Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

LUẬN văn sư PHẠM NGỮ văn từ CHỈ THỜI GIAN TRONG THƠ XUÂN DIỆU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 109 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN
----------–0—--------Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ MỸ XUYÊN

TỪ CHỈ THỜI GIAN
TRONG THƠ XUÂN DIỆU
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn / Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: CÔ BÙI THỊ TÂM

Cần Thơ, 5 - 2008


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy cô trong Bộ môn Ngữ Văn
đã cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu, cảm ơn tất cả các bạn lớp Sư phạm
Ngữ Văn khóa 30 đã giúp đỡ và cùng tôi vượt qua những khó khăn trong suốt bốn
năm học để đến hôm nay tôi có thể thực hiện được một đề tài nghiên cứu khoa học
mà mình hằng mong ước.
Thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học là một công việc hết sức khó
khăn đòi hỏi nhiều nỗ lực của bản thân người viết trong quá trình nghiên cứu và viết
đề tài. Trong suốt quá trình nghiên cứu, dù gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại nhưng
đã được sự tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ của cô Bùi Thị Tâm để cuối
cùng tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tuy nhiên, do kiến thức có hạn nên luận văn này không thể tránh khỏi những
hạn chế và sai sót. Người viết rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các
bạn để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Mỹ Xuyên

1


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề chung
1.1 Khái niệm về từ
1.2 Khái niệm về từ chỉ thời gian và cách phân loại
1.3 Thời gian nghệ thuật

Chương II: Từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu
2.1 Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu
2.2 Nhận xét chung về từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu
2.3 Phân loại từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu

Chương III: Sự độc đáo trong việc sử dụng từ chỉ thời gian trong thơ
Xuân Diệu
3.1 Sự độc đáo trong việc sử dụng các danh từ chỉ thời gian trong thơ
Xuân Diệu
3.2 Sự độc đáo trong việc dùng phụ từ và đại từ chỉ thời gian trong thơ
Xuân Diệu
3.3 Sự độc đáo trong cách dùng một số từ chỉ thời gian khác của nhà
thơ Xuân Diệu

PHẦN KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG PHỤ LỤC

2


PHẦN MỞ ĐẦU

3


1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Xuân Diệu là một nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại, ông có sáng tác đều
đặn ở cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng 8-1945. Cho dù ở giai đoạn
nào, cũng đem đến cho ông nhiều thành công rực rỡ. Trên con đường nghệ thuật,
ông luôn bền bỉ, dẻo dai, giàu sức tìm tòi để đem đến cho thơ Việt Nam bao điều
mới mẻ cả nội dung và hình thức nghệ thuật, mà đặc sắc ở thơ Xuân Diệu là mảng
thơ viết về tình yêu. Ông được mệnh danh là ông hoàng của thơ tình, con người
nặng tình đời, tình thơ và là nhà thơ mới nhất trong phong trào thơ mới. Bên cạnh
đó Xuân Diệu đã dành một bộ phận không nhỏ trong sáng tác của mình để trực tiếp
hoặc gián tiếp nói về thời gian với những khuynh hướng tìm tòi và thể hiện đa dạng,
phong phú, nhiều màu sắc.
Thời gian đối với Xuân Diệu là một bộ phận quan trọng kết thành hệ thống quan
điểm về cuộc sống, thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ. Đồng thời ông đã
khái quát lên thành tư tưởng, quan điểm mới mẻ về thời gian. Trong thơ Xuân Diệu,
từ chỉ thời gian được sử dụng hết sức phong phú, đa dạng, thể hiện cách nhìn đa
chiều về cuộc sống, muôn hình, muôn vẻ về thế giới. Tất cả đã làm nên một diện
mạo Xuân Diệu rất riêng, biểu hiện một cái tôi nghệ sĩ đầy tài năng và sáng tạo.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ Xuân Diệu, nhưng người
viết nhận thấy, vấn đề từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ. Với xu thế, nghiên cứu
văn học ở nhiều gốc độ, đặc biệt là soi rọi văn chương dưới ánh sáng ngôn ngữ học
ngày càng phổ biến thường xuyên. Chính vì thế, người viết quyết định chọn đề tài
“ Từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu” trên bình diện ngôn ngữ học, tạo cơ sở tiếp
cận thơ Xuân Diệu dễ dàng và chính xác hơn.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Có một thời gian, thơ mới không được chấp nhận, điều này do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Nhưng cơ bản là chúng ta không chấp nhận được cái mới, “cái
Tây” một cách nhanh chóng. Thế rồi, thơ mới vẫn được chấp nhận và có chỗ đứng
vững chắc trên văn đàn. Việc nhìn nhận và đánh giá lại toàn bộ thơ mới trở thành
một nhu cầu cần thiết, Xuân Diệu là một trong những người mở đầu cho trào lưu
văn học này và ông đã trở thành điểm thu hút và chú ý của nhiều nhà nghiên cứu.
Trong mấy chục năm hòa mình vào cuộc sống mới, gần năm mươi năm cầm bút,
với hơn bốn mươi tác phẩm gồm thơ, văn xuôi, tiểu luận, phê bình văn học và dịch
thơ, là những con số đầy ý nghĩa về một tài năng và tấm gương lao động sáng tạo
của nhà thơ Xuân Diệu. Riêng lĩnh vực thơ ca, Xuân Diệu được rất nhiều giới
nghiên cứu và bạn đọc nhìn nhận sáng tác của ông từ nhiều gốc độ khác nhau như
Lê Tiến Dũng, Mã Giang Lân, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Thế Lữ, Hoàng
Trung Thông, Lê Quang Hưng, Nguyễn Thị Hồng Nam,… Nhiều ý kiến đã lý giải
được quá trình vận động, cảm hứng sáng tạo của Xuân Diệu qua các tập thơ, phác
thảo những đặc điểm cơ bản trong phong cách thơ Xuân Diệu.
Trong “Thi nhân Việt Nam”, nói về vị trí của Xuân Diệu, Hoài Thanh-Hoài
Chân khẳng định: “ Trong số 46 nhà văn được đưa vào tuyển tập này, Xuân Diệu

4


có số lượng bài thơ được tuyển nhiều nhất”. Hoài Thanh đã nói lên cái năng lực
cảm nhận tinh tế bằng tấm lòng, tâm hồn của nhà thơ về cuộc sống.

Vũ Ngọc Phan với bài viết “Một thi sĩ rất giàu lòng yêu dấu”, Nguyễn Đăng
Mạnh với “Xuân Diệu và niềm khát khao giao cảm với đời”, Lê Đình Kỵ với
“Thơ mới những bước thăng trầm”, Hà Minh Đức với “Thơ thơ và Gửi hương
cho gió – những mùa hoa hương sắc một thời trong thơ”, dường như không ai
không nói đến: “nguồn sống rào rạt, lòng say mê yêu đời”, “niềm khát khao giao
cảm với đời”, “độ nồng nàng tha thiết” trong thơ Xuân Diệu.
Các bài viết “Những cách tân về tư duy nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai
đoạn 1932-1945” của tác giả Lê Tiến Dũng và “Quan niệm nghệ thuật về con
người trong thơ Xuân Diệu” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nam. Các tác giả này
đánh giá cao về những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu so với thơ cổ. Đó là
chuyển từ tính ước lệ sang tư duy cá thể hóa, đặc biệt thơ Xuân Diệu nghiêng về
cảm giác thế giới. Con người trong quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu là con
người mộng tưởng, cô đơn lạc loài, nhưng cũng là một con người sống nhiệt thành
tha thiết, gần với con người trong cuộc sống mới. Hai tác giả có chú ý cái hay, cái
độc đáo trong hệ thống âm thanh, câu chữ trong thơ Xuân Diệu so với các nhà thơ
lớp trước.
Các tác giả như Hoàng Trung Thông với “Một Xuân Diệu – nhà thơ”, Mã
Giang Lân với “Xuân Diệu sau cách mạng 1945” và Lê Tiến Dũng cùng bài viết
“Xuân Diệu một đời người một đời thơ”. Các tác giả giới thiệu chung về cuộc đời
và quá trình sáng tác của Xuân Diệu qua các chặng đường. Bên cạnh đó, có sự phân
tích nội dung và hình thức nghệ thuật của từng tập thơ ở cả hai giai đoạn sáng tác.
Tác giả Mã Giang Lân còn đánh giá rất cao những đóng góp của Xuân Diệu ở các
lĩnh vực: phê bình, giới thiệu thơ, dịch thơ của Xuân Diệu.
Huy Cận trong “Các nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh” đánh giá cao sự
đóng góp độc đáo của Xuân Diệu ở mảng thơ tình: “Bất cứ bài thơ nào của Xuân
Diệu cũng mang theo âm hưởng, cộng hưởng của cuộc đời. Đọc xong bài thơ tình
nào của Xuân Diệu, ta thấy yêu người, yêu cả ta đến thế, yêu cuộc đời đến thế, yêu
tình yêu đến thế. Thơ tình Xuân Diệu ngẫm cho kỹ là bài ca sự sống”.
Qua “Xuân Diệu nhà thơ lãng mạn tiêu biểu”, tác giả Lê Đình Kỵ nhận xét:
“Sau Tản Đà, Xuân Diệu có lẽ là thi sĩ nhất trong các nhà thơ hiện đại. Đã là thi sĩ

ít nhiều đều lãng mạn. Tiêu biểu cho tiền lãng mạn là Tản Đà. Tiêu biểu cho thơ
lãng mạn toàn thịnh là Xuân Diệu”. Hoài Thanh cũng cho rằng: Xuân Diệu là “nhà
thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, Đoàn Thị Đặng Hương nhận định: “Xuân
Diệu hoàng tử của thi ca Việt Nam hiện đại”.
Nghiên cứu riêng về nội dung trong thơ Xuân Diệu thì có các bài viết của những
tác giả: Lý Hoài Thu, Lê Quang Hưng, Lưu Khánh Thơ, Trần Thanh Mại. Các tác
giả này cho rằng: nội dung thơ Xuân Diệu thể hiện một nỗi buồn và sự cô đơn, một
cái tôi khát khao sự sống, sự cảm nhận cuộc sống bằng mọi giác quan,… Bên cạnh
đó, tác giả Trần Thanh Mại có nói đến hạn chế của nhà thơ Xuân Diệu: mặc dù là
nhà thơ mới nhưng có những bài thơ, câu chữ, vần điệu, Xuân Diệu vẫn còn gần với
các nhà thơ cổ một cách không cần thiết.[37, tr131].
Đa phần những ý kiến của các nhà nghiên cứu đã lý giải, đánh giá nhiều vấn đề
trong thơ Xuân Diệu như: thế giới về con người, nhà thơ lãng mạn tiêu biểu, nhà
thơ mới nhất, niềm khát khao giao cảm với đời, tinh thần phục hưng trong lý tưởng
thẩm mỹ, một tâm hồn khát khao sự sống và tình yêu,…Bên cạnh đó, cũng có
những bài viết mang tính chất tổng quát, tổng kết về sự nghiệp thơ ca và cuộc đời
5


của nhà thơ Xuân Diệu. Các công trình của những tác giả kể trên rất đáng quan tâm
và trân trọng, nó bổ ích đối với những ai quan tâm đến nhà thơ Xuân Diệu.
Khi bàn về vấn đề từ chỉ thời gian trong thơ ông, cũng có nhiều ý kiến khác
nhau. Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu, người viết thu thập một số ý kiến của các
nhà nghiên cứu bàn về từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu. Cụ thể như sau:
Tác giả Hà Minh Đức có hai bài nghiên cứu về thời gian trong thơ Xuân Diệu:
Với “Thơ thơ và Gửi hương cho gió – những mùa hoa hương sắc một thời
trong thơ”, tác giả Hà Minh Đức cho rằng: thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân
Diệu là thời gian hiện tại. Hiện tại luôn miêu tả tương quan với quá khứ, so sánh với
quá khứ “Xưa và nay, quá khứ và hiện tại được miêu tả trong không gian và thời
gian nghệ thuật gợi hình, gợi cảm”. [19,tr135]

Ông cho rằng, chính lòng yêu đời, ham sống, mà nhà thơ Xuân Diệu quan tâm
đến nhiều thời khắc, nhịp đời và phút giây hạnh phúc nhưng cũng rất lo lắng về sự
mong manh, ngắn ngủi của những phút giây hiện tại:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn nòn, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
(Vội vàng)
Thời gian trong thơ Xuân Diệu như một triền gió thổi, nhân lên sức mạnh bên
trong để cho tạo vật sinh sôi, nảy nở và đến được độ chin của hoa thơm cỏ ngọt,
nhưng đồng thời cũng chính thời gian xóa đi tất cả. Thời gian trong thơ Xuân Diệu
tuyệt đối hóa hiện tại, chính vì thế ít nói đến tương lai:
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai,
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
(Giục giã)
Trong “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã một lần thoát vãng hiện tại nhưng đó
là phút giây thoáng qua mà thôi.
Xuân Diệu ý thức về thời gian và không gian của sự sinh sôi nảy nở, của sự sống
và tình yêu. Nhà thơ lấy tuổi trẻ làm thước đo thời gian. Chính vì thế, thơ Xuân
Diệu rơi vào quan niệm sống gấp gáp, hưởng thụ.
Như vậy, thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu chủ yếu là thời gian thực tại,
mặc dù diễn ra trên ba trục quá khứ - hiện tại – tương lai, nhưng thơ Xuân Diệu ít
nói về tương lai và cũng ít lần quay về quá khứ, nhất là đối với hai tập thơ trước
cách mạng này.
Riêng “Một thời đại trong thi ca”, tác giả Hà Minh Đức nói về thời gian trong
thơ tình Xuân Diệu. Thời gian ở đây không theo trật tự tuyến tính, không chia đều
cho năm tháng, mà nó quy tụ, dồn nén rồi bùng cháy, dữ dội:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
( Giục giã)
Xuân Diệu dường như chạy đua với thời gian, ông muốn tận hưởng tất cả.Trong

tình yêu cũng thế, Xuân Diệu kêu gọi người yêu nhanh chóng sống gấp vì“Tình non
sắp già rồi”. Với tâm hồn luôn rộng mở, Xuân Diệu sẵn sàng mở rộng trái tim yêu
để thu về tiếng nói yêu thương. Với tình yêu, người trong cuộc cũng phải vội vàng,
giục giã vì thời gian không bao giờ đứng đợi một ai.
Tác giả Lê Quang Hưng với bài “Cảm xúc thời gian trong thơ Xuân Diệu”.
Với bài viết này, tác giả đã khái quát nên chủ thể cảm xúc thời gian trong thơ Xuân
Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác:
6


Trước cách mạng, Xuân Diệu là người thù ghét thời gian, luôn lo sợ quy luật tàn
tạ của đời sống: “Hoa nở để mà tàn. Trăng tròn để mà khuyết”, cũng như “ Người
gần để ly biệt”, khi mùa thu tới thì: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”, rồi những
“Bông hoa rứt cánh, rơi không tiếng”.
Thời gian trong thơ Xuân Diệu ở giai đoạn này là thời gian ngắn, cảnh sắc vận
động chậm. Xuân Diệu thường hay tả những buổi chiều, những mùa thu lặng, cảnh
vật ít vận động và màu sắc thường bàng bạc ít nổi sáng:
“Sau đại thắng muà xuân năm 1945, Xuân Diệu vẫn bàng hoàng bâng khuâng,
một khoảng thời gian dài mà kỷ niệm còn in dấu. Đâu đây thời gian như dòng sông
bồi đắp nên sự sống vĩnh hằng bao la” [25,tr105].
Với quan niệm tích cực về thời gian góp phần đổi mới chất thơ ca, cách thức
miêu tả và biểu hiện ở Xuân Diệu. Mùa thu giờ đây không phải:“Với áo mơ phai
dệt lá vàng” mà mang theo ánh nhuộm thắm của tình yêu:
Mùa thu vàng sáng tới rồi đây
Áo nắng còn phơi gió thổi đầy
Áo trắng hai tà phơ phất hóa,
Áo vàng em mặc cánh thu bay.
(Mùa thu vàng sáng)
Nhìn chung, cảm xúc trong thơ Xuân Diệu sau cách mạng vẫn giữ được cảm xúc
hồn nhiên. Đồng thời, Xuân Diệu ngày càng có ý thức vận dụng nhiều đại lượng

thời gian như một phương tiện, một biện pháp nghệ thuật: “khác hẳn với thời kỳ thơ
mới, thơ Xuân Diệu sau cách mạng, thời gian thực tế dài được chế ngự bởi tầm
nhìn bao quát chủ động. Nói khác đi những cảm xúc mới vẫn luôn tràn đầy, cùng
với tầm tư tưởng mới, cùng với cái nhìn nghệ thuật mới về thời gian, về cuộc đời, đã
làm thay đổi thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” [65,tr245]
Trong bài viết “Thời gian và không gian nghệ thuật của Thơ thơ và Gửi
hương cho gió”, tác giả Lý Hoài Thu cho rằng: trong đội ngũ các nhà thơ mới có lẽ
Xuân Diệu là người duy nhất đã dành một bộ phận không nhỏ trong sáng tác của
mình để đàm đạo trực tiếp về thời gian, đồng thời qua đó, khái quát thành những tư
tưởng mang ý nghĩa triết học.
Tác giả Lý Hoài Thu khẳng định hai phạm trù khác nhau trong thơ Xuân Diệu:
Thứ nhất là quan niệm về thời gian như là một bộ phận quan trọng cấu thành
quan điểm về vũ trụ và nhân sinh của nhà thơ.
Thứ hai, phạm trù thời gian đã được xử lí như một yếu tố hình thức để kiến tạo
nên từng tác phẩm cụ thể.
Tác giả khẳng định: đọc “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”, dễ dàng nhận ra
một Xuân Diệu đang cô đơn chống trả lại sự tàn phá của thời gian. Ông tìm cách
chống đỡ, ngăn cản không cho thời gian cướp đi lạc thú của tuổi trẻ, tình yêu. Một
mặt, ông cho rằng, thời gian không bao giờ đứng đợi “Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm
lại”.
Từ góc nhìn thời gian này, Xuân Diệu rút ra nhiều triết lý về tuổi trẻ, tình yêu
thật thú vị:
Sự thật ngày nay không thật đến ngày mai
Thì ân ái có bao giờ lại cũ
(Phải nói)
Xuyên suốt hai tập “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”, thời gian là người điểm
nhịp, là chất “xúc tác” kỳ diệu, tạo nên độ nồng nàn đắm đuối riêng mà chỉ thật sự
lưu luyến, nuối tiếc đến từng giọt thời gian như Xuân Diệu mới có được.
7



Tác giả Lý Hoài Thu cũng khẳng định: Xuân Diệu không giống các nhà thơ
cùng thời, mà Xuân Diệu luôn say sưa với thời gian thực tại. Dù có nói đến cái
“ngày xưa” hay cái “ngày mai” là chủ ý ông thiên về khẳng định cuộc sống ngay ở
trục thời gian thực tại:
Cần chi biết ngày mai hay bữa trước.
Gần hôm nay thì yêu dấu là nên…
Gặp nhau đây ai biết từ thuở nào
Xa nhau nữa ai đoán ngày tái hội
( Mời yêu)
Thời gian sống và yêu trong thơ Xuân Diệu cứ rút dần khoảng cách, từ một đời,
một thời, đến từng năm, từng tháng, từng ngày, thậm chí đến từng phút, từng giây,
từng khoảnh khắc.
Tác giả Lê Tiến Dũng với hai bài viết về thời gian trong thơ Xuân Diệu.
Bài viết “Xuân Diệu một đời người – một đời thơ”, bài viết này nội dung cũng
chỉ nói về sự hốt hoảng lo âu của Xuân Diệu trước thời gian bởi: “Ông nhận ra các
giới hạn của con người, cái giới hạn tưởng vô phương vượt qua cứ lặp đi lặp lại
trong thơ ông như một nỗi ám ảnh. Đó là giới hạn về thời gian”.[14,tr276]. Cho
nên, trong thơ Xuân Diệu có sự vội vàng, giục giã, hối hả,…tất cả muốn cướp lấy
tận hưởng hết những khoảng thời gian ngắn ngủi của đời người. Như vậy, tác giả Lê
Tiến Dũng cũng giống tác giả Hà Minh Đức. Cả hai đều cho rằng: Xuân Diệu ý
thức được giới hạn của thời gian, và như thế, nó chi phối quan niệm sống của nhà
thơ Xuân Diệu.
Với “Thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945 cái nhìn nghệ thuật mới về thế giới
và con người”, tác giả Lê Tiến Dũng cho rằng: Xuân Diệu nhìn thế giới ở trạng thái
luôn vận động. Sự vận động đổi thay đó là qui luật tất yếu vĩnh hằng của tạo hóa
trong nhịp điệu thời gian. Tất cả như một lời nhắn nhủ cái xanh tươi sẽ qua mau, cái
tàn tạ, già nua sẽ vĩnh viễn:
Vĩnh viễn già nua xuân ngắn ngủi
Mái xanh hương đượm chốc sương đầy.

(Kẻ đi đày)
Tác giả bài viết cũng kết luận: “ngày mai” trong thơ Xuân Diệu không hề có
hạnh phúc, tự do và hi vọng, mà “ngày mai” đó chỉ là một sự tàn phai, khô héo.
Xuân Diệu say sưa với hiện tại, ông đếm từng giây, từng phút của hiện tại, vồ vập
hưởng thụ nó. [2,tr150].
Trong “Xuân Diệu” tác giả Vũ Tiến Quỳnh cho rằng: nhà thơ Xuân Diệu luôn
khát khao sự sống, luôn lo âu sợ mất mát. Chính vì thế, Xuân Diệu ra cái giới hạn
cho con người, một cái giới hạn như vô phương vượt qua, cứ lặp đi lặp lại trong thơ
ông như một nỗi ám ảnh thời gian. Tác giả Vũ Tiến Quỳnh cũng khẳng định: Xuân
Diệu luôn vội vàng, giục giã, hối hả để cướp lấy tận hưởng, khắc phục giới hạn của
thời gian.
Tác giả Lê Đình Kỵ trong “Xuân Diệu nhà thơ lãng mạn tiêu biểu” cũng cho
rằng: Xuân Diệu vội vàng sống, giục giã yêu, tận hưởng những giờ phút hiện tại. Vì
đời người ngắn ngũi mà thời gian thì không đứng lại:
Mau với chứ vội vàng lên với chứ…
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi…
Em phải nói, phải nói và phải nói…

8


Xuân Diệu luôn cố níu giữ, giành giật ra khỏi cái vô hình của thời gian. Và tác
giả Lê Đình Kỵ cho rằng chỉ đến với thơ mới, nên Xuân Diệu mới có cái say sưa,
hối hả quyết liệt như vậy:
Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lọi.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối.
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
(Gịuc giã)
Với “Xuân Diệu”, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: nhà thơ Xuân Diệu

nhận thức được thế giới đang vận động, thời gian luôn luôn trôi chảy, tất cả đều
không vĩnh viễn. Chính vì thế, nhà thơ cố níu giữ thời gian:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
( Vội vàng)
Sự ý thức về thời gian như thế đã tạo nên một quan niệm sống vội vàng giữa
cuộc đời và vũ trụ: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Bài viết “Xuân Diệu nỗi ám ảnh thời gian” của tác giả Đỗ Lai Thúy có phần
tương đối đầy đủ hơn. Nhưng bài viết này chủ yếu nói về thơ Xuân Diệu trước cách
mạng. Tác giả Đỗ Lai Thúy cho rằng:Xuân Diệu khác các nhà thơ cổ, ông sử dụng
rất nhiều từ chỉ thời gian quen thuộc như: xuân, hạ, thu, đông,…ông còn dùng cái
vô hình như “ngọn gió” để chỉ cái vô hình kia là thời gian. Thế nhưng, không vì thế
mà thời gian trong thơ Xuân Diệu trở nên trừu tượng.
Thời gian trong thơ Xuân Diệu mang tính lưỡng trị, một mặt nó đem đến tuổi trẻ,
tình yêu, một mặt cũng đem đến sự phôi phai tàn úa. Xuân Diệu ý thức được sự trôi
chảy của thời gian, chính vì thế mà ông bám riết lấy trần thế, níu lấy cuộc sống mà
chống lại với thời gian. Tức biết sống với hiện tại, coi trọng hiện tại và Xuân Diệu
muốn chiến thắng bằng cách lấy cái chủ quan để chiến thắng cái khách quan.
Đặc biệt, từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu thể hiện rất rõ trong những mảng
thơ viết về tình yêu, tình yêu trong thơ Xuân Diệu đồng nghĩa với tuổi trẻ, với muà
xuân.
Cuối cùng, tác giả Đỗ Lai Thúy kết luận: thơ Xuân Diệu là một thế giới rộng mở,
đa âm. Trong bản giao hưởng âm thanh này nói lên những giai âm như “mùa thu”:
sự nhận thức thời gian, “vội vàng”: một ứng xử với thời gian, một triết lý thời gian
“Gửi hương cho gió”:tình yêu như là sự chiến thắng thời gian và sau cùng là “Thơ
thơ”: nghệ thuật như sự vĩnh cửu hóa thời gian [63,tr 76].
Có thể nói rằng, đã có nhiều công trình nghiên cứu dành cho thơ Xuân Diệu,
nhưng đa phần mang tính khái quát, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể và riêng

biệt về “Từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu”. Người viết tiếp tục khai thác vấn
đề này với mong muốn tìm hiểu, khám phá cái hay riêng trong thơ ông trong lĩnh
vực nghiên cứu này. Người viết hy vọng có thể góp phần vào việc khám phá và
khẳng định sức sáng tạo đa dạng và phong phú của hồn thơ Xuân Diệu về cách
dùng từ chỉ thời gian trong thơ ông.

9


3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Với việc thực hiện đề tài: “Từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu”, người viết
có dịp đi sâu khám phá và lí giải những nét độc đáo, mới lạ, những đóng góp mới về
phương diện sử dụng từ chỉ thời gian của Xuân Diệu .
Thêm vào đó, việc nghiên cứu đề tài này còn góp phần khẳng định tầm quan
trọng của từ chỉ thời gian trong việc tạo nên những thành công về phương diện nội
dung và nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Trên cơ sở đó, góp phần khẳng định những giá
trị đích thực và đặc sắc trong sáng tác của ông. Giúp người viết có cái nhìn toàn
diện hơn về những đóng góp lớn lao của nhà thơ cho nền văn học nước nhà.
Mặt khác, đi vào nghiên cứu vấn đề này, người viết còn có dịp làm quen với
một phương pháp nghiên cứu và thực hiện đề cương khoa học, làm nền tảng cho
những bước nghiên cứu tiếp theo.

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Dựa vào những công trình đã nghiên cứu trước đây. Với đề tài này, người viết đi
sâu tìm hiểu sự vận dụng từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu.Yêu cầu đặt ra là
phải có tiêu chí nhận diện từ chỉ thời gian và phân loại chúng. Qua đó, bước đầu
phân tích và chỉ ra hiệu quả sử dụng từ chỉ thời gian trong việc hình thành phong
cách nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Xuân Diệu.
Song song với việc phân tích, lí giải việc sử dụng từ chỉ thời gian trong thơ
Xuân Diệu, người viết có mở rộng vấn đề, so sánh với một số nhà thơ khác. Đồng

thời, có sự mở rộng lí giải những cụm từ chỉ thời gian có giá trị, có ý nghĩa, đã có
vai trò khẳng định phong cách đặc trưng riêng của nhà thơ Xuân Diệu.
Với đề tài này, phạm vi tư liệu mà người viết sử dụng bao gồm các tập thơ tiêu
biểu của Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác:
Trước cách mạng tháng 8-1945
w Thơ thơ
w Gửi hương cho gió
Sau cách mạng tháng 8-1945
w Hội nghị non sông
w Dưới sao vàng
w Riêng chung
w Mũi Cà Mau – Cầm Tay
w Một khối hồng
w Tôi giàu đôi mắt
w Hồn tôi đôi cánh

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong phạm vi đề tài này, người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu:
Phương pháp thống kê:
Với phương pháp này, người viết thống kê từ chỉ thời gian trong thơ Xuân
Diệu qua các tập thơ trong phạm vi khảo sát. Từ đó phân loại từ chỉ thời gian, người
viết đưa ra những số liệu, tỷ lệ cụ thể từ chỉ thời gian được Xuân Diệu sử dụng
trong thơ làm cơ sở, phân tích, chỉ ra cách sử dụng từ chỉ thời gian độc đáo của nhà
10


thơ Xuân Diệu. Đồng thời, qua đó giúp người viết có cái nhìn bao quát, khách quan
về cách vận dụng từ chỉ thời gian trong thơ ông.
Phương pháp phân tích, chứng minh:

Người viết dùng phương pháp phân tích, chứng minh, đưa ra những dẫn chứng
cụ thể, tiêu biểu. Sau đó, người viết đi vào phân tích cụ thể những dẫn chứng được
lựa chọn nhằm làm nổi bật những nét độc đáo trong việc sử dụng từ chỉ thời gian
trong thơ Xuân Diệu.
Phương pháp so sánh:
Với phương pháp so sánh, người viết so sánh từ chỉ thời gian trong thơ Xuân
Diệu với việc sử dụng từ chỉ thời gian ở một số nhà thơ mới cùng thời như: Huy
Cận, Hàn Mạc Tử,…Để từ đó, thấy được những nét riêng trong việc vận dụng từ chỉ
thời gian vào ngôn ngữ thơ của nhà thơ Xuân Diệu.
Phương pháp qui chiếu:
Dùng phương pháp qui chiếu, giúp người viết rút ra được những cái khác biệt
độc đáo trong việc sử dụng từ chỉ thời gian trong thơ Xuân Diệu so với các nhà thơ
khác.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, người viết còn sử dụng một số biện pháp,
thủ pháp như: tập hợp tư liệu, phân loại tư liệu, lập biểu mẩu,… Để làm cơ sở cho
các luận điểm được trình bày trong luận văn.
Các phương pháp trên đây không phải thực hiện một cách riêng lẻ, biệt lập, mà
nó được vận dụng, phối hợp với nhau trong quá trình khảo sát phân tích thơ Xuân
Diệu cùng với việc đánh giá các vấn đề nội dung trong luận văn.

11


PHẦN NỘI DUNG

12


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 KHÁI NIỆM VỀ TỪ:

1.1.1 Các quan niệm khác nhau về từ tiếng Việt:
Hiện nay, trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học vẫn chưa có sự thống nhất các
định nghĩa về từ, còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau. Trong số những quan niệm
khác nhau đó, có thể nhận ra hai khuynh hướng chính:

Từ Tiếng Việt trùng với âm tiết :
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các tác giả: M.B.Emenneu, Cao
Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp.
- M.B.Emenneu định nghĩa: Từ bao giờ cũng tự do về mặt âm vị học,
nghĩa là có thể miêu tả bằng những danh từ của sự phân phối các âm vị và bằng
những thanh điệu.
- Cao Xuân Hạo: Chúng ta hiểu tính đa dạng về tên gọi mà các tác giả
khác nhau đã đề nghị cho đơn vị khác thường đó của các ngôn ngữ đơn lập là: tiết
vị (Syllabophoneme), hình tiết (Morphosyllabeme), từ tiết (wordsyllabe), đơn tiết
(monosyllabe) hoặc đơn giản là từ (word). Thực ra, nó chính là âm, hình vị hoặc từ
và tất cả là đồng thời. Nếu chúng ta so sánh với các ngôn ngữ Châu Âu về cơ cấu
xoay quanh ba trục được tạo thành bởi các đơn vị cơ bản là âm vị, hình vị và từ, thì
cơ cấu của tiếng Việt hầu như là sự kết hợp ba trục đó thành một trục duy nhất, âm
tiết.
- Nguyễn Thiện Giáp: Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý
nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối có ý nghĩa
dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền.

Từ tiếng Việt không trùng âm tiết:
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các tác giả Nguyễn Văn Tu, Nguyễn
Kim Thản, Hồ Lê, Đái Xuân Ninh, Lưu Vân Lăng, Đỗ Hữu Châu.
- Nguyễn Văn Tu: Từ là đơn vị nhỏ nhất và độc lập, có hình thức vật
chất (vỏ âm thanh là hình thức) và có nghĩa, có tính chất biện chứng và lịch sử.
- Nguyễn Kim Thản: Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ có thể tách khỏi
đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về

ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng, ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp.
- Hồ Lê: Từ là đơn vị ngữ ngôn có chức năng định danh phi liên kết
hiện thực, hoặc chức năng mô phỏng tiếng động, có khả năng kết hợp tự do, có tính
vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về ý nghĩa.
- Đái Xuân Ninh: Từ là đơn vị cơ bản của cấu trúc ngôn ngữ ở giữa
hình vị và cụm từ. Nó được cấu tạo bằng một hay nhiều đơn vị ở hàng ngay sau nó
tức là hình vị và lập thành một khối hoàn chỉnh.
- Lưu Vân Lăng:… Những đơn vị dùng tách biệt nhỏ nhất mới là từ. Có
thể nói từ là đơn vị tách biệt nhỏ nhất. Nói cách khác, từ là ngữ đoạn (tĩnh) nhỏ nhất.
Từ có thể gồm nhiều tiếng không tự do hoặc chỉ một tiếng tự do hay nhiều tiếng tự
do kết hợp lại không theo quan hệ thuần cú pháp tiếng Việt.
- Đỗ Hữu Châu: Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định,
bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức (hoặc kiểu cấu tạo)
nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong từ
vựng và nhỏ nhất để tạo câu [62,tr10].

13


1.1.2 Đặc điểm của từ tiếng Việt :
Qua các định nghĩa nêu trên, ngươì viết nhận thấy các nhà Việt ngữ học
đều có sự thống nhất chung về từ ở một số đặc điểm chính:
- Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ gồm một hoặc nhiều âm tiết.
- Từ có cấu tạo hoàn chỉnh, có nghĩa nhỏ nhất và được vận dụng tự do
để tạo câu.
- Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa nhưng không
có biến thể hình thái học.
- Do có ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn bó chặt chẽ với nhau
nên từ tiếng Việt thường có tính trừu tượng, khái quát cao.


1.2 KHÁI NIỆM VỀ TỪ CHỈ THỜI GIAN VÀ CÁCH PHÂN LOẠI:
Trong sự nhận thức về thời gian, người Việt chúng ta thường sử dụng từ để
biểu thị các khoảng thời gian ngắn như: khắc, canh, giây, phút, giờ,…đến những từ
chỉ các khoảng thời gian dài như: năm, thập kỷ, thế kỷ,…Đó là những từ chỉ thời
gian.
Tuy nhiên, việc phân loại từ chỉ thời gian hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất
cao giữa các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học về kết quả phân loại và thuật ngữ để gọi
tên. Sau đây là một số nhóm quan điểm của các tác giả về từ chỉ thời gian:

1.2.1 Nhóm 1: Các tác giả Đỗ Thị Kim Liên, Nguyễn Hữu Ngọc và
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia.
Các tác giả này cho rằng, từ chỉ thời gian gồm 3 loại: danh từ, phó từ và đại
từ.
Quan điểm của tác giả Đỗ Thị Kim Liên:
Theo tác giả, từ chỉ thời gian gồm 3 loại: danh từ, phó từ và đại từ.
- Danh từ chỉ thời gian: hôm, ngày, bữa, năm, thời, giờ, lúc, thế kỷ, thời
gian, tháng,…
Ví Dụ: Tháng tư, tháng tôi sinh mùa hoa loa kèn nở
(Truyện ngắn hay 94)
Có một khoảng thời gian dài lắm, tôi không gặp bác Liên
(Truyện ngắn hay 94) [35, tr84]
- Phó từ chỉ thời gian của hành động: đã, sẽ ,đang, sắp, vừa, mới, bỗng,
còn, …
Ví dụ:
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn vòng cầu
(Lê Anh Xuân)
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mong ước,
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
(T ế Hanh) [35,tr 63]

- Đại từ chỉ thời gian:
+ Đại từ nghi vấn không gian – thời gian: bao giờ, bấy giờ, đâu, bao lâu.
+ Đại từ thay thế chỉ ý nghĩa không gian – thời gian: bao lâu, bấy lâu, bao
giờ, bấy giờ, đến đâu, đến đó,…
Ví dụ:
Anh đi bao lâu, tôi sẽ đợi bấy lâu
Anh đi bao giờ, tôi cũng sẽ đi bấy giờ
Giặc đi đến đâu, chúng giết hại đồng bào ta đến đó
14


[35, tr 60]
Quan điểm của tác giả Nguyễn Hữu Ngọc:
Từ chỉ thời gian gồm 3 loại:
- Danh từ: ngày, hôm, tuần, tháng, năm, mùa, thời kỳ, tối, sáng, trưa, ban
trưa, buổi trưa, buổi tối, ban đêm, khi, hồi, lúc, dạo.
- Phó từ: đang (đương), đã, vừa, mới, sẽ.
Ví dụ:
Đã nghe nước chảy lên non
(Tố Hữu)
- Đại từ: nay, nãy, giờ, bây giờ, bấy giờ, xưa [39,tr 158]
Quan điểm của các tác giả thuộc trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia:
Từ chỉ thời gian gồm 3 loại: danh từ, phụ từ và đại từ.
- Danh từ chỉ thời gian:
+ Danh từ đơn vị thời gian xác định: năm, tháng, giờ, phút, giây, canh,…
+ Danh từ đơn vị thời gian không xác định: khi, lúc, hồi,…
Ví dụ:
Một giờ nghỉ, mấy phút suy nghĩ [68, tr 97]
- Phụ từ thời gian tức là phụ từ để biểu thị các nghĩa ngữ pháp về thời gian

như: đã, sẽ, đang, vừa, mới, sắp, từng, liền, bèn, rồi,…
Ví dụ:
Anh ấy đã về rồi
Tôi đã xem vỡ kịch này
Về nhà mới thấy vui
[68, tr 112]
- Đại từ không gian, thời gian: đây, đấy, đó, kia, ấy, nọ, này, nay, bây giờ, bấy
giờ,…

1.2.2 Nhóm 2 : Quan điểm của tác giả Nguyễn Đức Dân
Với tác giả Nguyễn Đức Dân, ông quan niệm từ chỉ thời gian gồm 3 loại:
phụ từ, đại từ và trạng từ (trạng ngữ). Cụ thể như sau:
- Ý nghĩa thời gian được đánh dấu qua các phụ từ, đó là những từ hư: rồi,
xong, vừa, mới, vẫn, như, liền, bèn, nữa,…
Ví dụ:
Ông ở Việt Nam bao lâu rồi ?
Ông ở Việt Nam bao lâu nữa ?
Ông ở Việt Nam bao lâu ?
[11, tr 119]
- Đại từ chỉ thời gian: ngày nào, hôm nào
Ví dụ:
Anh về ngày nào ?
Anh về hôm nào ?
[11,tr121]
- Trạng từ và trạng ngữ thời gian: Tuần trước, tháng sau, ngày sau, dạo nọ,
lúc này, hồi đó, mới đây, ban sáng.

Ví dụ:
15



Tôi vào viếng lăng Bác trong chuyến đi Hà Nội mới đây
Tối qua anh đang làm gì ?
[11,tr122]

1.2.3 Nhóm 3: Quan điểm của tác giả Hữu Đạt:
Theo tác giả Hữu Đạt, từ chỉ thời gian gồm 2 loại: danh từ và động từ:
- Danh từ trỏ thời gian như dạo, khi, hồi, chốc, lúc, giây, phút, giờ, buổi,
ngày, tháng, vụ, mùa, năm,…[15,tr107]
- Động từ có ý nghĩa trỏ thời gian của vận động gồm các từ: từng, đã, vừa,
mới, đang, sẽ,…[15,tr108]

1.2.4 Nhóm 4: Quan điểm của các tác giả Nguyễn Kim Thản, Bùi
Đức Tịnh, Đào Thản, Diệp Quang Ban (Ngữ pháp tiếng Việt tập 2)
Theo quan điểm của các tác giả này, từ chỉ thời gian gồm có hai loại: danh từ
và phụ từ (phó từ).
Quan niệm của tác giả Nguyễn Kim Thản
Theo tác giả, từ chỉ thời gian được chia làm 2 loại: danh từ chỉ thời gian và
phụ từ chỉ thời gian.
- Danh từ chỉ thời gian là một nhóm nhỏ thuộc lớp danh từ không chỉ cá thể.
Có các danh từ chỉ thời gian như sau: khi, hồi, lúc,…Đặc điểm là bao giờ chúng
cũng được đặt trực tiếp sau số từ.
- Phó từ chỉ thời gian gồm: sẽ, đã, từng, có, vừa, mới, rồi, vẫn, còn, lại,
sắp,…là những phó từ có tác dụng làm dấu hiệu thời gian [53,tr 318]
Quan điểm của tác giả Bùi Đức Tịnh:
Tác giả này có quan điểm, từ chỉ thời gian gồm 2 loại: danh từ chỉ thời gian
và phó từ chỉ thời gian.
- Một số danh từ khái quát hợp với định từ chỉ thị: kia hoặc các phụ từ: nay,
trước tạo thành phụ từ chỉ thời gian: Hôm kia, ngày kia, hôm nay, ngày nay, hôm
trước, ngày trước, thuở trước,…

- Phụ từ chỉ lúc xảy ra các giới hạn của các hành động và trạng thái: mai sau,
bao giờ,…
Ví dụ:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
(Nguyễn Du)
- Phụ từ chỉ lúc xảy ra: bỗng, thoạt, thoắt,…
- Phụ từ chỉ thời gian: mau, lâu, mãi mãi, luôn luôn,…
- Phụ từ nghi vấn dùng để hỏi về thời gian: bao giờ, bao lâu, chừng nào.
Ví dụ:
Bao giờ anh trở lại
- Giới từ chỉ sự tương quan về thời gian: Trước, sau, ngay, chính, đang, giữa,
đến, cho đến, mãi đến, trong suốt, nơi, từ, đến [64, tr 289]
Quan niệm của tác giả Đào Thản:
Từ chỉ thời gian gồm hai loại: danh từ và phó từ.
- Danh từ chỉ thời gian: khi, lúc, này, chốc, lát, năm, tháng, giây, phút, giây
lát,…

Ví dụ:
Khi ăn ở, lúc ra vào
16


Càng âu duyên mới, càng giàu tình xưa
(Nguyễn Du)
- Lúc và khi như vậy chỉ đồng nhất với nhau khi cùng biểu thị thời điểm.
Nhưng cùng để biểu thị thời điểm không phải lúc nào chúng cũng được dùng như
nhau. [52, tr 48]
+ Nói chung, khi thường dùng thích hợp hơn để chỉ thời điểm xảy ra trong
sự việc, thời điểm của một hoạt động hoặc quá trình: khi làm lụng, khi nghỉ ngơi,

khi suy nghĩ, khi ăn, khi nói.
Ví dụ:
Khi đi trúc chửa mọc măng,
Khi về trúc đã cao bằng ngọn tre
(Ca dao)
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
( Tố Hữu)
+ Còn lúc thì thích hợp nhất với việc biểu thị thời điểm được chỉ định bằng
mốc thời gian cụ thể trong ngày. Chẳng hạn: lúc tinh mơ, lúc ban ngày, lúc năm giờ,
lúc xế trưa, lúc chiều, lúc đêm hôm khuya khoắt,…mà ít nói “ khi tinh mơ”, “ khi
ban ngày”,…
- Chốc và lát đều là danh từ biểu thị một khoảng thời gian rất ngắn, khoảng
thời gian này có tính chất ước chừng, không chính xác. [52, tr 63]
Ví dụ:
Cây nến đang cháy, úp cốc thủy tinh lại, chỉ lát sau là nến tắt.
Hay:
Gần nhau sao dễ thế
Hễ thương nhớ, lại nhìn
Em đi ra phố Huế
Chốc lại về cùng anh
(Xuân Diệu)
- Giây và phút là những từ chỉ đơn vị thời gian ngắn, có lượng thời gian
chính xác, có thể đo đếm được. [52, tr 65]
Ví dụ:
Đợi tôi 10 phút
Mới đến độ 30 giây
- Giây lát, đó chỉ là khoảng thời gian rất ngắn, trong một giây một lát: gặp
nhau giây lát rồi lại chia tay, chỉ trong một giây lát, đâu phải là việc giây lát,…
- Giây phút, vừa có thể dùng để chỉ thời đoạn, lại vừa có thể dùng để chỉ thời
điểm: chần chừ giây phút, chỉ trong một giây phút, trong những giây phút ngắn

ngủi, giây phút chạnh lòng, chỉ đợi có giây phút đó, giây phút xúc động được gặp
Bác lần đầu,…
- Phó từ chỉ thời gian: sẽ, sắp, mãi,…
+ Sẽ và sắp là hai phó từ thường được dùng với động từ để biểu thị thời gian
tương lai.
Sẽ phán đoán về khả năng sự việc nhất định xảy ra, nhưng chưa biết là bao
giờ.
Ví dụ:
Trời sẽ mưa
Cỏ non sẽ mọc
Anh sẽ phải đi xa
17


Sắp phán đoán về khả năng sự việc xảy ra vào một thời điểm rất gần với lúc
nói.
Ví dụ:
Trời sắp mưa
Cỏ non sắp mọc
Anh sắp phải đi xa [52, tr 52]
+ Mãi là một phó từ thường được dùng để biểu thị sự kéo dài thời gian của
một hoạt động, quá trình.
Ví dụ:
Học, học nữa, học mãi
(Lênin)
Hồ Chí Minh, Người trẻ mãi không già
( Tố Hữu) [52,tr58]
Quan điểm của tác giả Diệp Quang Ban (trong Ngữ pháp tiếng Việt – tập 2):
Theo tác giả Diệp Quang Ban, từ chỉ thời gian gồm có:
- Danh từ đơn vị thời gian:

Bao gồm danh từ chỉ đơn vị thời gian xác định và danh từ chỉ khoảng
thời gian không xác định: thiên niên kỷ, thế kỷ, thập kỷ, năm, tháng, tuần, ngày, giờ,
phút, giây,…, dạo, khi, hồi, lúc, chốc, hôm, vụ, mùa.
Ví dụ:
Hai thế kỷ này, hai tháng ấy, một đôi khi, dạo nọ
Trong số những danh từ chỉ khoảng thời gian không xác định, có những từ
thường không xuất hiện trực tiếp sau số từ số đếm xác định. Những từ này chỉ đứng
sau: những, một (với ý nghĩa phiếm định) và một đôi (phiếm định), nhưng tuyệt đại
đa số đứng trước các từ chỉ định: ấy, nọ, này [2, tr 30]
- Phụ từ:
Nhóm từ chỉ cách thức diễn ra trong thời gian của hoạt động, trạng thái
gồm có:
- Ý chỉ tính chất cấp thời như: ngay, liền, tức khắc, tức thì,… và tính chất
không cấp thời như: dần, dần dần, từ từ,…
Ví dụ:
Đi ngay, đi liền, giảm dần,…
- Ý chỉ sự duy trì trong thời gian như: nữa, hoài, luôn, mãi,…
Ví dụ:
Học, học nữa, học mãi
( Lênin ) [2 tr 89]

1.2.5 Nhóm 5: Quan điểm của các tác giả Lê Biên, Nguyễn Hữu
Quỳnh, Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung (trong Ngữ pháp tiếng Việt
– tập 1)
Theo quan điểm của các tác giả thuộc nhóm 5, hệ thống từ loại tiếng Việt có
thể phân chia thành hai mảng lớn: thực từ và hư từ. Trong đó, có chứa từ chỉ thời
gian.
Quan điểm của tác giả Lê Biên:
Theo tác giả Lê Biên thì:
Thực từ gồm: Danh từ, động từ, tính từ và số từ. Trong đó, đại từ không

phải là thực từ đích thực, mà chỉ có tính chất thực từ.
Hư từ gồm: phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ và thán từ
Trong đó có: danh từ, phụ từ và đại từ chỉ thời gian.
18


- Danh từ đơn vị chỉ phạm vi, khoảng thời gian và không gian:
Gồm các từ như: vùng, miền, khoảnh, nơi, chỗ, chốn, xứ, phía, phương,
hướng, lúc, dạo, khi, hồi, thửa, khắc, canh, buổi.
Ví dụ:
Một khoảnh vườn
Một miền sa mạc
Đêm năm canh, ngày sáu khắc
Cần lưu ý là các từ khi, lúc, có thể lâm thời dùng như quan hệ từ, có tác dụng
liên kết các vế câu.
Ví dụ:
Đến khi bà đã tạm no thì cơm vừa hết
( Nam Cao) [6, tr 50]
- Phụ từ:
Nhóm: đã, đang, sẽ, từng mang ý nghĩa ngữ pháp chỉ thời thế.
Phụ từ đã với ý nghĩa về thời có đặc điểm:
*Hoạt động bắt đầu trong quá khứ, kết thúc rồi (so với thời điểm phát
ngôn)
Ví dụ:
Tôi đã xem phim này
*Hoạt động bắt đầu trong quá khứ và chưa kết thúc (đến thời điểm
phát ngôn, sự việc còn tiếp diễn)
Ví dụ:
Từ sáng hôm nay, chị ấy đã sốt li bì
*Hoạt động bắt đầu trong quá khứ, đang tiếp diễn, còn có thể kéo dài

trong tương lai.
Ví dụ:
Cháu Lan đã vào đại học
Phụ từ đang chỉ về thời hiện tại, thường mang ý nghĩa chỉ thời tương đối
hơn là tuyệt đối (so với thời điểm phát ngôn).
Ngược lại, phụ từ sẽ chỉ thời tương lai thường dùng với ý nghĩa chỉ thời
gian tuyệt đối nhiều hơn.
Ví dụ:
Chiều mai, bố sẽ đi công tác
Phụ từ từng cũng mang nhiều ý nghĩa thời thế, từng chỉ thời quá khứ (so
với thời điểm phát ngôn) sự việc, hoạt động đã xảy ra. Về ý nghĩa “thời”, phụ từ
từng chỉ ra sự việc, hành động trong quá khứ và đến nay (thời điểm phát ngôn) thì
đã kết thúc hẳn.
Ví dụ:
Anh ấy (đã) từng ở Liên Xô bốn năm
Ngoài ra, từng còn có thể chỉ ý nghĩa hành động có giới hạn, hành động chỉ
xảy ra một lần:
Ví dụ:
Tôi chưa từng đến nước Nga
Tôi chưa từng gặp anh ấy [6, tr 155]
- Đại từ:
Đại từ chỉ định: đó là những đại từ trỏ nơi chốn, thời điểm xác định (định
vị về thời gian, không gian). Sự định vị này lấy vị trí, thời điểm người nói làm điểm
gốc để giới hạn vị trí, thời đoạn như: đây, đó, đấy, nãy, này, nó, ấy,...
19


* Nay thường đi kèm, hạn định thời gian hiện tại (theo nghĩa rộng)
Ví dụ:
Hôm nay, ngày nay, buổi nay,…

* Nãy hạn định thời gian gần mà sự việc vừa xảy ra.
Ví dụ:
Hồi nãy, lúc nãy, khi nãy,…
* Nọ chỉ định thời gian thuộc về quá khứ, thời gian xảy ra trước so với thời
điểm nói.
Ví dụ:
Hôm nọ, dạo nọ, ngày nọ
Nọ cũng có thể đi kèm từ vị trí để chỉ một vị trí chưa thật xác định.
Ví dụ:
Chỗ nọ, chỗ kia, nơi nọ,…
* Này trỏ một thời điểm, một vị trí xác định, gần với người nói.
Ví dụ:
Chỗ này, giờ này, lúc này, buổi này,....
Chú ý :
* Hôm kia chỉ thời gian xảy ra trước lúc đang nói một hôm (thuộc về quá
khứ)
*Ngày kia chỉ thời gian sau thời điểm nói một ngày (thuộc về tương lai)
+ Đại từ để hỏi: bao giờ.
Quan điểm của tác giả Nguyễn Hữu Quỳnh:
Theo tác giả này cho rằng, trong tiếng Việt có thể phân chia các loại từ sau
đây: Thực từ gồm danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, hư từ gồm phó từ, quan hệ
từ, tình thái từ gồm trợ từ và thán từ.
- Danh từ chỉ thời gian là danh từ biểu thị các khái niệm về thời gian. Các
danh từ chỉ thời gian thường dùng là: ngày, hôm, tuần, tháng, năm, mùa, thời, thời
kỳ, đời, sáng, trưa, chiều, tối, đêm, buổi sáng, buổi trưa, ban trưa, chiều tối, ban
đêm, ban ngày, khi, hồi, lúc, dạo,…
Danh từ chỉ thời gian cũng như các danh từ khác, cũng có thể kết hợp với các
từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ, đó và hai từ chỉ định chuyên dùng kết hợp với các danh
từ chỉ thời gian: nay, nãy.
Ví dụ:

Ngày này, ngày nay, ngày kia, ngày đó, ngày ấy
Hôm nay, hôm kia, hôm nọ, hôm đó, hôm ấy
Các danh từ thời gian kết hợp với nay: ngày, bữa, năm, tháng, đời, thời, trưa,
chiều, tối, đêm.
Các danh từ thời gian kết hợp với nãy: hồi, khi, lúc, ban.
Danh từ chỉ thời gian cũng có thể kết hợp với số từ.
Ví dụ:
Một ngày, hai tháng, một đời, ba đời, một thời, một tối, năm đêm, vài
buổi, dăm bữa,…
Các tổ hợp: một lúc, một hồi, một dạo, đôi khi, đôi hồi là những cụm từ cố
định, biểu thị ý nghĩa chỉ một khoảng thời gian ngắn hoặc thời gian bị mất quãng.
[44, tr150].
- Nhóm phó từ biểu thị ý nghĩa thời gian – không gian thường đi kèm với
động từ, tính từ: đang (đương), đã, vừa, mới, sẽ. Trong đó:
20


* Đang thường chỉ thời gian hiện tại
Ví dụ:
Thế hệ thanh niên ngày nay đan g sống trong thời đại cách mạng của giai
cấp vô sản
( Lê Duẩn).
Đôi khi đang trực tiếp đứng trước danh từ như: lúc, khi, mùa, độ, tuổi,…
Ví dụ:
Đang khi bất ý chẳng ngờ
(Nguyễn Du)
Đang mùa gặt. Đang độ trưởng thành. Đang tuổi thanh niên
* Đã thường biểu thị ý nghĩa quá khứ.
Ví dụ:
Đã nghe nước chảy lên non

Đã nghe đất chuyển thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao
(Tố Hữu)
Đã có khi trực tiếp đi kèm danh từ
Ví dụ:
Ờ đã chín năm rồi đấy nhỉ
(Tố Hữu)
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
( Nguyễn Du)
* Vừa, mới chỉ thời gian vừa xảy ra
Ví dụ:
Sách mới mua
Báo vừa mới phát hành
Sẽ chỉ thời gian tương lai
Ví dụ:
Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ
Đôi gót đỏ lại trở về quê mẹ
Em sẽ đi trên đường ấy thênh thang
Như những ngày xưa rực rỡ sao vàng
(Tố Hữu)
- Về đại từ chỉ thời gian gồm các loại sau:
Đại từ để hỏi vị trí và thời gian: đâu, nào, bao giờ.
Ví dụ:
Anh định bao giờ mới đi ?
Anh lên bao giờ ?
Hôm nào thì lên đường ?
Đại từ chỉ định thời gian: nãy, này, giờ, bây giờ, bấy giờ
Ví dụ:
Nay ta bảo thật các người

(Trần Quốc Tuấn)
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
( Nguyễn Du) [44, tr 165]
21


Quan điểm của tác giả Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung (trong Ngữ
pháp tiếng Việt – tập 1)
Thực từ gồm: danh từ, động từ, đại từ
Trong đó:
- Danh từ chỉ ý nghĩa sự vật là thời gian: hồi, dạo, buổi, vụ, mùa
Ví dụ:
Má ước sao được một bữa anh về phép. Hồi chiều má đương nhắc hồi
nào anh đi (…) [3, tr 86]
- Động từ chỉ quan hệ diễn biến theo thời gian: bắt đầu, tiếp tục, kết thúc,
thôi hết,…
Ví dụ:
Tôi liền thôi không gắng ngủ nữa
Câu chuyện về người cha của bà kết thúc ở chi tiết bi tráng nhất [3, tr 96]
- Đại từ:
Đại từ xác chỉ trỏ thời gian: bây giờ, giờ, bấy giờ, bấy, nãy,…
Ví dụ:
Bây giờ cũng là buổi chiều của một ngày ẩm ướt giữa mùa thu
Vậy mà bây giờ chú nỡ mắng anh như vậy.
Bấy giờ là mùa đông
Từ bấy đến nay tôi không gặp lại anh [3, tr 115]
Đại từ phiếm chỉ thời gian: bao lâu, bao giờ,…
Ví dụ:
Bao giờ thì ta bắt đầu được ?

Thường thì phải nói khoảng bao lâu ? [3, tr117]
Hư từ gồm: phó từ và kết từ
Trong đó:
- Phó từ thời gian: đã, từng, mới, sẽ, sắp,…
Phó từ thời gian chỉ quan hệ về thời gian với quá trình hay đặc trưng
trong cách phản ánh của tư duy. Quan hệ thời gian được xác định theo một điểm
mốc tương ứng với thời điểm thực tại, hoặc tương ứng với thời điểm phản ánh, hoặc
tương ứng với thời gian giữa các quá trình hay các đặc trưng. Phó từ thời gian còn
xác định tính hiện thực hoặc phi hiện thực của hành động, trạng thái, tính chất theo
quan hệ thời gian.
Ví dụ:
Có lẽ đã hai ba giờ sáng (…) Nghe tiếng đôi chim trống mái gọi nhau đã
gần hơn.
Nếu em muốn, toàn bộ những bức tranh này và cả những cái anh sẽ vẽ,
tất cả đều thuộc về em.
Em mới đi phép về
Tôi lại sắp đi xa một chuyến nữa đây. [3, tr126].
Nhận xét chung:
Qua quá trình khảo sát những quan điểm của các nhà Việt ngữ học về từ chỉ
thời gian, người viết nhận thấy rằng, các tác giả có sự trình bày và phân loại một
cách cụ thể, rõ ràng và có tính hệ thống.
Tuy nhiên, có những vấn đề thì có tác giả trình bày kỹ lưỡng, cặn kẽ, nhưng
cũng có tác giả trình bày một cách sơ lược, khái quát. Bên cạnh đó, người viết nhận
thấy, giữa các tác giả vẫn chưa có sự thống nhất ở một số vấn đề:
22


Về việc phân loại: các tác giả Hữu Đạt, Đào Thản,… thì lại cho rằng có 2
loại từ chỉ thời gian, tác giả Nguyễn Đức Dân, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia, Nguyễn Hữu Ngọc, Đỗ Thị Kim Liên, …với công trình phân loại từ

chỉ thời gian gồm 3 loại, có trường hợp lên đến 4 loại như quan điểm của tác giả
Diệp Quang Ban trong Ngữ pháp tiếng Việt – tập 1. Thậm chí, có trường hợp, cùng
một tác giả nhưng ở hai công trình khác nhau lại đưa ra những quan điểm không
giống nhau. Đó là trường hợp của tác giả Điệp Quang Ban trong hai quyển: Ngữ
pháp tiếng Việt-tâp 1 và Ngữ pháp tiếng Việt-tập 2.
- Ở quyển Ngữ pháp tiếng Việt-tập 1, ông phân từ chỉ thời gian làm 4 loại.
- Ở quyển Ngữ pháp tiếng Việt-tập 2, ông lại phân từ chỉ thời gian thành 2
loại
Về tiêu chí phân loại: cùng một từ, nhưng các tác giả lại xếp vào các từ loại
khác nhau. Chẳng hạn, trường hợp từ “đã”, “đang”, thì có tác giả lại xếp vào lớp
động từ chỉ thời gian (Hữu Đạt), có tác giả lại xếp vào lớp phó từ (hay phụ từ) chỉ
thời gian (Đỗ Thị Kim Liên, Diệp Quang Ban, Nguyễn Hữu Quỳnh, Nguyễn Hữu
Ngọc).
Ngoài ra, việc gọi tên cũng chưa có sự thống nhất giữa các tác giả. Cùng một
từ chỉ thời gian nhưng một số tác giả gọi là phụ từ chỉ thời gian (Lê Biên, Diệp
Quang Ban (Ngữ pháp tiếng Việt-tập 2), Nguyễn Đức Dân, Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn). Một số tác giả khác lại gọi là phó từ chỉ thời gian (Đỗ Thị Kim
Liên, Hữu Quỳnh). Cũng có trường hợp như ở tác giả Diệp Quang Ban, ông vẫn
chưa có sự thống nhất trong việc gọi tên. Chẳng hạn, trong cuốn Ngữ pháp tiếng
Việt-tập 1, ông gọi là phó từ, đến quyển Ngữ pháp tiếng Việt-tập 2, ông lại gọi là
phụ từ.
Như vậy:
Qua việc phân loại về từ chỉ thời gian chúng ta thấy vẫn còn khá phức tạp,
chưa có sự thống nhất giữa các tác giả Việt ngữ học. Đối với luận văn này, người
viết sử dụng quan điểm của tác giả Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung trong
quyển “Ngữ pháp tiếng Việt - tập1”. Song, người viết phân từ chỉ thời gian gồm 3
loại: danh từ, đại từ, phụ từ.
Phân loại từ chỉ thời gian.
Danh từ chỉ thời gian
Phụ từ chỉ thời gian

Đại từ chỉ thời gian
Đã, đang, sẽ, sắp,
Bây giờ, bấy giờ, bao
Ngày, giờ, giây,
phút, lúc, khi, sáng, chiều, vừa, mới, mãi,…
lâu, bao giờ, nay,…
đêm, hoàng hôn, tháng,
mùa, năm, hồi, canh, thế
kỷ, dạo, buổi, thuở, ngày
mai, hôm nay, xuân, hè,
thu, đông, quá khứ, tương
lai,…

1.3 THỜI GIAN NGHỆ THUẬT:
Trong cuốn “Thi pháp học hiện đại”, tác giả Trần Đình Sử quan niệm:
“Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật thể hiện phương thức
tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì thời gian bao gồm hai yếu tố:
23


– Thể hiện sự miêu tả trần thuật xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong
thời gian.
– Cái được trần thuật diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần
thuật.
Với tác giả Nguyễn Thị Dư Khánh, thì “Thời gian nghệ thuật luôn luôn
mang tính cảm xúc (tâm lí) và tính quan niệm, do đó đầy tình cảm chủ quan. Nó là
thời gian của thế giới hình tượng vì nó là hình tượng thời gian. [27, tr 123]
Như vậy, nếu như không gian và thời gian thực tại vận động theo quy luật tự
nhiên, thì người nghệ sĩ cũng sử dụng những chất liệu của thời gian không gian vận

hành theo quy luật ấy. Nhưng khi đi vào thế giới nghệ thuật, thông qua cảm xúc của
người nghệ sĩ mà thời gian có sự chọn lọc, tổ chức, sắp xếp, sáng tạo lại. Chính vì
vậy, các yếu tố thời gian hoàn toàn mang một chất liệu mới, nội dung thẩm mỹ mới,
đó chính là thời gian nghệ thuật.
Bằng những tư tưởng và tình cảm của mình, các tác giả đã nhào nặn và tái
tạo lại một thời gian nghệ thuật phù hợp với một thế giới quan, một phương pháp
sáng tác, một thể loại hay một truyền thống nghệ thuật nhất định. Và vì thế, thời
gian nghệ thuật thấm đậm tính sáng tạo của người sáng tác và mang tính quan niệm
của tác giả.
Đặc điểm của thời gian nghệ thuật:
Thời gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lí và bị chi phối
bởi tâm lí, nên thời gian nghệ thuật hết sức linh động, đa chiều. Trong nghệ thuật,
thời gian được tái tạo lại, có thể là một đời người, nhưng có thể chỉ là một vài ngày,
thậm chí trong một khoảnh khắc. Nghĩa là trong nghệ thuật có độ dài, có nhịp độ, có
chiều chuyển động tùy theo tâm lí mỗi người. Tác giả Hà Minh Đức cho rằng: “Sự
vận động của thời gian trong tác phẩm văn học phản ánh nhịp độ của cuộc sống.
Có lúc trong một thời gian ngắn chất chứa biết bao sự kiện làm biến đổi nhanh
chống cuộc sống và đời người… Thực chất việc tái hiện thời gian trong văn học là
miêu tả sự vận động của cuộc sống, là tái hiện quan niệm của con người về sự tồn
tại, là sự biểu hiện về tâm lí của con người trước các biến cố, sự kiện. Lúc nhớ
nhung, khắc khoải, một phút đợi chờ có thể dài bằng mấy năm, còn lúc sống hạnh
phúc thì thời gian thật ngắn ngủi” [17,tr 87].
Thời gian nghệ thuật được tái tạo mang tính chủ quan của tác giả, phụ thuộc
vào tác giả, luôn mang ý nghĩa cảm xúc và nhân sinh. Tính chất này giúp ta nhận
thức hiện thực cuộc sống đối với con người. Ngoài thời gian tuyến tính một dòng từ
quá khứ - hiện tại – tương lai. Nhưng đối với thời gian nghệ thuật, người nghệ sĩ có
thể ép mỏng hoặc kéo căng thời gian tùy theo yêu cầu nghệ thuật nhất định.
Tác giả có thể đi ngược thời gian từ hiện tại trở về quá khứ, để thấy được
hình ảnh của người mẹ thân thương, tần tảo mà bấy giờ đã không còn nữa:
Mẹ ta không có yếm đào

Nón mê thay nón quai thao đội đầu
(Ng ồi buồn nhớ mẹ ta xưa –Nguyễn Duy)
Hay có lúc thời gian được miêu tả từ quá khứ đi tới tương lai, có lúc cả quá
khứ và tương lai có thể đồng hiện trong cùng một thời điểm hiện tại.
Với tính chủ quan của tác giả, nhịp độ thời gian nghệ thuật có thể trôi nhanh
hay chậm, đều đặn hay cuống quýt, êm đềm, hạnh phúc hay khổ đau. Có thể cảm
nhận ngày vui thì ngắn ngủi, trôi nhanh quá: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhưng cũng có thể cảm thấy một ngày dài dằng dặc

24


×