TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SP. NGỮ VĂN
ĐỀ TÀI
PHÉP THẾ TRONG VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA
NGUYỄN TUÂN
Luận văn tốt nghiệp ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn:
ThS.Nguyễn Thị Ngọc Điệp
Cần Thơ, 2012
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Hữu Trọng
MSSV: 6086154
Lớp: Sư phạm Ngữ Văn
LỜI NÓI ĐẦU
Liên kết văn bản là một vấn đề đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Điều này thể
hiện, liên kết văn bản là vấn đề không hề đơn giản. Khi nghiên cứu về phép thế, một
phương thức liên kết trong liên kết hình thức của văn bản, người viết cũng gặp phải
những vấn đề khó khăn khi tiếp cận vấn đề, đặc biệt khi khảo sát các dạng thức thế
trong Vang bóng một thời. Dù đã có những công trình khảo sát phép thế một cách hệ
thống, nhưng thiết nghĩ, nếu không có sự giảng giải tận tình và động viên của cán bộ
hướng dẫn, cô Nguyễn Thị Ngọc Điệp thì người viết khó có thể hoàn thành luận văn.
Cô đã hỗ trợ tận tình về kiến thức cũng như những kĩ năng cần thiết để người viết hoàn
thành sớm luận văn.
Luận văn hoàn thành, điều này cũng có nghĩa người viết sắp phải rời mái trường
đại học để bước vào những trải nghiệm thực sự của cuộc sống. Bốn năm ngồi trên ghế
giảng đường, người viết đã học hỏi rất nhiều cũng như sự giúp đỡ tận tình từ những
thầy cô đáng kính. Người viết đã được trang bị kiến thức chuyên ngành cũng như
nghiệp vụ sư phạm để người viết tự tin hơn cho mai sau. Nhân lời nói đầu, người viết
xin gởi lời tri ân chân thành và sâu sắc đến quý thầy cô, đặc biệt là cô Nguyễn Thị Ngọc
Điệp, giáo viên hướng dẫn luận văn, và Lê Thị Ngọc Bích, cô Cố vấn học tập của người
viết trong suốt bốn năm qua. Đồng thời, xin chúc quý thầy cô luôn dồi dào sức khoẻ và
thành công trong cuộc sống.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………………...1
2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………….……………………….1
3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………………4
4. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………………..4
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………..………………………………5
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I: KHÁI LƯỢC VỀ PHÉP THẾ TRONG LIÊN KẾT VĂN BẢN
1. Khái niệm phép thế trong liên kết văn bản…………….. ……………………………6
2. Phân loại phép thế trong liên kết văn bản………………………………….….…… ..9
2.1. Quan điểm một số tác giả về phân loại phép thế…………………………...………9
2.1.1. Quan điểm của Trần NgọcThêm ……………………...……………………….9
2.1.1.1. Thế đồng nghĩa …………………………………………...…………………9
2.1.1.2. Thế đại từ……………………...………………………...………………...11
2.1.2. Quan điểm của Nguyễn Trọng Báu (chủ biên)…………...…………………...15
2.1.3. Quan điểm của Diệp Quang Ban……………………………………………...17
2.1.4. Quan điểm của Nguyễn Thị Ảnh…………………………..………………….19
2.1.5. Quan điểm của Bùi Minh Toán (chủ biên)………………………..…………..20
2.1.6. Quan điểm một số tác giả khác………………………………..………………20
2.2. Nhận xét …………………………………………………………...…………….. 22
2.3. Hướng phân loại phép thế trong liên kết văn bản…………………..…………….24
2.3.1. Thế đồng nghĩa…………………………………………………..……………24
2.3.1.1. Thế đồng nghĩa từ điển……………………………………………….24
2.3.1.2. Thế đồng nghĩa phủ định……………………………………………..25
2.3.2. Thế đồng quy chiếu……………………………………..…………………….25
2.3.2.1. Thế đại từ ………………………………………….…………………26
2.3.2.2. Thế danh từ bậc trên …………………………………………………27
2.3.2.3. Thế danh ngữ miêu tả…………...……………………………………28
2.3.2.4. Thế danh ngữ khái quát …………...…………………………………28
3. Chức năng của phép thế……………………..……………………………………..29
CHƯƠNG II: PHÉP THẾ TRONG VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA
NGUYỄN TUÂN
1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Tuân và Vang bóng một thời………….…………….. 32
1.1. Tiểu sử, con người ………………………………………..………………….32
1.2. Sự nghiệp sáng tác……………………………………….………………….. 33
1.3. Phong cách nghệ thuật…………………………………….………………….35
1.4. Vài nét về Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân….………………………..36
2. Các dạng thức của phép thế trong Vang bóng một thời…………..…………..……37
2.1. Thế đồng quy chiếu………………………………….……………………….37
2.1.1. Thế đại từ…………………………………….…………….………….37
2.1.1.1. Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba………………………………..38
2.1.1.2. Đại từ hoá…………………………………..………………..40
2.1.1.3. Đại từ chỉ định……….………………………………………43
2.1.2. Thế danh ngữ miêu tả…………...…………………………………….44
2.1.3. Thế danh ngữ khái quát……………….………………………………47
2.1.4. Thế danh từ bậc trên…………………..………………………………48
2.2. Thế đồng nghĩa…………………………….…………………………………49
3. Chức năng phép thế trong Vang bóng một thời………...………………………….52
3.1. Chức năng liên kết và tránh lặp từ vựng……………………..………………52
3.1.1. Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba………………………………………….52
3.1.1.1. Đại từ hắn…………………………………………….………..52
3.1.1.2. Đại từ họ…………………………..…………………………………54
3.1.1.3. Đại từ nó……………………………………………………………..56
3.1.1.4. Đại từ y………………………………………..……………………..57
3.1.1.5. Đại từ chúng, chúng nó………………..……………………..59
3.1.2. Đại từ hoá ………………………………..…………………..60
3.1.2.1. Đại từ hoá cụ………………………………………………………..60
3.1.2.2. Đại từ hoá ông, ông ta, ông cụ……………………………………62
3.1.2.3. Đại từ hoá cô, nàng, chàng………………….….…………………63
3.1.2.4. Đại từ hoá ngài ………………………………….……………….64
3.1.2.5. Đại từ hoá lão …………………………….………………….65
3.1.3. Đại từ chỉ định…………………………………………………………..65
3.2. Chức năng cung cấp thông tin phụ…………………….……………………….66
3.3. Chức năng biểu thị tình thái……………………………..……………………..72
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nói đến nhà văn Nguyễn Tuân, người ta nghĩ ngay đến một con người tài
hoa, uyên bác. Đây là nhà văn “suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật” (Nguyễn Đình Thi).
Cuộc đời cũng như những trang viết của nhà văn đã để lại nhiều suy nghĩ đối với người
đọc đặc biệt là tập truyện ngắn Vang bóng một thời. Cái cũ đã qua đi và giờ đây cái mới
đã thay thế nhưng không phải cái cũ lúc nào cũng lạc hậu và đâu đó, cái cũ vẫn tồn tại
và sáng đẹp hơn hết. Truyền thống tốt đẹp dân tộc dường như bị mất đi nhưng qua Vang
bóng một thời, nhà văn đã khơi gợi trong lòng người viết bao niềm tự hào dân tộc. Vì
vậy, khi chọn đối tượng nghiên cứu ở phương diện ngôn ngữ, chúng tôi nghĩ ngay đến
tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Hơn hết, một số tác phẩm của Nguyễn Tuân được chính thức giảng dạy trong
chương trình phổ thông như truyện ngắn Chữ người tử tù, Người lái đò sông Đà và một
số tác phẩm khác được đọc thêm như Tờ hoa,… Trong đó, Chữ người tử tù nằm trong
tập truyện Vang bóng một thời. Do đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu những tác phẩm của
Nguyễn Tuân nói chung và Vang bóng một thời nói riêng là cần thiết.
Phép thế là phương thức liên kết được sử dụng phổ biến trong văn bản đặc biệt là
văn bản nghệ thuật. Thế nhưng, nghiên cứu về phương thức thế trong liên kết văn bản
hiện nay khá ít và có những quan điểm chưa thống nhất. Do đó, nghiên cứu liên kết văn
bản cũng như phép thế trong Vang bóng một thời cũng là điều cần thiết. Mặt khác, phép
thế trong Vang bóng một thời là một đề tài tương đối mới. Chúng tôi muốn thông qua
việc vận dụng phép thế vào trong Vang bóng một thời để hiểu thêm về một khía cạnh tài
năng cũng như phong cách của nhà văn Nguyễn Tuân. Từ đó, có thể thấy được những
đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại
Với những lý do trên, người viết chọn vấn đề Phép thế trong Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân là đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
- Về phép thế
Công trình nghiên cứu một cách đầy đủ nhất phải kể đến là công trình Hệ thống
liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm. Công trình này nghiên cứu sâu hai
phương diện liên kết của văn bản: liên kết nội dung và liên kết hình thức. Trong đó,
phần nhiều tác giả đề cập liên kết hình thức. Trong các phương thức liên kết hình thức,
tác giả đề cập đến phép thế và cho rằng phép thế có hai dạng thức: thế đồng nghĩa và
thế đại từ. Ở công trình này, Trần Ngọc Thêm hầu như giải quyết tất cả các vấn đề xung
quanh phép thế, chỉ đôi chỗ còn chưa được thuyết phục.
Cũng dựa trên những cở sở lý thuyết giống như công trình Hệ thống liên kết văn
bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm, trong công trình Ngữ pháp văn bản và việc dạy
làm văn của nhóm tác giả Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Quang Ninh, Trần Ngọc Thêm,
các tác giả cũng đề cập đến phép thế dựa trên cơ sở những phưong tiện cụ thể như đại
từ, số từ.
Tiếp thu công trình của Trần Ngọc Thêm, công trình Văn bản và liên kết trong
tiếng Việt của Diệp Quang Ban cũng đề cập đến phép thế theo hai quan niệm: quan
niệm thứ nhất gọi là liên kết nội dung và liên kết hình thức; quan niệm thứ hai được tác
giả gọi là liên kết phi cấu trúc tính. Phép thế ở quan niệm thứ nhất thực chất là công
trình giản lược từ công trình của Trần Ngọc Thêm. Do đó, tác giả cũng chia phép thế
thành hai dạng thức: thế đồng nghĩa và thế đại từ. Ở quan niệm thứ hai tác giả dựa theo
“quan niệm liên kết là thành tố phi cấu trúc tính (non – structural component) nằm
trong thành tố lớn hơn là thành tố văn bản trong cách giả thuyết văn bản của người đề
xướng (Halliday và Hasan, Liên kết trong tiếng Anh, 1994, tr.28-29, in lần đầu 1976)”
[3;tr.119].
Trong những năm gần đây, vẫn có những công trình đề cập đến phép thế nhưng
chủ yếu vẫn là tiếp thu công trình của Trần Ngọc Thêm. Trong Tiếng Việt thực hành
xuất bản năm 1997 của nhóm tác giả Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng, các tác giả
cũng đề cập đến phép thế nhưng chỉ đề cập vài vấn đề một cách sơ lược của phép thế
trong liên kết văn bản. Trong đó, các tác giả chia phép thế thành hai dạng: thế đại từ và
thế đồng nghĩa, gần nghĩa.
Cũng trong Tiếng Việt thực hành, Nguyễn Thị Ảnh cũng đề cập đến phép thế
nhưng phân biệt hai dạng thức là thế đồng sở chỉ và thế đại từ. Dù thuật ngữ có khác
nhưng xét về mặt ý nghĩa vẫn không có gì khác so với các công trình trước đó.
Gần đây nhất là công trình Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt của Nguyễn Thị
Việt Thanh và công trình Các phương tiện liên kết và tổ chức văn bản của Nguyễn Chí
Hòa. Nguyễn Thị Việt Thanh đề cập đến phép thế trong liên kết văn bản từ đó để thấy
được phép thế trong liên kết lời nói. Và việc đối chiếu đó, Nguyễn Thị Việt Thanh hoàn
toàn tiếp thu công trình của Trần Ngọc Thêm. Riêng Nguyễn Chí Hòa không đề cập đến
phép thế nhưng ông xây dựng lý thuyết cho quan hệ móc xích ở các dạng thức: quan hệ
móc xích đồng nghĩa và và quan hệ móc xích đại từ.
`
Nhìn chung, việc nghiên cứu về phép thế trong liên kết văn bản vẫn còn tương
đối ít. Những công trình nghiên cứu của các tác giả ít nhiều còn tồn tại những điểm
chưa thống nhất.
- Về Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
Phải nói rằng có nhiều công trình nghiên cứu về Vang bóng một thời của Nguyễn
Tuân. Đầu tiên phải nói đến là công trình tập hợp các tác phẩm Nguyễn Tuân của
Nguyễn Đăng Mạnh. Tác giả đã tập hợp thành năm tập trong quyển Nguyễn Tuân toàn
tập (xuất bản năm 2000). Ở Nguyễn Tuân toàn tập (tập 1), Nguyễn Đăng Mạnh có bài
viết về Vang bóng một thời và làm rõ ở quan điểm nghệ thuật cũng như phong cách
nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Ở một góc độ nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, tác
giả cho rằng “câu văn Nguyễn Tuân cũng có nhiều kiểu kiến trúc đa dạng. Ông là nghệ
sĩ ngôn từ biết chú trọng đến âm điệu, nhịp điệu của câu văn xuôi…”, “ông luôn luôn
có ý thức sáng tạo từ mới và cách dùng từ mới”, hay cho rằng “nhu cầu tránh trùng lặp
buộc ông phải tung ra tất cả những từ đồng nghĩa có trong vốn liếng của mình”
Năm 1997, Hoàng Xuân tập hợp, tuyển chọn các bài viết về nhà văn Nguyễn
Tuân và in trong quyển Nguyễn Tuân, người đi tìm cái Đẹp. Trong quyển này, những
bài viết về Vang bóng một thời hoặc chỉ đề cập đến, cũng khá ít. Trong đó, có Nguyễn
Tuân của Vũ Ngọc Phan; Văn tài lỗi lạc của Tạ Tỵ; Đọc Vang bóng một thời của Thạch
Lam; Nguyễn Tuân và Vang bóng một thời của Trương Chính; Nguyễn Tuân, người săn
tìm cái đẹp của Nguyễn Thành; Nguyễn Tuân, cá tính và phong cách của Nguyễn Đăng
Mạnh; Về truyện ngắn Chữ người tử tù Nguyễn Tuân của Văn Tâm. Những bài viết này
chủ yếu khai thác về nội dung, tư tưởng của nhà văn trong Vang bóng một thời.
Đến năm 2000, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin tập hợp thêm những bài viết mới
và cho in quyển Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa và độc đáo. Quyển phần đầu gồm những
bài viết nhằm khẳng định Nguyễn Tuân là cây bút luôn mãi miết tìm cái đẹp, cái thật. Ở
những phần hai là đánh giá một số tác phẩm cũng như phong cách của Nguyễn Tuân.
Phần cuối là hồi ức về Nguyễn Tuân của một số tác giả. Phần nghiên cứu về Vang
bóng một thời của Nguyễn Tuân cũng được bổ sung bài viết. Cụ thể là bài viết Cái thật
và cái tài hoa trong Chữ người tử tù của Nguyễn Ngọc Hóa; bài viết Thầy chữ Nguyễn
Tuân của Hà Bình Trị.
Năm 2001, Hoài An cho xuất bản quyển Chân dung văn học. Trong quyển này,
Hoài An có một bài nghiên cứu về tác phẩm Nguyễn Tuân. Và khi nghiên cứu, tác giả
đã khẳng định Nguyễn Tuân là một “nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa”.
Năm 2002, Tôn Thảo Miên tập hợp và tuyển chọn những bài viết cũng như tác
phẩm Nguyễn Tuân in thành quyển Nguyễn Tuân – Tác phẩm và dư luận. Trong quyển
sách này, có bổ sung thêm những bài viết về Vang bóng một thời. Cụ thể như bài viết
Đọc lại Vang bóng một thời của Phan Cự Đệ; bài viết Người đi tìm cái đẹp, cái thật của
Nguyễn Đình Thi; Bài viết Nguyễn Tuân - Tài hoa văn chương của Tôn Thảo Miên.
Vẫn có nhiều bài viết về nhà văn Nguyễn Tuân và Vang bóng một thời. Tuy
nhiên, nghiên cứu Vang bóng một thời về phương diện ngôn ngữ học thì rất ít bài viết
và đặc biệt là đề tài Phép thế trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân thì vẫn chưa
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Về lí luận: Khi nghiên cứu đề tài Phép thế trong Vang bóng một thời của
Nguyễn Tuân, người viết hệ thống một số quan điểm về phép thế trong liên kết văn bản
để thấy được những quan niệm của các tác giả nghiên cứu. Để từ đó, người viết đưa ra
nhận xét và hướng phân loại phép thế. Đồng thời, khảo sát những tác phẩm trong Vang
bóng một thời để thấy được biểu hiện của phép thế.
Về thực tiễn: Nghiên cứu đề tài luận văn giúp cho người viết hiểu rõ thêm những
vẫn đề của nghiên cứu. Để từ đó, tạo tiền đề cho người viết trong những công trình
nghiên trình nghiên cứu sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài gồm phần lý thuyết về phép thế trong liên kết văn bản và việc vận dụng
phép thế trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Chúng tôi tiến hành đi sâu tìm hiểu phép thế cũng như các dạng thức cụ thể trong
liên kết văn bản dựa trên những quan điểm từ các công trình nghiên cứu trước đó của
các tác giả như Trần Ngọc Thêm, Diệp Quang Ban, Nguyễn Chí Hòa, Nguyễn Thị Ảnh,
Nguyễn Thị Việt Thanh… Từ đó khảo sát phép thế trong những truyên ngắn cụ thể
trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân:
Bữa rượu máu (Chém treo ngành)
Những chiếc ấm đất
Thả thơ
Đánh thơ
Ngôi mả cũ
Hương cuội
Chữ người tử tù
Một đám bất đắc chí
Chén trà sương
Đèn đêm thu
Trên đỉnh non Tản
Khoa thi cuối cùng
5. Phương pháp nghiên cứu
Trước hết, chúng tôi tập hợp những công trình nghiên cứu và có đề cập đến phép
thế trong liên kết văn bản. Để từ đó, chúng tôi hệ thống hóa một số vấn đề cơ sở lý
thuyết cho phép thế trong liên kết văn bản. Tương tự, tác phẩm và những bài viết về
Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân chúng tôi cũng cố gắng tập hợp và tiếp thu để có
cái nhìn chung về Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhìn từ góc độ phép
thế, chúng tôi sẽ thống kê các dạng thức của phép thế trong tập truyện của nhà văn
Nguyễn Tuân. Sau đó, phân tích ngữ liệu để làm sang tỏ ý nghĩa, chức năng của phép
thế trong Vang bóng một thời. Từ đó, thấy được phần nào phong cách của nhà văn
Nguyễn Tuân qua Vang bóng một thời.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI LƯỢC VỀ PHÉP THẾ TRONG LIÊN
KẾT VĂN BẢN
1. Khái niệm phép thế trong liên kết văn bản
Trong Hệ thống liên kết văn bản, Trần Ngọc Thêm đã đi sâu vào nghiên cứu,
giải quyết các vấn đề về liên kết văn bản – “nhân tố có tác dụng biến một chuỗi câu
thành văn bản”. Và tác giả đã khẳng định “mạng lưới các mối liên hệ giữa các câu
trong một văn bản” gọi là tính liên kết. Theo Trần Ngọc Thêm, liên kết văn bản xét đến
cấp độ đơn vị là phát ngôn. Cấp độ phát ngôn là cấp độ ngôn ngữ ở dưới đoạn văn và ở
trên cụm từ. Trong liên kết văn bản, cụ thể là giữa hai phát ngôn, tác giả xét ở hai
phương diện: liên kết nội dung và liên kết hình thức. Theo Trần Ngọc Thêm, “liên kết
nội dung và liên kết hình thức có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ: liên kết nội dung
được thể hiện bằng một hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và liên kết hình
thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung”[16;tr.20-21]. Dựa theo phân loại
phát ngôn, tác giả chia ra thành các phương thức liên kết chung (tự nghĩa, hợp nghĩa,
trực thuộc), các phương thức liên kết hợp nghĩa và các phương thức liên kết trực thuộc.
Các phương thức liên kết chung, tác giả chia thành năm phương thức liên kết:
phép lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tưởng và phép tuyến tính.
Các phương thức liên kết hợp nghĩa gồm: phép thế đại từ, phép tỉnh lược yếu và
phép nối lỏng.
Các phương thức liên kết trực thuộc gồm: phép tỉnh lược mạnh và phép nối chặt.
Theo đó, phép thế là phương thức liên kết chung (phép thế đồng nghĩa) vừa là
phưong thức liên kết hợp nghĩa (phép thế đại từ).
Trong phép thế, theo Trần Ngọc Thêm, phát ngôn “chứa những dấu hiệu chỉ ra
sự liên kết của nó so với phát ngôn còn lại - phát ngôn đó ta sẽ gọi là phát ngôn liên kết
hay gọn hơn, kết ngôn. Phát ngôn còn lại vai trò độc lập lập hơn, ta sẽ gọi là chủ ngôn
[16;tr.80]. Yếu tố thay thế gọi là thế tố và yếu tố được thay thế gọi là chủ tố. Trần Ngọc
Thêm đề cập đến liên kết hiện diện và liên kết khiếm hiện. Liên kết hiện diện là liên kết
giữa các phát ngôn mà “hai yếu tố tham gia liên kết đều có mặt trong văn bản”
[16;tr.77]. Liên kết khiếm diện là liên kết mà “chỉ có một yếu tố tham gia liên kết là có
mặt trong văn bản, còn yếu tố thứ hai vắng thì mặt” [16;tr.77]. Dựa theo chiều liên kết,
tác giả còn phân biệt giữa liên kết hồi quy và liên kết dự báo. Ở liên kết hồi quy, kết
ngôn (thế tố) sẽ đứng sau chủ ngôn; ở liên kết dự báo, kết ngôn (thế tố) đứng trước chủ
ngôn.
Trong Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Diệp Quang Ban cũng đề cập đến
liên kết văn bản. Tác giả đi vào nghiên cứu liên kết văn bản theo hai hướng. Hướng thứ
nhất, tác giả tiếp thu công trình nghiên cứu trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt
của Trần Ngọc Thêm, tức “coi liên kết văn bản thuộc mặt cấu trúc của hệ thống ngôn
ngữ” và được gọi là liên kết hình thức và liên kết nội dung. Hướng thứ hai xem “liên kết
với tư cách là một khái niệm chuyên môn, không thuộc về cấu trúc của ngôn ngữ, mặc
dù bản thân các yếu tố cấu trúc trong ngôn ngữ là có thuộc tính liên kết” [3;tr.119] và
gọi đây là liên kết phi cấu trúc tính.
Theo tác giả, liên kết văn bản xét ở cấp độ câu và trên câu, tức đoạn văn. Dựa
loại câu liên kết, tác giả chia thành hai loại câu: chủ ngôn và kết ngôn. Trong hai câu
liên kết với nhau, có một câu “làm chỗ dựa” gọi là câu chủ (chủ ngôn), và một câu “nối
kết” câu chủ được gọi là câu kết (kết ngôn). Diệp Quang Ban đề cập đến hai loại phép
quy chiếu: quy chiếu đến tình huống và quy chiếu đến văn bản. Quy chiếu đến tình
huống (quy chiếu hướng ngoại) là “thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa từ ngữ chỉ vật
với vật được gọi bằng từ ngữ đó, cững tức là đưa vật đến với vật được gọi tên ngoài
ngôn ngữ” [3;tr.142-143]. Quy chiếu đến văn bản (quy chiếu hướng nội) là “thiết lập
mối quan hệ về mặt ngữ nghĩa giữa yếu tố ngôn ngữ này và yếu tố ngôn ngữ kia cùng
nằm trong một văn bản” [3;tr.143].
Ví dụ:
Nghe chuyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi tưởng tượng đến một trang nam nhi,
sức vóc khác người, nhưng tâm hồn còn thô sơ giản dị, như tâm hồn của tất cả mội
người thời xưa. Tráng sĩ ấy gặp lúc quốc gia lâm nguy đã xông pha ra trận đem sức
khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù Đổng vẫn
còn ăn một bữa cơm.
Diệp Quang Ban xác định: quy chiếu đến tình huống (quy chiếu hướng ngoại)
Phù Đổng
Thiên
Vương
một
trang
nam nhi
tráng sĩ
ấy
người trai
làng Phù
Đổng
một người cụ thể ngoài văn bản
Quy chiếu đến văn bản (quy chiếu hướng nội) là:
một trang nam nhi
Phù Đổng Thiên Vương
tráng sĩ ấy
người trai làng Phù Đổng
Tuy nhiên, tác giả dẫn theo lời của Halliday và Hasan “chỉ có quy chiếu hướng
nội mới có tác dụng liên kết” [3;tr.144].
Trong liên kết phi cấu trúc tính, tác giả cho rằng, “phép thế là việc sử dụng ở câu
này các đại từ thay thế như đó, dây, kia,… thế cho danh từ (cụm danh từ), vậy, thế,
đó… thế cho động từ (cụm động từ), tính từ (cụm tính từ), mệnh đề (cú) tương ứng có
mặt trong câu khác; trên cơ sở đó hai câu đang xét liên kết được với nhau” [3;tr.158].
Diệp Quang Ban đề cập đến khái niệm hồi chiếu và khứ chiếu. Hồi chiếu là
trường hợp “yếu tố giải thích xuất hiện trước, yếu tố được giải thích xuất hiện sau”
[3;tr.145]. Khứ chiếu là trường hợp “yếu tố được giải thích xuất hiện trước, yếu tố giải
thích xuất hiện sau” [3;tr.146].
Trong Tiếng Việt thực hành, Nguyễn Thị Ảnh cho rằng phương thức thế là “việc
dùng một từ ngữ đồng sở chỉ ở kết ngôn thay cho tên gọi ở chủ ngôn” [2;tr.180].
Tiếp thu những quan điểm trên, chúng tôi xin tạm đưa ra một số lí luận chung về
phép thế trong liên kết văn bản:
(1) Chúng tôi xét phép thế trong liên kết văn bản ở cấp độ câu (tương ứng với
phát ngôn của Trần Ngọc Thêm) và trên câu – đoạn văn. Điều này cũng có nghĩa, phép
thế giữa các thành phần trong nội bộ câu chúng tôi không xét đến. Do đó, theo thuật
ngữ của Trần Ngọc Thêm, trong phép thế, yếu tố được thay thế gọi là chủ tố và yếu tố
thay thế được gọi là thế tố (kết tố). Câu chứa chủ tố được gọi là chủ ngôn và câu chứa
thế tố (kết tố) gọi là kết ngôn.
(2) Trần Ngọc Thêm đã xác định, “liên kết nội dung và liên kết hình thức có mối
quan hệ biện chứng chặt chẽ: liên kết nội dung được thể hiện bằng một hệ thống các
phương thức liên kết hình thức, và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên
kết nội dung”. Như vậy tất cả các phương thức liên kết hình thức trong đó có phép thế
đều phải có nhiệm vụ triển khai, biểu đạt đề tài và chủ đề của văn bản. Tuy nhiên, xét
liên kết giữa hai câu, phép thế được xác định khi cùng hướng về đối tượng được đề cập.
Đối tượng này có thể là người, sự vật, sự việc hay sự kiện tồn tại trong thế giới khách
quan hay thế giới khả hữu.
(3) Trần Ngọc Thêm đề cập đến liên kết khiếm diện và liên kết hiện diện. Diệp
Quang Ban nói đến quy chiếu hướng ngoại và quy chiếu hướng nội. Nhưng Diệp
Quang ban đã dẫn theo lời của Halliday và Hasan “chỉ có quy chiếu hướng nội mới là
có tác dụng liên kết”. Điều đó cũng có nghĩa quy chiếu hướng ngoại hay liên kết khiếm
diện đều không có chức năng liên kết văn bản. Xét theo chiều liên kết trong phép thế,
nếu chủ tố xuất hiện trước thế tố được gọi là hồi chiếu, chủ tố xuất hiện sau thế tố gọi là
khứ chiếu.
(4) Mối liên hệ giữa chủ tố và thế tố trong phép thế được xét ở hai phương diện:
phương diện ngữ âm và phương diện nội dung biểu đạt. Trong phép thế, thế tố phải
khác biệt so với chủ tố về phương diện ngữ âm. Về phương diện nội dung biểu đạt, chủ
tố và thế tố phải đồng nhất về nội dung biểu đạt.
Như vậy: Phép thế là phương thức liên kết văn bản, trong đó có sự xuất hiện
yếu tố được thay thế (chủ tố) và yếu tố thay thế (thế tố) theo một trật tự xác định. Chủ
tố và thế tố có sự khác biệt về ngữ âm và đồng nhất về nội dung biểu đạt.
Ví dụ:
Thứ cười gượng, không nói gì. Đêm hôm ấy, y thức rất khuya.
(Nam Cao – Sống mòn)
Thứ được xem là chủ tố, y là thế tố. Việc thế tố xuất hiện sau chủ tố nên theo
chiều liên kết, trường hợp này được gọi là hồi chiếu.
2. Phân loại phép thế trong liên kết văn bản
2.1. Quan điểm một số tác giả về phân loại phép thế
Việc phân loại phép thế của nhiều nhà nghiên cứu dù có những điểm chung
nhưng vẫn có những điểm chưa được thống nhất.
2.1.1. Quan điểm của Trần Ngọc Thêm
Trần Ngọc Thêm chia phép thế thành hai dạng: thế đồng nghĩa và thế đại từ.
2.1.1.1. Thế đồng nghĩa
Theo tác giả, thế đồng nghĩa là “ một phương thức liên kết thể hiện ở việc sử
dụng trong chủ ngôn và kết ngôn những ngữ đoạn (từ hoặc cụm từ) khác nhau có cùng
một nghĩa (chỉ cùng một đối tượng) [16;tr.114].
Ví dụ:
Sài Gòn đã làm cho cả thế giới kinh ngạc (Sài Gòn là một thành phố). Sức sống
của thành phố mãnh liệt không sao lượng nổi.
Theo tác giả, phép thế đồng nghĩa là “một đồng nhất được thừa nhận mà không
cần tuyên bố” [16;tr.114]. Đó là sự đồng nhất về nghĩa (nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu
vật)
Trong thế đồng nghĩa, tác giả chia thành bốn dạng thức:
- Thế đồng nghĩa từ điển: là “kiểu thế đồng nghĩa ổn định mà cả hai yếu tố liên
kết là từ đồng nghĩa (thường được cố định trong các từ điển đồng nghĩa)” [16;tr.115].
Ví dụ:
Một cái mũ len xanh nếu chị sinh con gái. Chiếc mũ sẽ đỏ nếu chị đẻ con trai
(Anh Đức – Con chị Lộc)
- Thế đồng nghĩa phủ định là “kiểu thế ổn định mà một trong hai yếu tố liên kết
là cụm từ cấu tạo từ từ trái nghĩa của yếu tố liên kết kia cộng với từ phủ định”
[16;tr.116].
Ví dụ:
Người Pháp đổ máu đã nhiều. Dân ta hy sinh cũng không ít
(Hồ Chí Minh – Thư gởi đồng bào… 5-1947)
- Thế đồng nghĩa miêu tả là “kiểu thế không ổn định có ít nhất một trong hai yếu
tố liên kết là cụm từ miêu tả một thuộc tính điển hình nào đó đủ để đại diện cho đối
tượng mà nó biểu thị” [16;tr.117].
Ví dụ:
Ông lão há miệng ra như bị bò cáp chích. Ông thừa biết bọ chúng chẳng lạ gì
gia đình ông, nhưng ông vẫn cứ phải ngạc nhiên như vậy
(Nguyễn Thi - Ở xã Trung Nghĩa)
Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như
cắt, chị nắm ngay được gậy của hắn (…). Kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu
hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
(Ngô Tất Tố - Tắt đèn)
- Thế đồng nghĩa lâm thời là “kiểu thế không ổn định mà chủ tố và thế tố là
những từ vốn không phải là từ đồng nghĩa song có quan hệ ngữ nghĩa bao hàm (theo
kiểu giống - loài), trong đó từ có ngoại diện hẹp hơn (chỉ giống) bao giờ cũng phải làm
chủ tố, còn từ kia (có ngoại diện rộng hơn) bao giờ cũng làm thế tố” [16;tr.119].
Ví dụ:
Trâu đã già. Trông xa, con vật thật đẹp dáng
(Chu Văn – Con trâu bạc)
Sự phân loại thế đồng nghĩa được tác giả tóm tắt trong bảng sau:
Theo độ phức tạp của hai yếu tố liên kết
Theo độ ổn
định của
quan hệ
đồng nhất
Cả hai là từ
Ít nhất có một là cụm từ
Thế ổn định
THẾ ĐỘNG NGHĨA TỪ
ĐIỂN
THẾ ĐỒNG NGHĨA
PHỦ ĐỊNH
Thế không ổn
định
THẾ ĐỒNG NGHĨA
LÂM THỜI
THẾ ĐỘNG NGHĨA
MIÊU TẢ
2.1.1.2. Thế đại từ
Trần Ngọc Thêm cho rằng thế đại từ “là một phương thức liên kết thể hiện ở việc
sử dụng trong kết ngôn mà đại từ (hoặc từ đại từ hóa) để thay thế cho một ngữ đoạn
nào đó ở chủ ngôn” [16;tr.142]. Trần Ngọc Thêm phân loại đại từ theo hai hướng:
Theo đối tượng thay thế, các đại từ có thể chia thành 7 tiểu loại: chỉ người (N),
chỉ sự vật (V), chỉ số lượng (L), chỉ thời gian (T), chỉ không gian (K), chỉ dấu hiệu (D),
chỉ cách thức (C).
Theo quan hệ với tọa độ gốc, các đại từ có thể chia thành 4 tiểu loại: chỉ điểm
gốc (1), chỉ điểm gần (2), chỉ điểm xa (3) và có tính nghi vấn – phiếm chỉ (4).
Cách phân loại đại từ của Trần Ngọc Thêm thể hiện qua bảng:
1
Điểm
gốc
2
Điểm gần
3
Điểm xa
4
Nghi
vấn –
phiếm
chỉ
N
Người
TÔI (*), MÀY, cậu, anh, y,
TAO,
ông, đồng chí,…
tớ…
HẮN,
Y, thị,
HỌ
NÓ,
CHÚNG,
TẤT CẢ
AI
TA
MÌNH, NHAU
GÌ
V
Sự vật
L
Số lượng
BẤY
NHIÊU
BẤY NHIÊU
BAO
NHIÊU
BÂY
GIỜ,
NAY
BẤY GIỜ
T
Thời
gian
BAO
GIỜ
NÃY, MAI
ĐẤY,
Không
K
gian
ĐÂY
trên,
sau…
D
Dấu hiệu
NÀY
NỌ, ẤY
C
Cách
thức
ĐÓ
KIA
NÀO
THẾ, VẬY
SAO
(*) những đại từ thực thụ được kí hiệu là in hoa, những từ đại từ hóa kí hiệu in thường
Theo Trần Ngọc Thêm, đại từ làm thế tố là một trong “những từ loại có chức
năng liên kết rõ rệt nhất”. Tác giả chỉ ra từng chức năng của nhóm đại từ trong liên kết
văn bản.
Trần Ngọc Thêm xét thế đại từ trong liên kết văn bản theo hai hướng:
- Thế đại từ liên kết khiếm diện và dự báo.
- Thế đại từ liên kết hiện diện hồi quy.
Ở thế đại từ khiếm diện, tác giả chỉ ra những nhóm từ thường chủ yếu thực hiện
chức năng liên kết khiếm diện bao gồm người phát tin (N1) – người nhận tin – N2) –
thời gian gốc (T1) – không gian gốc (K1) và tất cả các nhó khác thuộc tiểu loại 1.
Ví dụ:
Ấy là áng sáng mùa đông. Trên con đường nhựa ven cửa ô thành phố có hai
dòng người.
Ví dụ:
Bấy giờ là đầu mùa hè. Trời ít mưa.
Những đoạn đối thoại trong văn bản truyện, kí,… các liên kết thế đại từ khiếm
diện đã được hiện diện hóa. Tức những mối liên kết đại từ được hiện diện hóa diễn ra
giữa lời tác giả với lời nhân vật.
Ví dụ:
Xe chúng tôi lướt nhanh trên con đường quốc lộ số một giữa những cánh đồng
lúa xanh rì của huyện Tiên Sơn. Như sực nhớ ra điều gì, tiến sĩ Thái Lâm quay sang
hỏi tôi:
- Anh có thuộc vùng này không?
Tối gật đầu, đáp:
- Có, quê tôi cũng ở gần đây.
(Lê Phương – Bạch đàn)
Huấn cầm tay Hằng nói:
Tay em có hơi đen đi nhưng anh lại thấy em đẹp hơn ngày anh mới gặp.
(Nguyễn Thị Ngọc Tú – Buổi sáng)
Trong liên kết khiếm diện bằng đại từ, tác giả còn đề cập đến xu hướng khiếm
diện hóa giả tạo. Xu hướng này, theo tác giả, “ngược lại với xu hướng hiện diện hóa
liên kết khiếm diện”. Ở khiếm diện hóa giả tạo, đối tượng tưởng như khiếm diện ngay từ
đầu văn bản thì đến một lúc nào đó sẽ hiện diện trong văn bản. Trần Ngọc Thêm xem
trường hợp này như “một sự dự báo hóa liên kết hồi quy”.
Ví dụ:
LUYỆN VỚI BIỂN
Ông bị ngọng từ bé. Tại sao? Không thể biết rõ. Nhưng ông quyết chữa bằng
được. Ông tập đọc, tập nói ở trong phòng, một mình. Đọc, nói với từng chữ, từng câu.
Rồi ông ra bãi biển, mồm ngậm sỏi, gào thi với sóng nước.
Chẳng những chữa khỏi tật, mà ông còn trở thành nhà hùng biện của một thời:
COÓCNÂY.
(Tiền phong – số 19, 1984)
Tác giả khẳng định, các đại từ ở tiểu loại 4 có thể mang chức năng liên kết dự
báo khi chúng được sử dụng với nghĩa nghi vấn.
Ví dụ:
Tri thức là gì? Tri thức là hiểu biết.
(Hồ Chí Minh – Sửa đổi lối làm việc)
Các đại từ ở tiểu loại 4 còn được dùng với nghĩa phiếm chỉ. Khi có từ phủ định
đứng trước (không ai, không bao giờ, không đâu, chẳng sao,…) hay có từ cũng đứng
sau để diễn tả phiếm chỉ khẳng định (ai cũng = “tất cả mọi người”, đâu cũng = “khắp
nơi”, bao giờ cũng = “luôn luôn”,…). Với nghĩa phiếm chỉ này, theo Trần Ngọc Thêm,
“không có chức năng liên kết”.
Trong thế đại từ hiện diện hồi quy, theo Trần Ngọc Thêm “những đại từ liên kết
hồi quy có tần số sử dụng cao nhất tập trung vào khu vực N, V- 3 và K, D, C”
[16;tr.150].
Ví dụ:
Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi
thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta.
(Hồ Chí Minh – Những nhiệm vụ cấp bách, 9 – 1947)
Tác giả cho rằng, “những danh ngữ biểu thị khái niệm tập hợp thường được
nhận thức dưới dạng số nhiều và thay thế bằng chúng (họ)”.
Ví dụ:
Điều kiện sống thích hợp của tre là nơi có nhiệt độ trung bình năm trên 220C.
Chúng mọc trên nhiều loại đất khác nhau.
(Tin tức hoạt động khoa học, 8 – 1976)
Trong nhóm NV-3 còn có đại từ tất cả chỉ toàn bộ phần tử tập hợp. Theo tác giả,
“chủ tố của nó thường có dạng liệt kê”. Cũng cần phân biệt tất cả với chức năng liên
kết thế đại từ với phụ từ chỉ toàn bộ tất cả đứng ở đầu danh từ. Phụ từ này không làm
nhiệm vụ thay thế và không có chức năng liên kết.
Ví dụ:
Bàn tay nhỏ của em ta cũng trở thành vũ khí. Bộ ngực nở nang của người ta
yêu cũng trở thành vũ khí. Tấm thân còm cõi của mẹ ta cũng trở thành vũ khí. Lời nói
duyên dáng đậm đà của cô hàng xóm ở góc chợ nay cũng trở thành vũ khí. Tất cả đều
gieo tan rã và cái chết lên đầu giặc.
(Nguyễn Trung Thành – Đường chúng ta đi)
Nếu chủ tố không chỉ người hoặc sự vật thì tùy theo đặc điểm của nó mà lựa
chọn đại từ trong tiểu loại L, T, K, C. Có thể xảy ra sự kết hợp “từ nối + đại từ” có xu
hướng cố định hóa.
Ví dụ:
Hiện nay trình độ của đa số đồng bào ta không cho phép đọc dài, (…) thì giờ
của ta không cho phép xem lâu. Vì vậy cho nên viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy.
(Hồ Chí Minh – Cách viết, 8 – 1952)
Tác giả xét trường hợp đại từ có thể thay thế cho một phát ngôn, một chuỗi phát
ngôn như các đại từ thuộc nhóm K và C. Theo Trần Ngọc Thêm, “ nếu ở kết ngôn nói
đến một không gian, một vị trí, một sự vật (sự vật thường mang tính không gian thì phải
dùng các đại từ K; còn nếu ở kết ngôn nói đến chủ tố như một sự việc, sự kiện, một
cách thức thì phải dùng các đại từ C” [16;tr.154].
Ví dụ:
Không chỉ tham gia các cuộc họp chi bộ tôi mà thôi, tôi còn đến những chi bộ
khác để bênh vực lập trường “của tôi”. Ở đây tôi còn nhắc thêm rằng các đồng chí
Mácsen Casanh, Vaiăng Cutuyarie, Mông Mútxo và nhiều đồng chí khác đã giúp đỡ tôi
hiểu biết thêm.
(Hồ Chí Minh – Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin)
Cá đại từ nhóm C có thể sử dụng độc lập để thay thế cho phát ngôn, chuỗi phát
ngôn trong hai trường hợp:
- Khi đại từ làm vị ngữ hoặc bổ ngữ trong kết ngôn.
Ví dụ:
Nước ta là một nước văn hiến. Ai cũng bảo thế.
(Nguyễn Công Hoan – Công dụng của cái miệng)
- Khi đại từ làm chủ ngữ trong nòng cốt quan hệ đồng nhất (đứng trước từ là).
Ví dụ:
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.
(Hồ Chí Minh – Báo cáo chính trị tại Đại hội II, 2 – 1951)
Có sự kết hợp với danh từ khái quát điều, việc, chuyện, cái, thứ,… dùng kèm với
đại từ phổ biến nhất là này, ấy, đó…
Ví dụ:
Keng phải may một bộ cánh. Việc này không thể cho bố biết được.
(Nguyễn Kiên – Anh Keng)
Trần Ngọc Thêm còn khẳng định, đại từ nhóm D trong kết hợp với danh từ khái
quát “có sức thay thế rất lớn và là những đại từ có tần số cao nhất”. Khi tính cụ thể của
danh ngữ càng tăng thì chức năng thay thế của đại từ càng mờ đi thì “xuất hiện một
phép thế đồng nghĩa bên cạnh thế đại từ”.
Ví dụ:
Sau hết, tôi lại có dịp ghé lại nhà chồng cô Nghị. (Tôi bước xuống nhà dưới và
cũng như lần trước, chỉ có một mình Nghị trong nhà. Bà mẹ chồng Nghị lúc này đã trở
ra sau vườn. Cha chồng nghị đi đào hầm làm xã chiến đấu chưa về. Chị Sáu đi họp,
con Hiếu theo mẹ.) Tôi cho đó là nếp sinh hoạt bình thường trong gia đình này.
(Trần Hiếu minh – Sóng Cửu Long)
Trong ví dụ này, cặp nhà – gia đình là thế đồng nghĩa, còn cặp chồng cô Nghị này là thế đại từ.
Tác giả còn nói: “đại từ thay thế phải được lựa chọn sao cho phù hợp với chủ tố
về tiểu loại và các nét nghĩa phạm trù khác” [16;tr.159]. Vi phạm điều kiện này sẽ dẫn
đến lỗi sử dụng phép thế đại từ.
2.1.2. Quan điểm của Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Quanh Ninh, Trần Ngọc Thêm
Trong Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn
Quang Ninh, Trần Ngọc Thêm đề cập đến thay thế trong các phương tiện liên kết. Tuy
nhiên, xuất phát từ thuật ngữ liên kết câu (liên kết liên câu) chứ không dùng thuật ngữ
liên kết văn bản. Các tác giả cho rằng “sự móc nối các câu là biểu hiện của sự móc nối
các tư tưởng. Văn bản càng nhiều câu, sự móc nối các tư tưởng càng trở nên phức tạp
và đa dạng. Các câu tạo thành một mạng lưới dày đặc của những mối quan hệ, trong
đó từng câu phải nằm trong mạng lưới và gắn bó không thể tách rời các câu khác.
Những mối quan hệ đó giữa các câu được ngôn ngữ học văn bản gọi là sự liên kết liên
câu” [4;tr.14]. Các tác giả không phân loại phép thế mà khẳng định “đại từ như một
phương tiện liên kết câu”. Trong số các đại từ thì hai đại từ nhân xưng: nó và chúng
được dùng nhiều nhất. Bởi lẽ, theo các tác giả, chúng có thể thay thế cho nhiều đối
tượng, nhiều sự kiện và hiện tượng khác nhau. Chúng thay thế được cho cả người và
vật.
Ví dụ:
Chà! Chà! Béo ơi là béo! Béo đến nỗi có thằng dân nào vô ý, buột mồm nói một
câu sáo rằng: Nhờ bóng quan lớn”, là ông tưởng ngay nó nói xỏ ông.
(Nguyễn Công Hoan – Đồng hào có ma)
Trong câu, đại từ nó thay thế cho thằng dân nào được nói ở phần trên của câu và
giúp liên kết chặt chẽ trong câu. Nhưng nó không gắn với câu trước đó nên không có
chức năng liên kết câu.
Ví dụ:
Những con tàu sơn trắng đậu san sát, tung bay cờ đủ màu sắc của các nước.
Trong chúng như những tòa lâu đài nổi, ẩn hiện giữa sương mù.
(Đoàn Giỏi – Bến Nhà Rồng)
Đại từ chúng không thay thế cho bộ phận nào trong câu chứa nó mà lại thay thế
cho những con tàu sơn trắng ở câu trước. Ở đây, đại từ chúng trở thành một phương
tiện liên kết.
Ngoài đại từ nhân xưng, các đại từ chỉ định cũng được dùng rộng rãi để làm
phương tiện liên kết câu. Các tác giả xét riêng trường hợp của các đại từ chỉ định như
đó, tất cả và khả năng thay thế của chúng.
Ví dụ:
Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
(Hồ Chí Minh – Tinh thần yêu nước)
Cảnh hừng đông mặt biển nguy nga, rực rỡ. Phía hai bên, những đám mây
trắng hồng hầu như dựng đứng, hơi ngả về phía trước. Tất cả đều mời mọc lên
đường.
(Bùi Hiển – Ra khơi)
Ngoài ra, các tác giả còn đề cập đến “các từ đại từ hóa cũng có thể thực hiện
chức năng liên kết câu”.
Ví dụ:
Rõ ràng Trống Choai của chúng ta đã hết tuổi bé bỏng thơ ngây. Chú chẳng
còn phải quấn quýt quanh chân mẹ nữa rồi.
(Hải Hồ - Chú Trống Choai)
Các tác giả còn đưa ra nguyên tắc, sử dụng đại từ thay thế phải phù hợp với đối
tượng được thay thế. Và để tránh văn bản trở nên mơ hồ, từ thay thế “được đặt ngay
sau câu có chứa đối tượng”.
Ngoài ra, các tác giả còn đề cập đến thế đồng nghĩa. Các tác giả cho rằng, thế
đồng nghĩa là “việc thay thế tên gọi của đối tượng bằng những tên gọi khác” [4;tr.50].
Ví dụ:
Nghe chuyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi tưởng tượng đến một trang nam nhi,
sức vóc khác người, nhưng tâm hồn còn thô sơ giản dị, như tâm hồn của tất cả mội
người thời xưa. Tráng sĩ ấy gặp lúc quốc gia lâm nguy đã xông pha ra trận đem sức
khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù Đổng vẫn
còn ăn một bữa cơm.
(Nguyễn Đình Thi – Sức sống của nhân dân Việt nam trong ca dao và cổ tích)
Ví dụ trên đề cập đến đói tượng duy nhất nhưng người viết đã dùng nhiều tên gọi
khác nhau để chỉ đối tượng đó: Phù Đổng Thiên Vương – trang nam nhi, tráng sĩ ấy,
người trai làng Phù Đổng.
2.1.3. Quan điểm của Diệp Quang Ban
2.1.3.1. Ở hướng thứ nhất, Diệp Quang Ban cũng chia phép thế thành hai dạng: thế
đồng nghĩa và thế đại từ. Ở hướng này, tác giả trình bày “ một cách giản lược phần
tương ứng trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, có thay đổi cách diễn đạt để phù
hợp với đông đảo bạn đọc” [3;tr.121].
Theo tác giả, thế đồng nghĩa là “việc sử dụng trong câu kết yếu tố (từ, cụm từ) có
cùng nghĩa với yếu tố tương ứng ở câu chủ, để tạo liên kết giữa hai câu” [3;tr.125].
Trong thế đồng nghĩa, tác giả cũng chia thành bốn dạng:
- Thế đồng nghĩa từ điển
Phụ nữ lại càng cần phải học. Đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới.
(Hồ Chí Minh)
- Thế đồng nghĩa phủ định
Nó phải đi hết chỗ này chỗ nọ, để kiếm cái nhét vào dạ dày.
Để nó sống.
Vì nó chưa chết.
(Nguyễn Công Hoan)
- Thế đồng nghĩa miêu tả
Cai lệ1 tát vào mặt chị một cái bốp (…). Chị Dậu2 nghiến hai hàm răng (…) túm
lấy cổ áo hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện1 chạy không kịp với
sức xô đẩy của người đàn bà lực điền2, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất (…).
- Thế đồng nghĩa lâm thời
Một số phường săn đến thăm dò để giăng bẫy bắt con cọp xám. Nhưng con ác
thú tinh lắm, đặt mồi to và ngon đến đâu cũng không lừa nổi nó.
(Truyện cổ tích Nghè hóa cọp)
Tác giả cũng nói thêm, “tên gọi thế đồng nghĩa có tính chất quy ước, hiểu đồng
nghĩa trong nghĩa rộng, không đơn giản chỉ dùng từ đồng nghĩa” [3;tr.125].
Ở dạng thức thứ hai, tác giả cho rằng thế đại từ là “việc sử dụng câu kết yếu tố
đại từ tính (đại từ, tổ hợp từ có tính chất đại từ) thay thế cho yếu tố tương ứng với nó ở
câu chủ, để tạo liên kết” [3;tr.129].
Trong thế đại từ, tác giả phân biệt hai trường hợp: liên kết đại từ hồi chiếu và
liên kết đại từ khứ chiếu.
- Liên kết đại từ hồi chiếu “diễn ra khi yếu tố được thay thế đứng trước yếu tố
thay thế (tức đại từ)” [3;tr.129]. Thuật ngữ hồi chiếu tương ứng với thuật ngữ hồi quy
của Trần Ngọc Thêm.
Ví dụ:
Đáng lẽ vấn đề phải được trình bày rõ ràng, gãy gọn, thì anh đã nói một úp mở,
lờ mờ và chẳng qua cái gì gọi là bằng cớ. Chính anh, anh cũng tự cảm thấy thế.
(Vũ Thị Thường)
- Liên kết đại từ khứ chiếu “có mặt khí yếu tố thay thế (tức đại từ) đứng trước
yếu tố được thay thế” [3;tr.129]. Thuật ngữ khứ chiếu tương ứng với thuật ngữ dự báo
của Trần Ngọc Thêm.
Ví dụ:
Không biết đứa chế mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nổi này? A
ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra
cái thằng Chí Phèo!
(Nam Cao)
2.1.3.2. Ở hướng thứ hai, tức quan niệm liên kết phi cấu trúc tính, tác giả đã đề cập đến
phép quy chiếu và phép thế.
Theo tác giả, phép quy chiếu “xuất phát từ yếu tố ngôn ngữ có nghĩa chưa cụ thể
ở một câu nào đó cần được giải thích bằng yếu tố ngôn ngữ có nghĩa cụ thể ở câu khác,
trên cơ sở đó hai câu liên kết với nhau” [3;tr.148]. Yếu tố có nghĩa chưa cụ thể được
gọi là yếu tố được giải thích, yếu tố còn lại là yếu tố giải thích. Trong phép quy chiếu
có ba trường hợp: quy chiếu chỉ ngôi, quy chiếu chỉ định và quy chiếu so sánh.
Theo tác giả, “quy chiếu chỉ ngôi là trường hợp sử dụng các yếu tố chỉ ngôi với
tư cách là những yếu tố có nghĩa chưa cụ thể ở câu này xét trong mối quan hệ với yếu
tố có nghĩa cụ thể tương ứng ở câu khác, trên cơ sở đó, hai câu chứa chúng liên kết với
nhau” [3;tr.149]
Ví dụ:
Thứ trầm ngâm bằng cái vẻ quen thuộc của y. San khe khẽ cười vô cớ. Họ rất sợ
tở ra mình là người khó tính”
(Nam Cao)
Từ họ có nghĩa chưa cụ thể phải quy chiếu đến câu trước để biết họ chính là Thứ
và San.
Quy chiếu chỉ định là “trường hợp sử dụng các tổ hợp gồm danh từ có nghĩa cụ
thể cũng như danh từ chỉ loại cùng với các chỉ định từ này, nọ, ấy,… để tạo ra những tổ
hợp có tính chất xác định (hiểu trong thế đối lập với phạm trù phiếm định của danh từ),
nhưng nghĩa chưa cụ thể như bà ấy, anh kia, cái bàn ấy, em học sinh này, … cái đó,
con ấy, việc này,… và đặt chúng trong mối quan hệ nghĩa với những yếu tố có nghĩa cụ
thể trong câu khác, trên cơ sở đó tạo được tính liên kết giữa hai câu chứa chúng”
[3;tr.152].
Ví dụ:
Làm việc gì đều phải có vốn. Đối với văn nghệ sĩ, vốn ấy là vốn gì? Đó là vốn
chính trị, vốn văn hóa, vốn văn nghệ. Ba loại vốn đó điều quan trọng, không nên coi
nhẹ loại nào.
Vốn ấy bản thân chưa có nghĩa cụ thể và được xác định là phải có vốn. Ba loại
vốn đó cũng được xác định và giải thích bởi vốn chính trị, vốn văn hóa, vốn văn nghệ.
Quy chiếu so sánh “là trường hợp sử dụng trong câu những tổ hợp có nghĩa cụ
thể và có chứa những ý nghĩa so sánh, như cái tương tự, cái bàn lớn hơn, cái… và dặt
chúng trong mối liên hệ nghĩa với những yếu tố có nghĩa cụ thể trong câu khác”
[3;tr.155].
Ví dụ:
Bạn tôi thích áo màu đỏ. Tôi thì thích màu khác kia.
Riêng trong phép thế, tác giả cho rằng “cái được quan tâm là yếu tố thế”. Yếu tố
thế có thể thay thế cho:
- Danh từ (cụm danh từ).
Ví dụ:
Đoàn du lịch sẽ đến Hội An vào trưa mai. Đoàn sẽ ở lại đấy một ngày đêm.
- Động từ/ tính từ (cụm động từ/ cụm tính từ):
Ví dụ:
Đáng lẽ vấn đề phải được trình bày rõ ràng, gãy gọn thì anh đã nói một cách úp
mở, lờ mờ và chẳng có qua cái gì gọi là bằng cớ. Chính anh, anh cũng tự cảm thấy
thế.
Đại từ “thế” thay thế cho cụm danh từ “nói một cách úp mở, lờ mờ và chẳng có
qua cái gì gọi là bằng cớ”.
- Mệnh đề (còn gọi là kết cấu chủ - vị, hay cú)
Ví dụ:
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
2.1.4. Quan điểm của Nguyễn Thị Ảnh
Trong Tiếng Việt thực hành, Nguyễn Thị Ảnh chia phép thế thành hai loại: thế
đồng sở chỉ và thế đại từ. Tác giả nói thêm việc tách thành hai loại là để “tiện việc theo
dõi” mặc dù trên thực tế “chúng chỉ là một”.
Nói về thế đồng sở chỉ, đây “là thay thế một tên gọi nào đó ở chủ ngôn bằng
những tên gọi khác ở kết ngôn” [2;tr.180].
Ví dụ:
Cai lệ tát vào mặt chị một cái bốp (…). Chị Dậu nghiến hai hàm răng (…) túm
lấy cổ hắn, ấn giúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với xô
đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất.
Ở đây tên cai lệ được thay thế bằng anh chàng nghiện, chị Dậu được thay thế
bằng “người đàn bà lực điền”.
Thế đại từ, theo tác giả, “là thế đồng sở chỉ nhưng có đặc điểm là bằng cách
dùng đại từ” [2;tr.182]
Những đại từ và từ ngữ đại từ hóa thường dùng: đây, đấy, đó, ấy, kia, thế, vậy,
này, nó, chúng, họ,… anh, chị, cô, chú, bác,… ở kết ngôn thay thế cho tên gọi nêu ở
chủ ngôn.
Ví dụ:
Đạo đức cách mạng không phải do từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng có khi đại từ thay thế cho toàn bộ chủ ngôn.
Ví dụ:
Nước ta là một nước văn hiến. Ai cũng bảo thế.
2.1.5. Quan điểm của Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng
Các tác giả chia phép thế thành hai loại:
- Thế bằng đại từ "câu đi sau dùng đại từ thay thế cho một từ, một ngữ ở câu
trước"[17;tr.50].
Ví dụ:
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
(Hồ Chí Minh)
- Thế bằng từ đồng nghĩa gần nghĩa
Ví dụ:
Ông Tám Xẻo Đước chết làm cho quan giặc khiếp sợ. Sự hi sinh của ông khiến
cho đồng bào quyết tâm hơn.
2.1.6. Quan điểm một số tác giả khác
Ngoài ra, trong Các phương tiện liên kết và tổ chức văn bản, Nguyễn Chí Hòa đề
cập đến phép thế nhưng với sự định danh quan hệ móc xích về phương diện cấu trúc.
Tức là ông xét đến vị trí ngữ pháp trong hai câu liên kết với nhau. Ông đã xác định các
quan hệ móc xích đồng nghĩa như :
- Quan hệ móc xích tương đồng nghĩa chủ ngữ - chủ ngữ:
Hai hôm nay, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh,
thải ra thứ nước nâu sền sệt, rất khắm.
(Nguyễn Huy Thiệp)
- Quan hệ móc xích tương ứng nghĩa trạng ngữ - chủ ngữ:
Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu.
(Nguyễn Huy Thiệp)
- Quan hệ móc xích tương ứng nghĩa vị ngữ - bổ ngữ:
Bao nhiêu vụ ly dị! Bao nhiêu cuộc ngoại tình? Con gái theo giai đùng đùng,
đàn ông chê vợ hàng lũ, lại vừa có cả một ông huyện treo ấn từ quan để theo một cô
gái tân thời.
(Vũ Trọng Phụng)
- Quan hệ móc xích tương ứng nghĩa bổ ngữ - chủ ngữ:
Bà Diêu thuê một con đò sáu chỗ ngồi, cả lượt đi lượt về mà giá chỉ tương
đương với năm đấu gạo. Lái đò là một cô gái rất xinh, mau mồm miệng.
- Quan hê móc xích tương ứng nghĩa bổ ngữ - vị ngữ:
Người ta cho bệnh nhân ăn mấy lá rau xam, rau thài lài, và uống nước ruộng
ấy. Thật là thuốc thánh !
Song song đó, ông cũng phân loại quan hệ móc xích đại và tương đương đại từ
như :
- Đại từ ngôi ba:
Dân chúng cầu lợi. Chỉ cần tý lợi là họ sẽ a dua bu tới.
(Vũ Trọng Phụng)
- Kết từ + đại từ:
Con khỉ cái quay lại nhìn ông. Đôi mắt nó sợ hãi kinh hoàng.
(Nguyễn Huy Thiệp)
- Danh từ thân tộc:
Ông Liên sống đến tám mươi tuổi. Ông có ba vợ, năm con tai, sáu con gái.
- Danh từ + định tố chỉ định:
Giữa lúc ấy, cô Tuyết bước vào. Cô này là con út cụ Hồng...
(Vũ Trọng Phụng)
- Danh từ chỉ loại:
Vũ không nói được hết câu... Chàng chỉ loáng thoáng nghe thấy tiếng Hoàng
mắng vợ.
(Nguyễn Huy Thiệp)
Tiếp thu công trình Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm,
công trình Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt của Nguyễn Thị Việt Thanh đề cập đến
phép thế. Tác giả đã đối chiếu liên kết văn bản với liên kết lời nói để đưa ra những kết
luận về phương diện liên kết lời nói. Tuy nhiên, về phương diện liên kết văn bản, tác
giả tiếp thu hoàn toàn công trình của Trần Ngọc Thêm. Tác giả cho rằng thế đồng nghĩa
"được thực hiện bằng việc thay thế tên gọi của một đối tượng nào đó có trong chủ ngôn
bằng một tên gọi hoặc một ngữ đoạn khác có giá trị biểu vật tương đương" [15;tr.34].
Trong thế đại từ, đại từ tham gia "liên kết hiện diện là chủ yếu". Còn liên kết khiếm
diện chỉ được dùng khi muốn đưa vào văn bản chính toạ độ gốc.
2.2. Nhận xét
Phải nói rằng, Trần Ngọc Thêm đã nghiên cứu một cách hệ thống về phép thế
cũng như liên kết văn bản. Tác giả đã có những kiến giải về phép thế một cách khá chi
tiết, khảo sát từng trường hợp cụ thể để đưa ra những kết luận có giá trị làm nền tảng
cho các công trình sau đó. Tuy nhiên vẫn có một số vấn đề về cách phân loại phép thế
chưa được thỏa đáng.
Thứ nhất: Tiêu chí mà Trần Ngọc Thêm phân loại phép thế chưa được thống
nhất. Tác giả chia thành hai dạng thức: thế đồng nghĩa và thế đại từ. Rõ ràng, một dạng
thức được xét về phương diện ngữ nghĩa và một dạng thức là phương tiện thay thế trong
phép thế.
Thứ hai: Trong thế đồng nghĩa có bốn trường hợp: thế đồng nghĩa từ điển, thế
đồng nghĩa phủ định, thế đồng nghĩa miêu tả và thế đồng nghĩa lâm thời. Nhưng ở hai
trường hợp thế đồng nghĩa miêu tả và thế đồng nghĩa lâm thời lại có những kiến giải
chưa thật sự thuyết phục. Cụ thể như việc tác giả lấy ví dụ:
Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như
cắt, chị nắm ngay được gậy của hắn (…). Kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu
hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
(Ngô Tất Tố - Tắt đèn)
Từ đó, tác giả xác định người nhà lí trưởng đồng nghĩa miêu tả với anh chàng
hầu cận ông lí hay chị Dậu đồng nghĩa miêu tả với chị chàng con mọn. Thực chất, anh
chàng hầu cận ông lí đúng là thay thế cho đối tượng người nhà lí trưởng, cả hai cùng
hướng về một đối tượng. Tương tự như vậy, tác giả cho rằng trâu và con vật là dạng
đồng nghĩa lâm thời. Thực tế, giữa trâu và con vật không hề đồng nghĩa, không hề có
sự “ đồng nhất được thừa nhận mà không cần tuyên bố”. Nếu đặt trong văn cảnh, chúng
cùng nói về một đối tượng.
Thứ ba: ở thế đại từ, tác giả chia thành 28 nhóm nhỏ và chỉ ra giá trị liên kết của
từng nhóm. Nhưng vấn đề đặt ra là có phải tất cả các đại từ 28 nhóm ấy đều có giá trị
liên kết. Điều này chi phối đến quan điểm chia thế đại từ theo hai trường hợp: thế đại từ