Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
NGUYỄN VĂN KHÁNH
(MSSV: 6062117)
BIỂU TƯỢNG “ÁNH TRĂNG” TRONG
THƠ LÝ BẠCH
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn – khóa 32 (2006 – 2010)
Cán bộ hướng dẫn: BÙI THỊ THÚY MINH
Trang 1
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Trang 2
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa riêng. Nền văn
hóa này được hình thành tùy theo tiến trình phát triển của mỗi dân tộc. Và cũng từ đó
Trang 3
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
lịch sử dân tộc được hình thành. Cùng với dòng chảy của lịch sử, con người cũng phải
trãi qua các cuộc đấu tranh với thiên nhiên, giặc ngoại xâm hay đấu tranh trong nội bộ
các dân tộc…để sinh tồn và phát triển.
Bên cạnh nhu cầu về vật chất, con người còn có những nhu cầu về tinh thần, để
đáp ứng nhu cầu đó, các hình thức văn hóa nghệ thuật bắt đầu xuất hiện, lúc đầu quy
mô và chất lượng còn hạn chế, nhưng càng về sau nó càng trở nên hoàn thiện hơn.
Nói đến văn hóa phương Đông, người ta thường đề cập đến văn hóa Trung Hoa,
vì văn hóa Trung Hoa là cái nôi của văn hóa phương Đông. Trong đó, văn học có vai
trò hết sức to lớn. Văn học phản ánh cuộc sống thông qua hình tượng nhân vật. Thành
tựu của văn học Trung Hoa hết sức to lớn và có ảnh hưởng đến văn học các nước Á
Đông. Vì vậy, việc tìm hiểu văn học Trung Hoa là một việc làm bổ ích và lý thú, góp
phần củng cố kiến thức, tăng cường thêm hiểu biết về những giá trị của văn học.
Mỗi giai đoạn văn học đều có những thành công riêng với những tác giả tác
phẩm xuất sắc mà cho đến ngày nay chúng ta vẫn được học và đọc. Trong lịch sử văn
học phong kiến Trung Hoa, đời Đường có nột vị trí rất quan trọng. Dưới đời Đường,
Trung Hoa là một quốc gia phát triển trên tất cả cả các phương diện: kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội… Trung Hoa là một quốc gia có truyền thống về thơ, từ Kinh Thi cho
đến thơ hiện đại, thơ Trung Hoa có hơn 2500 năm lịch sử. Ở mỗi thời đại thơ có những
đặc sắc riêng và thơ Đường được xem là đỉnh cao của thơ Trung Hoa và là một trong
những đỉnh cao của thơ ca nhân loại, có ảnh hưởng lớn đến thơ ca của các quốc gia lân
cận.
Trong các thể thơ Đường, có lẽ đặc sắc hơn cả vẫn là thể thơ tứ tuyệt, một thể
thơ có yêu cầu cao về niêm, luật, vận, đối, kết cấu… Thơ tứ tuyệt được rất nhiều nhà
thơ cũng như các nhà nghiên cứu đánh giá cao. Ngày nay, mặc dù thơ tứ tuyệt không
còn được phổ biến như trước nhưng trong tâm thức của mỗi người vẫn còn đọng lại
những âm hưởng của thơ Đường.
Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi hiểu rõ hơn về Đường thi, nhằm củng cố
thêm kiến thức về mảng văn học nước ngoài. Không những thế, nó còn giúp tôi rèn
luyện thêm các phương pháp nghiên cứu khoa học để sau này có dịp vận dụng vào quá
trình làm việc của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Trang 4
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây ánh trăng luôn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc
cho con người. Trăng dù tròn hay khuyết đều có nét đẹp riêng. Từ xa xưa, con người
xem việc thưởng nguyệt là một phần trong cuộc sống, là một thú vui tao nhã, từ đó bật
lên thành những tứ thơ. Ngày nay, cuộc sống với bộn bề công việc nên người ta quên
đi việc thưởng nguyệt. Nói như thế không phải phủ nhận hoàn toàn việc thưởng nguyệt
của người ngày nay.
“Người phương Đông rất coi trọng những đêm trăng tròn”, họ dựa vào việc
xem thiên văn, xem trăng, xem sao…để dự báo thời tiết, và cũng dựa vào đó để suy
đoán thời vận. Ánh trăng không những có ý nghĩa thực tế mà còn có giá trị thẩm mỹ
cao, trăng là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân dù xưa hay nay. Cũng không ai
biết từ bao giờ trong thơ trăng lại lung linh đến thế. Con người không ai không thấy
bâng khuâng, buồn vui…khi ngắm vầng trăng sáng trên bầu trời. Có lẽ vì thế mà thi sĩ
không thể hờ hững với trăng, phải bật thành tứ thơ. Theo thời gian “ánh trăng là môtip
trữ tình tiêu biểu của thơ ca phương Đông” (Nguyễn Đăng Mạnh)
Nguyễn Thị Lan cũng có nhận định về trăng trong bài “Trăng trong thơ Lý
Bạch”. “Trăng là một đề tài ruột của các thi sĩ, từ khi con người biết làm thơ. Trăng
đi vào thơ của các thi nhân không chỉ ở vẻ đẹp vốn có của nó mà còn có ý nghĩa tượng
trưng sâu sắc. Trăng gợi nhớ gợi thương. Những kẻ tha phương thì nhìn trăng nhớ cố
hương, những kẻ ưu tư buồn bã nhìn trăng để tìm bạn để có thể thông cảm, chia sẻ.
Những đôi tình nhân yêu nhau mượn trăng thề thốt…khi ấy hình ảnh vầng trăng hiện
lên với những nét vui buồn khác nhau theo cách nhìn và tâm trạng của người ngắm
trăng”.
Quả thật, trăng là biểu tượng không thể thiếu trong thơ ca từ cổ điển cho đến
hiện đại, mỗi bài là một ánh trăng rất riêng bởi ý nghĩa tượng trưng của nó là không
giống nhau và tâm trạng của thi sĩ cũng không giống nhau. “Khảo sát hàng trăm bài
thơ của các vị thi tiên thơ Đường trong các tập Đường thi tuyển dịch, chúng ta thấy từ
nguyệt xuất hiện với tần số khá cao… Có khi nguyệt xuất hiện ngay trong nhan đề của
bài thơ, đó là những bài thơ mang chủ đề trăng…cũng có những bài thơ trăng xuất
hiện đột ngột giữa bài thơ, trong một câu thôi” (Nguyễn Thị Lan)
Từ những dẫn chứng trên ta có thể khẳng định “ánh trăng” là mảng đề tài
không thể thiếu, rất phổ biến và cực kỳ phong phú, đồng thời cũng có nhiều giá trị đặc
sắc trong thơ ca, nhất là thơ Đường.
Trang 5
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Có thể thấy biểu tượng ánh trăng trong Đường thi thật phong phú và đa dạng.
Trăng đi vào thơ với muôn vàn ý nghĩa tượng trưng. Đặc biệt là trăng trong thơ Lý
Bạch, trăng như một tri âm tri kỷ, trăng chia sẻ những niềm vui nỗi buồn…trăng còn là
đối tượng để Lý Bạch gửi gắm lý tưởng, thể hiện chất triết lý.
Song, biểu tượng ánh trăng cũng chỉ là một phần trong mảng đề tài chung về
thiên nhiên. Việc nghiên cứu đề tài ánh trăng trong thơ Lý Bạch vẫn chưa thấy công
trình nào riêng biệt mà chủ yếu là những bài phân tích, nhận định, đánh giá về một số
bài thơ có biểu tượng ánh trăng trong những công trình nghiên cứu lớn về Đường thi.
Cho nên đề tài vẫn có sức thu hút, cần đi sâu tìm hiểu.
3. Mục đích, yêu cầu nghiên cứu
Hơn 1000 năm nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu
Đường thi, nhất là thơ tứ tuyệt. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Việt Nam thường
đi sâu nghiên cứu về thi pháp, về luật thơ…vấn đề biểu tượng “ánh trăng” là một
mảng đề tài nhỏ trong hệ thống các mảng đề tài lớn của thơ Đường. Mảng đề tài này
thường được lồng vào các vấn đề lớn khác. Thực hiện đề tài này cần phải tập trung vào
những yêu cầu:
Ý nghĩa biểu tượng “ánh trăng” trong thơ Đường luật Trung Hoa có gì đặc
sắc?
Ý nghĩa biểu tượng “ánh trăng” trong thơ Lý Bạch có gì nổi bật?
Tìm và phân tích những bài thơ có biểu tượng ánh trăng tiêu biểu của Trung
Hoa và nhất là của Lý Bạch nhằm làm sáng tỏ lập luận.
Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi nắm bắt sâu sắc hơn về hình thức, nội dung
và nghệ thuật của Đường thi, hiểu thêm về biểu tượng “ánh trăng” trong thơ Đường
mà nhất là “ánh trăng” trong thơ Lý Bạch, góp phần hoàn thiện hơn vốn kiến thức văn
học Trung Quốc cho bản thân.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi áp dụng nhiều phương pháp khác nhau. Trước tiên là
sưu tầm tài liệu, ghi chép sau đó tổng hợp lại các tài liệu, từ đó đề ra cách trình bày
thích hợp. Với đề tài này tôi đã sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, tổng hợp,
so sánh đối chiếu, thuyết minh, giảng giải…nhằm làm rõ luận điểm bằng những lý lẽ
có đi kèm dẫn chứng cụ thể để giải quyết những yêu cầu của đề tài đặt ra.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trang 6
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Nhìn chung, tất cả các ngành khoa học hay một công trình nghiên cứu khoa học
đều phải có đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Việc làm đó giúp người nghiên cứu xác
định đúng đối tượng và khả năng tìm hiểu của mình về vấn đề đặt ra. Đồng thời cũng
giúp người đọc tiếp xúc với vấn đề một cách trực tiếp và tăng thêm sức thuyết phục,
sức hấp dẫn.
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài này là những bài thơ có biểu tượng
ánh trăng của Lý Bạch ngoài ra cũng có một số bài thơ có biểu tượng ánh trăng trong
thơ Đường. Cho nên phạm vi sẽ tập trung chủ yếu vào những quyển “Đường thi tuyển
dịch”. Bên cạnh đó còn có một số tài liệu nghiên cứu về thơ Đường cũng góp phần
giải quyết các vấn đề của đề tài.
Trang 7
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái quát chung
Trang 8
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Hoa, có niêm luật, thanh vần
rất chặt chẽ, thường được gọi tắt là thơ Đường. Thơ Đường Luật là một thể thơ ngắn
gọn có tối đa là bảy chữ, tám câu, diễn đạt nội dung một cách cô động xúc tích.
Lương Duy Thứ cho rằng: “Người Trung Hoa vẫn tự hào đất nước mình là đất
của thơ – thi ca chi bang [8; 13]. Mỗi khi nhắc đến thơ Đường, người ta thường nhắc
đến một thể thơ tuyệt diệu của Trung Quốc. Thơ Đường cũng được lấy tên từ triều đại
phồn thịnh vẻ vang của Trung Hoa, đời Đường. Cũng chính nhờ sự xuất hiện của thơ
Đường đã làm cho thơ ca Trung Hoa bước vào thời kì hoàng kim với tất cả sự vinh
quang. Có thể nói thơ Đường đã để lại một dấu son chói lọi trong lịch sử thơ ca Trung
Hoa.
Nam Trân đã từng viết “Trên thi đàn Trung Quốc, thơ Đường chiếm một vị trí
quan trọng, có thể nói rằng ở Trung Quốc trước kia chưa từng thấy một thời đại nào
lại có một nền thơ ca rạng rỡ cho bằng thơ Đường. Mặc dù bao nhiêu biến cố đã xảy
ra, hủy hoại rất nhiều di sản văn học của nhân dân, mà ngày nay chúng ta còn được
hơn 48000 bài thơ của 2300 thi sĩ chừng ấy bài thơ còn sót lại, với nội dung phong
phú và nghệ thuật trác việt cũng đủ đánh giá thời đại hoàng kim của nền thơ ca Trung
Quốc và làm cho thơ Đường cũng rất Kinh Thi, Sở Từ và thơ ca hiện nay liệt vào hàng
thơ ca ưu tú nhất của nhân loại”.
Có thể nói, Trung Hoa là cái nôi của thơ Đường và thơ Đường trở thành một
phần quan trọng, không thể tách rời trong đời sống văn hóa nghệ thuật của Trung Hoa.
Ngay từ khi ra đời cho đến khi phát triển đến đỉnh cao, thơ Đường có những đặc điểm
rất riêng khó lẫn. Từ cấu tứ, thể loại, ngôn từ, cho đến phong cách sáng tác….đều
không trùng lấp với bất cứ thể thơ nào. Ngay cách truyền tụng cũng mang dấu ấn
riêng. Ngoài việc in ấn bình thường, người Trung Hoa còn đem thơ Đường vào những
buổi tiệc rượu, tiệc trà.
Từ những bài thơ được ngâm vịnh, sáng tác trong tiệc dần dần được lưu truyền
rộng rãi trong nhân gian. Ngoài việc đem thơ ngâm vịnh trong các tiệc, nhiều nhà thơ
còn đề thơ của mình lên đá, khắc lên bia, lên cột nhà khách, quán trọ, nơi công
cộng…để lưu lại bút tích và tên tuổi nhằm truyền tụng đến mọi người.
Còn vào khoảng Trung Đường về sau lại xuất hiện thêm hình thức đề thơ vào
tấm bảng, nhà thơ Tuyết Năng qua đất Thục về Tuyền Đình nhìn thấy “trong chổ nghỉ
Trang 9
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
chân có hơn 100 tấm bảng đề thơ”, việc đề thơ vào bảng này cũng góp phần phổ biến
thơ trong nhân dân.
Dù trải qua biết bao thăng trầm lịch sử vậy mà thơ Đường vẫn một nét tươi vui
không tàn úa. Cho đến bây giờ đọc lại thơ Đường mọi người vẫn cảm được cái mới
mẻ, tươi đẹp, sống động và hấp dẫn. Không chỉ vì thơ Đường phản ánh chân thật một
thời đại lịch sử của dân tộc Trung Hoa mà thơ Đường còn chứa đựng một thứ nghệ
thuật tinh vi, điêu luyện, đề tài phong phú, đa dạng và bổ ích. “Những bài thơ Đường
tựa như những đồ chơi bằng ngọc ngà, chạm trỗ rất tinh xảo, trau dồi bóng bẩy, càng
ngắm càng thấy đẹp, chơi bao lâu cũng không chán. Nhưng thơ ấy lại có những tình ý
cao, ngâm nga tiêu khiển và ngẫm nghĩ kỹ, thật là lợi cho tính tình biết bao” [10; 16]
Ngày nay khi xã hội càng phát triển theo xu hướng thời đại, có nhiều thể thơ
mới ra đời với rất nhiều tên tuổi tác giả nhưng việc nghiên cứu và tìm hiểu những giá
trị thơ ca của lịch sử là hết sức quan trọng, nhằm hiểu thêm những giá trị mà các “thi
tiên” đã gửi gắm trong thơ. Chính vì vậy, thơ Đường vẫn có một giá trị bền vững trong
lòng độc giả, vẫn có nhiều người yêu thích, đọc, bình, nghiên cứu và sáng tác thơ
Đường
Dù câu chữ có hạn định, nhưng nội dung thì vô cùng đa dạng và phong phú đa
giúp thơ Đường đã làm nên một diện mạo độc đáo cho mình mà không một thể thơ
nào sánh kịp “thơ Đường trở thành bước tranh sinh động về cuộc sống đời Đường, với
cấu trúc kì lạ, sự hư cấu và tưởng tượng diệu kì, nó mang cái đẹp cao”. Mà mỗi nhà
thơ lại có phong cách rất riêng, nên thơ Đường trở thành một vườn hoa trăm sắc nghìn
hương. Nói đúng hơn, sự phát triển của thơ Đường cũng chính là sự phát triển của lịch
sử đất nước Trung Hoa.
1.2. Những nguyên nhân làm cho thơ Đường phát triển
Đời đường gần 300 trăm năm tồn tại và phát triển (618 - 907) với biết bao thăng
trầm lịch sử. Thời đại này đã tạo ra một thể loại thi ca chói lọi nhất trong lịch sử văn
chương Trung Hoa. Đó chính là thơ Đường. Thơ Đường có gần năm vạn bài thơ của
trên 2300 nhà thơ. Đó là một hình thức chưa bao giờ thấy trong lịch sử văn học Trung
Quốc. Sự phát triển đặc biệt đó do bốn nguyên nhân sau đây.
Thứ nhất: Do chế độ thi cử đặc biệt của đời Đường là coi trọng thơ ca. Trước
Đường chọn nhân tài theo chế độ “cửu phẩm trung chính” – lập từ Ngụy Tấn. Tùy bỏ
chế độ này, đặt ra chế độ khoa cử để chọn người tài. Đường kế tục nhưng chủ yếu là
Trang 10
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
hỏi về sách (kế hoạch). Đến đời Đường Cao Tông (681) vua xuống chiếu sửa đổi. Các
bài thi trong khoa tiến sĩ gồm hai phần: một bài tạp văn (thi, phú) thử thách thông hiểu
âm luật rồi sau đó mới thi sách.
Chính vì thế, thơ ca trở thành con đường tiến thân, việc học thơ và làm thơ trở
thành một phong trào rộng rãi trong cả nước. Phàm kẻ “độc thư” ai cũng biết làm thơ.
Ở kinh đô và các châu quận đều có mở lớp dạy thi phú để chuẩn bị cho thí sinh đi thi.
Các vua đời Đường đều ham thích thơ và nhiều người là nhà thơ. Đường Thái
Tông là người đã mở Hoàng Văn Quán để đọc sách và xướng họa với các bác sĩ trong
triều. Đường Huyền Tông là một thi sĩ. Ông sùng bái Lý Bạch chỉ ba khúc Thanh bình
điệu mà nhà thơ dâng vua. Các ông vua như Hiến Tông (phong Bạch Cư Dị làm bác
học sĩ vì mấy bái thơ phúng giá). Mục Tông bổ Nguyên Chẩn làm từ bộ lang trung vì
mấy bài ca) cũng đều ham chuộng và thưởng thức thơ ca.
Chế độ dùng thơ phú để chọn nhân tài đã tạo ra một phong trào thơ, làm thơ có
chiều rộng và chiều sâu, qua phong trào đó các nhà thơ xuất hiện ngày càng nhiều.
Thứ hai: Quan trọng hơn do phong trào thơ dần dần rời khỏi cung đình, trở
thành tiếng nói của quần chúng. Các nho sĩ muốn dùng thi cử để tiến thân thường
thuộc tầng lớp giữa và tầng lớp dưới. Họ am hiểu đời sống, kinh lịch rộng, niếm đủ
mùi gian truân nên trong thơ họ hiện diện phản ánh rộng hơn, nội dung thơ phong phú
hơn.
Điểm lại các nhà thơ có tiếng đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị…
đều như vậy. Họ sống khốn khổ, lang bạt kỳ hồ, ít ra cũng gặp những điều không may
trên con đường hoạn lộ. Cuộc sống sẽ tiếp sức cho thơ ca họ, tạo nên sức sống cho thơ
ca họ. Cho nên nguyên nhân quan trọng làm cho thơ ca Đường có giá trị chính là chỗ
thơ đời Đường ra khỏi cung đình
Thứ ba: Do sự giải phóng về mặt tư tưởng, nhà Đường tôn trọng đạo Nho,
mà lại đề cao Lão giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác cũng được tự do truyền bá.
Nếu như ở đời Hán, Nho giáo độc tôn (Đổng Trọng Thư dâng sớ bãi truất Bách
gia độc Nho thuật) thì ở đời Đường cả Khổng, Lão, cả Phật đều được coi trọng. Đường
Thái Tông tôn Khổng Tử làm tiên thánh, cho soạn lại Ngũ Kinh làm sách dạy học trò.
Bên cạnh Khổng Tử, Lão Tử cũng được đề cao. Lý Uyên (cao tổ) tôn Lý Nhĩ
(Lão Tử) làm ông tổ và lập miếu thờ. Cao Tông truy phong ông làm Huyền Nguyên
hoàng đế, đích thân chú thích Đạo Đức Kinh để phổ biến. Đạo sĩ được coi trọng.
Trang 11
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Vương hầu khanh tướng tin đan dược, ưa cầu tiên. Có người vì uống đan dược mà
vông thân như Hàn Dũ.
Mặt khác, đạo Phật cũng được du nhập và rất thịnh đạt. Hai vị sư Huyền Trang
(thời Trinh Quán) và Nghĩa Tình (Cao Tông) đã vượt bao khó khăn sang tận Ấn Độ
đem kinh phật về truyền bá ở Trung Quốc. Việc đó được các vua Thái Tông và Cao
Tông nhiệt liệt tán thưởng. Đến Văn Tông thì Trung Quốc có hơn bốn vạn ngôi chùa
và 70 vạn tăng ni.
Tóm lại, sự phồn thịnh của cả Nho, Phật, Lão tạo nên một không khí giải phóng
tư tưởng giúp hình thành cục diện trăm nhà đua tiến và song song với nó là quang cảnh
trăm hoa đua nở về văn học nghệ thuật.
Thứ tư: Sự phát triển của các ngành nghệ thuật khác cũng tạo điều kiện cho
thơ Đường phát triển .
Hội họa thời Đường có nhiều thành tựu với bao nhà danh họa như Vương Duy,
Ngô Đạo Tử và Lý Tư Huấn. Vương Duy chuyên về tranh sơn thủy bằng mực tàu mở
đầu cho phái họa Nam Tông. Ông cũng là nhà thơ. Tô Đông Pha nói:
“Đọc thơ Ma Cật thấy trong có họa
Xem họa Ma Cật thấy trong họa có thơ”
Âm nhạc thời kỳ này đặc biệt phát triển. Có những nhà âm nhạc nổi tiếng như
Lý Quy Niên. Thơ ca của các nhà thơ nổi tiếng được phổ nhạc rộng rãi. Việc Bạch Cư
Dị nghe đàn tỳ bà mà hiểu nổi lòng người giai nhân bị ruồng bỏ rối viết nên bài “Tỳ bà
hành” nổi tiếng, đủ chứng tỏ rằng sự am hiểu âm nhạc và tác dụng của nó đối với thơ
ca.
Vũ đạo cũng đặc biệt phát triển, sự thông thương với vùng Trung Á, Ấn
Độ…cũng xúc tiến thêm sự phát triển của âm nhạc, hội họa. Âm nhạc, hội họa, vũ đạo
đã tạo điều kiện cho thơ ca phát triển. Hay nói đúng hơn, bởi vì cái hay của thơ Đường
cũng được biểu hiện ở sự kết hợp của thi – nhạc – họa.
Tóm lại, sự phát triển của thơ Đường do rất nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản
nhất vẫn là bốn nguyên nhân đã nêu ở trên đã làm cho thơ ca đời Đường đặc biệt phát
triển, phong phú về nội dung, điêu luyện vế hình thức tạo nên một thời kì hoàng kim
cho thơ ca Trung Hoa.
1.3. Quá trình phát triển của thơ Đường
Trang 12
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Thơ Đường Luật phát triển mạnh vào thời đại nhà Đường. Tại sao thời kỳ này
thơ Đường Luật mới phát triển? Sở dĩ đến giai đoạn này thơ Đường mới thật sự bước
lên đài vinh quang là do nhiều nguyên nhân, nhiều yếu tố như đã nêu trên. Sự phát
triển của thơ Đường cũng tạo ra những trường phái khác nhau làm cho thơ Đường
phong phú và đa dạng về nội dung cũng như hình thức. Tất cả làm tăng thêm vẻ hào
quang cho thời đại và trở thành niềm kiêu hãnh cho dân tộc Trung Hoa.
Người ta chia thơ Đường ra làm bốn thời kỳ nhưng (lịch sử phát triển của thời
đại nhà Đường chỉ có ba thời kỳ) Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung Đường và Vãn
Đường.
1.3.1. Sơ Đường (618 – 713)
Khoảng 100 năm đầu nhà Đường. Đây là thời kỳ chuẩn bị. Thơ ca thời Sơ
Đường là gạch nối giữa thơ ca thời Lục triều với đương đại. Các nhà thơ phần lớn đã
sống và chịu ảnh hưởng của thời đại trước nên thơ ca của họ bây giờ không thể không
lây nhiễm không khí, phong cách thơ Lục triều.
Trong thời kỳ này có các nhà thơ nổi tiếng như: Lư Chiếu Lân có U Ưu Tử tập;
Lạc Tân Vương có Lạc Tân Vương Văn Tập; Vương Bột có Vương Tử An Tập;
Dương Quýnh có Danh Xuyên Tập – gọi là Đường tứ kiệt.
Tiếp nối tứ kiệt là hai nhà thơ sáng chói Thẩm Toàn Kỳ, Tống Chi Vấn mà
đương thời gọi là thi phái Thẩm – Tống. Ngoài Thẩm – Tống thời Sơ Đường còn có
văn chương Tứ Hữu, Ngô Chung tứ sĩ. Trong đó có bài “Xuân giang hoa nguyệt dạ”
của Trương Nhược Hưu và “Đằng Vương các” của Vương Bột là hai tác phẩm xuất
sắc nhất thi ca thời Sơ Đường.
1.3.2. Thịnh Đường (713 – 766)
Khoảng 50 năm, từ Khai Nguyên qua Thiên Bảo đến Đại Lịch là thời kỳ phát
triển đến tột đỉnh. Thơ ca thời Thịnh Đường được mọi thi nhân, mọi thời đại ngưỡng
mộ, đánh giá cao bởi vì nó là kết tinh, chắc lọc của những gì đẹp nhất, hay nhất, ý vị
nhất trong thơ ca Trung Hoa. Không những chỉ dành cho triều đại nhà Đường mà cho
thơ ca muôn đời sau nữa.
Nguyễn Du từng nhận xét rằng:
“Khen rằng đáng giá Thịnh Đường
Túi này, sách ấy nghìn vàng chưa cân”
Trang 13
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Thịnh Đường là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Hoa nói chung và triều đại
nhà Đường nói riêng. Thơ Đường có thể chia ra làm bốn trường phái chính sau:
Trường phái điền viên
Tiếp nối các nhà thơ thời Sơ Đường và chịu ảnh hưởng của tư tưởng của Lão –
Trang và Phật, các bài thơ, bài từ miêu tả cảnh thanh nhàn, êm ả nơi thôn trang, cảnh
sinh hoạt, cảnh thiên nhiên tươi đẹp thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời, ngày ngày
không bận tâm đến vòng danh lợi bon chen, tâm hồn thư thái, thoải mái là nguồn cảm
hứng cho các thi nhân. Một kiện tướng của phái điền viên trong thời kỳ này là Mạnh
Hạo Nhiên, một nhà thơ mà cuộc đời gắn liền với những lặng lẽ, u trầm nơi thôn dã,
sống một cuộc đời thanh nhã được phản ánh một cách rõ nét qua các bài thơ ngũ ngôn.
Người thứ hai được mọi người tôn vinh là “Phật thi” không ai khác là Vương Duy,
biệt danh là ông Ma Cật. Thơ ông thấm đượm tư tưởng Phật giáo, bàng bạc tư tưởng
Lão – Trang. Ông là một nhà thơ có tài, ông còn là một họa sĩ nổi danh với những bức
tranh thủy mặc sống động. Thơ và họa của Vương Duy hòa quyện vào nhau tạo nên
bản sắc riêng của nhà thơ này. Mỗi bài thơ của Vương Duy với những câu thơ lời lẽ
điêu luyện, cô đọng hàm xúc là một bức tranh đẹp và ngược lại với các bức họa thì đây
là một bài thơ được diễn tả bằng đường nét.
Trường phái lãng mạn
Một trong những nhà thơ tiêu biểu cho trường phái này hơn ai hết chính là “Thi
tiên” Lý Bạch và được xem là nhà thơ vĩ đại nhất của thời Thịnh Đường. Đương thời
ông cũng được vua Đường Huyền Tông trọng vọng, ưu ái nhất. Ông là một nhà thơ
“lãng mạn” theo đúng nghĩa của nó. Bởi vì trong thơ ông, ý, tình, cảnh hòa vào nhau
làm một, vừa diễm lệ vừa kỳ vĩ lại vừa mênh mông bát ngát. Thơ ông có đủ mọi tính:
cuồng phóng có, hùng tráng có, diễm lệ có, phiêu dật có, trầm thống có… Dù là thơ cổ
phong, nhạc phủ hay ngay cả thơ cách luật, lời thơ trong thơ ông buông thả tự nhiên,
không gò bó trong câu chữ niêm luật, không trau chuốt đẽo gọt nhưng vẫn toát lên cái
đẹp cái hay, sâu xa kỳ lạ. Phái này thường thông qua ước mơ táo bạo để đối lập với
hiện thực xã hội đen tối.
Trường phái biên tái
Trang 14
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Sắp xếp các nhà thơ Thịnh Đường vào phái biên tái xem ra có vẻ miễn cưỡng.
Thật ra hầu như các thi nhân từ Sơ Đường đến Thịnh Đường không ít thì nhiều đều có
làm thơ biên tái theo cách của mình. Cho nên bất cứ nhà thơ nào cầm bút làm thơ tả
cảnh chiến tranh trận mạc, cảnh thê lương hoang vắng nơi biên địa; nỗi nhớ mong vợ
con, quê hương bản quán của người lính thú; lòng thương nhớ buồn đau của người
khuê phụ nơi chốn cô phòng đều là nguồn cảm hứng cho mọi thi nhân. Hai nhà thơ
tiêu biểu cho trường phái này là Cao Thích và Sầm Than.
Trường phái hiện thực
Đây là trường phái phê bình xã hội, cho thấy những rối ren của xã hội thịnh
Đường. Đại biểu xuất sắc cho trường phái này là Đỗ Phủ. Mỗi bài thơ, lời thơ của Đỗ
Phủ là một viên ngọc được mài giũa một cách tinh xảo. Là một người chịu nhiều bất
hạnh trong cuộc sống, đi nhiều, thấy nhiều, ông thông cảm với những cảnh ngộ ngang
trái, éo le, bi đát trong cuộc đời nên thơ ông mang tính tố cáo rất cao cái xã hội bất
công, xấu xa đương thời. Mỗi lời thơ là một tiếng nấc nghẹn ngào. Đỗ Phủ xứng đáng
là con chim đầu đàn cho trường phái hiện thực.
Đó là các trường phái chính và các nhà thơ chính. Còn thực ra thơ Đường rất
phong phú, muôn màu muôn vẻ. Có thể lấy nhận định của Ngô Tất Tố để khái quát
diễn biến của các trường phái thơ Đường “Sơ Đường phần nhiều hay về khí cốt nhưng
lối dùng chữ đặt câu chưa được trau chuốt cho lắm. Vãn Đường giỏi từ tao, lời đẹp, ý
sâu nhưng lại thiếu phần hùng hồn có khi còn bị cái tôi ủy mỵ là khác. Duy chỉ có
Thịnh Đường ở vào giữa hai thời kỳ ấy, cho nên chẳng những không có cái dỡ của hai
thời kỳ kia, mà con gồm cả cái hay của hai thời kỳ ấy nữa”.
1.3.3. Trung Đường (766 – 827)
Từ Đại Lịch đến Thái Hòa. Thời kỳ này mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc.
Sau loạn An - Sử thì tình hình xã hội Trung Hoa bắt đầu phân hóa, không còn ổn định
như trước. Bao quát và nổi bậc nhất vẫn là Bạch Cư Dị với hai bài trường thiên “Tỳ Bà
Hành” và “Trường Hận ca”
Mở đầu cho thơ ca thời Trung Đường là nhóm “Đại Lịch thập tài tử” gồm Lư
Tuân, Cát Trung Phu, Hoàn Hành, Tư Không Thự, Thôi Đông, Miêu Phát, Lý Đoan,
Cảnh Vi, Tiền Khởi và Hạ Hầu Thẩm.
Sang đến Nguyên Hòa – Trường Khánh xuất hiện hai nhà thơ kiệt xuất là Bạch
Cư Dị và Nguyên Chẩn được mọi người gọi là phái Nguyên – Bạch. Ngoài nhóm
Trang 15
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Nguyên – Bạch thời kỳ này cũng xuất hiện một số nhà thơ nổi tiếng như Lưu Vũ Tích
với những bài thơ hoài cổ; Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên, Lưu Trường Khanh với
những tác phẩm mang tư tưởng nhàn dật, lánh đời của Lão – Trang.
Một điểm nữa thời kỳ này cũng xuất hiện trên thi đàn một trường phái thơ khác
mà phong cách trái ngược với nhóm Nguyên – Bạch do Hàn Dũ chủ xướng, đương
thời tặng cho danh hiệu “Quái đảng phái”. Sở dĩ có danh hiệu này, theo Hàn Dũ nói là
thơ hay phải bí hiểm kì dị. Quanh Hàn Dũ còn có Mạnh Giao, Giả Đảo, Lý Hạ…
1.2.4. Vãn Đường (827 – 904)
Gọi là Vãn Đường vì từ Thái Hòa trở đi nhà Đường lung lay suy sụp. Nạn mua
quan bán tước, quan lại tham nhũng, sách nhiễu, thuế khóa nặng nề làm cho xã hội
Trung Hoa vốn đã suy thoái càng suy thoái nhanh hơn. Đại diện cho thơ ca thời này
phải kể đến Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục và Ôn Đình Quân.
Lý Thương Ẩn sở trường là thể thất ngôn bát cú, ông thành công với những bài
“Vô đề” và nhất là bài “Cẩm sắt”. Đây là những bài thơ mang phong cách tượng
trưng đặc biệt; còn Đỗ Mục thường được gọi là Tiểu Đỗ lại tỏ ra thiện nghệ trong thể
tuyệt cú như “Bạc Tân Hoài”, “Xích Bích”…Riêng Ôn Đình Quân thì nổi tiếng nhờ
những “Từ khúc”.
Mỗi thời kỳ có những đặc điểm riêng, nhìn chung thơ Đường có những trường
phái khác nhau. Nhưng tiêu biểu nhất là hai trào lưu lãng mạn và hiện thực, với những
trường phái này thơ Đường đã phản ánh được đầy đủ một thời đại, xã hội – lịch sử lúc
bấy giờ. Nhiều vấn đề cơ bản của xã hội được các nhà thơ đề cập đến, tuy cách giải
quyết có khác nhau, tùy theo địa vị giai cấp từng người nhưng ít nhiều đã phản ánh
lịch sử của một thời kỳ.
1.4. Đôi nét về thể loại và thi pháp thơ Đường
1.4.1. Thể loại
Chúng ta cần phân biệt thơ Đường (chỉ chung) và thơ Đường Luật làm theo
những quy định khắt khe về niêm, luật, vận, đối… Nói gọn lại thơ Đường có hai loai
chính. Một câu năm chữ gọi là ngũ ngôn và một câu bảy chủ gọi là thất ngôn. Trong
hai loại đó, mỗi loại có tới ba thể: Cổ phong, tuyệt cú và luật thi.
1.4.1.1. Cổ phong (cổ thể)
Trang 16
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Cổ phong là lối thơ mang nặng sức ảnh hưởng từ những triều đại trước. Trong
thơ cổ phong người ta chia làm hai loại cho dể nhớ: Thơ cổ phong năm lời (ngũ ngôn)
và thơ cổ phong bảy lời (thất ngôn). Thơ cổ phong khác với thơ luật ở chỗ chỉ cần vần
chứ không theo luật bằng trắc, thơ cổ phong có thể dài ngắn khác nhau, có loại bài
ngắn (đoản thiên) và bài dài (trường thiên)
Số câu chữ trong cổ phong cũng không quy định cụ thể. Đoản thiên có thể bốn
câu, sáu câu, tám câu hoặc trên mười câu…Trường thiên là những bài thơ dài, nghiêng
về trần thuật, hoặc biểu cảm liên tục trước một đề tài không dứt, do đó cũng cần có
từng phần, mạch lạc, có cấu trúc hợp lý…
Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn. Có thể là bài thơ chỉ dùng một vần
(độc vận), có thể lấy bài Xuân Tứ của Lý Bạch làm điển hình.
“Yên thảo như bích ty
Tần tang y lục chi.
Đương Quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì
Xuân phòng bất tương thứ
Hà sự nhập la vi.”
Cũng có thể thay nhiều vần trong lúc viết, vần bằng và vần trắc cũng có thể
dùng từng loại hay cả hai. Về lời trong câu thì có thể thể dài ngắn khác nhau không
nhất thiết phải làm năm hay bảy chữ.
Trong ngũ ngôn trường thiên có bốn điều cốt yếu được các nhà thơ vận dụng.
Phân mạch: chia đoạn, chi tiết, chia câu trong bài.
Quá mạch: chuyển tiếp các ý của phần đầu.
Hồi chiếu: biểu hiện những tứ lạ, ý hay đã nói lên ở các phần trên, phát triển
cho sâu sắc.
Tán thán: những ý nghĩ, suy tưởng, cảm nhận xen cài vào các đoạn trên.
Thất ngôn cổ phong thì cách mạch đoạn cho rõ ràng, ý nghĩa càng thâm trầm,
cao thoát để lại những ý vị ngoài bài thơ thì càng hay.
Thơ cổ phong đôi lúc có những bài xen vào những câu sáu lời, hoặc hoàn toàn
sáu lời như bài “Vô đề” của Lưu Trường Khanh.
“Tình xuyên vĩnh lộ hà cục
Trang 17
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Lạc nhật cô chu giải huề
Diểu hướng bình du viễn cận
Nhân tùy lưu thủy đông tây (tê)
Bạch vân thiên lý vạn lý
Minh nguyệt tiền khê hậu khê
Trù hướng trường sa trích khứ
Gian đàm phương thảo thê thê”
Tuy vậy, lối thơ sáu lời này không được dùng phổ biến. So với thơ luật thì thơ
cổ phong phóng túng hơn, ít bị trói buộc trong niêm luật, câu chữ. Chính vì vậy mà
tính hàm xúc, cô đọng, những khắt khe đòi hỏi về đối ngẫu, luật thơ, âm nhạc, không
tập trung như thơ luật.
1.4.1.2. Thơ luật (luật thi hay tân thể)
Thơ luật có ở đời nhà Đường nên cũng được gọi là Đường Luật. Luật dựa trên
những thanh bằng và thanh trắc trong một câu và niêm giữa các câu với nhau và tạo
thành cấu trúc bắt buộc của bài thơ. Luật thi là loại chặt chẻ nhất. Luật thi cũng có hai
loại là ngũ ngôn và thất ngôn, được chia làm hai loại: loại bát cú và tuyệt cú .Trong đó
loại bát cú được xem là dạng cơ bản nhất về niêm luật, về thanh điệu…đều xem là
chuẩn mực của Đường thi từ đó có thể suy ra các dạng khác. Vì thế cấu tạo thơ bát cú
cũng thường được xem là quy tắc chung cho các thể khác.
Thơ luật bát cú, cấu trúc quy định như sau:
Phá: câu mở đầu (phá đề)
Thừa: nhân ý câu phá mà chuyển tiếp (thừa đề)
Thực: (hoặc tích thực): gần hai câu 3, 4 phải đối nhau từng lời và ý, nói rõ
chủ đề của bài thơ.
Luận: gồm hai câu 5, 6 cũng theo luật đối lời đối ý của câu thực, nhằm tăng ý
chính của bài.
Kết: hai câu cuối cùng, chuyển ý và thâu tóm ý tưởng của bài thơ hoặc có
một tứ lạ gây thêm cảm xúc cho người đọc.
Tuy nhiên cũng có những bài thơ phải phân tích theo mạch cảm xúc và tình cảm
trong bài nên cũng phải uyển chuyển theo cấu trúc khác.
Trang 18
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Thơ Đường luật đặc biệt hơn ở các thể thơ khác là ở luật, niêm rất chặt chẽ và
hệ thống thanh bằng, thanh trắc. Bài thơ được gọi là luật khi chữ thứ hai trong câu là
thanh bằng và ngược lại đối với thanh trắc. Bên cạnh đó cũng có một số nhà thơ không
theo niêm luật đã quy định mà có sự phá cách sáng tạo “luật nhất, tam, ngũ bất luận”.
Và đó cũng là sự mở rộng của thơ Đường.
“Vân mộc trầm trầm hạ diệc hàn
Thứ trung u ẩn ký kinh niên”
(Vương xử sĩ sơn cư – Lý Hàm Dụng)
Niêm luật thì được quy định như sau: chữ thứ nhất, thứ hai và thứ tư với ngũ
ngôn; thứ nhất, thứ hai và thứ sáu đối với thất ngôn; câu 2 -3, 4 – 5, 6 – 7 và 1 – 8
niêm với nhau. Nếu phải bắt đầu bằng thanh bằng hay thanh trắc đều phải giống nhau.
“Đỗ vũ thanh thanh hoán khách sầu
T
B
T
Cố viên hà sứ thử đăng lâu.
B
T
B
Lạc hoa phi nhứ thành xuân mộng
B
T
B
Thặng thủy tàn sơn dị tích du
Niêm
T
B
T
Ca khiếu đa tình minh nguyệt tại
T
B
T
Vũ y vô ý thái vân thu
B
T
B
Đông hoàng khứ hậu thuyên hoa tận
B
T
B
Lão phổ hoàn hương biệt hữu thụ”
T
B
T
(Mộ xuân hoài cảm – Đái Đức Lân)
Trong thơ luật đối thanh là một yếu tố quan trọng, đối thanh là thành từng đôi
tương xứng nhau trong thơ. Phép đối bao gồm: đối thanh, đối ý, đối lời (từ). Cả ba
phép đối đều phải tuân theo quy tắc chung: có số từ ngang nhau, thanh và ý đối nhau.
Trang 19
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Đối thanh: thanh bằng đối với thanh bằng, thanh trắc đối với thanh trắc, thường
thì trong một từ thanh và ý đối nhau, người sáng tác chọn thanh thì phải chọn ý.
Đối ý: là ý của hai từ phải ngang nhau, có hai loại đối là đối tương đồng và đối
tương phản. Đối ý cũng có hai cách đối là tiểu đối và bình đối. Tiểu đối là đối từng vế,
ở mỗi từ hay chỉ ở từ cuối mỗi vế. Bình đối là toàn bộ ý câu trên đối với ý câu dưới, từ
đối từ, vế đối vế, câu đối câu.
Đối từ: là đối từ loại (danh từ đối danh từ, động từ đối động từ, tính từ đối tính
từ).
Về vần và nhịp trong thơ luật hết sức chặt chẻ, vần trong thơ bát cú được gieo
theo cước vận (vần chân) thường có năm vần ở các vị trí 1, 2, 4, 6 và 8
“Đằng vương cao các lâm gia chử
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Hoa đồng triêu phi Nam phố vân
Châu Liêm mộ quyển Tây Sơn vũ
Nhàn vân đàm ẩn nhạc du du
Vật hoán tinh di kỉ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại
Hạm ngoại trường gian không tự lưu”
(Đằng Vương Các – Vương Bột)
Từ gieo vần có thể bằng hoặc trắc nhưng vần bằng được ưa chuộng hơn. Cũng
có bài chỉ có bốn vần gọi là trốn vần hay triết tự. Vần cũng có thể bỏ ở câu thứ nhất.
Chẳn trước lẻ sau là nhịp thường thấy trong thơ Đường luật. Ngũ ngôn luật thường là
nhịp 2/3; thất ngôn luật thì nhịp 4/3 (2/2/3) nhằm tăng cường ý nghĩa bài thơ.
“Ngô ái Mạnh Phu Tử.
Phong lưu thiên hạ văn
Hồng nhan khí hiên miện
Bậc thủ ngọa tùng vân,
Túy nguyệt tần trung thánh,
Mê hoa bất sự quân,
Cao sơn an khả ngưỡng
Đồ thử ấp thanh phần.”
(Tặng Mạnh Hạo Nhiên – Lý Bạch)
Trang 20
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
1.4.1.3. Tuyệt cú (tứ tuyệt)
Tứ tuyệt là ở khoảng giữa trong mỗi bài cũng giới hạn bốn câu và mỗi câu cũng
phải làm theo luật bằng trắc, nhưng không cần đăng đối chặt chẽ, nhưng ý tứ, ý nghĩa
phải trọn vẹn sâu sắc. Cũng phải có mở kết, có thể hiện nội dung chủ đề mình định
nói. Chẳng hạn như bài “Tự quân chi xuất hỷ” của Trương Cửu Linh.
“Tự quân chi xuất hỹ
Bất phục lý tàn ky
Tư quân như minh nguyệt
Dạ dạ giảm thanh huy”
Thơ tuyệt cú làm hay, thật khó. Nhưng trong thơ Đường nhiều bài tuyệt cú đã
vượt được thử thách, được lưu truyền hàng nghìn năm, tính tư tưởng cao, hình ảnh đẹp
và mãi là những viên ngọc sáng. “Thơ tuyệt cú đẹp như một bông hoa trên cành thắm
có thể nói trực diện hoặc nói xa xôi mà ý tứ lại thâm trầm, đều được cả” (Ngô Văn
Phú).
Sự ra đời của tuyệt cú đánh dấu quá trình vận động và phát triển của thi ca
Trung Hoa, tiến đến mức độ cô đúc dồn nén ngôn từ vào một cấu trúc nhỏ gọn, hoàn
chỉnh để đạt được yêu cầu xúc tích, sâu sắc của thơ Đường.
Ngoài ba loại trên còn có nhạc phủ (nhạc phủ là thơ làm theo yêu cầu của ca
nhạc đời Đường, nhạc phủ có cổ phong, có luật thi và nhiều hơn cả tuyệt cú) và bài
luật (luật thi kéo dài).
1.4.2. Thi pháp thơ Đường
Được nhiều nhà nghiên cứu khai thác đi sâu và tìm hiểu, cho ra nhiều công
trình nghiên cứu về thi pháp. Xuất phát từ quan niệm “tam tài” – thiên, địa, nhân nhất
thể, từ học thuyết âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc, người xưa thường nói
đến sự thống nhất giữa văn (bên ngoài) và chất (bên trong). Văn thơ là sự đúc kết khí
thiên trời đất, là sự bốc men tâm hồn…Và vậy, việc tìm hiểu thơ cổ điển Trung Hoa
phải xuất phát từ tâm thức truyền thống của người Trung Hoa.
Thơ ca Trung Hoa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Đạo giáo và Phật
giáo. Đến thời Đường thì các nhà thơ đã nhập cả ba cảm hứng vào một “tam giáo
đồng nguyên”, chi phối cấu tứ và biểu hiện của thơ Đường. Nguyên tắc cao nhất của
thơ Đường là sự hài hòa cân đối, tạo dựng được đường nét và gợi lên âm thanh, tiết
tấu. Đó là niêm, luật, vận, đối, tiết tấu và bố cục. Cũng vì vậy mà thơ Đường bao giờ
Trang 21
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
cũng rất cô động và hàm xúc. “Chủ nghĩa lãng mạn của Lý Bạch rõ ràng chịu ảnh
hưởng của tư tưởng Đạo gia. Cơ sở tư tưởng của phái điền viên sơn thủy mà Vương
Duy là đại biểu có nhân tố của Phật và Lão. Thơ ca hiện thực từ Đỗ Phủ cho đến Bạch
Cư Dị thì lại lấy mặt tích cực của tư tưởng Nho gia làm nền tảng. Phong trào cách tân
cổ văn do Hàn Dũ cầm đầu cũng lấy tư tưởng của Nho gia làm nội dung tư tưởng của
văn chương” [5; tr10]
Trong “Thử tìm hiểu tứ thơ Đường”, Nhữ Thành cũng tán thành ý kiến thi pháp
thơ Đường là sự thống nhất của nhiều yếu tố. Sự thống nhất đôi khi về logic khách
quan thì khó chấp nhận, nhưng với thi pháp đồng nhất hóa, thơ Đường vẫn dung nạp
được. Sầm Than đã cho cây ngày nay nở hoa của ngày xưa.
“Đình thủ bất tri khứ tận
Xuân lai thời phát cựu thờ hoa”
(Sơn phòng xuân sự - Sầm Than)
(Cây sân chẳng biết người đi hết
Xuân sang cứ nở những hoa xưa)
Còn Nguyễn Thị Bích hải cho rằng đặc điểm chung nhất của tư duy, nghệ thuật
thơ Đường là tư duy quan hệ, nó đã tìm được sự tương giao, hài hòa thống nhất để đạt
được sự hòa điệu. Về phương thức sáng tác có hai kiểu sáng tác chủ yếu: trữ tình lãng
mạn và phản ánh hiện thực. Quan niệm về không gian nghệ thuật và về con người
trong thơ Đường cũng có hai hướng: vũ trụ và đời thường. Về ngôn ngữ có hai trường:
khái quát (trang nhã, hình thức ước lệ, tượng trưng liên tưởng, sâu lắng trầm tư) và cụ
thể (truyền cảm, trần thuật, tự sự không ước lệ, tượng trưng liên tưởng, sâu lắng trần
tư). Cũng cần phải nói thêm rằng cách chia này chỉ có tính tương đối.
Với bề dày của lịch sử phát triển, với biết bao biến cố thời gian, thơ Đường đã
phát triển đến đỉnh cao chói lọi, với biết bao tác phẩm có giá trị cao cũng như những
tác giả đã vang danh trên toàn thế giới.
2.4. Ngôn ngữ thơ Đường
Ngôn ngữ thơ Đường cũng nằm trong hệ thống tư duy nghệ thuật thơ Đường.
Tư duy nghệ thuật thơ Đường là tư duy quan hệ - cụ thể là: với bộ phận thơ thể hiện
con người vũ trụ thì nhà thơ thể hiện bằng quan hệ thống nhất, tương giao, hòa hợp;
còn con người xã hội thường được phản ánh bởi quan hệ mâu thuẫn, đối lập. Hai bộ
Trang 22
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
phận, hai khuynh hướng đó là: khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng thơ hiện
thực. Ngôn ngữ thơ cũng quy tụ về hai khuynh hướng này.
Đặc trưng cơ bản của thơ trữ tình lãng mạn (tức bộ phận thơ thể hiện con người
trong không gian vũ trụ) là sự giản dị và hàm súc. Nhưng thơ Đường vẫn có một bộ
phận không nhỏ thơ phản ánh hiện thực đời sống xã hội.
2.4.1. Ngữ pháp
“Ngữ pháp là công cụ của tư duy, công cụ giao tiếp”. Mà tư duy con người có
tính quy luật cho nên ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau nhưng có tính quy luật
chung. Chẳng hạn đều có một số từ loại như nhau, những kiểu câu giống nhau. Xét về
mặt hình thức thì có câu đơn và câu phức; xét về mặt ngữ nghĩa thì có các kiểu như:
trần thuật, cầu khiến, nghi vấn, cảm than, phán đoán… Ngữ pháp của thơ tuy có những
nét đặc thù nhưng không ngoài những kiểu câu cơ bản ấy.
“Sự phát triển của ngữ pháp tương hợp với với sự phát triển của tư duy. Tư
duy nghệ thuật của thơ Đường có một sự phát triển cao hơn thơ ca các thời đại trước,
về ngữ pháp cũng có sự phát triển” [6; 220].
Thơ thời Tiên Tần (Kinh Thi, Sở Từ) tỷ lệ câu trần thuật cao hơn trong thơ
Đường. Các loại câu cảm than, nghi vấn cũng nhiều hơn. Còn câu phán đoán và suy lý
rất ít. Đến thơ Hán, Ngụy, Lục Triều tình hình này có thay đổi. Thơ Sơ, Thịnh Đường
ta thấy tỷ lệ câu trần thuật có giảm đi, câu cảm thán rất ít, trong khi đó câu phán đoán
tăng lên rõ rệt. Đó là quan hệ điều kiện (nếu…thì), nhân quả (vì…nên), nhượng bộ
(tuy…nhưng), tăng tiến, hô ứng, đối lập…
“Bất tài minh chủ khí
Đa bệnh cố nhân sơ”
(Quy Chung Nam Sơn – Mạnh Hạo Nhiên)
(Vì) bất tài nên vua hiền ghét bỏ
(Vì) hay ốm nên bạn cũ nhạt dần
Đây là những câu có quan hệ nhân quả. Còn những câu thơ dưới đây lại là quan
hệ điều kiện.
“Hải nội tồn tri kỷ
Thiên hạ nhai nhược tỷ lân
(Tống Đỗ Thiếu Phủ chi nhậm
Thục Xuyên – Vương Bột)
Trang 23
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
(Nếu) trong bốn biển còn tri kỷ
(Thì) dẫu tận chân trời vẫn như ở bên nhau
Quan hệ nhượng bộ (có khi mang ý nghĩa tương phản) cũng thường gặp trong
thơ.
“Tích thời nhân dĩ một
Kim nhật thủy do Hàn”
(Dịch Thủy tống
biệt – Lạc Tân Vương)
(Tuy) người xưa đã khuất rồi
(Nhưng) nước sông ngày nay còn giá lạnh
Có khi quan hệ giữa hai câu thơ là quan hệ thừa tiếp, vì câu thơ trước chưa nói
trọn ý nên phải có câu thơ sau mới hoàn chỉnh.
“Trường phong phá lãng hội hữu thì
Trực quải vân phàm tế thương hải”
(Hành lộ nan – Lý Bạch)
(Sẽ có lúc cưỡi gió dài sóng lớn
Giong thẳng bườm mây vượt biển cả)
Xét về ngữ pháp thì hai câu thơ mới thành được một câu mang ý nghĩa thông
báo hoàn chỉnh. Về hình thức thì hai câu mới là một câu ngữ pháp. Những kiểu phán
đoán này ở dạng đầy đủ thì phải có những từ chỉ quan hệ (vì…nên; nếu…thì;
tuy…nhưng), nhưng trong thơ hầu hết lại không có quan hệ từ, vì cấu trúc của thơ cho
phép tỉnh lược những từ công cụ ấy mà khi đọc vẫn hiểu. Đặc biệt, kiểu câu phán đoán
thường ở phần kết của bài thơ. Vì trọng tâm ý nghĩa của bài thơ thường bao giờ cũng ở
phần kết.
Trong thơ Đường cũng thường xuất hiện kiểu câu cầu khiến, “nhất là trong kim
thể”
“Thỉnh quân thí vấn đông lưu thủy
Biệt hận dữ chi thùy đoản trường”
(Kim Lăng tửu từ lưu biệt – Lý Bạch)
(Xin anh thử hỏi dòng nước chảy về đông
So với mối tình tiễn biệt, đằng nào dài ngắn?)
Trang 24
Biểu tượng ánh trăng trong thơ Lý Bạch
Từ những ví dụ trên ta có thể thấy câu cầu khiến xuất hiện một cách khá phổ
biến trong thơ thường ở phần kết. Nhưng cũng có những trường hợp câu cầu khiến
xuất hiện không ở cuối bài đôi khi có bài toàn là câu cầu khiến. Đó là trường hợp bài
“Kim lũ y” của Đỗ Thu Nương.
“Khuyến quân mạc tích kim lũ y
Khuyến quân tích phủ thiếu niên thì
Hoa khai kham chiết trực tu chiết
Mạc đãi vô hoa không chiết chi”
(Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng
Khuyên anh hãy tiếc thời tuổi trẻ
Hoa nở đáng hái thì nên hái
Đừng chờ hoa rụng bẻ cành cành không)
Câu phán đoán và câu cầu khiến đều có tính chất chung là để chỉ quan hệ, đều
mang ý nghĩa khái quát chung và chúng là loại câu phức hợp với lối ghép chính – phụ.
Trong thơ Đường ngữ pháp quan hệ không chỉ ở phần kết mà còn ở những trước như
quan hệ đối ngẫu (các đối liên)
“Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thủy thanh đinh khoản khoản phi”
(Khúc giang – Đỗ Phủ)
(Bươm bướm luồn hoa thấp thoáng hiện
Chuồn chuồn chấm nước dập diều bay)
Mỗi câu thơ, một vế đối của cặp câu đối là một câu hoàn chỉnh. Đó là một câu
ngữ pháp và bản thân câu đó là một thông báo trọn ý. Hai vế của cặp đối là hai cụm
chủ - vị độc lập về ngữ pháp.
Về ngữ nghĩa, những câu đó thường là câu trần thuật. Cũng có những trường
hợp (không nhiều) phải cả hai cặp đối (hai câu thơ) mới thành một câu như bài “Tống
hữu nhân” của Lý Bạch.
“Thử địa nhất vi biệt
Cô hồng vạn lý chinh”
(Nơi đây một khi đã chia tay
Cỏ bồng trơ trọi sẽ lênh đênh xa muôn dậm)
Trang 25