cảm và tư tưởng quả cảm, mãnh liệt tự do. Chính
ñiều ñó ñã giải thích một ñặc ñiểm nổi bật trong những tác phẩm lãng mạn của Gorki
ñó là cảm hứng trữ tình lạc quan, tin tưởng. Những khát vọng lãng mạn của nhà văn
trẻ ngày càng bén rễ sâu vào phong trào ñấu tranh của giai cấp vô sản, một lực lượng
tràn ñầy sinh lực ñang bước lên vũ ñài lịch sử. Những khát vọng chủ quan này ngày
càng có chỗ dựa vững chắc trong thực tại xã hội, trong phong trào cách mạng của
ñông ñảo quần chúng.
Gắn bó ruột thịt với nhân dân, ñó chính là cội nguồn của một ñặc ñiểm khác
nổi bật trong những tác phẩm lãng mạn của Gorki- Cảm hứng trữ tình về mối quan
hệ giữa cá nhân và tập thể. Ngay từ thuở niên thiếu, ở Alêchxây Pêscôp ñã sớm hình
thành nổi căm ghét sâu sắc cái “nguyên lí vị kỷ” trong xã hội và trong tâm hồn con
người. Nhà văn tương lai ñó từ kinh nghiệm của bản thân ñã sớm thấy tâm hồn con
người chỉ có thể trở nên vững mạnh, phong phú khi biết hướng về tập thể nhân dân,
thu hút những “mật ngọt” của sức mạnh tập thể.
Sử dụng một cách sinh ñộng biện pháp tương phản trong hệ thống hình tượng
tác phẩm, Gorki làm nổi bật lên bản chất gắn bó với tập thể của những nhân vật ñẹp
ñẽ như ðancô, Chim Ưng. Gorki khẳng ñịnh con người kiêu ngạo, tách rời nhân dân
ñối lập với quần chúng phỉ báng những nguyên tắc ñạo ñức và truyền thống sẽ bị ñày
ñoạ trong sự cô ñộc hãi hùng. Hình tượng Larra ích kỷ ñược Gorki ñặt trong sự
tương phản với anh hùng ðancô càng làm tăng lên tính cách của mỗi nhân vật bộc lộ
tư tưởng của nhà văn. Muốn có hạnh phúc thật sự và muốn làm mình có ý nghĩa,
người ta phải hoà mình với nhân dân, không phải chỉ về thể chất mà còn cả về tinh
thần, phải biết ñem tất cả những gì quý giá nhất của cuộc ñời mình cống hiến cho sự
nghiệp cao ñẹp là ñấu tranh ñể mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. ðancô là một con
người như thế. ðó chính là ước mơ của Gorki về giới lãnh tụ của nhân dân mà sau
này ông ñã trông thấy bằng xương bằng thịt trong Lênin vĩ ñại. Ông nói: “Lênin là
anh hùng của truyền thuyết, là ðancô, con người ñã lôi trái tim từ trong lồng ngực
của mình ra ñể soi ñường cho mọi người ra khỏi bãi lầy ngột ngạt”. Hay trong tác
phẩm Bài ca Chim Ưng, M.Gorki ñã ñối lập hai thứ triết lí sống của Chim Ưng và
Rắn Nước. Trong bất kỳ một cuộc biến ñộng xã hội nào cũng ñều không thiếu những
loại người hèn nhát cầu an coi “lòng dũng cảm là sự ñiên cuồng như Rắn Nước”.
Lòng khâm phục của Gorki ñối với những người tìm thấy hạnh phúc trong sự ñấu
tranh như Chim Ưng. Trong trí tưởng tượng nghệ thuật của Gorki, hình ảnh của
Chim Ưng gắn liền với hình ảnh của những người cộng sản. Có thể nói M.Gorki ñã
kết hợp yếu tố lãng mạn truyền thống trong sáng tác dân gian và yếu tố lãng mạn
trong văn học Nga hiện ñại ñể phản ánh khát vọng của nhân dân khi phong trào cách
mạng vô sản ñang dâng dậy, cảm hứng lãng mạn của Gorki tràn ñầy tính cách mạng
tươi trẻ, mạnh mẽ.
M.Gorki sử dụng rộng rãi những thủ pháp nghệ thuật lãng mạn, có khả năng
tác ñộng mạnh ñến tình cảm con người như: so sánh, tương phản, phóng ñại, tượng
trưng, nhân hóa,... Phong cảnh thiên nhiên trong các tác phẩm lãng mạn của ông ñặc
biệt giàu màu sắc và sống ñộng không khác gì con người. Ngôn ngữ của Gorki vô
cùng phong phú, nó lấp lánh muôn màu có khả năng truyền ñạt lại một cách ñầy ñủ
vẻ ñẹp của thiên nhiên cũng như vẻ ñẹp của con người. Dường như ñể tô ñậm thêm
những màu sắc rực rỡ, nâng cao hơn lên những âm thanh dịu ngọt của thiên nhiên,
Gorki thường hay ñệm cho những truyện lãng mạn của mình những bài ca nói lên
tâm trạng của những người yêu ñời vì cảm thấy trong mình tràn trề sức sống. Truyện
ngắn lãng mạn của Gorki không có ý muốn vẽ ra cho con người cuộc sống xa lạ ñể
lãng quên mà muốn phát hiện ra và phóng ñại những khả năng hiện có của con người
nhưng ñang còn bị những ñiều tầm thường, nhỏ mọn của cuộc ñời che khuất. Người
ta sẽ cảm thấy yêu ñời hơn bởi họ phát hiện ra sức mạnh tinh thần vĩ ñại luôn tồn tại
trong chính bản thân họ. Hay nói cách khác bằng những truyện ngắn lãng mạn của
mình M.Gorki ñã khơi dậy những phẩm chất tốt ñẹp, những niềm tin, sức mạnh ở
con người.
1.2.2 Truyện ngắn hiện thực
Là một cây bút lãng mạn có sức rung cảm mạnh mẽ ngay ở thời kỳ ñầu, Gorki
còn là một cây bút hiện thực lỗi lạc. Những năm chín mươi là thời kỳ chủ nghĩa tư
bản Nga phát triển rất mạnh mẽ, nhưng ñời sống nhân dân vô cùng cực khổ, ở nước
Nga hàng năm có nạn ñói nhỏ, ba năm một lần lại có nạn ñói trung bình, năm năm
một lần có nạn ñói lớn và mười năm một lần có nạn ñói khủng khiếp. Nạn ñói năm
1891-1892 lan tràn khắp ba mươi tỉnh với số dân gần bốn mươi triệu người ñã làm
cho hàng triệu người chết. Nạn ñói này ñã ñể lại một ấn tượng sâu sắc trong sáng tác
thời kỳ ñầu của Gorki. Với một nghị lực phi thường và lòng khát khao ñi tìm chân lý,
ñầu tháng 4 năm 1891, Gorki rời quê hương ñể bắt ñầu một cuộc hành trình dài khắp
nước Nga, không có vốn liếng trong túi Gorki phải vừa ñi vừa kiếm sống và làm
nhiều nghề khác nhau. Hè năm 1892, ông ñã làm việc với những người bị nạn ñói
trên công trường xây dựng con ñường ô tô từ Xukhum ñến Novorotxia. Do ñồng cam
cộng khổ với nhân dân, Gorki ñã biết rõ cuộc sống ñói rét khủng khiếp không phải
qua sách vở mà bằng chính cuộc ñời mình. Trên những nẻo ñường của nước Nga
mênh mông, Gorki ñã gặp vô số những nông dân ñói khổ, nhiều khi họ ñi thành từng
ñoàn với cả gia ñình, vợ con từ miền trung tâm nước Nga về các tỉnh miền Nam tìm
cách sinh sống. Nhưng những người này không dễ dàng tìm ñược việc làm, hơn nữa
ñi ñến ñâu họ cũng bị cảnh sát theo lệnh Nga hoàng truy nã như những kẻ vô dụng.
Người ta tính trong những năm chín mươi ở Nga con số những người ñi lang thang
như thế ñã lên tới gần năm triệu. Chính những năm tháng lao ñộng kiếm sống, chứng
kiến nhiều hiện thực ñau lòng ñã ñể lại trong tâm trí nhà văn tương lai những ấn
tượng day dứt, dai dẳng như “một cục trong họng” không viết, không khắc họa
chúng bằng ngôn từ thì không chịu nổi! Chính ñó là ñộng cơ thúc ñẩy Gorki viết
hàng loạt những truyện ngắn hiện thực sinh ñộng ñộc ñáo.
Trong tuyến những tác phẩm hiện thực thời kỳ ñầu của Gorki, chúng ta dễ
dàng nhận thấy hai lớp tác phẩm - một lớp tập trung vào phê phán, ñả kích cái “thế
giới trưởng giả ñang lực lưỡng, cường tráng”, ñang phè phỡn trên xương máu của
nhân dân lao ñộng, và lớp tác phẩm miêu tả cuộc sống của nhân dân, của những
người cùng cực trong xã hội.
Ngòi bút hiện thực của nhà văn trẻ khi mổ xẻ, phơi trần những gì tàn bạo, xảo
trá ở “những ông chủ”, “những con người thép” bao giờ cũng mang tính chất châm
biếm sắc sảo. Trong thế giới trưởng giả ñó, chúng ta bắt gặp những tên tư bản thời
tích lũy ban ñầu mà tất cả chỉ vì tiền, chúng lạnh lùng, tàn nhẫn chà ñạp lên cuộc
sống của nhân dân lao ñộng. Macxim Gorki ñã chĩa mũi nhọn ñả kích vào cái tâm lí,
tư tưởng vị kỉ, thấp hèn của bọn tri thức trưởng giả. Những tác phẩm tiêu biểu như:
Bài ca ñiền viên (1896), Quả chuông (1896), Những kẻ vốn là người (1897), Bị quỷ
ám (1896),… Nhân vật Paven Anñrêvich trong tác phẩm ðứa bé ăn xin (1893) ñược
mệnh danh là: “Nhà hùng biện ñầy tài năng, vị luật gia xuất sắc” tiêu biểu cho cái
nhân sinh quan Rắn nước trong bài ca Chim ưng. ðó là tư tưởng cầu an vui vẻ hài
hòa cùng cuộc sống xám xì, trì truệ, ảm ñạm của thực tại xã hội lúc bấy giờ. Luôn
chấp nhận thực tại xấu xa, tự cao, tự xem mình là thông minh quan trọng, mặc dù nó
luôn sống khép mình, ích kỷ hay tên văn sĩ trong Một cuộc gặp gỡ (1896) bộc lộ sâu
sắc tâm lí của kẻ ñầu hàng buông xuôi thảm hại, ngại khó nên hắn phản bội lại những
tư tưởng tiến bộ mà trước ñây hắn ñã có một thời kì ấp ủ, yêu quý. Tệ hại hơn, hắn
còn tự ñắc cho rằng bây giờ hắn mới thực là một nghệ sĩ “chân chính” vì ñã ñạt tới
nghệ thuật thuần tuý thanh cao. Nhưng bên trong cái mặt nạ “thích nghi”, “nghệ
thuật vị nghệ thuật” ñó là tư tưởng tư sản của bọn tư sản trưởng giả. Trong những
truyện như: Thức tỉnh (1894), Trả thù (1896), Gorki vạch rõ bộ mặt tàn bạo, thô bỉ,
thậm chí vô liêm sĩ sẵn sàng chà ñạp lên những ñau khổ của người khác.
Trong những tác phẩm hiện thực thời kì ñầu của Gorki, bản lĩnh cách tân của
nhà văn trẻ ñược thể hiện rõ ràng nhất trong những truyện viết về ñời sống, tư tưởng,
tình cảm của quần chúng nhân dân Nga. Với vốn sống thực tế phong phú, mặc dù khi
mới bước vào nghề Gorki ñã kế thừa truyền thống của những nhà văn ñi trước nhưng
Gorki không “thỏa thuận” với họ trong cách nhìn ñối với quần chúng lao khổ. Hình
tượng những nhân vật quần chúng trước kia các nhà văn tái hiện còn phiến diện,
chưa phản ánh ñược thực chất phong phú, phức tạp, mâu thuẫn của những con người
thực trong ñời sống mà nhà văn từng chung sống, gần gũi thân thiết. Gorki bác bỏ
các quan ñiểm “bề trên” thương hại chiếu cố ñối với quần chúng. Nhà văn trẻ cũng
bác bỏ quan ñiểm lí tưởng hóa người nông dân Nga của những nhà văn phái dân tuý
ñã “vẽ nên một người mugich ñược tô hồng lòe loẹt và ngon lành như một cái bánh”.
Gorki là ñứa con ruột thịt của nhân dân, nhà văn không ñứng bên ngoài ñể quan sát,
miêu tả và ñồng cảm mà chính từ ý thức của nhân dân ñể nhìn nhận, ñánh giá xã hội
và con người. ðối với ngòi bút nghệ thuật Gorki, miêu tả quần chúng nhân dân có ý
nghĩa là tự biểu hiện. Chính vì vậy, trong những tác phẩm như: Kẻ phá bĩnh,
Cônôvalôp, Vợ chồng Ôrlôp, ... ñiều quan tâm hàng ñầu của tác giả không phải ở
những ñiều kiện sống tối tăm, cực khổ ở những chi tiết về nghề nghiệp mà chính ở
quá trình tâm lý, ý thức muốn thoát khỏi hoàn cảnh túng quẫn, muốn có một hướng
ñi trong tâm hồn. Họ luôn trăn trở về chính bản thân mình, những câu hỏi “Tại sao?”
dường như lúc nào cũng lẫn quanh trong ñầu họ, họ muốn tìm một chỗ dựa về tinh
thần ñể từ ñó có thể cải thiện ñời sống về vật chất. Hay nói khác ñi, những truyện
hiện thực của Gorki viết về quần chúng nhân dân dựng lên trước mắt chúng ta, hình
tượng nước Nga nhân dân ñang trên ñường phức tạp, gian khổ ñể tìm về “một ñiểm
tựa” ở ngay trong bản thân, ñang trên ñường vươn lên tự khẳng ñịnh. Quá trình thức
tỉnh sự tự ý thức của nhân dân trong giai ñoạn lịch sử mới của ñất nước Nga – ðó là
tiếng nói mới của Gorki trong nền văn học hiện thực Nga.
Lớp ý nghĩa thứ hai trong truyện ngắn hiện thực của M. Gorki là hình ảnh của
những người “du thủ du thực” những “con người bé nhỏ” tội nghiệp ñáng thương
trong xã hội. Khi lựa chọn các tác phẩm của mình vào tuyển tập, Gorki thường chú ý
ñến những truyện loại này. Ở nước ngoài những tuyển tập truyện ngắn ñầu tiên của
Gorki ñã ñược xuất bản với những ñầu ñề như: Những kẻ lang thang, Những ngưòi
khốn khổ,… Công chúng, ñộc giả và giới phê bình cũng ñã thừa nhận ngay rằng hình
ảnh người du thủ du thực là một thành công rất lớn của Gorki.
Tầng lớp những người du thủ du thực là sản phẩm của việc vô sản hóa nông
thôn một cách dã man trong hoàn cảnh chế ñộ tư sản phát triển mạnh ở Nga. Khác
với nhiều nhà văn ñương thời, Gorki ñã dùng ñối tượng này không phải là ñể miêu tả
quá trình sa ñọa và lưu manh hóa mà là ñể nói về sự vươn dậy, sự “tái sinh” của con
người. Theo Gorki, trong hoàn cảnh những quan hệ xã hội phong kiến và những quan
hệ xã hội tư bản cũng không lấy gì làm tốt ñẹp hơn ñang ñược sắp ñặt, thì những
hình thức tự tách mình ra khỏi môi trường sống với những lề thói - tập quán hủ lậu,
mà lối sống du thủ du thực là một trong những hình thức ñó – chính là triệu chứng
của một sự biến ñộng lịch sử sắp xảy ra, là những dấu hiệu ñầu tiên về sự ñổ vỡ hoàn
toàn của xã hội cũ. Sự quan tâm của Gorki ñối với những người du thủ du thực bắt
nguồn từ khát vọng muốn miêu tả hiện thực như một quá trình vận ñộng, phát triển
có tính chất cách mạng.
Gorki tiếp tục truyền thống của các nhà văn dân chủ Nga những năm sáu
mươi trong việc miêu tả nỗi ñau khổ của nhân dân. Ông ñã phơi bày ra ánh sáng bộ
mặt ñê tiện, xấu xa của chế ñộ phong kiến tư bản Nga hoàng, chế ñộ ñã ñẩy hàng
triệu con người vào cảnh bần cùng. Ông ñã tố cáo bọn thống trị dã man, tàn nhẫn,
những kẻ ñã tước ñoạt của nhân dân tất cả mọi quyền sống của con người, kể cả
quyền lao ñộng, cái quyền lợi tối thiểu và ñồng thời cũng là phương tiện duy nhất ñể
kiếm sống. Trong một thành phố cảng lớn như Odexxa mà Emêlian Pilyai và người
bạn ñường của anh cũng không thể nào tìm ñược việc làm (Emêlian Pilyai). ðúng
như bác dân chài trong truyện Làm muối ñã nói: “Trên trái ñất này không ñủ công
việc cho người ta làm, và con người phải tốn bao nhiêu công sức mới tìm ñược việc”.
Trên ñường ñi từ Odexxa tới Tiflit, những nhân vật trong truyện Người bạn ñường
của tôi ñã gặp những ñoàn người ñói khát, lũ lượt kéo nhau ñi tìm việc làm hay hành
khất. Số phận của những người có công ăn việc làm cũng không hơn gì số phận của
những người thất nghiệp, cái ñói tựa như một con ñỉa, cứ bám riết lấy họ, bắt buộc
họ phải nhắm mắt nhắm mũi lại mà ñến nộp mạng cho những kẻ bóc lột. Lao ñộng
khổ sai làm con người phẩn nộ, nhưng vì không biết trút sự bực tức của mình vào
ñâu, họ trở nên ñộc ác và tàn nhẫn với nhau (Làm muối). Dưới chế ñộ Nga hoàng thì
những người lao ñộng tự do so với những người tù khổ sai cũng chẳng có gì là khác
nhau. Hai mười sáu người thợ làm bánh mì là hai mươi sáu người tù, “Hai mươi sáu
cái máy sống bị nhốt trong hầm nhà ẩm ướt”, không nguồn vui, không hi vọng, thỉnh
thoảng chỉ biết “mượn lời người khác hát lên nỗi ñau xót âm thầm của mình, hát lên
nỗi buồn của những con người thiếu ánh sáng mặt trời, nỗi buồn của những kẻ nô
lệ” (Hai mươi sáu anh chàng và một cô gái). Nhưng khác với các nhà văn dân chủ
Nga những năm sáu mươi Gorki không coi việc tái hiện lại một cách tỉ mỉ hoàn cảnh
sống tối tăm của những người cùng khổ là mục ñích của mình. Ông ñã hướng sự chú
ý của ñộc giả vào thế giới nội tâm, vào những phẩm chất ñạo ñức tốt ñẹp, những khả
năng tiềm tàng của những con người này. Với những truyện ngắn hiện thực của
mình, Gorki ñã cho ñộc giả thấy rằng trong những con người nghèo khổ ở “dưới
ñáy” xã hội có rất nhiều phẩm chất tốt ñẹp. Họ cảm thấy chật chội trong cuộc sống
ñơn ñiệu, tầm thường tẻ nhạt của xã hội tư hữu. Họ ñau ñớn, quằn quại, muốn tìm lối
thoát cho mình nhưng họ bất lực và bế tắc. Tuy nhiên, tất cả sự vùng vẫy “ nổi loạn”
tương tự như Ôrlôp trong truyện Vợ chồng Ôrlôp ñã chứng tỏ rằng trong ý thức của
quần chúng bị áp bức ñang lớn dần lên sự phản kháng kiên quyết chống lại trật tự xã
hội bất công của bọn phong kiến tư bản Nga hoàng.
Ra ñời trong một gia ñình lao ñộng và thuở nhỏ ñã phải sống trong môi trường
tiểu thị dân ñầy rẫy những ñiều xấu xa, hủ lậu, Gorki sớm có những tư tưởng phản
kháng, chống ñối lại hiện thực xã hội bất công. Năm mười sáu tuổi ông ñã hiểu rằng:
“Con ngưòi ñược tạo nên bởi sự ñối kháng của mình với hoàn cảnh xung quanh” và
khi cầm bút viết văn ông ñã dõng dạc tuyên bố: “Tôi ñến với thế giới này ñể mà
không thỏa thuận” (Bài ca cây sồi già). Tư tưởng phản kháng ñã ñược thể hiện ngay
trong những tác phẩm ñầu tay. Những người nghèo khổ bắt ñầu sự phản kháng bằng
cách chống ñối lại những lề thói, tập quán, ñạo ñức của xã hội tư hữu, thù ñịch với
mình, ñôi khi những lề thói, tập quán ấy ở ngay trong những người thuộc môi trường
của họ và trong những trường hợp như thế cuộc ñấu tranh cũng không kém phần gay
gắt. Trong tâm hồn của cậu bé Lionka (Lão Arkhip và bé Lionka (1893)), con người
tự hào, con người tràn ñầy niềm mơ ước về một cuộc sống tràn ñầy hạnh phúc không
phải xây dựng trên sự giả dối, lừa lọc và nhục mạ con người ñã bừng tỉnh dậy, nhưng
nó còn quá non nớt và yếu ñuối, nó chưa ñủ sức chống ñối lại ñạo ñức của xã hội cũ
mà lão Akhip ñã tiếp thu ñược và ra sức thực hiện trong cuộc sống nghèo khổ của
mình. Cái chết của cả hai ông cháu lão Arkhip và bé Lionka trong cơn giông bão dữ
dội ñã nói lên tính chất bi thảm của cuộc ñấu tranh ấy ñối với “những người bé nhỏ”
giữa thế giới lang sói ñộc ác.
Gorki ñã ñi tìm những biểu hiện sự phản kháng của quần chúng chống ñối,
nhưng không phải ngay từ bước ñầu sáng tác ông ñã miêu tả ñược sự phản kháng của
bộ phận quan trọng nhất trong ñám quần chúng ñó - của giai cấp vô sản. Năm 1891,
Gorki ñã bắt ñầu tiếp xúc với môi trường công nhân công nghiệp ở Tiflit, nhưng mãi
tới năm 1897 lần ñầu tiên trong tác phẩm của ông mới xuất hiện hình ảnh người công
nhân bắt ñầu bước lên con ñường ñấu tranh ít nhiều có ý thức. Sự phản kháng của
người thợ chữ Gvozdiev trong truyện Kẻ phá bĩnh (1897) cũng mới chỉ là tự phát. Nó
nảy sinh từ trong cái hiện thực ñen tối là cuộc sống bị áp bức nặng nề, nhưng có ý
nghĩa xã hội nhiều hơn là ý nghĩa cá nhân. Gvozdiev vốn tinh nghịch từ thuở bé, là
một “tay phá bĩnh”, nhưng ñồng thời cũng là một người thợ thông minh, tinh thông
nhiều nghề nghiệp. Anh ñã bắt ñầu ý thức ñược những ñiều bất công trong xã hội, ñã
có ý muốn tố cáo chính sách bóc lột của bọn tư sản và vai trò ñầy tớ của những kẻ tri
thức làm tay sai cho chúng. Thái ñộ kiêu hãnh, ñắc thắng của Gvozdiev khi tố cáo
tính chất giả dối của báo chí tư sản ñã làm cho tên chủ nhiệm ñi tới kết luận rằng anh
chính là một “ñảng viên xã hội dân chủ”. Thực ra, qua sự phản kháng tự phát, ñơn
ñộc của Gvozdiev, chúng ta cũng biết rằng anh chưa phải là một ñảng viên cộng sản,
nhưng rõ ràng ñây là một ñại biểu ñiển hình cho lớp công nhân bắt ñầu bước lên con
ñường ñấu tranh công khai với bọn bóc lột và sớm muộn thế nào cũng dẫn ñến tư
tưởng cộng sản. Như vậy, mặc dù trong những truyện hiện thực những năm chín
mươi, Gorki còn chưa xây dựng ñược hoàn chỉnh về hình ảnh của người công nhân
cách mạng, nhưng ông ñã miêu tả ñược sự phản kháng ngày càng mạnh mẽ của quần
chúng chống ñối. Macxim Gorki ñã rất sáng suốt thấy rõ ñược những mâu thuẫn,
những mặt yếu cần vượt qua ñể có thể trở thành ý thức cách mạng thật sự, và chỉ có
với ý thức cách mạng con người mới trở thành anh hùng chân chính, quần chúng lao
khổ mới phả huỷ ñược cái “hố ñời” ñen tối, ngột ngạt ñể mở ra chân trời mới của xã
hội và bản thân. Với những tác phẩm hiện thực của mình. M.Gorki ñã ñấu tranh cho
chủ nghĩa hiện thực trong văn học Nga có bước phát triển mới về chất. Giúp chúng ta
thấy rằng ở chính ngay cái nước Nga “nghèo nàn nhưng phong phú” trong thời kì
cuối thế kỉ trước, ñầu thế kỉ này từ những tia lửa nhỏ của sự phản kháng tự phát sẽ
bùng lên thành ñám cháy lớn của cuộc ñấu tranh cách mạng của hàng triệu quần
chúng ñoàn kết xung quanh “những con người dũng cảm” và dưới sự lãnh ñạo của
họ. Ở ngay chính cái nước Nga ấy, bất chấp những cảnh ñời sầu thảm, những mầm
mống tốt lành, ñầy sáng tạo làm cho trong lòng người không bao giờ tàn lụi niềm hi
vọng vào khả năng sáng tạo ra một cuộc sống tươi sáng hơn và nhân ñạo hơn.
Tóm lại, những sáng tác của Gorki ñã mang vào văn học một luồng gió mới
ñã buộc những người ñương thời phải thay ñổi những suy nghĩ ñã thành nếp của
mình về con người, về cuộc ñời và cả về văn học thúc giục họ hành ñộng, tiến lên ñể
bước cùng một nhịp với thời ñại anh hùng, thời ñại bão táp Cách mạng mà bản thân
ông ñược mệnh danh là “Con chim báo bão”. Tác dụng và ảnh hưởng những truyện
của Gorki vô cùng lớn lao. Những tác phẩm ñó là sự nhận thức bằng nghệ thuật của
giai cấp vô sản cách mạng ñoạn ñường mà nhân loại ñi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ
nghĩa xã hội. ðọc kĩ những tác phẩm ñó, ñộc giả Việt Nam có thể hiểu sâu hơn nữa
quá khứ, thấy rõ hơn hiện tại và vững tiến hơn vào tương lai của ñất nước.
Chương 2 : THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
HIỆN THỰC MACXIM GORKI
2.1. Nhân vật văn học và vai trò của nó trong tác phẩm
2.1.1 Về khái niệm “Nhân vật” trong tác phẩm văn học.
Nói ñến nhân vật văn học là nói ñến con người ñược miêu tả, thể hiện trong
tác phẩm bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học có thể có tên hoặc không có
tên, có thể là người hoặc vật, cây cỏ, ma quỷ,… miễn nó mang nội dung và ý nghĩa
con người. Nhân vật có thể là những con người ñược miêu tả ñầy ñặn cả ngoại hình
lẫn nội tâm, có tính cách và tiểu sử như thường thấy trong các tác phẩm tự sự và
kịch.
Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi ñó là hình thức cơ bản ñể qua ñó văn
học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Bản chất văn học là mối quan hệ ñối với
ñời sống, nó chỉ tái hiện ñược ñời sống qua những chủ thể nhất ñịnh ñóng vai trò
như tấm gương của cuộc ñời.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu ñể
ta nhận ra. Thông thường ñó là một cái tên hoặc các dấu hiệu, tiểu sử, nghề nghiệp
và cũng có thể có những ñặc ñiểm riêng về hoàn cảnh gia ñình, cuộc sống xã hội.
Nhân vật trong văn học mang tính chất hồi cổ.
Nhân vật văn học trong tiểu thuyết cũng có những ñiểm khác so với nhân vật
trong truyện ngắn. Bởi truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, nội dung, thể loại của
truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương tiện của ñời sống, ñời tư, thế sự hay sử
thi. Nhưng cái ñộc ñáo của nó là ngắn. Truyện ngắn thường hay hướng tới khắc họa
một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay ñời sống
tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện
phức tạp. Nếu mỗi nhân vật trong tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật trong
truyện ngắn là một mãnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không hướng tới
việc khắc họa những tính cách ñiển hình ñầy ñặn, nhiều mặt trong tương phản với
hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan
hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc một trạng thái tồn tại của con người, cũng như khi ñọc
những truyện ngắn của Macxim Gorki ta sẽ bắt gặp một thế giới với “những con
người bé nhỏ” trong một xã hội ñầy bất công, cuộc sống của con người bị hoàn
cảnh ñưa ñẩy dẫn ñến những bi kịch ñáng thương. Nhưng ñằng sau nhữngcon người
bất hạnh ấy là ánh sáng vẻ ñẹp của tâm hồn.
2.1.2 Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Chức năng của văn học là khái quát những quy luật của cuộc sống con
người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và hi vọng về con người. Nhà văn
sáng tạo nhân vật là ñể thể hiện những cá nhân xã hội và quan niệm về các cá nhân
ñó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách số phận con
người và quan niệm về chúng. Qua những nhân vật trong truyện ngắn của mình nhà
văn M.Gorki thể hiện sự trân trọng yêu thương và luôn tin tưởng vào con người.
Nhân vật của ông có ñôi lúc dường như ñã bị biến chất hoàn toàn, nhưng không với
Gorki họ vẫn là con người mà ñã là con người thì luôn có phần xấu và phần tốt.
Chúng ta nên nhìn nhận con người một cách khách quan với lòng tin yêu, thông
cảm.
Tính cách nhân vật trong ý nghĩa rộng nhất, chung nhất là sự thể hiện các
phẩm chất xã hội lịch sử của con người qua các ñặc ñiểm của cá nhân, gắn liền với
phẩm chất tâm sinh lí của họ. Tính cách có hạt nhân là sự thống nhất của cá tính và
cái chung lịch sử. Nhưng người ta chỉ gọi là tính cách khi những người mà sự
thống nhất kia biểu hiện một cách nổi bật các phẩm chất lịch sử của nó. Tính cách
ñó là hiện tượng nổi bật của ñời sống con người. Arixtốt viết: “Tôi hiểu tính cách là
cái lí do mà chúng ta gọi nhân vật bằng một tên nào ñó.”, “Nhân vật sẽ có tính cách
, nếu trong lời nói hay hành ñộng bộc lộ một khuynh hướng ý chí nào ñó bất kể nó
tốt xấu như thế nào.”, “Trong các tính cách bao giờ cũng cần tìm thấy một tính tất
yếu hay một tính khả nhiên mà theo ñó một ai ñó nói gì hoặc làm gì hoặc viết gì ñó
xảy ra với họ ñều tuân theo tính tất yếu, khả nhiên ñó.”. Như vây, tính cách như là
ñặc ñiểm của nhân vật là khuynh hướng xã hội và là quy luật hành ñộng của nhân
vật. Tính cách ñược thể hiện qua việc miêu tả nhân vật.
Tính cách là một hiện tượng xã hội lịch sử, xuất hiện trong hiện thực khách
quan. Do ñó, chức năng khái quát của nhân vật cũng mang tính chất lịch sử. Nhân
vật là người dẫn dắt ta vào thế giới ñời sống. Mỗi nhân vật, mỗi tính cách nhưng ở
họ có một ñiểm chung là khao khát hạnh phúc, khao khát tự do. ðó chính là những
nhân vật trong truyện ngắn hiện thực của Macxim Gorki. Tác giả ñưa chúng ta vào
thế giới của ñoàn người ñói khổ trên ñường ñến với miền Nam, ñến với niềm hi
vọng mới, ñến với thế giới của những người phụ nữ bị hoàn cảnh ñưa ñẩy phải làm
những nghề mà xã hội coi khinh hay ñến với thế giới của những người du thủ du
thực ñứng giữa ranh giới của cái thiện và ác. Nhưng cuối cùng với niềm tin yêu
mãnh liệt vào con người Macxim Gorki ñã làm người ñọc ngạc nhiên bởi chính
những nhân vật của mình. Dường như cuộc sống ñói khổ không làm tâm hồn họ
biến mất, phần tốt vẫn loe lói và có dịp sẽ cháy sáng lên thành cơn bão của tâm hồn.
Nhân vật là công cụ cho nên tìm ra nhân vật mới bao giờ cũng là chìa khóa
ñể mở rộng các mảng ñề tài mới. Cái ñộc ñáo của nhà văn Macxim Gorki là phát
hiện ra ý thức của quần chúng, nhìn thấy ñược những mặt tốt xấu trong con người
khi nhà văn ñứng cùng giai cấp với họ, nói thay cho họ như tiếng nói của chính lòng
mình.
Nội dung khái quát của nhân vật không chỉ là tính cách xã hội lịch sử và
mảng ñời sống gắn liền với nó mà còn là quan niệm về tính cách và lí tưởng mà tác
giả muốn thể hiện. Cũng như nhà văn vô sản vĩ ñại M.Gorki thông qua những “con
người bé nhỏ” trong tác phẩm của mình ñể thể hiện niềm tin, niềm hi vọng vào con
người. Với ông “những viên ngọc sáng của cuộc ñời” tồn tại ở tầng lớp lao khổ khi
gặp hoàn cảnh càng khắc nghiệt thì viên ngọc ấy càng sáng ngời hơn.
Có thể nói, nhân vật văn học là hình thức khái quát ñời sống. ðọc tác phẩm
cần tìm hiểu hết nội dung ñời sống và nội dung tư tưởng thể hiện trong nhân vật. Và
khi càng ñi sâu vào thế giới nhân vật ta càng hiểu hơn tâm hồn con người cũng như
tư tưởng mà tác giả gửi gấm vào tác phẩm.
2.1.3 Loại hình nhân vật văn học
Nhân vật văn học là hiện tượng hết sức ña dạng. Các nhân vật thành công
thường là những sáng tạo ñộc ñáo, không lặp lại. Tuy nhiên, trong các nhân vật, xét
về mặt nội dung, cấu trúc, chức năng có thể thấy nhiều hiện tượng lặp lại, tạo thành
các loại nhân vật.
Trong tác phẩm văn học thường có một hoặc nhiều nhân vật. Mỗi nhân vật
có vai trò không giống nhau trong kết cấu và cốt truyện tác phẩm. Dựa vào vai trò
này có thể chia nhân vật làm hai loại: nhân vật chính và nhân vật phụ.
Nhân vật chính là nhân vật ñóng vai trò chủ chốt , xuất hiện nhiều, giữ vị trí
then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. ðó là con người liên can ñến các sự
kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở ñể tác giả triển khai ñề tài cơ bản của mình.
Nhân vật chính là nhân vật ñược khắc họa ñầy ñặn hơn, có tiểu sử, có nhiều tình tiết
nhưng cái chính là thể hiện ñề tài và chủ ñề của tác phẩm. Thường thì nhân vật
chính phải ở trong xung ñột của tác phẩm, ñại diện cho một phía của xung ñột tác
phẩm, số phận của nó gắn liền với sự phát triển xung ñột của truyện. Trong các
nhân vật chính của tác phẩm lại có thể nhận thấy nổi lên những nhân vật trung tâm
xuyên suốt tác phẩm từ ñầu ñến cuối xét về mặt ý nghĩa. ðó là nơi quy tụ các mâu
thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn ñề trung tâm của tác phẩm.
Nhân vật phụ là nhân vật thường mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng mang
tính chất phụ trợ bổ sung.
Xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ ñối với lý tưởng các nhân vật có
thể chia ra làm: nhân vật chính diện (còn gọi là nhân vật tích cực), nhân vật phản
diện (còn gọi là nhân vật tiêu cực). Sự phân biệt nhân vật chính diện và phản diện
gắn liền với những quan hệ ñối kháng trong ñời sống xã hội, hình thành trên cơ sở
ñối lập giai cấp và quan ñiểm tư tưởng. Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện
là những phạm trù lịch sử. Nhân vật chính diện mang lí tưởng, quan ñiểm, tư tưởng
ñạo ñức tốt ñẹp của tác giả và của thời ñại. ðó là người mà tác phẩm khẳng ñịnh và
ñề cao như những tấm gương về phẩm chất cao ñẹp của con người một thời. Trái lại
nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa trái với ñạo lí và lí tưởng,
ñáng lên án và phủ ñịnh. Hai loại nhân vật này luôn luôn ñối kháng nhau. Trong văn
học nhiều khi không dễ tách bạch ñược nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Chẳng hạn, khi ñọc những truyện ngắn của M. Gorki viết về những người du thủ du
thực ta khó mà xác ñịnh và không thể phân ñịnh những nhân vật như: Emêlian
Pilyai, Lão Arkhip, Senkas, Gavrila, Cônôvalôp, Ôrlôp,... thuộc loại nhân vật phản
diện hay chính diện. Bởi họ chỉ là nạn nhân của xã hội, chính cuộc sống ñã làm họ
biến chất nhưng khát khao ñược tự do ñược làm một ñiều có ích cho cuộc sống vẫn
luôn luôn âm ỉ trong ý thức của họ.
Xét về mặt cấu trúc có thể chia nhân vật ra làm những loại nhân vật sau:
Nhân vật chức năng: thường có trong văn học cổ ñại và trung cổ. Nhân vật
thường không có ñời sống nội tâm, phẩm chất ñặc ñiểm nhân vật cố ñịnh không
thay ñổi từ ñầu ñến cuối hơn nữa sự tồn tại và hoạt ñộng của nó chỉ nhằm thể hiện
một số chức năng nhất ñịnh, ñóng vai trò nhất ñịnh.
Nhân vật loại hình: là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội
ñạo ñức của một loại người nhất ñịnh của một thời.
Nhân vật tính cách: là kiểu nhân vật phức tạp ñược miêu tả như một nhân
cách một cá nhân có cá tính nổi bật. Trong nhân vật tính cách có cái quan trọng
không phải là các ñặc ñiểm, thuộc tính, phẩm chất xã hội có thể liệt kê, tính ñếm
theo thứ tự: một,hai,ba,…Mà tính cách nhân vật ñược thể hiện chủ yếu ở tương
quan giữa các thuộc tính và môi trường, tình huống. Nhân vật loại này thường có
một quá trình phát triển khiến cho nhân vật không ñồng nhất với chính nó. Hạt nhân
của nhân vật tính cách là cá tính, văn học hiện thực xã hội thì nhân vật tính cách rất
phổ biến và rõ nét. Yếu tố tâm lý, khí chất có vai trò quan trọng trong cấu trúc nhân
vật. ðó là những con người ñộc ñáo cá biệt, cụ thể như: bé Lionka trong tác phẩm
Lão Arkhip và bé Lionka là Lenka trong tác phẩm cùng tên hay những người phụ
nữ: Manva, Matriena, Tachiana, Maska,…. trong những truyện ngắn hiện thực của
Macxim Gorki.
Nhân vật tư tưởng: là nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức
tồn tại trong ñời sống tinh thần của xã hội. Nhân vật tư tưởng trong văn học cổ và
văn học lãng mạn thường mang tính chất tượng trưng. Còn trong chủ nghĩa hiện
thực thì lại kết hợp mật thiết với yếu tố tính cách hoặc loại hình. Trong sáng tác loại
nhân vật này dễ rơi vào công thức, minh họa trở thành cái loa phát thanh của tác
giả.
ðó là những loại nhân vật thường gặp. Trong văn học có ñôi lúc ta gặp
những biểu hiện nhân vật khác. Sự phân loại nhân vật chỉ mang tính tương ñối, loại
này bao hàm yếu tố của loại kia cần dựa vào những nét ưu trội ñể phân biệt. Các
loại nhân vật trên xuất hiện không ñồng ñều trong lịch sử văn học nhưng nó có thể
cùng song song tồn tại. Cho dù là loại nhân vật nào thì nó vẫn luôn luôn là hình
thức phản ánh hiện thực. Hình thức ấy rất ña dạng ñể thể hiện các khía cạnh vô
cùng phong phú của cuộc sống. Việc hình dung sự ña dạng của các nhân vật là rất
cần thiết ñể ñi sâu tìm hiểu những nội dung phong phú ñó trong di sản văn học nhân
loại cũng như sự ña dạng của văn học xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Như vậy, qua việc tìm hiểu nhân vật văn học và vị trí của nó trong tác phẩm.
Khi ñi sâu vào thế giới nhân vật trong truyện ngắn hiện thực của M.Gorki có thể
chia thành hai loại nhân vật: nhân vật chính và nhân vật phụ. Trong nhân vật chính
sẽ tìm hiểu thế giới tâm hồn của những nhân vật trẻ thơ của những người phụ nữ bất
hạnh và của những người “du thu du thưc”. Bên cạnh ñó là thế giới của những nhân
vật phụ gồm: những người lao khổ trong xã hội, những kẻ tư sản và nhân vật là
người tri thức.
2.2 Thế giới nhân vật trong truyện ngắn hiện thực Macxim Gorki
2.2.1 Nhân vật chính trong truyện ngắn hiện thực Macxim Gorki
2.2.1.1 Thế giới của nhân vật trẻ thơ
Tuổi thơ luôn chứa ñựng nhiều kỷ niệm ñáng yêu, là tuổi hồn nhiên, ñầy
mộng mơ. ðó là tuổi ñược vui chơi, học hành. Nhưng nó chỉ là hạnh phúc của
những ñứa trẻ con nhà giàu. Với Macxim Gorki tuổi thơ của ông là một chuỗi dài
những ngày ñắng cay, tủi nhục phải vất vả kiếm sống. Nhưng cậu bé ñầy nghị lực
ñã vượt lên số phận. Trong những truyện viết về những em bé như: Lão Arkhip và
bé Lionka, Lenka,… Macxim Gorki ñưa chúng ta vào thế giới tâm hồn ngây thơ của
bé Lionka, của Lenka. Cuộc sống dẫu có bất hạnh nhưng không giết ñược những
ước vọng niềm vui, niềm tin mãnh liệt của các em.
Trong tác phẩm: “Lão Arkhip và bé Lionka” là câu chuyện mâu thuẫn giữa
hai ông cháu phải ñi lang thang ăn xin khắp nơi. Họ bị chửi rủa có ñôi lúc bị ñánh