TRUỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
----
TRẦN HOÀNG ANH
TƯ TƯỞNG BẤT BẠO ĐỘNG”
TRONG TÁC PHẨM “CHIẾN TRANH
VÀ HỊA BÌNH” CỦA LEP. TƠNXTƠI
Luận văn tốt nghiệp , ngành Cử nhân Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn : TRẦN VĂN THỊNH
Tháng 5/2008
Đề cương tổng quát
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Chương 1. Một số vấn đề chung
1.1.
Vài nét về xã hội và văn học Nga nửa sau thế kỉ XIX
1.1.1. Bối cảnh và sự phát triển tư tưởng xã hội
1.1.2. Tình hình văn học Nga nửa sau thế kỉ XIX
1.2.
Vài nét về tác giả và tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình”
1.2.1. Về tác giả L.Tonxtoi
1.2.2. Về tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình”
1.2.2.1. Hồn cảnh sáng tác
1.2.2.2. Tóm tắt tác phẩm
1.2.2.3. Một số nhận định chung về tác phẩm
1.3.
Giới thuyết về “Tư tưởng Bất bạo động”
1.3.1. “Thuyết Bất bạo động” của L.Tonxtoi
1.3.2. “Tư tưởng Bất bạo động” của thánh Gandhi
Chương 2. “Tư tưởng Bất bạo động” trong tác phẩm “Chiến tranh và
hịa bình”
của L.Tonxtoi
2.1. Nội dung của “Tư tưởng Bất bạo động” trong tác phẩm “Chiến tranh
và hòa bình” của L.Tonxtoi
2.1.1. Tình yêu lao động và lao động
2.1.2. Bác ái
2.1.3. Vì hịa bình
2.1.4. Tu dưỡng đạo đức
2.1.5. Khơng dung bạo lực để chống lại cái Ác
2.1.6. Tình yêu thiên nhiên và hòa hợp cùng thiên nhiên
2.2. Ý nghĩa của “Tư tưởng Bất bạo động” trong tác phẩm “Chiến tranh và
hịa bình” của L.Tonxtoi
2.2.1. “Tư tưởng Bất bạo động” đối với việc đặt nhan đề tác phẩm
2.2.2. “Tư tưởng Bất bạo động” đối với việc xây dựng hệ thống nhân vật
2.2.3.“Tư tưởng Bất bạo động” với việc hình thành “Lối kết” tác phẩm
2.2.4. “Tư tưởng Bất bạo động” với việc hình thành nội dung tác phẩm
Phần kết luận
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Nền văn học Nga thế kỉ XIX là một trong những nền văn học tiên tiến
của nhân loại, là một trong những thành tựu rực rỡ nhất trong lịch sử phát
triển của nền văn học nghệ thuật thế giới. Nó ra đời và trưởng thành trong
cuộc đấu tranh lâu dài và gay gắt của nhân dân Nga chống lại chế độ nông
nô, phong kiến và các thế lực xâm lược. Do được phong trào đấu tranh giải
phóng của nhân dân Nga ni dưỡng, nền văn học Nga đã phát triển hết sức
nhanh chóng và đạt được những thành tựu lớn lao, đặc biệt là vào nửa sau
thế kỉ XIX, khiên cho nhiều nhà nghiên cứu phải gọi đó là “Phép lạ”. Nhận
xét về sự phát triển nhanh chóng của nền văn học Nga ở thế kỉ XIX,
Macxim Gorki viết: “Trong lịch sử phát triển của văn học châu Âu, nền văn
học trẻ tuổi của chúng ta là một hiện tượng kì diệu. Tơi sẽ khơng q đáng
khi nói rằng: Khơng một nền văn học phương Tây nào lại vươn lên cuộc
sống với một sức mạnh lớn lao và với tốc độ nhanh chóng trong ánh sáng
hào quang thiên tài chói lọi như vậy”.
Đối với nước Nga, trong hoàn cảnh xã hội Nga dưới chế độ phong
kiến chuyên chế và tàn dư của chế độ nông nô hết sức ngột ngạt, cho nên
văn học Nga lúc bấy giờ đóng vai trị quan trọng trong phong trào đấu tranh
của nhân dân Nga. Và nền văn học này là niềm tự hào đối với người Nga.
Không những có vai trị quan trọng trong nước, mà bằng sự phát triển
rực rỡ của mình, nền văn học Nga có ảnh hưởng lớn và có tầm quan trọng
lớn lao đối với nền văn học thế giới. Theo Lênin: “tầm quan trọng thế giới
của văn học Nga chính là do văn học Nga mang trong mình những tư tưởng
tiên tiến của thời đại, văn học hiện thực Nga rất giàu những tư tưởng dân
chủ, xã hội cách mạng, tinh thần nhân đạo cao cả và lịng u nước nhiệt
tình” [3;tr.6].
Tiêu biểu cho nền văn học ấy là đại văn hào L.Tônxtôi. Những sáng
tác của L.Tônxtôi là tấm gương phản chiếu lịch sử xã hội Nga ở thế kỉ XIX.
Tác phẩm của ơng đóng góp những giá trị xã hội sâu sắc, ông cống hiến cho
nền văn học thế giới những tác phẩm bậc nhất có giá trị tư tưởng cao. Vì
vậy với tồn bộ sự nghiệp sáng tác của mình, L.Tơnxtơi để lại một di sản đồ
sộ có giá trị vĩ đại.
Sáng tác của L.Tônxtôi không chỉ đặc sắc, cuốn hút qua việc thể hiện
nội dung tư tưởng mà còn cả về những đặc điểm nghệ thuật. Trong các tác
phẩm của ơng có những tác phẩm được cả thế giới xem là vĩ đại, là đồ sộ,
đó la tác phẩm "chiến tranh và hồ bình". Qua tác phẩm này, L.Tơnxtơi đã
thể hiện được những nội dung tư tưởng tiến bộ của thời đại, đó là: tư tưởng
nhân dân, tư tưởng yêu nước tiến bộ trong sáng tác của L.Tônxtôi . Bên
cạnh đó, thuyết “Bất bạo động” hay cịn gọi là "Tư tưởng bất bạo động"
cũng được xem như là một nội dung tư tưởng quan trọng sáng tác của
L.Tônxtôi, đặc biệt là trong tác phẩm "chiến tranh và hồ bình".
Trước những thành tựu rực rỡ và cũng như sức ảnh hưởng rộng lớn
của nền văn học Nga, trong đó đặc biệt là các sáng tác của L.Tônxtôi, cùng
với sự cuốn hút của tác phẩm vĩ đại "chiến tranh và hoà bình" đã thơi thúc
Tơi lựa chọn và tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này. Mặt khác, việc
nghiên cứu thuyết “Bất bạo động” trong tác phẩm "chiến tranh và hồ bình"
giúp Tơi có sự hiểu biết sâu sắc hơn về nội dung tư tưởng mà chính văn hào
đã gửi gấm trong tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề:
Lep.Tonxtoi là một nhà văn hiên thực lớn của nền văn học Nga và nền
vă học thế giới ở thế kỉ XIX. Cho đến nay, ở Việt Nam có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu và nhiều bài viết về đại văn hào L.Tonxtoi. Chủ yếu những
bài viết và những cơng trình nghiên cứu này đều tập trung khai thác nội
dung về: cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, hay nói về một số đăc điểm về nội
dung tư tưởng và về nghệ thuật trong các sáng tác của L.Tonxtoi, đặc biệt là
tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình”. Ở đây trong phạm vi u cầu cho phép
của đề tài luận văn tốt nghiệp, người viết xin giới thiêu một số cơng trình
nghiên cứu và cũng như những cơng trình nghiên cứu về “Tư tương Bất bạo
động” của L.Tonxtoi trong tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình”.
Năm 1959, trên Tạp chí Bách khoa và tập sách “Gương danh nhân”
xuất bản cùng năm, Nguyễn Hiến Lê đã giới thiệu L.Tonxtoi với độc giả bài
viết “Leon Tolstoi- một Á thánh”. Đây cũng là một trong những bài giới
thiệu khá công phu của học giả Nguyễn Hiến Lê về L.Tonxtoi. Trong bài
giới thiệu này, tác giả khơng lấy mục đích là “Giới thiệu về một tác gia văn
học” mà là giới thiệu về một “Gương danh nhân”, “gương làm người” cho
người đọc. Hay nói cách khác, Nguyễn Hiến Lê cho người đọc thấy được:
một nhân cách, một tâm hồn của một bậc vĩ nhân, một vị thánh. Nhân cách
L.Tonxtoi được Nguyễn Hiến Lê nhấn mạnh ngay từ phần mở đầu bài viết:
“Trong khoảng 100 năm nay, khắp thế giới có một người được nhân loại tôn
sùng vào bậc thánh sống: ông Gandhi và một người nữa được xếp vào hàng
Á thánh: ông Léon Tonxtoi(…) cả hai đều là bậc chí nhân, đều có một lịng
thương người vô biên, đều chủ trương “Bất bạo động”, nhưng từ hình dáng
đến tính tình, thì khác xa biết bao”[6; tr.21]. Đến phần cuối bài viết,
Nguyễn Hiến Lê kết luận: “Chỉ do tấm lịng thành thực, thành thực nhận tội
mình và thành thực cứu vớt nhân loại, mà ông được người đời tôn sùng là
một Á thánh”[6; tr.33]. Nguyễn Hiến Lê còn dẫn lại lời của Romain
Rolland để khẳng định ảnh hưởng của tâm hồn của văn hào L.Tonxtoi đối
với thanh niên Pháp “….Đời sống nhiệt thành của ông, tấm lịng trẻ trung
của ơng cũng là của chúng tơi. Những mộng bác ái và hịa bình của ơng
cũng là của chúng tôi. Lời buộc tội ghê gớm của ông khi mạt sát giả dối của
văn minh cũng là của chúng tơi”[ ;31].
Trong bài viết “Vài cảm nghĩ xi dịng”, Trần Phong Giao tiếp tục khẳng
định về nhân của L.Tonxtoi “Toltoi nổi tiếng lẫy lừng khắp hoàn vũ như một
bậc thánh. Vậy mà ơng khơng có phép mầu gì. Ơng sống, làm việc, chết như
mọi người tên mặt đất. Vậy, có gì đã đưa ơng lên ngơi cao thần thánh? hải
chăng, nhờ ở, trọn đời ông, ông đã giữ được đức tính chân thật và ưa suy nghĩ.
Đức tính ấy đã giúp ơng tự vấn những việc làm của ơng nó giúp ơng thấu đáo
được cảm tình đồng loại, nó giúp ông vượt được chỗ tầm thường (…). Ngoài
ra, một cách gián tiếp tơi đã nhờ Tolstoi mà luyện được tính thận trọng [11;
tr.82].
Như vậy, qua khảo sát tình hình nghiên cứu L.Tonxtoi. Bên cạnh bài viết
“Léon Tolstoi- Á Thánh” của Nguyễn Hiến Lê, hay bài viết “Vài cảm nghĩ
xi dịng” của Trần Phong Giao: nói về nhân cách của đại văn hào L.Tonxtoi.
Và ngay trong lời giới thiệu “Chiến tranh và hịa bình”, Nguyễn Hiến Lê cũng
nhiều lần nhấn mạnh “Tư tưởng bất bạo động” khi nói về tiểu sử và sự nghiệp
L.Tonxtoi. Nói về tác phẩm “Chúng ta phải làm gì?”, ơng viết “Những tư tưởng
bất hợp tác trong cuốn đó, nhất là tư tưởng “khơng lấy ác chống lại ác” đã ảnh
hưởng đén Gandhi sau này, khi nhà lãnh tụ Ấn Độ phản đối chính phủ Anh
bằng cách khơng đi lính cho Anh, khơng mua đị của Anh, khơng đóng thuế
cho Anh, khun dân để mặc cho người Anh đánh đập, bỏ tù, không thèm
chống cự” [11; tr.28]. Trần Phong Giao thì cho rằng “Đối với người Á Đông
chúng ta, ảnh hưởng của ông, về văn chương cũng như về tinh thần bác ái, về
“chủ thuyết Bất bạo động”, đã lan rộng từ lâu” [11;tr.80]
Và ở đây trong phạm vi yêu cầu của đề tài, người nghiên cứu xem “Tư
tưởng bất bạo động” như là một nội dung tư tưởng của đại văn hào đã gửi gắm
trong tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình”. Như vậy, nhiệm vụ chính của người
nghiên cứu đề tài này là phải làm rõ từng khía cạnh của nội dung “Tư tưởng bất
bạo động” của L.Tonxtoi trong tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình” và qua đó
giúp cho việc tiếp cận tác phẩm đồ sộ này, đặc biệt là nội dung tư tưởng của tác
phẩm được trọn vẹn nhất.
3.Mục đích, yêu cầu:
Trong suốt quá trình nghiên cứu, tìm hiểu "Tư tưởng bất bạo động"
của tác phẩm "chiến tranh và hồ bình", yêu cầu đặt ra đối với người nghiên
cứu là phải làm rõ những biểu hiện chính, tiêu biểu của "Tư tưởng bất bạo
động". Những biểu hiện ấy phải nổi bật, thên chốt và phải phù hợp với nội
dung tư tưởng của tác phẩm. Và ngay trong bài nghiên cứu nay, yêu cầu
người nghiên cứu phải khai thác cụ thể những nội dung cơ bản "Tư tưởng
bất bạo động" của L.Tônxtôi trong tác phẩm "chiến tranh và hồ bình", đó
là:
- Tình u lao động và lao động.
- Bác ái.
- Vì hồ bình.
- Tu dưỡng đạo đức.
- Không dung bạo lực để chống lại cái Ác.
- Tình u thiên nhiên và hồ hợp với thiên nhiên.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho người nghiên cứu đề tài này, là trong quá
trình làm việc người nghiên cứu phải nắm rõ yêu cầu và triển khai vấn đề theo
pham vi yêu cầu của đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng mà người nghiên cứu cần hướng đến trong suốt quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài này là tác phẩm "chiến tranh và hoà bình"
thơng qua các bản dịch sang tiếng Việt của các học giả Việt Nam. Trong tác
phẩm này có hai phạm vi lớn, đó là: nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên,
theo phạm vi yêu cầu của đề tài đặt ra đối với người nghiên cứu là chỉ khai
thác một khía cạnh của nội dung tư tưởng trong tác phẩm, đó là: "Tư tưởng
bất bạo động" . Như vậy trong đề tài này, người nghiên cứu cần phải làm
sáng tỏ ở từng nội dung cụ thể của thuyết “Bất bạo động” của L.Tơnxtơi
trong tác phẩm "chiến tranh và hồ bình" và qua đó cho người đọc thấy
được ý nghĩa thời đại cua Học thuyết này.
Cấu trúc của luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết
luận. Phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung
Chương 2. “Tư tưởng Bất bạo động” trong tác phẩm “Chiến tranh và hịa
bình” của L.Tonxtoi.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để hồn thành đề tài này, cơng việc trước hết của người nghiên cứu là thu
thập tổng hợp, chọn lọc những tư liệu có liên quan trực tiếp đến đề tài. Đặc
biệt, người nghiên cứu phải khảo sát tác phẩm "chiến tranh và hồ bình" thơng
qua các bản dịch sang Tiếng Việt của các học giả Việt Nam. Sau đó, người
nghiên cứu phải đọc và ghi chép các tư liệu nghiên cứu có liên quan và lập
thành đề cương khái quát rồi đến đề cương chi tiết. Ở mỗi chi tiết được sưu
tầm, ghi chép và lựa chọn đều phải trải qua q trình khảo sát, phân tích, so
sánh,…
Phương pháp phân tích: đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu khi tực
hiện đề tài.
Phương pháp so sánh: được sử dụng để làm sáng rõ những vấn đề có liên
quan đến từng nội dung cụ thể của đề tài.
Cuối cùng, tất cả tư liệu được tổng hợp và được trình bày dưới dạng một
bài viết khoa học hồn chỉnh.
Phần nội dung
Chương I: Một số vấn đề chung.
1.1. Vài nét về xã hội và văn học Nga nửa sau thế kỷ XIX.
1.1.1. Bối cảnh và sự phát triển tư tưởng xã hội:
Nước Nga vào những năm sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển
mãnh liệt, được biểu hiện bằng việc nông dân rời bỏ nông thôn, các thành phố
lớn được mở rộng, các vùng công thương nghiệp và các nhà máy, công xưởng
được xây dựng song song với các cuộc di chuyển phi công nghiệp “Tất cả các
quá trình ấy đã và đang phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu từ sau cuộc cải cách: đó
là bộ phận khăng khít và cần thiết của sự phát triển chủ nghĩa tư bản và có một
tác dụng căn bản tiến bộ so với hình thức sinh hoạt cũ”.
Cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp, giai
cấp vô sản công nghiệp hiện đại đã xuất hiện và lớn dần. đó là một hiện tượng
tiến bộ. Song thực chất, giai cấp tư sản Nga không phải là một giai cấp cách
mạng, không đấu tranh thắng lợi như ở một số nước phương Tây, mà ngược lại,
quá trình tiến lên chủ nghĩa tư bản ở Nga diễn ra song song với q trình tăng
cường bóc lột nhân dân lao động.
Như vậy, về căn bản, đất nước Nga ở nửa sau thế kỉ XIX vẫn là một nước
nông nghiệp lạc hậu ở châu Âu, số lượng nông dân chiếm 90% dân số- vẫn
phải chìm đắm trong đêm trường nơ lệ, số phận bị chao đảo trong vịng tay địa
chhủ- tư sản, quan lại và nhà thờ khắc nghiệt. Cuộc sống của họ càng ngày
càng bị bế tắc.
Đất nước Nga ở nửa sau thế kỉ XIX lâm vào một tình trạng bế tắc đứng ở
ngã ba đường về xu hướng chính trị- xã hội, cuộc sống tràn ngạp vô vàn những
mâu thuẫn, giằng xé nhau đến mức khủng hoảng trầm trọng. Ở đây, mâu thuẫn
chủ yếu quán xuyến suốt nửa sau thế kỉ XIX ở Nga chính là sự đối kháng quyết
liệt giữa thế lực thống trị và quần chúng bị trị. Mâu thuẫn ấy tạo thời cơ khủng
hoảng gay gắt, trầm trọng trong xã hội mang tình bùng nổ chỉ chờ đợi thời cơ là
bốc cháy .Về mối quan hệ giai cấp và dân tộc, Lênin nhận xét: “Điều đau lịng
nhất đối với chúng ta là nhìn thấy Tổ quốc tươi đẹp của chúng ta chịu biết bao
sự ngược đãi, biết bao sự áp bức và giày xéo của bọn đao phủ Nga hoàng, bọn
quý tộc và bọn tư sản. Chúng ta lấy làm tự hào rằng những hành động tàn bạo
đã gây ra sự phản kháng trong nhân dân chúng ta, trong nhân dân Đại Nga…”
[3;tr.107].
Từ ánh sáng đó ta thấy vấn đề nơng dân gắn liền với vấn đề ruộng đất có
một ý nghĩa trọng đại đối với quá trình phát triển lịch sử_xã hội tư tưởng cũng
như văn học nghệ thuật Nga suốt nửa sau thế kỷ XIX.
Chính vì thế mà: “Chỉ dưới ánh sáng của những tâm trạng nhân dân nói
chung và nơng dân nói riêng trong mỗi giai đoạn của sự phát triển này mới có
thể hiểu được một cách sâu sắc và đúng đắn sự phát triển của văn học Nga từ
Radisep đến Tônxtoi”
“Ngày 19 tháng 02 năm 1861 đã mở màn một thời đại mới trong lịch sử
nước Nga, tức là thời đại tư sản thoát thai từ thời đại nông nô”(Lênin). Thời đại
mới này đã sản sinh ra hai trào lưu tư tưởng chủ yếu: Một bên là phái Tự do
chủ nghĩa nổi bậc vào những năm 1860-1870; một bên là phái Dân chủ cách
mạng. Hai phái đó là những người đại biểu cho hai xu hướng lịch sử quyết định
trong cuộc đấu tranh địi giải phóng nơng dân Nga.
Phái Tự do muốn “giải phóng” nước Nga bằng biện pháp “từ trên xuống”
mà khơng phá huỷ cả chế độ quý tộc, đòi hỏi chúng “nhượng bộ” theo tinh thần
của thời đại. Trước sau, phái Tự do cũng vẫn chỉ là những nhà tư tưởng của
giai cấp tư sản là một giai cấp không thể chấp nhận chế độ nông nô, nhưng lại
sợ cách mạng và sợ phong trào của quấn chúng có khả năng lật đổ được chế độ
quân chủ và tiêu diệt chính quyền bọn điạ chủ. Bởi vậy phái Tự do chỉ “đấu
tranh cho những cuộc cải lương”, chỉ đấu tranh cho những quyền lợi, nghĩa là
chỉ phân chia chính quyền giữa bọn phong kiến và giai cấp tư sản. Đại biểu cho
khuynh hướng tư tưởng này trong văn học là: Tuôcghênhep, A. Ơxtrơpxki,
Gơnsarơp,…
Phái Dân chủ cách mạng phần lớn thuộc tầng lớp trí thức bình dân chủ
trương tiêu diệt chế độ nơng nơ Nga hồng để giải phóng nhân dân Nga bằng
vũ lực, đưa xã hội Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua công xã nông thôn..
Tuy chỉ dừng lại ở chủ nghĩa xã hội không tưởng, nhưng phong trào Dân chủ
cách mạng đã góp phần cống hiến lớn lao vào việc thýưc tỉnh, giáo dục tư
tưởng cách mạng cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ. Đại
biểu cho khuynh hướng này trong văn học là: Bêlinxki, Secnưsepxki,
Xantưcôp,…
Hai xu hướng lịch sử trên đều đã phát triển suốt nửa sau thế kỉ XIX ở
Nga. “Vấn đề ngăn cách giữa hai phái Tự do chủ nghĩa phái Dân chủ cách
mạng trong nước Nga là thuộc về những vấn đề cơ bản nhất trong phong trào
giải phóng” [ ; tr.29].
Song song với hai khuynh hướng tư tưởng trên, vào những năm 80, cùng
với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác từ Tây Âu du nhập
vào. Và tiếp đến vào những năm 90, Lênin băt đầu bằng những hoạt động thực
tiễn, tích cực rèn luyện một chính đảng kiểu mới.
Hồ vào tư tưởng mới mẻ đó là sự xuất hiện hàng loạt “con người lao
động mới”- lớp người vô sản- hiên ngang bước vào văn học với vẻ đẹp hào
hùng tựa như những cánh chim báo bão hăm hở xông lên giành lấy bầu trời,
mặt đất và quyền sống cho mình, quyền cải tạo và quyền chiếm lĩnh một thế
giới mới.
1.1.2. Tình hình văn học Nga thế kỉ XIX:
Sau cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812, nhân dân Nga là những người
chiến thắn quân xâm lược Napoleong, điều này giúp họ ý thức đước sức mạnh
và quyền lợi chính đáng của mình, nhưng thực tế của cuộc sống nông nô và sự
ngột ngạt của chế độ chuyên chế tàn bạo đã đi ngược với những u cầu chính
đáng của họ. Trong hồn cảnh mới,quan điểm thẩm mĩ, lý tưởng thẩm mĩ và tư
tưởng xã hội thay đổi dẫn đến sự ra đời của một khuynh hướng mới trong văn
học, đó là chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng đến nửa sau thế kỉ XIX thì dịng văn học
châm biếm cũng hình thành và phát triển mạnh mẽ với những tên tuổi như
Nơvicơp, Phơnvidin,…dịng văn học châm biếm là tiền thân của dồng văn học
hiện thực sau này.
Sau cuộc khởi nghĩa tháng Chạp năm 1825 thất bại, nước Nga rơi vào thời
kì đen tối. Những nhà văn, nhà thơ có liên quan đến cuộc khởi nghĩa đều bị đàn
áp dã man. Văn học lúc này gắn bó với thực tại bắt đầu hình thành và phát triển
mạnh với những sáng tác của Puskin, Gôgôn,… Đến nửa sau thế kỉ XIX, chủ
nghĩa hiện thực Nga đã có đầy đủ thực tiễn sáng tác và những cơ sở lí luận để
phát triển vững chắc và liên tục. Và kể từ đây dòng văn học hiện thực trở thành
dòng văn học chủ yếu và bắt đầu đạt được những thành tựu rực rỡ. Văn học
Nga kể từ đây thực sự hướng về đời sống nhân dân và phong trào cách mạng
đang dâng cao. Thành tựu quan trọng nhất khẳng định sự toàn thắng của chủ
nghĩa hiện thực Nga ở thời kì này là việc khẳng định vị trí của con người bé
nhó trong xã hội, nhìn thấy được vẻ đẹp bên trong của lớp người đó, cùng với
việc bóc trần mọi thứ xấu xa của xã hội, đồng thời tố cáo mạnh mẽ thế lực đồng
tiền đã chà đạp lên luân thường đạo đức.
Để phù hợp với xu thế phản ánh hiện thực, nghệ thuật sáng tác của các
nhà văn cũng có bước phát triển cho thích hợp với những yêu cầu của thực tế
đặt ra. Nghệ thuật nổi bật nhất là nghệ thuật miêu tả hiện( tả chân) dựa trên các
hình tượng nhân vật ngun mẫu. trong đó nổi bật lên là vấn đề xây dựng hình
tượng nhân vật tích cực. Điều này đã thể hiện một sự tiến bộ vượt bậc của văn
học. Về phương diện thể loại, do văn học thời kì này phản ánh tồn diện những
vấn đề cấp bách và phức tạp của thời đại cho nên các sáng tác văn học có sự
thay đổi lớn về thể loại. Thời kì này, thơ ca vẫn phát triển đa dạng, nhưng đặc
biệt nhưng đặc biệt văn xuôi phát triển mạnh mẽ và đạt đến tính chuẩn mực
hồn chỉnh. Nó trở thành thể loại chủ yếu trong việc thể hiện và đăng tải các
nội dung xã hội nửa sau thế kỉ XIX. Có thể thấy, thể loại văn xi như tiểu
thuyết anh hùng ca, truyện vừa vào lúc này phát triển mạnh mẽ và giữ một địa
vị thống trị so với các thể loại khác. Tiêu biểu cho những thể loại này là các
sáng tác của Đôxtôiepxki, L.Tônxtôi,…Song song với sự phát triển của các loại
tiểu thuyết, kịch lúc này cũng phát triển mạnh mẽ. Trong số các tác gia vết kịch
nổi tiếng, tiêu biểu nhất là: Ơxtrơpxki, Sêkhơp,…Thời kì này cịn có sự phát
triển rực rỡ của truyện ngắn và kí sự.
Nói tóm lại, văn học Nga nửa sau thế kỉ XIX đã phát triển đến đỉnh cao
nhất của chủ nghĩa hiện thực. Chính trên đỉnh cao này, L.Tơnxtơi đã có những
đóng góp đặc sắc cả về mặt nội dung tư tưởng và nghệ thuật qua hàng loạt
những kiệt tác của mình mà tiêu biêu nhất là tác phẩm "chiến tranh và hồ
bình".
1.2. Vài nét về tác giả L.Tơnxtơi và tác phẩm "Chiến tranh và
hịa bình”.
1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của L.Tônxtôi.
Lep-Nicôlai-Ê-Vich Tônxtôi sinh ngày 09/9/1828 tại ấp I-A-Xnai-APoliama, trong một gia đình quý tộc. Năm lên hai tuổi L.Tơnxtơi mồ cơi mẹ,
lên chín tuổi mồ côi cha. Năm mười sáu tuổi L.Tônxtôi thi vào trường Đại Học
Kadan. Ban đầu ông học ở hệ Đông Phương, khoa triết, chuyên về ngôn ngữ Ả
Rập cổ, sau chuyển sang học khoa Pháp lý. Mùa xuân năm 1847 L.Tơnxtơi bỏ
học trở về trại ấp của mình. Khi sống ở trại ấp, ông vẫn tự trao dồi học vấn.
Năm 1851, L.Tônxtôi đi Capca sốn gần gủi những người Cơdac. Ít lâu sau, ơng
nhập ngũ, L.Tơnxtơi cịn là người ham mê đọc sách, say mê tìm hiểu cuộc sống
xã hội, ơng ưa thích đọc các tác phẩm ciuar các nhà văn lớn như Rut-Xô, SingLe, Puskin, Đich-Ken, Gôgôn,…
Tác phẩm đầu tay của L.Tơnxtơi là “Thịi thơ ấu” giành ngay dược cảm
tình của đơng đảo bạn đọc. L.Tơnxtơi phấn khởi viết tiếp “Thời niên thiếu”
(1854) và “Thời thanh niên” (1857). Tác phẩm bộ ba tự thuật miêu tả quá trình
trưởng thành của một lớp thanh niên biết suy nghĩ nghiêm chỉnh về ý nghĩa
cuộc sống. Qua các tác phẩm này, Sec-Nư-Xepxki nhận xét hai điểm tài năng
của L.Tônxtôi là tài miêu tả các quá trình tâm lý, các hình thức quy luật tâm lý
vavf phép biện chứng tâm hồn, miêu tả sự thuần khiết về đạo đức.
Trong thời kỳ này, L.Tônxtôi viết một loạt truyện nhà binh như: “Đột
kích” (1852), “Đẵn gỗ” (1854), nổi tiếng nhất là “Truyện Xê-va-tô-pôn” (18541855) diễn tả lại cuộc chiến đấu của thành phố anh hùng trong mười một tháng
chống liên quân Anh-Pháp xâm lược, diễn tả lại những ấn tượng nóng hổi của
L.Tônxtôi, người trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu này. Tồn truyện tốt lên
lịng khâm phục, “sự vĩ đại thầm lặng cóa yas thức và tinh thần cứng cỏi của
người lính Nga”. L.Tơnxtơi viết: “Nước Nga sẽ mãi mãi giữ những dáu vết cao
thượng của thiên anh hùng ca Xê-va-tô-pôn, trong đó nhân dân Nga là những
người anh hùng”. Truyện ngắn Xê-va-tô-pôn là khúc dạo đầu cho bản anh hùng
ca "Chiến tranh và hịa bình" sau này” (Dẫn theo cuốn “Lịch sử văn học Nga).
Cuối tháng 11/1855, L.Tônxtôi từ Xêvatôpôn trở về Pêtecbua. Ông đề ra
những dự án để cải cách nông nô nhưng thực hiện không thành. Việc tiếp xúc
với nông dân tạo cảm hứng cho L.Tônxtôi viết truyện ngắn “Buổi sáng của
một địa chủ” (1856). Tác phẩm này là một bức tranh sinh động, hiện thực về
cảnh bùn lầy nước đọng ở nông thôn Nga trước cuộc cải cách. Qua tác phẩm
này, nhà văn đã nói lên chân thực cuộc sống cực khổ của quần chúng.
Tháng 11/1856, L.Tônxtôi giải ngũ. Hai tháng sau ơng ra nước ngồi lần
đầu tiên. Ông thăm các nước: Pháp, Thụy sĩ, Ý, Đức…Những ấn tượng đối với
nghệ thuật, nghệ sĩ, đối với con người đã được ghi lại trong truyện bút ký
“Luyxec” (1857). Ngày 30/7/1857 L.Tơnxtơi trở về Nga. Ơng viết truyện “Ba
cái chết” (1858), phê phán lối sống quý tộc, xa hoa, đề cao quy luạt vĩnh hằng
của thiên nhiên. Truyện “Hạnh phúc gia đình” (1859): Bảo vẹ truyền thống gia
trưởng trong gia đình. Năm 1862 L.Tơnxtơi hồn thành tác phẩm: “Những
người Cơdăc” đã được viết từ nhiều năm trước đó. Tác phẩm đề cao cuộc sống
phóng khống với thiên nhiên của người Côdac và nêu lên vấn đề hạnh phúc
của con người theo tinh thần vị tha.
Năm 1871, L.Tônxtôi sống ở đồng cỏ Xamara. Năm 1873, ơng tham gia
cứu đói tại đây, ông đành bỏ dở ý định viết cuốn tiểu thuyết về đại đé Piôt mặc
dù đã sứ tầm tài liệu khá công phu. Từ năm 1873 đến năm 1877, ông viết cuốn
tiểu thuyết nổi tiếng “An-na Kaneria”, nêu lên những vấn đề xã hội cấp bách.
Những băn khoăn, tìm tịi, suy nghĩ của L.Tơnxtơi về lý tưởng sống suốt bao
năm rịng rã đã dẫn ơng đến một chuyển biến tư tương lớn vào những năm 80.
Trong các tác phẩm chính luận như: “Sám hối” (1870-1872), “Đâu là đức tin
của tơi” (1884), “Vương quốc của chúa trong lịng của chúng ta”,…L.Tônxtôi
đã kịch liệt phê phán hệ tư tưởng quý tộc và coi tư tưởng nông dân là lý tưởng
của mình.
Tháng 10/1881, L.Tơnxtơi và gia đình đến ở hẳn Matcova. Ở đây, ông
ghi lại những ấn tượng mãnh liệt về quần chúng trong tác phẩm “Thế thì chúng
ta phải làm gì đây” (1884-1886) và đi tới một nhận xét đáng chú ý: có thể bắt
người ta làm nơ lệ nhưng không thể bắt người ta nghĩ rằng khi chịu đựng bạo
lực thì con người được tự do, cịn điều ác thì con người phải chịu đựng. Trong
những năm 80, L.Tơnxtơi viết nhiều truyện cho người dân như: “Cái chết ở
Ivan Ilich” (1886) nói về cuộc sống tầm thường của một quan lại. “Bản XônatCorayxe” (1887), “Ma quỷ” tiếp tục phê phán cuộc sống hơn nhân gia đình
khơng dựa trên tình yêu. Tác phẩm “Quyền lực bóng tối” (1886) tố cáo độc hại
của chế độ tư bản. “Kịch thành quả giáo dục” (1890) nói về tâm hồn nghèo nàn
và trống rỗng của bọn địa chủ. Năm 1891, ông viết tác phẩm “vì sao nhân dân
ta đói” khi ơng sốt sắn đi cứu đói. Ơng nói với bọn địa chủ trên rằng: “Nhân
dân đói và chúng ta quá no, tác phẩm gây chấn động dư luận xã hội. Tác phẩm
vĩ đại nhất của L.Tônxtôi trong những năm 80 là: “Phục sinh” (1889-1899)
đây là bản án đanh thép phê phán chế độ nông nô chuyên chế và giáo hội ở
Nga, những kẻ đẩy quần chúng vào đường cùng
Ngịi bút của L.Tơnxtơi trong những năm cuối đời vẫn không hề khô cạn.
Vào đầu thế kỷ này, L.Tônxtôi viết xong truyện ngắn “Khat-do-ri-murat”
(1896-1904) miêu tả người chiến sĩ bất khuất đấu tranh cho tự do, phê phán
Nga hoàng Nieolai I, và truyện “Sau vũ hội” (1903) tố cáo thói tàn nhẫn vô
lương của bọn võ quan. Vào những năm cuối đời đó, L.Tơnxtơi lâm vào khủng
hoảng tinh thần trầm trọng, do lý tưởng của ơng về xóa bỏ bất công, tư hữu
ruộng đất, trở về với tự do nguyên thủy, con người chí thiện khơng được thực
hiện.
Rạng sáng ngày 28/10/1910, L.Tơnxtơi cùng với bác sĩ riêng của mình bỏ
nhà ra đi. Trên đường đi ông bị cảm nặng và qua đời.
Lúc sống cũng như lúc chết, uy danh của nhà văn lão thành này rất to lớn
đối với nước Nga và thế giới, đối với các nhà văn học nghệ thuật trong và
ngoài nước, kẻ cả các nhà hoạt động chính trị. Uy danh đó làm cho bọn
thgoongs trị run sợ
Nhìn chung, qua sự nghiệp sáng tạo của L.Tơnxtơi ta có thể thấy rõ một
điều là nhà văn có sự kế thừa và phát huy các giá trị tinh hoa văn học Nga,
chẳng những về tư tưởng nội dung mà cịn có cả tư duy nghệ thuật. Ở nội dung
tư tưởng, ta có thể thấy rỏ đó là tính nhân dân, tư duy tiến bộ được phát huy từ
những nhà văn nhà thơ trước đó, mà ơng từng đọc, từng u thích như: Rutxo,
Gơgơn, Puskin,…về phương diện nghệ thuật ở thực, ơng đã nâng nó lên thành
chủ nghĩa hiện thực phê phán. Má trước đó là những trào lưu chưa thể hiện một
cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, với tài năng của L.Tơnxtơi thì nghệ thuật trong sáng
tác của ơng khơng dừng lại ở đó mà cịn thể hiện đa dạng, phng phú trên nhiều
phương diện sáng tác.
1.2.2. Tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình”.
1.2.2.1. Hồn cảnh sáng tác:
Tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình” là tác phẩm đầu tiên làm cho tên tuổi
quang vinh của Tônxtôi lẫy lừng trên thế giới. Tác phẩm này là một trong
những thành tựu quan trọng nhất của văn học Nga và thế giới. Tác phẩm này
được sáng tác trong hoàn cảnh khá đặc biệt.
Vào những năm 1856, sau khi có lệnh ân xá những người tham gia khởi
nghĩa tháng chạp (1824) bị đi đày được trở về. Trước cảnh đó, Tơnxtơi dự định
viết một cuốn tiểu thuyết, nhân vật chính là một trong những người tháng chạp.
Ơng nói: “Người khởi nghĩa tháng chạp của tôi là một người hăng hái, thần bí
theo Cơ Đốc Giáo, trở về với nước Nga, vợ và con trai, con gái…Anh ta nhìn
nước Nga bằng cặp mắt nghiêm khắc và hơi lý tưởng”. Đó là truyện “Những
người tháng chạp”. L.Tônxtôi viết được ba chương rồi bỏ dở. Dõi theo cuộc đời
nhân vật, từ hiện tại L.Tônxtôi đi ngược lên năm 1825 (thời kỳ lầm lạc và bất
hạnh nhất của nhân vật chính của ơng). Rồi để hiểu thêm thời niên thiếu của
nhân vật - ứng với năm 1812 quang vinh, L.Tônxtôi lại đi ngược lên năm đó.
Hàng loạt nhân vật mới xuất hiện, khn khổ tiểu thuyết mở rộng dần
L.Tônxtôi không chỉ muốn miêu tả nước Nga trong chiến thắng, năm 1812 mà
còn miêu tả nước Nga lúc thua trận. Vì theo ơng, nếu như nguyên nhân thắng
lợi của nước Nga không phải là ngẫu nhiên mà nằm ở bản chất tính cách của
nhân dân Nga và qn đội Nga thì tính cách đó hẳn là cũng thể hiện trong thời
kỳ thua trận và thất bại, thế là ông ngược lên năm 1805. Sau hơn 6 năm lao
động nghệ thuật không mệt mỏi (từ năm 1863-1869) L.Tơnxtơi đã hồn thành
tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình”. Tác phẩm này phản ánh cuộc sống người
Nga ở thành thị và nơng thơn vào thời bình và cả thời chiến, bao gồm những
biến cố gia đình và xã hội trong khoảng thời gian từ năm 1805 đến năm 1820.
Đề tài của tác phẩm “Chiến tranh và hịa bình” là đề tài được lấy từ lịch sử
để nói lên bản chất, tính cách của nước Nga, con người Nga không phải tới thời
điểm này L.Tônxtôi mới nghĩ đến mà đã xuất hiện trước đó rồi. Truyện “Những
người tháng chạp” của nhà văn thực chất đã biến thành tiểu thuyết vĩ đại
“Chiến tranh và hịa bình”.
Để viết nên bộ tiểu thuyết “Chiến tranh và hịa bình” L.Tơnxtơi khơng chỉ
lấy cảm hứng từ “Những người khởi nghĩa tháng chạp”, mà còn lấy cảm hứng
từ hàng loạt tác phẩm khác như: “Đột kích” (1852), “Đẵn gỗ” (1854) và nổi
tiếng nhất là thiên truyện “Xêvatôpôn” (1854-1855) diễn tả cuộc chiến đấu anh
hùng của quân Nga trong 11 tháng chống quân Anh-Pháp, hang ấn tượng nóng
hổi của L.Tônxtôi, người trực tiếp tham gia cuộc chiến này. Tồn bộ tác phẩm
tốt lên lịng câm phục vĩ đại thầm lặng khơng có ý thức và tinh thần cứng cỏi
của người lính Nga. Tất cả các tác phẩm đó là khúc dạo đầu cho bản anh hùng
ca “Chiến tranh và hịa bình”.
Như vậy, có thể nói “Chiến tranh và hịa bình” là tác phẩm xuất hiện vào
nửa sau thế kỉ XIX, thời kỳ mà trào lưu hiện thực phát triễn mạnh mẽ. Cho nên
bút pháp của L.Tônxtôi trong tác phẩm "Chiến tranh và hịa bình" là bút pháp
miêu tả hiện thực, mà hiện thực ở đây là hiện thực được nhà văn lấy từ hiện
thực lịch sử nước Nga. Bút pháp miêu tả hiện thực là đặc điểm tiêu biểu nhất
trong tác phẩm này. Qua tác phẩm nhà văn L.Tônxtôi đã nâng tầm thể loại tiểu
thuyết anh hùng ca lên tầm cao của nó trong những thập niên của thế kỉ này.
Ngồi ra L.Tơnxtơi cịn kết hợp hàng loạt các bút pháp nghệ thuật khác.
1.2.2.2. Tóm tắt tác phẩm "Chiến tranh và hịa bình"
Tác phẩm mở đầu với khung cảnh của một cuộc tiếp tân, nơi có đủ các
nhân vật sang trọng của giới quý tộc Nga ở Pêtecbua. Bên cạnh những câu
chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu đã nhắc đến tên
Napoleông và cuộc chiến tranh sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số tân
khách hơm ấy có cơng tước Andrây Bơnkơnxki - một người trẻ tuổi, đẹp trai,
giàu có, có cơ vợ xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và Pie
- người con rơi của lão bá tước Bêdukhơp, vừa từ nước ngồi trở về. Tuy khác
nhau về tính cách, một người khắc khổ lý trí, một người hồn nhiên, sôi nổi,
song Andrây và Pie rất quý mến nhau vì đều là những chàng trai trung thực,
khát khao đi tìm lẽ sống. Andrây tuy giàu có và thành đạt, song chàng cảm thấy
chán ghét tất cả. Chàng chuẩn bị nhập ngũ với hi vọng tìm được chổ đứng của
người đàn ơng chân chính trên chiến trường, cịn Pie từ nước ngoài trở về Nga,
tham gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Pêtecbua vì tội du đãng.
Chàng trở về Matcơva, nơi cha chàng đang hấp hối. Lão bá tước Bêdukhôp rất
giàu có, khơng có con, ngồi đứa con rơi là Pie mà ông chưa công nhận. Mấy
người bà con xa, trong đó có bá tước Vaxili Kuraghen, xúm quanh giường bệnh
với âm mưu chiếm đoạt gia tài. Pie đứng ngoài cuộc tranh chấp đó, chàng vốn
khơng có tình cảm với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha
lúc lâm chung, tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất
đi, để lại toàn bộ gia sản cho Pie và nhận chàng làm con chính thức. cơng tước
Vaxili khơng được lợi lộc gì trong cuộc tranh chấp bèn tìm mọi cách mồi chày
Pie. Vốn nhẹ dạ, cả tin, Pie rơi vào bẫy và phải cưới con gái lão Hêlen. Đó là
một cơ gái có nhan sắc nhưng lẵng lơ và vô đạo đức.
Về phần Andrây, chàng quyết định gởi vợ cho cha và mẹ chăm sóc, sau
đó gia nhập quân đội. Andrây hi vọng tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống ở cơng
danh trên chiến trường, chàng tham gia trận đánh Aoteclie và bị thương nặng
phải nằm lại trên chiến trường, khi tỉnh dậy, chàng nhìn thấy bầu trời xanh rộng
và sự nhỏ nhoi của con người, kể cả những ước mơ công danh, kể cả thần
tượng Napolêông. Andrây được đưa vào trạm quân y và được cứu sống, sau đó
chàng trở về nhà và chứng kiến cái chết đau đớn của người vợ trẻ, cùng với vết
thương và sự tiêu tang của giấc mơ. Tulông đã làm cho Andrây tuyệt vọng,
chàng quyết định lui về sống ẩn dật. Có lần Pie đến thăm Andrây và đã phê
phán cách sống đó. Pie lúc này đang tham gia vào hội Tam điểm với mong
muốn làm việc có ích cho đời.
Một lần, Andrây có việc đến gia đình bá tước Rơxtơp. Tại đây chàng gặp
Natasa – con gái gia đình Rơxtơp, tâm hồn trong trắng, hồn nhiên và yêu đời đã
làm hồi sinh tâm hồn Andrây. Chàng quyết định tham gia vào công cuộc cải
cách ở triều đình và cầu hơn Natasa. Chàng được gia đình Rôxtôp chấp thuận
nhưng cha chàng phản đối. Bá tước Bônkônxki buộc Andrây phải đi trị thương
ở nước ngoài trong khoảng thời gian một năm. Andrây chấp thuận và xem đó
như là thời gian để thử thách Natasa. Chàng nhờ bạn mình là Pie đến chăm sóc
cho Natasa lúc chàng đi vắng. Natasa rất yêu Andrây, song do nhẹ dạ và cả tin
Natasa đã rơi vào bẫy của Anatôn – con trai công tước Vaxili. Natasa và
Anatôn định bỏ trốn nhưng âm mưu bị bại lộ. Nàng vô cùng đau khổ và hối
hận. Sau khi trở về, Andrây biết rõ mọi chuyện và đã nhờ Pie đem tất cả các kỷ
vật cho Natasa. Nàng lâm bệnh và người chăm sóc, thơng cảm cho nàng lúc
này là Pie.
Vào lúc này, nguy cơ chiến tranh giữa Nga và Pháp ngày càng đến gần.
Cuối năm 1811, quân Pháp tiến dần đến biên giới Nga, quân Nga rút lui. Đầu
năm 1812, quân Pháp tiến vào lãnh thổ Nga, chiến tranh bùng nổ. Vị tướng già
Kutudôp được cử làm tổng tư lệnh quân đội Nga. Quý tộc và thương gia được
lệnh nộp tiền của và dân binh. Pie cũng nộp tiền và hơn một nghìn dân binh cho
quân đội. Andrây lại gia nhập quân đội, ban đầu vì muốn trả thù tình địch,
nhưng sau đó chàng bị cuốn vào cuộc chiến, bị cuốn vào tinh thần yêu nước
của nhân dân. Trận Bôrôdônô nổ ra. Quân đội Nga dưới sự chỉ huy của vị
tướng Kutudôp đã chiến đấu dũng cảm tuyệt vời. Andray tham gia trận đánh và
bị thương nặng. Trong lán quân y, chàng gặp lại tình địch của mình đang đau
đớn vì vết thương. Mọi nổi thù hận tan biến, chàng chỉ còn thấy một nổi thương
cảm đối với mọi người
Chàng được đưa về hậu phương. Trên đường di tản, chàng gặp lại Natasa
và tha thứ cho nàng. Natasa đã chăm sóc cho Andrây cho đến lúc chàng mất.
Sau trận Bôdônô, quân Nga rút khỏi Matcơva. Quân Pháp chiếm được
Matcova nhưng vô cùng lo sợ. Pie trở về Matcova và giả dạng thành người
bình dân để ám sát Napoleong. Âm mưu chưa thực hiện được thì chàng đã bị
bắt. Trong nhà giam chàng, Pie gặp Platon – một triết gia nông dân. Bằng
những cau chuyện của mình Platon đã giúp Pie hiểu thế nào là cuộc sống có ý
nghĩa.
Qn Nga bắt đầu phản cơng và tái chiếm Matcơva. Quân Pháp rút lui hỗn
loạn. Cuộc chiến tranh của nhân dân Nga thắng lợi bằng cả tinh thần của dân
tộc Nga chứ không phải do một cá nhân nào. Đó là điều Kutudơp hiểu cịn
Napolng thì khơng.
Trên đường rút chạy của quân Pháp, Pie đã trốn thoát và trở lại Matcova.
Chàng hay tin Andray đã mất và vợ mình cũng vừa mới qua đời vì bệnh. Chàng
gặp lại Natasa, một tình cảm mới mẻ giữa hai người đã bùng nổ. Pie quyết định
cầu hôn Natasa. Năm 1813 họ tổ chức lễ cưới, bảy năm sau họ có bốn mặt con.
Natasa lúc này khơng cịn là một cơ gái vơ tư, hồn nhiên mà trở thành một
người vợ đúng mực. Pie sống hạnh phúc nhưng không chấp nhận cuộc sống
nhàn tản. Chàng tham gia vào hội kín. Đó là các tổ chức cách mạng của những
người tháng chạp.
1.2.2.3. Vài nhận xét chung về tác phẩm “Chiến tranh và hịa
bình”.
"Chiến tranh và hịa bình" là tác phẩm anh hùng ca hiện đại. Đó là sự sáng
tạo mới mẻ, duy nhất của thể loại anh hùng ca, không chỉ đối với văn học Nga
mà cả văn học thế giới nửa sau thế kỷ XIX, kể từ thời Homer đến nay.
Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm "Chiến tranh và hịa bình" được thể hiện
tập trung qua biến cố lịch sử năm 1812, nhân dân Nga chống quân xâm lược
Pháp. Đó là chủ đề nhân dân và tính nhân dân. “Nhân dân và tính nhân dân” là
chủ đề trung tâm quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Bên cạnh chủ đề trung tâm, tác
phẩm "Chiến tranh và hịa bình" cịn thể hiện rõ chủ đề giai cấp. Đó là giai cấp
quý tộc Nga cùng với đời sống sinh hoạt của họ trong thời chiến và thời bình từ
năm 1805 đến năm 1820. Chủ đề thứ ba của tác phảm là cách giải thích, đánh
giá lịch sử. theo L.Tơnxtơi , một tác phẩm viết về q khứ thì mọi sự kiện lịch
sử cần thiếtphair thông qua con người để giải thích, thơng việc thể hiện số phận
và bước đường đời của các nhân vật chính. Ngồi ra, tác phẩm "Chiến tranh và
hịa bình" cịn thể hiện “Thuyết bất bạo động” hay còn gọi là “Tư tưởng Bất
bạo động”, là “Chủ nghĩa Tônxtôi”. Ở đây Tônxtoi hướng duy nhất vào một
cuộc cách mạng về đạo đức chứ không về một cuộc cách mạng bạo lực, nó đem
lại ngay sự xóa bỏ mọi chênh lệch trong xã hội, do đó tránh được cho nhân loại
cuộc nỗi loạn đẫm máu kia.
Bên cạnh tầm vóc to lớn về mặc nội dung, tác phẩm "Chiến tranh và hịa
bình" hội tụ những nét đặc sắc, nét mới mẽ về mặt nghệ thuật. Trước hết, chúng
ta có thể thấy L.Tơnxtơi đã phát triễn thể loại “Tiểu thuyết anh hùng ca” lên
một tầm cao mới, và trở thành bản tiểu thuyết anh hùng ca hiện đại. Ngoài ra,
tác phẩm được xây dựng theo một kết cấu độc đáo: về đề tài, về chủ đề, về
khơng gian, về thời gian, về nhân vật…Bên cạnh đó, nhà văn đặc biệt đề cao
nghệ thuật tả chân, đó là một hình thức chủ đạo của trào lưu văn học hiện thực
của thế kỉ này.
1.3. Giới thuyết về “ Tư tưởng Bất bạo động”:
Để làm rõ hơn về “Tư tưởng Bất bạo động” và trong phạm vi yêu cầu của
đề tài; ở đây người nghiên cứu xin giới thiệu vài nét chính trong “Tư tưởng Bất
bạo động” của Lep. Tonxtoi và Thánh Gandhi:
1.3.1. “Thuyết Bất bạo động” của Lep. Tonxtoi:
Trong cuốn sách “chúng ta phải làm gì?” của ơng cũng mơ tả với một hình
thức đầy xúc động cuộc gặp gỡ đầu tiên này với sự nghèo khổ của quảng đại
quần chúng ở một thành phố lớn. Tất nhiên là đơi mắt trong suốt của ơng đã
nhìn thấy hang ngàn lần trước đây trong những cuộc du lịch và những cuộc dạo
chơi nhưng đó đơn thuần chỉ là cái nghèo khổ cá nhân ở các làng mạc và nông
thôn chứ không phải là cái nghèo khổ của người vô sản ở các thành phố công
nghiệp, cái nghèo khổ sản phẩm của thời đại, sản phẩm cơ khí hố của một nền
văn minh cơ giới. Đưa vào thực hành thái độ của ơng đối với kinh thánh.
Tơnxtơi lúc đầu tìm cách làm dịu bớt sự nghèo cực bằng qùa tặng và sự đóng
góp, bằng cách tổ chức long thương người, nhưng ông thấy ngay được sự vô bổ
của mỗi hoạt động cá nhân, và thấy rằng “chỉ một mình tiền bạc trong trường
hợp này sữ khơng làm được gì tốt trong việc thay đổi cuộc sống bi đát của
những con người này”. Một sự thay đổi thực tại chỉ có thể được thực hiện bằng
một sự cấu tạo lại hoàn tồn hệ thống xã hội hiện tại. Thế là ơng viết những
dòng kêu hãnh cảnh báo về bức tường của các thời đại: “giữa chúng ta, người
giàu và người nghèo ln có một bức tường của giáo dục sai lầm ngăn cách và
trước khi chúng ta có thể giúp đỡ người nghèo chúng ta phải giật đổ bức tường
đó. Tơi đi đến kết luận rằng sự giàu sang của chúng ta là sự nghèo cực của
quần chúng”. Có cái gì sai lầm trong cơ cấu xã hội hiện tại: điều đó rõ rang đến
tận đáy sâu xa nhất của tâm hồn ơng, và kể từ đó Tơnxtơi chỉ có một mục đích
đơn thuần – khai hóa dân chúng, báo với họ, giáo dục họ bỏ tâm sức của ý chí
tự do của bản thân mình để sửa chữa một sự thật là con người bị chia cắt thành
những giai cấp hoàn toàn cách biệt.
Điều đó phải được thực hiện do ý chí tự do của dân chúng và từ một sự
thấu hiểu về đạo đức thuần khiết. Chủ nghĩa Tônxtôi bắt đầu từ ở đây vì
Tơnxtơi hướng duy nhất vào một cuộc cách mạng đạo đức chứ không hướng về
một cuộc cách mạng bạo lực, nó đem lại ngay sự xóa bỏ mọi sự chênh lệch
trong xã hội, do đó tránh cho nhân loại một cuộc nổi loạn đẫm máu kia. Đó là
một cuộc cách mạng dựa trên lương tâm, một cuộc cách mạng thông qua việc
người giàu tự nguyện từ bỏ những của cải của mình, người lười biếng từ bỏ sự
vơ cơng rồi nghề của mình và thong qua sự phân công lao động mới ngay tức
khắc theo ý tự nhiên mà Chúa ban cho là khơng ai được có phần thái quá trong
lao động của người khác. Và ai ai cũng có những thứ cần dung như nhau. Từ
đó ơng cũng coi sự xa hoa như là sự nở hoa đầy chất độc của sự sa đoạ, nó phải
được trốc tận rễ vì sự an tồn của nền bình đẳng giữa người với người. Xuất
phát từ niềm tin đó, Tơnxtơi bắt đầu đấu tranh chống nghèo đói trăm lần quyết
liệt hơn Mác và Pruđông. Ngày nay, sở hữu là cội rễ của mọi tội lỗi. Nó gây ra
cái đau khổ của người sở hữu và của những người không sở hữu. Và nguy cơ
xung đột không tránh khỏi giữa những kẻ có q nhiều và những kẻ khơng có
gì”. Mọi tội lỗi bắt nguồn từ sự nghèo đói Nhà nước cịn thừa nhận càng lâu
ngun tắc sở hữu thì theo Tơnxtơi nó vừa phi cơ đốc và phi xã hội, và( vì theo
Tơnxtơi sở hữu biểu hiện sự nợ nần của những kẻ khác) trở thành một trong
những bên, thực tế là thành bên chính của tội lỗi “Các Nhà nước và các chính
phủ âm mưu tiến hành chiến tranh cho quyền sở hữu, khi thì vì đơi bờ song
Ranh, lãnh thổ của châu Phi, khi thì vì Trung Quốc và vùng Ban Căng. Các chủ
ngân hang, các chủ xí nghiệp, các địa chủ làm việc, lập kế hoạch và hành hạ
bản than người khác chỉ vì quyền sở hữu. Những cuộc đấu tranh, lừa đảo, áp
bức của chính quyền và sự đau khổ, tất cả đều vì sự an tồn của chính quyền sở
hữu mà thơi. Tồ án của chúng ta, cảnh sát của chúng ta bảo vệ quyền sở hữu.
Các trại cải tạo và các nhà tù của chúng ta tất cả những ghê gợn của cái gọi là
sự xố bỏ tội lỗi đều tồn tai hồn tồn để bảo vệ quyền sở hữu”. vì vậy theo
nhận thức của Tơnxtơi , chỉ có một người tiếp nhận hùng mạnh những của cải
ăn trộm được, người đó che chở cho tất cả những bất công của xã hội ngày nay
và kẻ phạm tội đó là Nhà nước. Theo ý ông, nó được dựng lên chỉ để bảo vệ
quyền sở hữu; chỉ vì một mục đích đó, nó thiết lập hệ thống nhiều mạng lưới
quyền lực với luật pháp, những người được uỷ quyền thi hành, những nhà tù,
những thầy kiện, những cảnh sát và quân đội. Những cái vi phạm khủng khiếp
nhất và trái đạo lý nhất mà Tônxtôi coi là một sang chế riêng của thế kỉ mình,
đó là nghĩa vụ qn sự phổ cập. Theo ơng, khơng có gì khiêu khích đến như
vậy, người thiên Chúa giáo phản bội các lời giáo huấn của chúa Giêsu và
những lời răn dạy của Kinh Phúc Âm bằng sự phục tùng mện lệnh của Nhà
nước, cho phep một dụng cụ giết người bị cưỡng bức đưa vào tay một người để
giết một người xa lạ, tuyệt đối vì sự an toàn của một khẩu lệnh ngẫu nhiên- Tổ
quốc, tự do, Nhà nước. Tônxtôi không ngừng thết llên rằng những khẩu lệnh đó
khơng có mục đích nào khác ngồi mục đích bảo vệ quyền sở hữu khơng thuộc
về ơng và một cách cưỡng bức, giương cao ý tưởng về sở hữu thành ý tưởng
của một quy luật đạo đức cao hơn.Tônxtôi đã viết hàng trăm và hàng trăm trang
để nhấn mạnh điều mâu thuẫn là: trong tình trạng hiện nay của cái gọi là nền
văn minh( trong đó, ơng chỉ thấy một sự trá hình của đạo đức bị sa đoạ). Con
người có thể bị bắt buộc tàn sát lẫn nhau dưới mệnh lệnh của Nhà nước. Đó là
trái với lời răn của đức Chúa trời và trái với nhắc nhủ của đạo đức bên trong,
bởi vì làm như vậy “Con người bị đưa đến trái với ý mình, một vị trí khước từ
sự hiểu biết của mình”.
Như vậy, Tơnxtơi- người đi tìm kinh Phúc Âm thường xun biến thành
người vơ chính phủ triệt để- đi đến kết luận rằng: bổn phận của mọi người có
hiểu biết về đạo đức là chống lại Nhà nước nếu nó địi hỏi một cái gì “Trái với
Thiên Chúa giáo”, tức là nghĩa vụ qn sự, và diều đó kgơng bằng bạo lực mà
bằng “bất bạo động”; cộng them vào đó, con người này phải tự nguyện loại bỏ
hoạt động phụ thuộc vào sự bóc lột lao động của kẻ khác. Những người đáng
tơn kính phải suy nghĩ và hành động khơng phải một cách yêu nước mà một
cách nhân đạo. Tônxtôi nhằm vào quyền thiêng liêng nhất của cá nhân, là từ bỏ
các vật khỏi niềm tin bên trong, mặc dù những sự vật đó được luật pháp cho
phép và thậm chí bắt buộc, tỏ ra ương bướng với mỗi công bố Nhà nước khơng
thừa nhận là hợp đạo lý. Vì vậy, ông khuyên người Thiên Chúa thoát khỏi mọi
sự sắp xếp và thể chế càng nhiều càng tốt, khơng xuất hiện ở tịa án và khơng
nhận một cơng việc nào để giữ cho tâm hồn được trong sạch.
Và hơn thế nữa, chủ nghĩa Tonxtoi lên án mạnh mẽ và quyết liệt trật tự xã
hội hiện tại, nhưng nó lại loại bỏ mọi sự chống lại xã hội bằng bạon lực, vì cách
mạng phải đấu tranh chống lại cái Ác bằng một cái Ác khác, bằng bạo lực.
Tuân thủ một nguyên tắc cao nhất và sâu sắc nhất của mình “Đừng chống lại
cái Ác bằng bạo lực”, Tonxtoi đưa ra giáo huấn kêu gọi: coi sự chống đối thụ
động và cá nhân như một hình thức đấu tranh duy nhất được phép, trái với
phương thức cách mạng tiêu cực. Điều mà Tonxtoi mơ ước là cuộc cách mạng
bên trong, cuộc cách mạng không phải của những quả đấm vũ lực mà là của
một lương tâm không lay chuyển và sẵn sang cho mọi người chịu đựng- một
cuộc cách mạng tâm hồn chứ khơng phải của nắm đấm.
Luận đề đó có sức hấp dẫn biết bao nhiêu ở một đất nước với mâu thuẫn
xã hội cực điểm, uy tín của Tonxtoi to lớn biết bao nhiêu ở thời đại của ông
khiến cho nhiều người mong muốn thực hiện trong thực hành lý thuyết xã hội
mới của Tonxtoi. Ở một số ít nơi có những người tìm cách đưa nó ra trắc
nghiệm, bằng cách xây dựng những trang trại trên nguyên tác không tài sản và
không bạo lực. nhưng tai hại thay, những ý đồ đó kết thúc thất vọng và chủ
nghĩa Tonxtoi không thành công trong nhà ông, trong gia đình ơng. Trong
nhiều năm, ơng cố gắng tạo sự hài hịa của cuộc sống riêng với các lý thuyết
của mình. Ông từ bỏ thú vui đi săn để khỏi sát hại muông thú, ông tránh dùng
đường ga xe lửa càng xa càng tốt, thu nhập do viết lách ông giao lại cho gia
đình hay cho những mục đích từ thiện; ơng từ chối ăn thịt vì nó địi hỏi cái chết
bắt buộc của một sinh thể. Ông tự cày lấy ruộng, đi đây đi đó với cái áo thơ
nơng dân và tự tay đóng lấy đế đơi giày của mình.
Nhưng ông không thể chinh phục sự chống lại của thực tế đối ví các ý
tưởng của ơng và bi kịch sâu sắc nhất của đời ông- kém hơn cả là trong bản
thân gia đình ơng, giữa những người gần gũi nhất và thân thương nhất. vợ ông
trở thành người xa lạ, các con ông không hiểu nổi tại sao họ đặc biệt phải ni
nấng như cơ vắt sữa bị và như con cái nơng dân vì sự an tồn của cái lý thuyết