TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÀN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
HUỲNH BÉ TÂM
HÌNH TƯỢNG SƠNG NƯỚC
TRONG CA DAO DAN CA TRU TINH NAM BO
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn:
LÊ THỊ DIỆU HÀ
Cần Thơ, 4 - 2011
LỜI MỞ ĐẦU
va LLa
Thwa quy thay cé cing tat cd cdc ban sinh vién than mén! Trong suét bốn năm học có
thể nói luận văn tốt nghiệp là một trong những cơng trình nghiên cứu mà ai cũng mong
muốn được thực hiện. Bởi qua đó, chúng ta vừa tổng hợp và thực hành những kiến thức đã
học tập được trong bốn năm, vừa tiếp thu thêm nhiễu kiến thức mới, đề sau khi ra trường có
thể làm việc tốt hon. Voi tơi, ngồi những ý nghĩa trên, đến với cơng trình nghiên cứu này,
tơi cịn học thêm rất nhiêu điều cả về kiến thức học tập và kiến thức cuộc sống.
Trong đó, tơi cảm nhận được sự thân thiện, quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ của thay cô,
của bạn bè nhiều hơn. Qua đây, cho tôi gửi lời cám ơn chân thành nhất và sâu sắc đến tắt
cả mọi người, đặc biệt cô Lê Thị Diệu Hà đã nhiệt tình giúp đỡ tơi hồn thành tốt cơng
trình nghiên cứu của mình. Cám ơn các cán bộ quản lý thư viện của truong, cua khoa da
tạo điều kiện thuận lợi cho tơi tìm kiếm tài liệu nghiên cứu. Dù rất cơ gắng trong suốt q
trình nghiên cứu, nhưng sẽ khơng tránh khỏi những sai sót nhỏ trong luận văn này. Rất
mong quý thầy cô, cùng tất cả các bạn sinh viên đọc và đóng góp ý kiến. Để cho những
cơng trình nghiên cứu tiếp theo sẽ hồn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn! Cuối lời xin chúc quý thầy cô, cùng tất cả các bạn sinh viên,
luôn đôi dào sức khỏe, luôn thành đạt trong công việc và cuộc sống.
Trân trọng!
Tác giả
PHÁN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
*.,. Theo cơn gió, theo con nuodc
Tơi đi về phương Nam xa xơi.
Bơng bênh dịng sơng mênh mơng sóng nước,
Bầu trời trong xanh bao la thấp thống.
Nắng - gió bát ngát say lịng người!
Về phương Nam, ngắm con sơng dài,
Ngắm lục bình trơi, nghe bìm bịp kêu
Nước rịng nước lớn...
Về đây nghe, tình anh bán chiếu
Nghe thơ ông đô,
Nghe ho xé xang, xé cong u liéu.
Người phương Nam, chân chất thật thà
Mộc mạc như, một khúc dân ca... `
Vâng, đó là ca từ của bài hát “Nắng Gió Phương Nam” do nhạc sĩ Nhất Sinh sáng tác
nên. Một bài hát mà tơi thích nghe nhất, bởi không chỉ ca từ mộc mạc, gần gũi — nhịp điệu
tươi sáng, trữ tình sâu lắng...mà bài hát cịn mang lại cho tôi niềm tự hào về con người, về
cảnh sắc thiên nhiên và q hương của tơi. Đó chính là Nam Bộ miền đất Cửu Long với
chín nhánh sơng hiền hịa, đăm thắm, trữ tình.
Chính nơi đây, đã động mãi trong ký ức của tôi về một thời thơ ấu đẹp — về niềm tự
hào với cảnh sắc thiên nhiên sơng nước mang nặng phù sa hịa quyện với miền đất màu mỡ
và hơn bao giờ hết chính là tính tình thật tha, chất phát cũng như bản sắc của con người
Nam Bộ - con người quê hương tơi. Thích lắm, nhớ lắm với biết bao buổi chiều được đắm
mình dưới dịng sơng q, cùng những đứa bạn chơi trò lặn trên. Rồi những lúc cùng nhau
đi thả câu, bắt cá; những lúc rủ nhau đi lượm ban chín rụng dọc dưới bờ sơng, về cùng chia
nhau mà ăn... Là một người con của Nam Bộ, có hạnh phúc và tự hào nào bằng khi được
nói về quê hương mình, nói về những hình tượng thân quen — những hình tượng mà thiên
nhiên đã ban tận và gắn bó với miền sơng nước, cũng như nó đã đi vào những tác phẩm văn
học, đi vào ca đao và đặc biệt đi vào tiềm thức của mỗi con người q hương tơi. Cho nên,
đó là lý do làm tơi thích và chọn đề tài này... !!!
2. Lịch sử vân đê.
Như chúng ta biết, Ca dao Nam Bộ là một phân quan trọng trong kho tàng ca dao
Việt Nam nói riêng và Văn học dân gian nói chung. Chính vì vậy, mà có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu về nó. Những cơng trình tiêu biểu và đáng kế đó là: các sách sưu tầm, các
đề tài nghiên cứu, các bài viết - bài cảm nhận nói về ca dao Nam Bộ. Con voi dé tài “ hình
tượng thiên nhiên liên quan sông nước trong ca đao Nam Bộ ” mặc đù là đề tương đỗi mới,
song cũng có khơng ít tác giả đã khảo sát các vấn đề mà nội dung có liên quan khá lớn đến
đề tài. Cụ thể như:
Trong quyên “Cảm nhận ca dao Nam bộ” của tác giả Trần Văn Nam, có rất nhiều ý
tơng hợp hay và phát hiện mới có liên quan đến đề tài. Đó là tác giả có chỉ ra được các yếu
tố là nên tảng của đặc trưng văn hóa Nam Bộ. Trong đó, có đề cập đến yếu tơ “ van minh
kênh rạch ”; đặc biệt chễ độ dòng chảy của các con sơng Nam Bộ. Ở góc nhìn thi pháp tác
giả có phân loại rất kỹ và rất sâu về câu trúc của các biểu trưng trong ca dao Nam Bộ trên
hai bình diện (định tính và định lượng). Tác giả dẫn
chứng
nhiều bài ca dao có chứa các
hình tượng thiên nhiên liên quan sơng nước. Nhìn chung ở qun sách này, tác giả đã tông
hợp và giới thiệu được nội dung, nghệ thuật của các biểu trưng trong ca dao Nam Bộ, cũng
như những đặc trưng văn hóa Nam Bộ. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu vào phân tích “ hình
tượng thiên nhiên liên quan sơng nước trong ca dao Nam
Bộ
,
” một cách độc lập, mà còn
đang xen giữa các yếu tổ liên quan sông nước thuộc về vật thể nhân tạo.
Cịn trong bài viết “Hình tượng sơng nước trong ca dao dân ca trữ tình Nam Bộ”
của tác giả Trần Thị Diễm Thúy cũng có nhiều phân tích — tơng hợp sâu và rộng hơn. Đó
là:
“ Hình tượng sơng khơi dậy ý niệm một cái gì đó mênh mông vô tận nên xu hướng phổ
biến nhất là lấy đặc điểm hình thể: dài, rộng, sâu, bao la của sông để gợi liên tưởng về sự
xa cách, sự bên vững, về cái lớn lao, vô tận... `|2Š ; Tr.2]
sự vật có liên quan
“ Xu hướng mượn những
với sơng để gợi những liên tưởng khác nhau về thân phận con người,
về đời người... ”|28; Tr.3] Hoặc:
chính con người,
Hay:
tình cảm
xoay quanh hình tượng
“Xu hướng mượn hình tượng sơng làm biểu tượng về
con người... ` [28; Tr.4]
Mặc
dù, ở bài viết này tác giả chỉ
“sơng” chưa khảo sát các hình tượng thiên nhiên liên quan sông
nước khác trong ca dao Nam Bộ. Nhưng qua đó tác giả cho chúng ta thấy được giá trị biểu
trưng của hình
tượng “sơng” nó rất rộng, cụ thể, hợp logic cả về nội dung và nghệ thuật.
Ở góc nhìn nội dung và nghệ thuật, tơi rất đồng tình với tác giả và sẽ tiếp nhận làm cơ sở
cho đê tài của mình.
Hay trong bài viết
“ Ngôn ngữ vùng sông nước Nam Bộ
” của tác giả Trần Kiều
Quang cũng có đề cập đến giá trị biêu trưng của một số hình tượng thiên nhiên liên quan
sơng nước như: hình tượng cá sặc răn ( trong ngơn ngữ nhằm nói người thợ cắt tóc mới ra
nghề), hình tượng nước lớn rịng (trong ngơn ngữ nhăm nói những giai đoạn thăng trầm của
con người), hình tượng cây điên điển ( trong ngơn ngữ nhăm nói về những chàng rễ mà vị
trí của họ thấp bé, khơng có nghĩa gì, có cũng như khơng trong gia đình vợ). Nhưng chưa
thay tac gia dẫn một bài ca dao nào có chứa các hình tượng cụ thể. Mặc dù vậy, tác giả cũng
có liệt kê khá kỹ về các từ định danh cho hình tượng dịng nước như: sơng, đ8ỊIi, tương,
máng,
lạch, kinh, ao, hồ,
rạch, xéo, ngọn,
rọc, don, lang, lung, bung, biên,
dung, dam, dia,
trap vũng, trũng, tắc, gành, xáng, doi, vịnh, bàu...Hay các từ miêu tả sự vận động của dịng
nước
như:
⁄Ĩc
rịng,
nước
bị, nước
chét,
nuoc sdt, nudc
chảy,
nước
nước
rong,
nước
đứng,
rac, nudc
cường,
trốt, nước xi, nước răm...[25;
tơng hợp và có đóng góp cho
nước
kém,
nắm,
nudc
nước
nước ghẻ,
trơi, nuoc SUl, HƯỚC dénh,
chừng,
nước
nước nhảy,
nuoc
giut,
nudc wong,
nudc
tha, nudc ngua,
nudc
nhung,
nước
Tr.4] Đó cũng là một trong những khảo sát hay, có tính
các để tài nghiên cứu sau này, về ngơn ngữ và hình tượng
thiên nhiên liên quan sơng nước trong ca dao Nam Bộ.
Cịn tác giả Nguyễn Phương Thảo trong quyên “Văn hóa dân gian Nam Bộ những
phác thảo” cũng đề cập một vài nội dung có liên quan đến đề tài này. Cụ thể tác giả có phát
hiện về tác động của hình tượng “sơng” và “nước” trong đặc trưng văn hóa của con người
Nam Bộ. Ấy là văn hóa định cư, lập làng của họ. Nhưng tác giả chỉ khảo sát ở góc nhìn văn
hóa, chưa thấy tác giả đi sâu vào các hình tượng thiên nhiên liên quan sơng nước trong ca
dao Nam Bộ ở các khía cạnh. Và chưa thay tac gia dẫn một bai ca dao có các hình tượng
thiên nhiên liên quan sông nước. Cho nên, phát hiện này chỉ nhằm phục vụ cho khía cạnh
thể hiện đặc trưng văn hóa Nam Bộ.
Nói tóm lại, qua các cơng trình nghiên cứu vừa nêu ở trên, ta có thể khăng định nó có
những phát hiện — những khám mới. Tuy nhiên, so với đề tài “ hình tượng thiên nhiên liên
quan sơng nước trong ca dao Nam Bộ” nó vẫn cịn thiêu, vẫn chưa phải là một cơng trình
nghiên cứu trọng tâm nhắm vào đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu.
Ở những cơng trình nghiên cứu trước đây, khi nói về hình tượng liên quan về sơng
nước trong ca dao Nam Bộ. Thường chúng ta thấy, người nghiên cứu “ứổng hợp” chung các
hình tượng lại với nhau đê phân tích, so sánh, đôi chiêu rôi rút ra giá trị nội dung và nghệ
thuật của nó. Chứ chưa thấy người nghiên cứu, tách chúng ra riêng theo hai đối tượng. Thứ
nhất, đối tượng nghiên cứu là những hình tượng là vật thể thiên nhiên liên quan đến sông
nước trong ca dao Nam Bộ. Thứ hai, đối tượng nghiên cứu là những hình tượng là vật thê
nhân tạo liên quan sông nước trong ca dao Nam Bộ.
Vì vậy, mục đích nghiên cứu của đẻ tài này là cỗ găng tập hợp có hệ thống những hình
tượng thiên nhiên liên quan sơng nước trong ca dao Nam Bộ. Sau đó, phân tích làm rõ được
giá trị nội dung theo chủ đề và biểu hiện nghệ thuật của chúng trong ca dao Nam Bộ: đồng
thời qua những hình tượng đó khái qt lên được những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ.
4. Phạm vỉ nghiên cứu.
Ca dao Nam Bộ là ca dao của vùng sông nước - miệt vườn. Chính vì vậy, số lượng
hình tượng thiên nhiên liên quan đến vùng sông nước — miệt vườn rất phong phú và đa
dạng. Cho nên, để nghiên cứu hết tất cả các hình tượng đó là vẫn đề rất rộng. Trong khuôn
khổ cho phép, ở đề tài này tơi chỉ khảo sát, nghiên cứu những hình tượng thiên nhiên liên
quan sông nước Và trong phạm vị thuộc ca dao Nam Bộ.
Tuy nhiên, vẫn có sự liên hệ so sánh với ca dao cô truyền, ca dao của các vùng miễn
khác trong một số trường hợp cụ thẻ, để rút ra được những đặc trưng của các hình tượng mà
đề tài đang nghiên cứu. Vẻ tài liệu tham khảo chính trong đề tài này gồm thứ tự ba tài liệu
như sau: Quyền “ Ca đao Đồng Tháp Mười ” là tài liệu thứ nhất (TLI), Quyên “Cảm nhận
Ca dao Nam Bộ ` là tài liệu thứ hai (T2), Quyền * Tĩnh hoa Văn hóa dân gian người Việt —
Ca dao quyền I,VII ” là tài liệu thứ ba (TL3). Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, đề tài
cịn tiếp nhận và trích dẫn một số tài liệu phụ khác.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Giống như các cơng trình nghiên cứu trước, tôi cũng dùng các phương pháp quen
thuộc như: Liệt kê, so sánh, phân tích, đối chiếu, liên ngành...Nhưng trước đó, tơi bám sát
vào ba tài liệu chính là: “Ca dao Đông Tháp Mười, Cảm nhận Ca dao Nam Bộ, Tỉnh Hoa
Văn hóa dân gian người Việt ” và đùng phương pháp thơng kê để tập hợp các hình tượng,
gom chúng về chung một bảng hệ thống các hình tương thiên nhiên liên quan sông nước
trong ca đao Nam Bộ. Trong đó, các hình tượng được sắp xếp theo trật tự của từng mảng hệ
thống các hình tượng: cụ thê theo ba mảng hệ thống hình tượng sau day: “ Hé thong hinh
tượng thiên nhiên liên quan sông nước là địa lý, hệ thơng hình tượng thiên nhiên liên quan
sơng nước là thực vật và hệ thong hình tượng thiên nhiên là động vát ” ; thứ tự của từng
hình tượng trong mơi mảng sẽ do tân sơ xt hiện của nó qut định. Với những tân sơ thu
được từ bảng thống kê theo từng mảng của hệ thống hình tượng, tơi sẽ tiếp tục đi sâu vào
phân tích giá trị nội dung theo chủ đề cũng như biểu hiện nghệ thuật của các hình tượng
trong các bài ca dao Nam Bộ.
Thí dụ:
Hình tượng “sơng” trong mảng hệ thống hình tượng thiên nhiên liên quan sơng nước
là địa lý, vậy biểu hiện giá trị nội dung theo chủ đề và biểu trưng nghệ thuật của nó như thế
nào trong ca dao Nam Bộ chăng hạn? Hay qua hình tượng “sơng” nó có ý nghĩa gì đến
những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ?
Nói chung, phương pháp chính ở đề tài này là khảo sát (thống kê) và xốy sâu (so
sánh, phân tích, liên ngành...) vào các hình tượng thiên nhiên liên quan sông nước trong ca
dao Nam Bộ. Đề làm nỗi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của các hình tượng. Cho nên, đề
tài hạn chế sử dụng các hình tượng năm ngồi hệ thống, hay nó rõ hơn đó là hình tượng
thuộc về vật thể nhân tạo liên quan sơng nước. Nếu có đó cũng chỉ là những hình tượng
mang tính chất hỗ trợ, nhằm làm nỗi bật cho hình tượng thiên nhiên liên quan sông nước,
theo ý định của người nghiên cứu.
PHAN NOI DUNG
CHUONG1
KHAI QUAT CAC HINH TUONG THIEN NHIEN
LIEN QUAN SONG NUOC TRONG CA DAO NAM BO
1.1 Khái quát về ca dao Nam Bộ
1.1.1
Khái quát về vùng đất và con người Nam Bộ
a. Vùng đất Nam Bộ
Chúng ta biết, Nam Bộ là vùng đất mới, ngay từ thế kỉ XVI — XVII
cư dân người
Việt đã sớm đặt chân lên vùng đất phía Nam này. Cuộc khai khân ấy được chính thức bắt
đầu từ thời chúa Nguyễn và có thể nói, năm 1698 là cái mốc chính thức quan trọng về mặt
nhà nước chủ quyên của cư dân người Việt trên đất đai mà họ đã bỏ công khai phá và xây
dựng, khi mà Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh vào Nam lập phủ Gia Định.
Năm 1679, Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Dịch đã di cư người Hoa đến cù lao phố
- Biên Hòa - Đồng Nai; cù lao phố này là đệ nhất thương cảng lúc bấy giờ.
Năm
1680, Mạc Cửu mở mang đất Hà Tiên cùng với người Khơme bản địa chinh
phục thiên nhiên và xây dựng kinh tế lâu dài ở trên chính vùng đất này. Công cuộc khân
hoang ấy diễn ra khắp nơi ở vùng đất Nam Bộ và cũng đã trải qua nhiều khó khăn, gian khổ,
được chia làm các thời kì:
- Từ chúa Nguyễn đến những năm cuối đời Gia Long: Khai khẩn vùng đất phù sa tốt,
đất giồng ven sông, đất cù lao theo nhu câu phát triển của xứ Đàng Trong, phục vụ quốc gia
và củng cố quốc gia.
- Từ cuối đời Gia Long đến cuối đời Minh Mạng khai khẩn phía Sơng Hậu Giang, nối
qua vùng núi Thất Sơn vì nhu cầu xác định vùng biên giới Việt - Miên.
- Từ thời Triệu Trị đến thời Tự Đức khai khẩn những điểm chiến lược nhằm dé phòng
nội loạn ở phía Sơng Hậu Giang, chính sách đồn điền được thúc đây mạnh.
Đầu tiên, vùng đất Nam Bộ có tên gọi là Đồng Nai, sau đó đối lại là Gia Định. Đến
đời vua Minh Mạng gọi là lục tỉnh. Nam Bộ gồm hai khu vực lớn là: Đông Nam Bộ & Tây
Nam Bộ, nối liền chúng đó là thành phố Hỗ Chí Minh. Trước khi cư dân người Việt đến
đây, Nam Bộ còn là một vùng đất hoang vắng hiểm trở, cư dân Khơme sống rất thưa thớt và
họ chỉ mới khai khẩn một phân nhỏ thôi. Mà ca dao Nam Bộ ghi nhận thực tế đó như sau:
“Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xung bưng sợ đĩa lên rừng sợ ma”.
[19; Tr. 17]
Thiên nhiên ở vùng đất Nam B6 budi dau 14 nhu thé day, ndi danh 1a ving “ ma thiéng
nước độc”. Do đó, việc đầu tiên của những cư dân mới đến đây là ra sức chống lại và thích
nghi bằng được với thiên nhiên, khi chúng cịn hoang sơ và khắc nghiệt, nơi mà họ sẽ sống
- lập nghiệp và chính là quê hương của họ. Buổi đâu, họ chọn những gò đất cao, những con
giỗng làm đất đứng chân. Dân dẫn, các cư dân mới di chuyên tiến xuống đầm lay, dat tring
để khai phá. Nhờ vào ý chí và nghị lực của chính mình, cộng thêm sự ưu đãi của thiên nhiên
vùng đất mới này ban tặng cho họ. Cho nên, đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cải tạo
của các cư dân trên vùng đất này. Làm cho vùng đất Nam Bộ từ hoang sơ, khắc nghiệt trở
nên phì nhiêu màu mỡ và khống đạt đây tiềm năng phát triển hơn. Nên cư dân Nam Bộ
thường vui miệng nói với nhau về vùng đất Nam Bộ : “Làm chơi ăn thiệt”. Đây khơng phải
là cách nói q của họ, vì thực tế Nam Bộ là vậy; mà nhất là Đồng bằng sơng Cửu Long có
mạng lưới sơng ngịi chẳng chịt, phù sa bồi đắp quanh năm. Bên cạnh đời sống thiên nhiên
phong phú đây thuận lợi thì mảnh đất Nam Bộ cũng trải qua những thử thách của giặc ngoại
xâm. Đáng chú ý nhất là cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược của
nhân dân Nam Bộ rất anh dũng. Kẻ thù dùng mọi cách để chiếm vùng đất này làm thuộc
địa, nhưng với lịng quyết tâm, ý chí sắt đá, con người Nam Bộ đã vùng lên chống lại ách
thống trị của chúng. Biết bao tâm gương anh hùng đã năm xuống trên vùng đất yêu thương
này như:
Trương Định , Nguyễn
Trung
Trực,
Phạm
Hùng,
Trân
Văn
Thời, Phan Ngọc
Hién...ho đã lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa làm nên nhiều chiến thắng oai hùng,
chi danh vào lịch sử và được nhân dân ca ngợi, tôn thờ, mà ca dao Nam Bộ đã ghi nhận:
“Vĩnh Long có cặp rong vang,
Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan cơng thân”
[19; Tr.74]
Hay:
“Tiên Giang sông nước mênh mông
Sông bao nhiêu nước, trai hùng bấy nhiêu ”
[26; Tr. 149]
Chính nhờ họ mà vùng đất này được bảo vệ, giữ gìn và phát huy cho đến ngày nay.
Ngồi ra, Nam Bộ cịn là nơi sản sinh ra nhiều nhà thơ, nhà văn tài ba...chính nhờ họ mà
bản sắc văn hóa vùng đất Nam Bộ được nhiều người biết đến với những áng thơ văn bất hủ,
với những tác gia lớn và là cái hồn của văn hóa nghệ thuật Nam Bộ như: Nguyễn Đình
Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa...Hơn thê một trong những người đáng được tôn vinh, ca ngợi khơng
thể qn được đó chính là tất cả các cư dân Nam Bộ. Chính nhờ họ mà văn học dân gian
Nam Bộ phát triển, trong đó có ca dao Nam Bộ; chính những lời tâm tình, những câu hát
chân thành, mộc mạc nhưng rất nặng nghĩa tình của con người nơi đây, đã góp phân thêm
những giá trị đặc sắc nhất vào tiếng nói chung của dân tộc.
Nhìn chung, Nam Bộ là vùng đất mới có q trình hình thành và phát triển trịn ba
thê kỷ. Nhưng nó đã trải qua rât nhiêu biên đôi thăng trâm của lịch sử, song
nó vân là vùng
dat trù phú, là nơi dung nạp nhiều cư dân khác nhau từ mọi vùng miền của đất nước đến đây
sinh sống và lập nghiệp...Cho nên, có thể khăng định đây là vùng “đất lành chứn đậu”.
Chính thực tiễn sinh động ấy hịa quyện với những gì mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất
này, đã góp phần làm phong phú, đa dạng cho đời sống vật chất và tinh thần của họ. Trong
lời ăn tiếng nói, trong văn hóa ứng xử và đặc biệt trong những khúc hát dân gian nói riêng
và ca dao Nam Bộ nói chung.
b. Con người Nam Bộ
Trước khi khai khẩn, Nam
như: Khơme,
Bộ rất thưa thớt người, chỉ có một số ít cư dân bản địa
Chăm, Hoa...Trong quá trình khai phá tạo lập, vùng đất này đã thu hút nhiều
lưu dân đến đây. Họ đến từ nhiều nơi khác nhau: từ những phủ huyện của Bắc Bộ và Trung
Bộ bao gồm những người phạm tội ở bị đưa vào Nam làm lính, hoặc có một số cư dân đến
đây sớm hơn, họ vốn là nông dân siêu tán, thợ thủ công cùng khổ, dưới sự áp bức bóc lột
của giai cấp phong kiến, của chiến tranh, thiên tai, buộc họ phải rời bỏ xóm làng vào Nam
lập nghiệp. Điều đáng quí ở họ là sống chan hòa cùng với người dân bản địa, giúp đỡ, tương
trợ, cùng xây dựng làng xóm giữ gìn an ninh... Vì thế, người Nam Bộ gồm những dân tộc
khác nhau như: Khơme, Lào, Hoa và Việt. Họ đến đây định cư và mang theo những giá trị
truyền thống văn hóa riêng. Do đó, cùng với q trình hịa nhập với thiên nhiên — với cộng
động là q trình hịa nhập văn hóa riêng. Cho nên, đây là nơi diễn ra q trình giao lưu văn
hóa giữa các dân tộc. Đồng thời, bên cạnh những truyền thống văn hóa riêng đó thì hồn
cảnh tự nhiên địa hình, những sinh hoạt xã hội đặc thù đã góp phân tạo nên những nét riêng
trong đời sống, tính cách của con người Nam Bộ.
Do nhu cau khan hoang, đất Nam Bộ ln đón nhận những vị khách từ xa đến như một
nhu câu tất yếu. Con người ở đây cần có bạn nên lịng hiếu khách của họ cũng xuất phát từ
đó, rất nồng nhiệt và chân thành. Cùng với việc mở làng — lập ấp thì nhu cầu giao lưu bn
bán với nước ngoài cũng được diễn ra, người Nam Bộ học hỏi những điều mới lạ. Từ đó, họ
có tính cách phóng khống, cởi mở, cảm thấy tự do, khơng thích ràng buộc... Khi nói đến
tính cách của con người Nam Bộ thì một trong tính cách tiêu biểu nhất của họ, mà ta thường
đề cập nhất đó chính là lịng u nước nơng nàn, tính hiên ngang khơng chịu khuất phục
cường quyền. Những lớp cư dân mang trong mình tất cả sức lực, ý chí, với lưỡi cuốc lưỡi
cày, phá hoang bờ cõi là việc quan trọng nhất của tất cả mọi người thời ấy. Họ lao động hết
mình để có được mảnh đất cây lành trái ngọt. Do đó, ta cịn thấy, tốt lên ở họ là tính cần cù
chịu thương, chịu khó, biết yêu lao động và cuộc sống. Hơn thế nữa, họ còn biết tập trung
sức mạnh đoàn kết của cộng đồng. Mà quan các tác phẩm văn học, qua sử sách chúng ta
cảm nhận được điều đó. Cụ thê qua bài
“Văn
té Nghĩa sĩ Cẩn
Giuộc”
của Nguyễn
Đình
Chiếu ta phần nào hiểu điều đó. Chính lịng u nước nồng nàn, tinh thân đấu tranh kiên
cường bất khuất những người nông dân ấy bồng phút chốc trở thành những người nghĩa sĩ
bất tử trong lòng mọi người. Họ đồn kết để đấu tranh giành lại sự bình n cho cuộc sống
hơm nay. Đó là tinh thần u nước, là phâm chất cao quý của họ. Nhắc đến cư dân Nam Bộ
khơng thể khơng nhắc đến cá tính của họ. Ấy là cá tính sống ở lại, sống phóng túng, ít suy
nghĩ xa, ăn nói bộc trực, thắng thắng, ít văn chương hoa mĩ, khơng rào trước đón sau, nghĩ
sao nói vậy. Tác giả Nguyễn văn Bễng có nhận xét hết sức độc đáo về tính cách người dân
Nam Bộ như sau: “ Đất nước ta càng về phương Nam, càng làm đất mới(...) Con người đến
đây là con người liễu, con người ngang tàn nghĩa khí, tính mạng coi nhẹ long hông, tiên tài
coi khinh như rơm
rác. Đối với họ nghĩa khí là trọng. Họ
khơng
cần có nhà đẹp(...) Họ
chẳng cần mặc sang(...) Ho vo vap hiểu khách, vì cuộc đời của họ bn lam réi. Ho chi con
có tình cảm là đậm đà với nhau. Họ sẵn sang nhường cơm sẻ áo, vì họ đã từng biết cái cực,
cái nhục của đói khổ như thế nào. Và hơn hết, họ rất căm thù. Đừng dung đến ho...[24; Tr.
218]
Tóm
lại: Nét đẹp văn hóa của con người
Nam
Bộ
thể hiện qua nhiều phương
diện,
nhưng suy cho cùng nó vẫn mang chung một giá trị của cộng đồng. Nói rõ hơn, nó vừa
mang giá trị truyền thống dân tộc vừa mang giá trị của riêng bản thân nó trong q trình
hình thành và phát triển. Nét đẹp đó, tính cách đó khơng chỉ thể hiện bên ngoài cuộc sống
lao động của con người nơi đây, mà còn hiện hữu trực tiếp qua ca dao Nam Bộ nói riêng và
đi sâu vào Văn học dân gian nói chung.
1.1. 2. Khái quát về ca dao Nam Bộ
a. Khái niệm về ca dao
Ca dao là một bộ phận quan trọng của nền Văn học dân gian. Chính vì vậy, đã có rất
nhiều người quan tâm, sưu tầm, nghiên cứu, bình giải và phân tích về nó. Hầu hết những
người nghiên cứu, luôn cố gắng khai thác và khám phá những điều mới lạ về ca dao đó là
điểm chung nhất. Nhưng ở điểm khác nhau cơ bản đó là cách tiếp cận ca dao thì mỗi người
mỗi khác. Có người dựa vào biểu nội dung theo chủ đề, có người bám sát đặc trưng thi
pháp... Đặc biệt cách “Khái miệm về ca đao” của họ cũng không giống nhau. Vậy ca dao là
øì? Với khái niệm của các tác giả sau đây :
Trước hết với Dương Quảng Hàm thì ơng cho rằng: Cø đao ( ca: hát, dao: bài hát
khơng có chương khúc) là những bài hát ngắn được lưu hành trong dân gian, thường tả tính
tình phong tục của người bình dân”. |6; Tr. 9j
Cịn theo Đinh Gia Khánh thì: “Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt. Theo cách hiểu
thơng thường thì ca dao là lời của các bài hát dân ca đã bỏ đi những tiếng đệm,
láy...hoặc ngược lại là những
câu thơ có thể “bẻ” thành những
tiếng
làn điệu dân ca”.[12;
Tr.436]
Tac gia Nguyén Xuan Kinh khai niém thi hoi khac:“ Ca đao là những sáng tác văn
chương được phổ biến rộng rãi
được lưu truyền qua nhiêu thể hệ mang những đặc điểm
nhất định và bên vững về mặt phong cách. ” [11 ;Tr.56]
Nói tóm lại, có rất nhiều quan niệm khác nhau trong cách “Khái miệm về ca dao”,
song nhìn chung lại ca dao: là những tiếng nói tâm tư, tình cảm của con Việt Nam với tất cả
các khía cạnh của cuộc sống nói chung. Nó là những sáng tác có vần điệu được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cụ thể để miêu tả những suy nghĩ, quyết đoán trong việc lựa
chọn nơi gửi gắm tình u của mình, những đơi trai gái thường nói với nhau bang bai ca dao
sau đây:
“ Ta vé ta tam ao ta,
Du trong du đục, ao nhà là hơn. ”
|6; Tr. 6]
Qua đó, cho ta thay được ca dao luôn là một thê loại được dân tộc sáng tạo và sử dụng
như món ăn tinh thần trong đời sống, lao động của họ. Cho nên, ngôn ngữ dân gian ngày
càng phát triển, ngôn ngữ văn học Việt Nam ngày càng phong phú và đa dạng là vậy.
b. Khái niệm về ca dao Nam Bộ
Ca dao Nam Bộ là những bài có hoặc khơng có chương khúc. Phân lớn được người
Nam Bộ sáng tác dựa trên thể văn vẫn dân tộc và những biến thể phù hợp với phương ngữ
Nam Bộ: nhằm thê hiện tâm tư, tình cảm và những nét đặc trưng truyền thơng văn hóa của
con người nơi đây. Cụ thể như bài ca dao sau:
“ Cân Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lịng khơng muốn về ”.
[10; Tr.18]
Tir thuc té, ma cu thé do 1a tir ving dat “gao trang nvéc trong” Can Thơ đã đi vào ca
dao Nam Bộ với hai câu ca dao bất hủ ấy. Nói thật, nói thăng và nói một cách tự hào đó
chính nhờ vào sự ưu đãi của thiên nhiên đã ban tặng, hịa quyện với đơi bàn tay lao động
của con người nơi đây. Qua bài ca dao làm cho mọi người thích hơn — u hơn vùng đất Tây
Đơ này. Bởi thiên nhiên trù phú — bởi tính cách, nét đẹp văn hóa, lịng hiểu khách của con
người Cần Thơ nói riêng và cư dân lao động Nam Bộ nói chung.
1.2 Khái qt hình tượng trong ca dao và ca dao Nam Bộ
1.2.1 Khái niệm hình tượng
a. Khái niệm hình ảnh
“Hình ảnh chính là hình thức bên ngồi của một sự vật nào đó, mà qua frực quan người
ta có thể nhận dạng ra, chưa thể hiện được nội dung bên trong.”
1”
Theo nhận xét của Thay
Phan Văn Ngọ cựu giáo viên môn ngữ văn trường THPT Châu Văn Liêm Thành Phố Cần
Thơ. Hay ý kiến của các nhà lý luận văn học trước đây cũng vậy: “Những gì hiện lên trước
mắt bạn, cảm nhận được bằng
trực quan không can tu duy đó là hình ảnh”. Thực ra, khái
niệm về hình ảnh thì có rất nhiều; nhưng dựa trên cơ sở logic, khách quan ta có thê nói:
“Hình ảnh là chính bản thân của sự vật hiện hữu ngồi thực tế có thể trực tiếp cảm nhận mà
khơng cần tư duy. ”
Thí dụ: Khi nói hình ảnh Chiếc thuyền, cây câu chẳng hạn. Không cần tư duy người ta
cũng biết ý nghĩa qua tên gọi đó nhằm chỉ cái gì. Thật chất, nó là vật thể nhân tạo do con
người làm ra để phục vụ việc giao thông đường thủy.
b. Khái niệm về hình tượng
Khái niệm về hình tượng là một trong những vấn để tương đối phức tạp. Bởi có rất
nhiều ý kiến trái ngược nhau vẻ vẫn đề này. Trước hết, theo quan niệm của triết học thì khái
niệm về hình tượng được hiểu là: “. . bất kì sự phản ánh nào về ngoại giới vào trong ý thức
con người là hình tượng... ”[1; Tr. 98]. Nêu nói như vậy, thì “hình tượng” đồng nghĩa với
“hình ảnh”. Cho nên quan niệm này, tôi thấy chưa khoa học và thuyết phục. Bởi chưa chắc
sự vật nào phản ánh trong ý thức của con người đều là “hình tượng” hết. Đơi khi nó chỉ là
một hình ảnh bình thường của thực tế khách quan mà thơi. Cịn theo thầy Phan Văn Ngọ thì:
“Hình
tượng cuộc sống nói chung,
nó phải vượt lên trên mức
của một hình ảnh bình
thường. Nói cụ thể hơn, nó phải đảm bảo được hai yếu tổ đó là: hình thức biểu hiện bên
ngồi và giá trị biểu tượng của nội dung bên trong.” Theo quan niệm này, cá nhân tôi nhận
thấy hợp lý và khách quan hơn. Cụ thê đó là hình tượng “Bác Hồ” đứng ở ngay một trung
tâm thành phó, hay cơng viên thành phố nào đó chắng hạn. Thì hình tượng Bác, hiện hữu
trong mặt mọi người dân Việt Nam đó là một vị cha già kính yêu của dân tộc với “râu dai,
tóc bạc, dáng người bình dị, vững chắc và chan chứa niềm tin u.... Mặc dù, thực tế hình
tượng đó là đồng là sắt được con người đúc lên. Nhưng hình tượng đó đã vượt lên tất cả. Để
trở thành một hình tượng bắt tử ln sống mãi trong lịng mọi con người Việt Nam.
Nói tóm lại, hình tượng của cuộc sống nói chung là những
gì vượt trên mức
độ một
hình ánh bình thường. Nó là cái chung nhất, cái quen thuộc nhất trong tiềm thức - suy nghĩ
cũng như trong thắm mĩ của tất cả mọi người. Hơn thế nữa, nó được cuộc sống, dân tộc và
thời đại sinh ra.
c. Khái niệm hình tượng trong ca dao
Theo các nhà lý luận văn học phát biểu thì: “Hình tượng văn chương đó là những con
người, những cảnh đời, những tâm trạng, những phong cảnh thiên nhiên...được xây dựng
bằng chất liệu ngôn ngữ, dựa trên biện pháp hư cấu, vừa có tính cá biệt cụ thể - cảm tính,
vừa mang ý nghĩa khái quát và có giá trị thâm mĩ.” [1; Tr. 97] Hay: “...cái chung nhất, cái
quen thuộc nhất, cái thường gặp hàng nghìn triệu lần đấy là hình tượng.” [1;Tr. 95]
Thật
vậy, ca dao là một phần của văn học dân gian đồng thời cũng là một tác phẩm văn chương.
Mà là tác phẩm văn chương nói chung, đã đi vào cuộc sống thì nhất thiết phải có hình
tượng. Hình tượng ở đây, khơng phải là điều huyền bí q xa xơi so với tác giả mà là những
gì gân gũi bên họ và gần gũi với cuộc sống. Vẫn đề là ở họ - họ có khả năng sáng tạo những
điều đó trở thành một hình tượng chung của của sơng hay khơng? Phần lớn cịn phụ thuộc
vào trình độ, tư duy và kinh nghiệm ở mỗi tác giả. Đối với ca dao thì sao? Tác giả là một tập
thể thì họ sẽ thể hiện như thế nào? Vâng,
với ca dao đó là tong hợp một sức mạnh
cộng
đồng, một khám phá có giá trị sâu sắc, giàu kinh nghiệm hơn bao giờ hết. Hình tượng ở đây
là hình tượng của cộng đồng, của cái chung nhất. Mà nó đi vào ca dao, phải có cả chiều sâu
và chiều rộng, cả khơng gian và thời gian. Khơng chỉ nói về cuộc sống, mà nó cịn là một
biểu tượng của cuộc sống. Cụ thể qua hình tượng “cøn cị” ở các bài ca dao sau:
“Con co ma di an đêm,
Đậu phải cành mêm lộn cơ xuống ao
Ơng ơi! Ơng vớt tơi nao
Có sáo thì sáo nHớC trong
Đừng sáo nước duc, dau long co con”
Hay:
“Con cị nó mồ con chỉnh
Anh đi giúp nước, gia đình em lo. ”
[26; Tr. 143]
Ca dao có rất nhiều bài nói về hình tượng này, nhưng dù thể hiện đậm hay nhạt, thể
hiện theo kiểu nào đi nữa, nó vẫn có chung một giá trỊ biểu trưng. Đó chính là sự vất vả, tần
tảo hy sinh của người vợ - người mẹ trong cuộc sống nói riêng. Đó là tinh thần ngợi ca cho
phẩm chất cao đẹp và thiêng liêng của người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Tóm lại, hình tượng là giá trị biểu trưng chung nhất, quan trọng nhất và khơng thể thiếu
được trong một tác phẩm văn chương. Nó vừa là nhân tổ làm nên tác phẩm, vừa thể hiện
quan điểm nội dung và nghệ thuật của chính tác giả. Với ca dao nói riêng — Van học dân
gian nói chung. Hình tượng cũng xuất hiện và thể hiện đúng vị trí - vai trị của nó. Để hiểu
rõ thêm vấn đề, chúng ta thử khảo sát một vài hình tượng thuộc hai loại hình tượng tiếp sau
đầy.
- Hình tượng là vật thể nhân tạo:
Trước khi nói về hình tượng là vật thể nhân tạo liên quan sông nước trong ca dao. Ta
cần hiểu được hình tượng là vật thể nhân tạo có nghĩa là gì? Thật ra, hình tượng này có
nghĩa là: từ một vật thê ban đầu do con người tạo ra và được tác giả dân gian sáng tạo thành
cái biêu trưng chung nhất, khi nó đi vào một tác phâm ca dao cụ thể. Các hình tượng có thê
kế đến là: Hình
tượng
thuộc nhóm
phương
tiện di lại trên sơng nước
như:
(thuyền,
che,
xuống, đị, câu, chèo... ); Hình tượng thuộc nhóm phương tiện đánh bắt thủy sản như: (chài,
lưới, câu, nôm...) Ở phân này, tôi chỉ khảo sát một vài hình tượng tiêu biểu để thấy giá tri
biểu trưng của chúng trong ca dao cơ trun.
+ Hình tượng “thun”:
“Thun” là hình tượng đặc biệt được rất nhiều bài ca dao nói đến, mà phân lớn tập
trung thê hiện những cung bậc trong tình cảm — sự giao duyên của những đơi trai gái u
nhau :
“ Thun ai lo lửng ngồi khơi,
Thuyén vao trong bén cho toi sang nhờ.
Thuyén ngược anh ước gió nằm,
Thun xi anh ước mưa nguồn gió lên. ”
[2; Tr. 426]
+ Hình tượng “ Cau”:
Chiếc cầu là hình tượng khá quen thuộc với ca dao dân ca cô truyền, bởi giá trị biểu
trưng của nó rất rộng. Một trong những giá trị biểu trưng đáng kế đến mà ca dao ghi nhận
đó là:
“Cầu” là hình tượng nói lên sự xa cách - hiểm trở giữa hai bờ thương nhớ, giữa
những người yêu nhau:
“ Cau cao mong van gio rung,
Em sang không được đợi cùng dun anh.
Cầu cao ván yếu gió rung,
Em qua khơng động, cậy cùng có anh... `
[ 29; Tr. 133]
Đồng thời nó còn là vật chứng minh, vật thề hẹn thủy chung son sắt — cho tình yêu
của những chàng trai và cơ gái khi u:
“ Cầu Ơ Thước trắm năm giữ vẹn,
Sông Ngân Hà ta nguyện đừng phai.
Sợ em ham chốn tiền tài,
Đứt đường nhân ngãi lâu dai bo anh.”
[ 2; Tr. 77]
Tóm lại, hình tượng là vật thể nhân tạo liên quan sông nước trong ca dao rất phong
phú và đa dạng. Hơn thế nữa nó rất gần gũi với người dân lao động, chính vì vậy
nó ln
mang một giá trị chung nhất, luôn tôn tại trong nhận thức của con người.
- Hình tượng là vật thể thiên nhiên:
Cũng như phần trên, để hiểu được hình tượng là vật thể thiên nhiên là gì? Ta cần khái
niệm về nó. Thật ra, hình tượng là vật thê thiên nhiên là hình tượng thuộc vẻ tự nhiên, được
tac gia dan gian dân chọn lựa và sáng tạo thành một biểu trưng khi nó được đưa vào ca dao.
Hình tượng là vật thể thiên nhiên liên quan sông nước trong ca dao cô truyền rất phong phú
và đa dạng. Bởi đặc thù của Việt Nam
là một nước có mạng lưới sơng ngịi dày đặc. Các
hình tượng được ca dao ghi nhận thường thấy nhất là: Sơng, nước, sóng, gió, rạch, vàm,
bến, bờ; cá, tơm, cị...Chúng xuất hiện và thể hiện khá nhiều nội dung trong ca dao cổ
truyền cụ thê một số hình tượng sau:
+ Hình tượng “sơng”:
“Sơng” là vật ngăn cách, sự chờ đợi mịn mỏi của những đơi trai gái u nhau :
“ Sông sâu cá lội mát tăm,
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng cho...”
[ 2; Tr. 392]
“ $ơng” được dùng để so sánh nói lên lịng dạ nơng — sâu của con người:
“ Sơng sâu cịn có kẻ do,
Lịng người nham hiểm ai đo cho cùng?”
[2; Tr. 392]
Hon thế nữa,
“sơng” được so biểu trưng để nói lên mạch sầu, niềm tương tư của
nhân vật trữ tình:
“ Sông tương ai gọi rằng sâu,
Chang bang phân nửa mạch sâu của ta.
Sơng tuy sâu hãy cịn có đáy,
Bình tương tư không bãi không bở.
Đầu sông chàng đợi chàng chờ,
Nào hay thiếp đợi lũng lờ cuối sơng.”
[2; Tr. 394]
+ Hình tượng “ nước ”:
“Nước ” thể hiện vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên và cuộc sống:
*“ Nước Ngọc Sơn vừa trong vừa mái,
Đường Nam Giang lắm cát dễ đi.”
[2; Tr.359]
Mặt khác, “nước” còn thể hiện thân phận của người dân lao động trong xã hội xưa:
* Nước giữa dòng chê trong chê đục,
Vững trâu đâm hì hục khen ngon. ”
[2; Tr.358]
Hơn thế nữa,
“zzớc” còn mang giá biểu trưng cho nhưng cung bậc cảm xúc, những
trạng thái tâm lý trong tình u đơi lứa:
* Nước trong nước chảy quanh chùa,
Khơng yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu. ”
[2; Tr.362]
Tóm lại, qua khảo sát các hình tượng là vật thể nhân tạo cũng như các hình tượng là
vật thê thiên nhiên liên quan sông nước trong ca dao cô truyền cho chúng ta một kết luận
như sau: Thứ nhất, khi đi vào ca dao nói chung, chúng đã thể hiện sinh động được những
giá trị biểu trưng mà tác giả dân gian muốn nói đến. Ấy là tình u đơi lứa, tình u quê
hương và nói về người dân lao động. Ấy là những nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam nói
chung. Thứ hai, xét về số lượng thì hình tượng ở ca dao cô truyền hết sức phong phú và đa
dạng. Chính việc khảo sát, phân tích và đi đến kết luận như vậy có ý nghĩa rất lớn đối với
đề tài này. Nó làm cơ sở để chúng ta so sánh, đối chiếu và rút ra những nét đặc trưng của
các hình tượng thiên nhiên liên quan sơng nước trong ca dao Nam Bộ.
d. Khái niệm về hình tượng trong ca dao Nam Bộ
Nam Bộ là vùng đất mà mạng lưới sơng ngịi xếp vào bậc nhất của Việt Nam. Đây
cũng là cái nôi của văn học dân gian với nhiều thể loại: Truyện địa danh, Truyện cười, tục
ngữ, hát lý...trong đó ca dao. Ca dao Nam Bộ ra đời song song với quá trình khai sinh vùng
đất mới, tưởng chừng nó cịn non yếu và nghèo nàn lắm. Nhưng ngược lại, nó phát triển
mạnh mẽ và đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phân làm phong phú — đa dạng, làm giàu
thêm cho nên văn học dân gian nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Đề làm được điều
đó, tác giả dân gian Nam Bộ đã đắn đo, suy nghĩ — đã nhàu nặn và sáng tạo ra những hình
tượng chung nhất. Để nó đi vào ca dao và phản ánh được cuộc sống. Những hình tượng đó,
nó rất gần gũi với chúng ta, ngồi chức năng là một hình tượng nghệ thuật trong ca dao
Nam Bộ nói riêng, nó cịn là biểu tượng thể hiện những vẫn đề của cuộc sống người dân lao
động nơi đây nói chung. O phan này, tơi khảo sát hình tượng ở hai mảng lớn đó là: “7hể
giới hình tượng liên quan sông nước là vật thể nhân tạo” và
“Thế giới hình tượng thiên
nhiên liên quan sơng nước” trong ca dao Nam Bộ.
- Thế giới hình tượng liên quan sơng nước là vật thể nhân tạo:
Thế giới hình tượng liên quan sông nước là vật thể nhân tạo trong ca dao Nam Bộ tương
đối phong phú và đa dạng. Thực chất, nó chính là những vật thể do cư dân Nam Bộ tạo ra
nhằm phục vụ cho cuộc sống và lao động của họ. Chính q trình gần gũi và gắn bó với nó,
cho nên dần dân những hình ảnh thân quen ấy: đã đi vào những câu hát của những buỗi trưa
cày đồng, những lúc kéo chài... Và đi vào ca dao, trở thành một hình tượng nghệ thuật. Ca
dao Nam Bộ ghi nhận hình tượng đó qua các nhóm sau:
+ Nhóm hình tượng là vật thể nhân tạo làm phương tiện đi lại trên sông nước như:
Tên hình tượng
Ý nghĩa
Thun, ghe, xng, | => Thường biêu hiện sự xa cách, những cung bậc cảm xúc trong
đị, chèo.
tình u đơi lứa. Đơng thời nói lên sự vật vả, gian khó của người