Phần MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Là SV ngành SP Hóa, được học và tiếp thu kiến thức Hóa học, cũng như được
trang bị những phương pháp giảng dạy Hóa học theo phương pháp tích cực - phương
pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm, nhằm đáp ứng phong trào đổi mới phương
pháp dạy và học đưa giáo dục của nước ta tiến lên theo xu hướng phát triển của KHKT.
Tôi được vinh dự thực hiện đề tài “Vận dụng phương pháp POE trong dạy học Hóa học
10”. Đề tài này giúp cho tôi có thêm kiến thức cũng như những kinh nghiệm quý báu để
chuẩn bị bước vào nghề dạy học. Thêm vào đó, đề tài sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong
phong trào đổi mới phương pháp dạy và học ở khoa SP ĐHCT, cũng như của cả nước.
2. CÁC GIẢ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI:
− Tầm quan trọng của việc vận dụng phương pháp POE trong dạy học Hóa học 10
THPT: góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực
− Xây dựng các mẫu giáo án theo phương pháp POE tập trung ở 2 chương của
chương trình SGK Hóa học 10 THPT: Chương IV (Phân nhóm chính nhóm VII – Nhóm
Halogen), Chương V (Oxi – Lưu huỳnh. Lý thuyết về phản ứng hóa học).
− Đánh giá phương pháp thực nghiệm, từ đó đưa đến kết quả nhận xét tính khả thi
của đề tài.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
Phương pháp nghiên cứu:
− Nghiên cứu lý luận
− Quan sát, phỏng vấn
− Thực hành thí nghiệm trong phòng thí nghiệm
− Thực nghiệm sư phạm
− Tổng kết, đánh giá
Phương tiện:
− Máy ảnh
− Máy quay phim
− Máy vi tính
− Phiếu thăm dò ý kiến
− SGK và các tài liệu có liên quan
− Dụng cụ thí nghiệm, hóa chất
− Bảng biểu, sơ đồ, mô hình, mẫu vật
4. CÁC BƯỚC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
Bước 1:
− Gặp GVHD LVTN nhận đề tài
− Tham khảo các tài liệu, xây dựng đề cương
Bước 2:
− Gặp GVHD TTSP để triển khai kế hoạch soạn giáo án
− Thiết kế các giáo án mẫu, làm các thí nghiệm có liên quan đến bài dạy
1
− Thiết kế các biểu bảng, dụng cụ phục vụ cho tiết giảng
Bước 3:
− Dạy thử nghiệm một số giáo án ở trường THPT trong đợt TTSP, học hỏi kinh
nghiệm, bổ sung hoàn chỉnh giáo án
Bước 4:
− Thu thập thông tin phản hồi qua các phiếu thăm dò ý kiến GV−HS
− Tiến hành tổng kết
− Viết luận văn
5. CÁC THUẬT NGỮ QUAN TRỌNG TRONG ĐỀ TÀI:
GVHD: giáo viên hướng dẫn
LVTN: luận văn tốt nghiệp
KHKT: khoa học kỹ thuật
SP: sư phạm
SGK: sách giáo khoa
THCS: trung học cơ sở
THPT: trung học phổ thông
Bảng HTTH: Bảng hệ thống tuần hoàn
GV: giáo viên
HS: học sinh
ĐH: đại học
PPGD: phương pháp giảng dạy
PPDH: phương pháp dạy học
GDĐT: giáo dục đào tạo
HVL: hóa vi lượng
TTSP: thực tập sư phạm
PTN: phòng thí nghiệm
soh: số oxi hóa
dd: dung dịch
ĐÂĐ: độ âm điện
BTVN: bài tập về nhà
2
Phần NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM XUNG QUANH VẤN
ĐỀ DẠY VÀ HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN TẠI
1.1 Giáo dục trong một xã hội phát triển :
1. 1.1. Khoa học giáo dục và xu thế phát triển của thực tiễn giáo dục:
Một xã hội muốn tồn tại và phát triển tất yếu phải thực hiện chức năng giáo dục
- đào tạo. Ðó là một quy luật của sự tiến bộ xã hội. Trong đó, các thế hệ sau phải chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội mà thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền lại; đồng thời,
phải bổ sung làm phong phú và hoàn thi ện kho tàng tri thức quí báu của nhân loại.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay đang phát triển
như vũ bão, nền văn minh siêu công nghiệp với những thành tựu vô cùng lớn lao và
những biến đổi kỳ diệu trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đòi hỏi đội ngũ cán bộ khoa
học kĩ thuật có trình độ cao giữ vai trò tổ chức, điều khiển qui trình sản xuất xã hội.
Trong tương lai, lợi thế sẽ thuộc về các quốc gia có lực lượng lao động ngang tầm với
những yêu cầu cao của nền công nghiệp hiện đại, trong đó khoa học - công nghệ phải là
lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bởi lẽ, theo Bacon
“Tri thức là quyền lực, cho nên Giáo dục và Ðào tạo với tư cách là chiếc chìa khóa cuối
cùng mở vào xã hội tương lai, là công cụ chủ yếu tạo ra sự phát triển cho xã hội mai sau”.
Ở nước ta, sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có ảnh hưởng lớn tới mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đó đòi hỏi ngành Giáo dục và Ðào tạo phải kịp
thời đổi mới mục tiêu và phương thức đào tạo nhằm góp phần hình thành và phát triển
nhân cách con người Việt Nam, với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Cuộc cách mạng xã hội nước ta hiện nay đòi hỏi ngành Giáo Dục và Ðào Tạo
phải từng bước thực hiện dân chủ hóa giáo dục nhằm đảm bảo quyền được học tập đối
với mọi người, đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục,
dạy học. Nhà trường phải trang bị cho HS hệ thống những tri thức khoa học cơ bản, hiện
đại, phù hợp với thực tiễn.
1.1.2 Tiếp cận xu thế đổi mới của giáo dục :
Ðảng và Nhà Nước ta đã xác định Giáo dục và Ðào tạo là quốc sách hàng đầu,
là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội.
Thời đại ngày nay đòi hỏi phải tạo nên cơ hội tiếp nhận giáo dục cho tất cả mọi
người trong xã hội và phát huy vai trò sáng tạo của người học. Cá nhân người học vừa
tồn tại như là chủ thể, vừa là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học.
1.2. Thực trạng về PPDH Hóa học ở nước ta:
Những kết quả điều tra thực tiễn năm 1995 đã cho phép rút ra một số nhận định
đánh giá thực trạng sử dụng PPDH Hóa học ở trường THPT nước ta trong thời gian gần
đây.
1. 2.1. Hoạt động của học sinh:
a. Các hình thức được dùng thường xuyên: nghe, ghi chép, (hoặc nghe, đọc,
chép), trả lời câu hỏi của GV, nghiên cứu sách giáo khoa và trả lời câu hỏi, quan sát các
3
đồ dùng dạy học, làm bài tập và toán Hóa học, làm bài kiểm tra (kiểm tra miệng, kiểm
tra 15’, kiểm tra 45’ và thi sau mỗi học kỳ)
b. Các hình thức được dùng không thường xuyên: quan sát thí nghiệm do GV
biểu diễn, tự làm thí nghiệm, đọc tài liệu tham khảo, quan sát mô hình.
c. Các hình thức được dùng rất ít hoặc không dùng: Xem phim đèn chiếu,
phim Xinê, xem băng hình, nghe băng ghi âm, tham quan sản xuất Hóa học hoặc triển
lãm về khoa học hóa học và công nghệ hóa học, thảo luận, hội thảo, báo cáo câu lạc bộ
khoa học.
d. Thời gian dành cho hoạt động của HS: Có tới 80% GV cho rằng thời gian
dành cho hoạt động của HS là không quá 30% thời gian của một tiết học. Có tới 49%
GV xác nhận là HS ít động não, còn thụ động.
e. Ảnh hưởng của tình hình trên đến việc tiếp thu kiến thức và hình thành năng
lực của HS.
HS ít được hoạt động trong giờ học, hơn nữa lại ít được động não, không chủ
động tích cực trong lĩnh hội kiến thức do đó kiến thức không sâu sắc, không chắc chắn,
có thể trả lời đúng các câu hỏi chỉ yêu cầu thuộc bài. Tuy vậy, nếu phải trả lời những câu
hỏi cần tổng hợp, so sánh thì nhiều HS lúng túng. HS đặc biệt lúng túng khi phải giải đáp,
giải quyết những vấn đề thực tiễn. HS ít có khả năng tìm tòi sáng tạo.
1.2.2. PPDH của GV:
a. Các PPDH được dùng thường xuyên: thuyết trình, đàm thoại, trình bày đồ
dùng dạy học (hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, mẫu vật), ra bài tập và toán hóa học, kiểm tra
miệng, kiểm tra viết, cho HS dùng SGK.
b. Các PPDH được dùng không thường xuyên: biểu diễn thí nghiệm, thí
nghiệm thực hành, thí nghiệm đồng loạt khi nghiên cứu tài liệu mới, thí nghiệm ngoại
khóa, dạy học nêu vấn đề, phương pháp nghiên cứu, trình bày mô hình, giúp đỡ riêng.
c. Các PPDH được dùng rất ít hoặc không dùng: Phương pháp Grap dạy học
(Concept map), phân hóa dạy học, sử dụng phim đèn chiếu, phim xinê, cho HS xem
băng hình, sử dụng máy ghi âm, tham quan sản xuất hoặc triển lãm, thảo luận, báo cáo
khoa học, câu lạc bộ khoa học.
d. Ảnh hưởng của tình hình trên:
Các PPDH mà GV sử dụng chưa nhằm vào yêu cầu tổ chức cho HS hoạt động, chưa
nhằm làm cho HS thành chủ thể hoạt động;do đó HS thường chỉ chú ý đến việc tiếp thu
rồi tái hiện lại những điều GV giảng hoặc đã viết sẵn trong SGK; không hướng vào việc
rèn luyện cho HS năng lực giải quyết các vấn đề từ thấp đến cao, do đó cũng không
hướng vào việc rèn luyện cho họ năng lực sáng tạo.
Có tới 97% GV rất ít hoặc không cho HS tự làm thí nghiệm khi học bài mới; 32%
GV tự nhận là không sử dụng phương pháp nghiên cứu vốn có tác dụng lớn trong việc
rèn luyện cho HS tư duy tích cực.
1.2.3. Nhận định chung:
a. Trong các giờ Hóa học, HS ít được hoạt động, kể cả hoạt động tay chân, đặc
biệt là hoạt động tư duy. HS chưa được trở thành chủ thể hoạt động.
b. Các PPDH được dùng trong các giờ Hóa học chưa thể hiện được phương pháp
nhận thức khoa học bộ môn, đặc biệt là nặng về thuyết trình; còn thí nghiệm hóa học,
các phương tiện trực quan, phương pháp nghiên cứu mới được sử dụng quá ít, vì thế
chất lượng giảng dạy chưa cao lắm.
c. GV chưa chú ý hình thành từng bước năng lực giải quyết vấn đề từ thấp lên cao
cho HS.
4
Thực trạng PPDH Hóa học ở các trường THPT ở nông thôn, các trường miền núi
và vùng sâu chắc chắn còn thấp hơn tình hình ở các trường ở thành phố, thị xã.
Tình hình thực trạng sử dụng PPDH Hóa học như trên đòi hỏi phải có những biện
pháp mạnh mẽ, đồng bộ khẩn trương khắc phục những khuyết điểm thiếu sót góp phần
nâng cao chất lượng dạy học Hóa học nói riêng và các môn học ở trường THPT nói
chung.
1.3. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học:
Từ những nhận định trên thấy rằng sự nghiệp GDÐT đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể: số trường, lớp, HS ngày càng tăng về số lượng, đa dạng về loại hình. Tuy nhiên,
vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Một trong những vấn đề quan trọng nhất là phải
quan tâm đổi mới PPDH ở các trường THPT.
Từ những nhận định trên, việc đổi mới PPDH là một vấn đề quan trọng. Ðổi mới
PPDH muốn đạt kết quả tốt cần hướng vào giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
− PPDH phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS, phải giúp
cho HS biết cách học tập, nhất là tự học, tự nghiên cứu. Ðây là cái rất cơ bản để đảm bảo
cho HS có khả năng học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Theo phương pháp này quá
trình dạy học phải huy động toàn bộ chức năng tâm lý, đặc biệt là khả năng tư duy sáng
tạo của HS nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của trường đề ra.
− Ðổi mới PPDH phải giúp cho HS tăng cường vận dụng tri thức vào đời sống,
vào hoạt động xã hội, tức là thực hiện được nguyên lý học đi đôi với hành, nhà trường
gắn liền với xã hội.
− Phải từng bước làm cho phương pháp học tập của HS ngày càng tiệm cận với
phương pháp nghiên cứu khoa học, tức là chuyển dần từ phương pháp học tập theo con
đường Algorit - con đường làm theo, bắt chước, con đường tiếp thu, tái hiện tri thức, kỹ
năng sang con đường Ơristic - con đường tự mò mẫm, tìm tòi, con đường sáng tạo,
nghiên cứu khoa học.
− Ðổi mới PPDH trên cơ sở khai thác tốt khả năng của phương tiện dạy học vì đó
là một nhân tố quan trọng đặc biệt góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
− Ðổi mới PPDH phải đa dạng hóa, mềm dẻo, phù hợp với từng đối tượng.
− Phải cải tiến các phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, kỹ năng,
kỹ xảo của HS trên cơ sở bảo đảm công bằng, khách quan.
− Ðổi mới PPDH phải kết hợp được những thành tựu về khoa học giáo dục
(KHGD) ở trong nước và của Thế giới.
− Ðể có thể thực hiện tốt các phương hướng đổi mới, cải tiến PPDH trình bày
trên đây, cần tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ GV và cán bộ quản lý giáo dục về nội dung
chuyên môn cũng như về KHGD, đặc biệt về các con đường nâng cao hiệu quả của quá
trình dạy học theo quan điểm công nghệ đào tạo. Bản thân người thầy giáo cũng phải
không ngừng phấn đấu để nâng cao trình độ khoa học, hiểu biết xã hội, đồng thời phải
hết sức quan tâm trau dồi nghề sư phạm của mình, cần quan tâm đến các điều kiện vật
chất, cơ sở thiết bị cho nhà trường, cho bộ môn, kể cả việc nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho GV.
TÓM TẮT MỤC 1:
Từ xu thế thời đại và thực trạng nền GDÐT nước ta có thể nói rằng đổi mới PPDH
hiện nay là một vấn đề bức xúc. Công việc này cần phải có sự đầu tư và quan tâm thích
đáng của các nhà quản lý, các nhà khoa học, đặc biệt là đội ngũ GV. Tổ chức làm tốt vấn
5
đề này là góp phần tích cực nâng cao chất lượng và hiệu quả trong sự nghiệp đào tạo của
nước ta.
Ðổi mới PPDH có nghĩa là thay đổi các PPDH đã và đang dùng cho phù hợp với sự
phát triển của xã hội. Phương pháp POE, là một trong những phương pháp có thể đáp
ứng được yêu cầu đổi mới PPGD, đáp ứng phương châm “giáo dục lấy học sinh làm
trung tâm”.
2. NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT:
2.1. Những vấn đề cơ bản của lí luận dạy học:
Trên cơ sở chủ yếu như mục tiêu Giáo dục và Ðào tạo, sự tiến bộ của Khoa học
và công nghệ có thể nêu lên các nhiệm vụ chủ yếu của quá trình dạy học như sau:
1. Tổ chức, điều khiển người học nắm vững hệ thống những tri thức khoa học và
hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.
2. Tổ chức, điều khiển người học hình thành và phát triển năng lực và những
phẩm chất trí tuệ, đặc biệt năng lực tư duy sáng tạo.
3. Tổ chức, điều khiển người học hình thành và phát triển thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan và các phẩm chất đạo đức của người công dân, người lao động có
bản lĩnh và bản ngã trong cộng đồng.
Quá trình dạy học về bản chất là quá trình nhận thức độc đáo của người học nhằm
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Quá trình đó luôn luôn vận động và phát triển theo
những qui luật nhất định. Vì thế, muốn tổ chức, điều khiển quá trình dạy học nhằm đạt
kết quả tối ưu, người dạy và người học phải tuân theo những luận điểm cơ bản, đó chính
là các nguyên tắc dạy học như sau:
1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy
học
2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học.
3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng trong dạy
học.
4. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo và tính mềm dẻo của tư duy trong dạy học.
5. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức chung và tính vừa sức
riêng trong dạy học.
6. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò chủ đạo của người dạy và vai trò
tự giác, tích cực, độc lập của người học trong dạy học.
Các nguyên tắc dạy học nêu trên tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, cần được
vận dụng phối hợp và đồng bộ thông qua hoạt động giảng dạy của GV và hoạt động tích
cực, có hiệu quả của người học.
Vấn đề đổi mới và hoàn thiện nội dung dạy học là một yêu cầu cấp bách trong lí
luận dạy học hiện nay. Thực tiễn dạy học trong các loại hình trường cho thấy rằng vấn đề
đổi mới nội dung dạy học cần tính đến một số phương hướng sau:
− Hiện đại hóa nội dung dạy học: Việc hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật dạy
học, chủ trương đưa Tin học vào các trường phổ thông, tăng cường các môn Khoa học tự
nhiên, đặc biệt là các ngành khoa học mũi nhọn làm cho nội dung dạy học trong các loại
hình trường ngày càng có xu hướng hiện đại hóa và quốc tế hóa.
− Nội dung dạy học phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống.
− Tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, giáo dục tính nhân văn và tính dân tộc
cho người học.
6
− Với xu thế phát triển của thời đại và đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện
nay nội dung dạy học phải gắn liền với khoa học, công nghệ, kinh tế, thương mại, thị
trường
Từ đó nội dung dạy học tạo cơ sở, nền tảng cho sự hình thành, phát triển toàn diện
nhân cách cho thế hệ trẻ tương lai. Nội dung dạy học này được phản ánh trong kế hoạch,
chương trình, sách giáo khoa và các tư liệu dạy học có liên quan.
Hệ thống các phương pháp dạy học đang được sử dụng phổ biến, được xây dựng
trên các nguồn tri thức như sau:
− Các phương pháp dạy học dùng lời: Phương pháp thuyết trình, vấn đáp,
phương pháp dùng sách giáo khoa và các tài li ệu học tập.
− Các phương pháp dạy học trực quan: Phương pháp quan sát và phương pháp
trình bày trực quan.
− Các phương pháp dạy học thực tiễn: Phương pháp độc lập làm thí nghiệm,
luyện tập, ôn tập.
− Phương pháp kiểm tra đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình dạy
học.
Các phương pháp dạy học trong các loại hình trường hiện nay rất đa dạng. Mỗi
phương pháp dạy học đều có những ưu điểm cơ bản, nhưng bên cạnh đó lại có những hạn
chế tất yếu. Không có phương pháp dạy học nào là vạn năng đối với mọi môn học và đối
với mọi GV. Nghệ thuật sư phạm của người thầy giáo là phải biết lựa chọn và vận dụng
phối hợp các phương pháp dạy học sao cho có thể phát huy ở mức tối đa các mặt mạnh
của từng phương pháp và khắc phục được những hạn chế của từng phương pháp dạy học.
Ðể lựa chọn và vận dụng, phối hợp các phương pháp dạy học cần phải dựa vào
một số cơ sở sau đây: căn cứ vào đặc điểm hoạt động nhận thức của người học, đặc trưng
của môn học, phương tiện kỹ thuật dạy học, năng lực và trình độ nghiệp vụ sư phạm của
người thầy giáo.
Dựa theo lịch sử phát triển của các hình thức tổ chức dạy học nói chung và kinh
nghiệm thực tiễn trong các loại hình trường hiện nay, chúng ta có thể kể tới các hình thức
tổ chức dạy học sau: lên lớp, trò chơi, kể chuyện, tự học, thực hành, thảo luận, xemina,
phụ đạo, ngoại khóa, tham quan nghiên cứu khoa học trong đó hình thức lên lớp là hình
thức dạy học cơ bản nhất.
Trên đây là những yếu tố của quá trình dạy học, chúng có ảnh hưởng lẫn nhau và
đều nhằm mục đích tác động đến yếu tố người học - HS - đóng vai trò trung tâm trong
PPDH mới. Do vậy phần tiếp theo chúng ta đi sâu xem xét yếu tố này cùng với những
tính chất của nó (trong phạm vi đề tài là HS THPT).
2.2. Hoạt động học tập:
Ý thức, thái độ đối với học tập ngày càng phát triển cao, HS đã có thái độ lựa
chọn đối với các môn học, hứng thú học tập của các em gắn liền với khuynh hướng nghề
nghiệp. Thái độ học tập có ý thức thúc đẩy tính có chủ định của quá trình nhận thức và
năng lực điều khiển bản thân trong hoạt động học tập.
Thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc đời con người.
Ðây là thời kỳ lứa tuổi phát triển một cách hài hòa cân đối, là thời kỳ có sự biến đổi lớn
về chất trong toàn bộ nhân cách, để các em sẵn sàng bước vào cuộc sống tự lập. Do đó
người GV phải nhận thức đầy đủ vị trí của lứa tuổi này để có nội dung, phương pháp giáo
dục thích hợp nhằm đem lại hiệu quả tối ưu trong công tác sư phạm.
2.2.1. Hoạt động học:
7
Là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính bản thân người học; được điều khiển
một cách có ý thức nhằm tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hướng vào việc tiếp thu cả
những phương pháp giành tri thức đó.
2.2.2. Những thành phần tâm lý cơ bản của sự nắm vững tri thức:
a. Thái độ tích cực học tập của HS:
Biểu hiện ở sự chú ý và hứng thú nhận thức.
Những yêu cầu để hình thành chú ý học tập của HS:
− GV phải biết kết hợp các phương pháp và các hình thức hoạt động của HS thật
đa dạng phong phú để khơi gợi sự chú ý của HS.
− Tổ chức hợp lý nhịp độ hoạt động của GV và HS trong quá trình dạy học.
− Biết điều chỉnh các thuộc tính chú ý một cách hợp lý theo yêu cầu của nhiệm vụ
học tập.
− GV phải có hứng thú sâu sắc đối với vấn đề mình trình bày.
− Hình thành ở HS thái độ đấu tranh chống sự phân tán chú ý trong học tập
Con đường hình thành hứng thú nhận thức:
− Thông qua nội dung giảng dạy: Qua nội dung giảng sẽ mở rộng tầm hiểu biết
của HS, giúp HS phát hiện ra nhiều vấn đề mới, do đó kích thích hứng thú nhận thức của
HS
− Thông qua việc tổ chức hoạt động nhận thức
Vậy, muốn hình thành hứng thú nhận thức của HS thì trong quá trình dạy học,
GV phải xây dựng nội dung bài giảng thật sinh động, có sức lôi cuốn. Ðồng thời, phải cải
tiến phương pháp và các hình thức tổ chức hoạt động của HS nhằm kích thích tính tích
cực của HS.
b. Tính trực quan trong giảng dạy:
Tính trực quan có vai trò quan trọng trong giảng dạy để chuyển hóa thông tin từ
GV đến HS theo con đường từ trực quan cụ thể đến trừu tượng, từ sự kiện đến khái niệm,
đó là cơ sở chủ yếu để HS nắm vững tri thức.
c. Tư duy - quá trình sàng lọc tích cực tài liệu thu nhận được:
Tư duy là quá trình điều khiển sự hình thành khái niệm.
Quá trình hình thành khái niệm cho HS trải qua những bước sau:
− Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức ở HS khi làm xuất hiện hoàn cảnh có vấn đề
chứa mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, nhằm kích thích HS có nhu cầu giải
quyết nó, thông qua đó HS lĩnh hội được tri thức mới.
− Tổ chức cho HS hành động như tổ chức thực hành, làm thí nghiệm, quan
sát sự vật hiện tượng.
− Hướng dẫn HS tìm ra những nét bản chất của khái niệm và làm cho các em
ý thức được những dấu hiệu bản chất đó.
− Hướng dẫn HS đưa dấu hiệu bản chất đó vào định nghĩa
− Hệ thống hóa khái niệm
− Luyện tập vận dụng khái niệm đã nắm được vào thực tiễn sẽ giúp HS nắm
vững tri thức hơn và làm cho tri thức mang tính sinh động sáng tạo hơn.
d. Quá trình ghi nhớ:
Những tri thức HS đã lĩnh hội được cần phải được giữ gìn trong trí nhớ để khi
cần có thể tái hiện lại để vận dụng giải quyết vấn đề.
2.3. Phương hướng chung của đề tài nghiên cứu:
2.3.1. Khái niệm về phương pháp dạy học Hóa học:
8
Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang đã định nghĩa:
Phương pháp dạy học Hóa học có thể hiểu là cách thức hoạt động cộng tác có mục
đích giữa GV và HS, trong đó thống nhất sự điều khiển của GV với sự bị điều khiển - tự
điều khiển của HS nhằm làm cho HS chiếm lĩnh khái niệm Hóa học.
Như vậy phương pháp dạy học Hóa học gồm:
ü Phương pháp dạy Hóa học của GV
ü Phương pháp học Hóa học của HS
• Phương pháp dạy Hóa học của GV có hai chức năng:
− Truyền đạt nội dung trí dục đến HS
− Ðiều khiển quá trình học tập của HS
• Phương pháp học Hóa học của HS có hai chức năng:
− Tiếp nhận nội dung trí dục do GV truyền đạt
− Tự rèn luyện để biến nội dung trí dục do GV truyền đạt thành kiến thức của
chính mình.
Giữa phương pháp dạy, phương pháp học và các chức năng có liên hệ qua lại chặt
chẽ với nhau.
2.3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu PPDH:
Trong quá trình nghiên cứu PPDH, GV được đào tạo về mặt nghiệp vụ cần thiết
cho công tác dạy học và giáo dục trong môn Hóa học ở trường THPT. GV nắm vững
được những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cơ bản sau đây:
a. Hiểu rõ được những nhiệm vụ do Ðảng và Nhà Nước đề ra trong lĩnh vực phát
triển ngành Hóa học và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân, trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước.
b. Hiểu biết toàn diện và sâu sắc những nhiệm vụ của việc dạy học Hóa học ở
trường THPT, biết thực hiện nhiệm vụ dạy chữ, dạy người và phát triển tiềm lực trí tuệ
HS thông qua dạy học bộ môn Hóa học.
c. Nắm được các kiến thức tâm lý học, giáo dục học, lí luận Mác - Lênin, các môn
Hóa học thuộc chương trình.
d. Có kiến thức và kỹ năng xác định, lựa chọn nội dung dạy học; biết phân tích
chương trình, SGK và tài liệu tham khảo về Hóa học; biết phân tích sự phát triển của
một số kiến thức cơ bản nhất trong chương trình Hóa học trường THCS có liên hệ với
chương trình THPT.
e. Biết sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với mỗi loại bài lên lớp và mục
đích, nội dung dạy học để điều khiển quá trình nhận thức của HS.
f. Có kiến thức và kỹ năng sử dụng thí nghiệm, các phương tiện trực quan, các
phương tiện kỹ thuật trong dạy học.
g. Có kiến thức và kỹ năng soạn bài, chuẩn bị cho bài lên lớp và thực hiện các giáo
án.
h. Hiểu biết các nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, tổ chức công tác ngoại khóa về
Hóa học và tiến hành công tác giáo dục hướng nghiệp cho HS.
2.3.3. Quy trình nghiên cứu PPDH:
Trong quá trình đào tạo ở trường Sư phạm và trong công tác sau này ở trường
THPT của các GV Hóa học, công tác nghiên cứu khoa học có vai trò rất quan trọng.
Công tác này giúp hình thành và phát triển có hiệu quả năng lực, phẩm chất độc lập sáng
tạo trong học tập, công tác và bồi dưỡng tiềm lực cho GV để họ tiếp tục tự học và cải tiến
công tác. Trong hoạt động thực tiễn của mình, GV sẽ phải tiến hành công tác nghiên cứu
khoa học khi đi tìm những con đường mới, những phương tiện mới để giải quyết có hiệu
quả hơn những nhiệm vụ dạy học và giáo dục, khi GV không chỉ tiếp thu những điều mới
9
mẻ mà còn tự kiểm tra lại nhiều điều, đồng thời thường xuyên phân tích công tác của bản
thân.
Quy trình nghiên cứu PPDH Hóa học nói riêng, về khoa học giáo dục nói chung,
thường gồm các giai đoạn chủ yếu sau:
a. Xác định đề tài nghiên cứu và lập đề cương nghiên cứu (lập luận tính cấp thiết
của đề tài; mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu; khách thể và đối tượng nghiên cứu; giả
thuyết khoa học; phương pháp nghiên cứu; dàn ý công trình nghiên cứu; dự kiến kế
hoạch nghiên cứu trong đó có kế hoạch thời gian).
b. Xây dựng hệ thống giả thuyết khoa học, xây dựng mô hình lý tưởng về đối
tượng.
c. Giai đoạn triển khai việc nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học thích hợp để đạt được những mục đích và nhiệm vụ đề ra, viết công trình
nghiên cứu.
Xuất phát từ đường lối xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội Việt Nam, mục tiêu của nền
giáo dục Việt Nam, mục tiêu của trường THPT trong giai đoạn mới, những đặc trưng của
khoa học hóa học, có thể nhận thấy rằng Hóa học là một trong những môn học then chốt
ở bậc Trung học và Ðại học. Có ba nhiệm vụ lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực:
a. Ðào tạo nghề có chuyên môn về Hóa học phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội,
đặc biệt cho sự Hóa học hóa đất nước
b. Góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực, coi học vấn Hóa học như một bộ phận
hỗ trợ.
c. Góp phần phát triển nhân cách, giúp cho thế hệ công dân tương lai có ý thức về
vai trò của Hóa học trong đời sống, sản xuất, khoa học của xã hội hiện đại, hình thành
các giá trị tư tưởng đạo đức, lối sống phù hợp với mục tiêu giáo dục chung và thích hợp
với trình độ, lứa tuổi của HS.
Nhiệm vụ cơ bản của việc dạy học Hóa học ở trường THPT:
− Trang bị cho HS những cơ sở khoa học của Hóa học ở mức độ cần thiết để họ có
thể đi vào cuộc sống hoặc tiếp tục học lên bậc Ðại học, các trường chuyên nghiệp.
− Hình thành cho HS phương pháp nghiên cứu Hóa học: Phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa, cách suy luận từ hiện tượng quan sát đi đến bản chất của đối tượng nghiên cứu
− Hình thành cho HS một số kỹ năng: thao tác với các chất Hóa học và dụng cụ thí
nghiệm đơn giản, quan sát và giải thích một số hiện tượng Hóa học, biết giải các loại bài
toán điển hình theo chương trình.
− Trang bị cho HS những kiến thức kỹ thuật tổng hợp về Hóa học.
− Góp phần hình thành cho HS những quan điểm thế giới quan khoa học, đạo đức
và tình cảm của người lao động mới của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
2.4. Hướng nghiên cứu chính:
Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy nguồn lực con người, nguồn
lực không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia (Calloids, Gottlemann –
Duret & Lewin, 1997).
Thật vậy, ngành GDÐT Việt Nam luôn được quan tâm theo truyền thống tôn sư
trọng đạo của dân tộc ta. Từ năm 1990, nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề đổi
mới nền GD cả nước theo định hướng lấy người học làm trung tâm, phát huy khả năng tự
học suốt đời. Vì vậy, phương pháp mới đã khuyến khích người học chủ động trong việc
học, là nhân tố quan trọng nhất trong sự nghiệp đổi mới nền GD. Tuy nhiên, phương
pháp dạy học truyền thống không đáp ứng được nhu cầu đổi mới nền GD vẫn đang giữ
vai trò chủ yếu trong hệ thống GD. Hầu hết các trường sử dụng cách giảng dạy như sau:
10
− Trình bày các khái niệm, định nghĩa, lý thuyết thực hành. 90% thời gian GV
dùng để hoàn tất bài học theo SGK và chương trình dạy học. Ngoài ra, GV còn bổ sung
kiến thức bằng bài tập về nhà và những giờ học thêm.
− GV chủ yếu dùng phương pháp giải thích minh họa, hoạt động của cá nhân HS
chiếm 8%, của nhóm HS chiếm 2%.
Ðể giải quyết mục tiêu chiến lược của Nhà nước, tập trung vào sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, khoa học GD. Trong đó có GD Hóa học cần được cải
cách, kiến thức và kỹ năng của HS cũng như khả năng vận dụng khoa học hóa học trong
việc giải quyết vấn đề kinh tế xã hội phải được nâng cao. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một
số vấn đề sau:
− Sự quan tâm của cộng đồng xã hội đối với Hóa học chưa nhiều, điều nay liên
quan đến vai trò và sức đóng góp của Công nghệ hóa học trong việc xây dựng đất nước,
giải quyết các vấn đề toàn cầu.
− Chất lượng và hiệu quả giảng dạy Hóa học trong nhà trường còn thấp vì thời
gian đầu tư cho môn Hóa học không được bảo đảm. Hóa học vẫn chưa là môn chính
trong các kỳ thi quốc gia. Mặc dù chương trình Hóa đã nhiều nhưng vẫn còn thiếu nội
dung liên quan đến thực tiễn đời sống hàng ngày và những vấn đề công nghiệp.
− PPDH vẫn là phương pháp cũ, phương tiện giảng dạy thiếu thốn, số lượng GV
Hóa còn ít so với số lượng GV ở các môn khác.
2.4.1. Tầm quan trọng của đề tài:
Từ năm 1996 đến năm 1998, các giảng viên Khoa Sư phạm trường Ðại Học Cần
Thơ và các GV THPT ở Thành Phố Cần Thơ đã được tham dự một trong ba khóa học
nghiên cứu vấn đề “Học tập bằng phương pháp khám phá” do các giáo sư Hà Lan thuộc
dự án MHO4 giảng dạy, với phương hướng dựa trên giả thuyết rằng kiến thức có thể
không nên chuyển giao mà nên được xây dựng bởi những hoạt động trí tuệ của người
học. Những định hướng này được tiếp thu và trở thành nền tảng cho những khóa học
phương pháp ở Ðại Học Cần Thơ. Từ năm 1997 Khoa SP mong muốn SV phát huy
những thành tựu hóa học và mục đích, chương trình đào tạo.
Tuy nhiên còn có những khó khăn sau:
− SV chưa thể quan sát lớp học có sử dụng kiểu giảng dạy trong đó những định
hướng GD được sử dụng.
− SV thiếu công cụ thích hợp, vẫn còn dùng giáo trình giảng dạy theo nội dung do
Hội đồng GD soạn thảo.
Kết quả là, phương pháp truyền thống vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ cũng như trong
thực hành giảng dạy của nhiều SV SP và GV THPT. Từ đó đưa đến các câu hỏi sau:
− Bằng cách nào SV SP có thể tự thiết kế bài học áp dụng PPDH mới (người học
là trung tâm)?
− Làm thế nào để giúp đỡ GV Hóa học ở trường THPT giảng dạy có hiệu quả
hơn?
Đây là một đề tài giúp cho SV SP và GV THPT suy nghĩ về vai trò của GV Hóa học
trong công cuộc cải cách GD và đặc biệt trong sự phát triển PPDH Hóa học theo phương
pháp mới, trong đó lớp học là nơi để HS dự đoán, quan sát hiện tượng hóa học và nêu lý
giải từ lý thuyết đã học. James và Nelson (1981) khẳng định rằng khi HS tham gia tích
cực thì lớp học sẽ có nhiều thông tin hơn và khi đó GV nhận biết được sự khác nhau giữa
các HS, kỹ năng giải thích cũng được mở rộng, HS trở thành những người chủ động
trong lớp.
2.4.2. Nguyên tắc cơ bản:
11
− GV cần đưa cho HS những khái niệm cho phép HS đặt câu hỏi, tự khám phá thế
giới xung quanh, GV giúp đỡ khi cần thiết.
− Không khí của lớp học phải sôi động khi vấn đề mới xuất hiện qua những thí
nghiệm.
− GV nên là hình mẫu tích cực cho HS, bao gồm thái độ thực hành trong lớp, cách
biểu diễn, giải quyết vấn đề và lòng say mê nghiên cứu khoa học.
− Thông qua GV, HS thiết lập niềm tin bền vững vào khả năng của mình và niềm
say mê học tập trong lớp học và ngoài xã hội sau này.
2.4.3. Nhu cầu, phương hướng đổi mới PPDH Hóa học:
Phương hướng hoàn thiện PPDH Hóa học trong những năm tới ở nước ta như sau:
a. Hoàn thiện chất lượng các PPDH hiện có:
− Tổ chức cho người học học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác,
tích cực và sáng tạo.
− PPDH Hóa học phải thể hiện được phương pháp nhận thức khoa học đặc
trưng của Hóa học là thực nghiệm hóa học, do đó phải tăng cường sử dụng thí nghiệm và
các phương tiện trực quan và phải dạy cho HS biết tự nghiên cứu và tự học khi sử dụng
chúng.
− Tăng cường năng lực vận dụng tri thức một cách sáng tạo vào cuộc sống và
sản xuất luôn đổi mới.
b. Sử dụng các PPDH có hiệu quả bằng các cách sau:
− Liên kết nhiều PPDH riêng rẽ thành những PPDH phức hợp có hiệu quả cao
hơn.
− Liên kết PPDH với các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại như phương
tiện nghe nhìn, máy vi tính…tạo ra các PPDH phức hợp có dùng kỹ thuật đảm bảo thu và
xử lý các tín hiệu ngược ngoài kịp thời chính xác.
− Chuyển hóa phương pháp khoa học thành PPDH đặc thù của môn học.
Ngoài ra, hiện nay có một hình thức học tập đang được sử dụng phổ biến:
quy trình dạy - tự học.
2.4.4. Hiệu quả của việc dạy – tự học:
Quy trình dạy - tự học được xác lập có khả năng nâng cao kết quả học tập, mức độ
nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cho HS, phát huy tính chủ động cho HS trong học tập.
Quy trình dạy - tự học sẽ giúp HS có được năng lực học liên tục – học suốt đời, học
để biết, để làm người và để cùng chung sống.
Quy trình dạy - tự học được xây dựng phù hợp với nội dung, chương trình, với trình
độ nhận thức của HS mang tính khả thi, cần được áp dụng rộng rãi.
Điều kiện để tiến hành dạy - tự học là phải có GV giỏi, có trình độ chuyên môn sâu,
trình độ sư phạm lành nghề để tổ chức điều khiển quá trình tự học của HS. Đồng thời cả
GV và HS phải nhận thức rõ vị trí và vai trò của mình trong quá trình dạy học, nhà
trường cần có sự trợ giúp về tài liệu tham khảo cùng các phương tiện khác cho HS.
Quá trình này cũng được gọi là hình thức tự học giáp mặt, là quá trình khơi dậy khả
năng tự lực, độc lập tích cực của người học dưới sự gợi mở, hướng dẫn của GV. Quá
trình này gồm các chu trình dạy học theo ba bước:
− Bước 1: Tự nghiên cứu
HS tự tìm hiểu vấn đề dưới sự hướng dẫn của GV, họ định hướng và thu thập thông
tin, xử lý thông tin, giải quyết vấn đề, thử nghiệm, kết luận và cho ra sản phẩm ban đầu
có tính cá nhân.
− Bước 2: Tự thể hiện
12
HS tự thể hiện bằng văn bản, bằng lời nói, và họ tự sắm vai trong các tình huống,
vấn đề; tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình; tự thể
hiện qua sự hợp tác với GV, với bạn để tự nhận tri thức thông qua các hoạt động trí tuệ
của mình.
− Bước 3: Tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác với bạn, với GV; sau khi GV kết luận, HS
tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh các sản
phẩm trí tuệ của bản thân.
Sau đây là một PPDH phát huy được những phương hướng đổi mới PPDH Hóa
học và cả ưu điểm của quy trình dạy - tự học.
2.4.5. Phương pháp POE là gì?
Phương pháp POE là một chiến lược GD trong đó người học phát triển sự hiểu biết
bằng cách thực hiện ba nhiệm vụ: dự đoán, quan sát, giải thích.
Champagne, Klopfer và Anderson (1979) là những người đầu tiên thiết kế chiến
lược này cho SV Lý năm I ở trường Đại Học Pittsburg. Sau đó, Gunstone và White
(1981) đã tiến hành sử dụng phương pháp POE cho các cuộc nghiên cứu khái niệm khoa
học của HS.
Phương pháp POE bao gồm những thí nghiệm, những biểu mẫu, sơ đồ được tiến
hành trong lớp học hay trong phòng thí nghiệm để phát triển sự hiểu biết của HS. Sự giải
thích những gì đã quan sát được sẽ tạo cho HS những kiến thức cần thiết để dự đoán cuộc
biểu diễn tiếp theo. Mỗi cuộc biểu diễn theo cùng một tiến trình như sau:
a. Dự đoán:
GV mô tả cho HS biết những gì họ sẽ làm để HS có thể dự đoán hiện tượng, sự kiện
dựa trên kiến thức cũ và những điều quan sát được, viết ra các phản ứng hóa học và đưa
ra lời giải thích.
b. Quan sát:
HS quan sát những hoạt động diễn ra trong lóp (thí nghiệm của GV-HS, sơ đồ, bảng
vẽ...).
c. Giải thích:
HS cho lời giải thích về cái gì đã diễn ra, diễn ra như thế nào và tại sao. GV yêu cầu
một HS hay nhóm HS trình bày.
Tóm lại, phương pháp POE là một chiến lược phát triển tầm hiểu biết của HS,
khuyến khích HS đặt câu hỏi cho nhau để giải thích chi tiết những ý kiến đồng thời chia
sẻ những điều HS nghĩ với các nhóm HS khác. Chính sự lý giải và khái niệm mới hình
thành này là nền tảng cho việc nâng cao tầm hiểu biết. Nhờ đó HS có ấn tượng sâu sắc và
xác thực về nhận thức, đồng thời GV cũng có thể đánh giá nhằm phát triển việc giảng
dạy.
2.4.6. Áp dụng phương pháp POE thiết kế giáo án:
a. Phần chuẩn bị:
Người thiết kế cần quan tâm đến:
− Mục đích của bài học: GV định hướng được sau khi học xong bài thì HS có
thể nhận thức được những gì. Phần này ảnh hưởng đến kế hoạch phân chia thời gian.
Các vấn đề đặt ra là: HS có thể làm những gì suốt thời gian học? HS hoàn thành công
việc như thế nào và cái gì là tiêu chuẩn chính để đánh giá kết quả đạt được ?
− Điều kiện thực hiện: Dự trù các hoạt động phụ để chắc chắn rằng HS sẽ đạt
được đối tượng của bài học: HS có thể làm gì trước khi học và loại khái niệm nào phải
nắm vững để hoàn thành mục tiêu của bài học?
13
− Phương tiện dạy học: GV xác định nhanh khoảng thời gian, thiết bị và dụng
cụ dạy học chuẩn bị (SGK, dụng cụ thí nghiệm, hóa chất, phiếu điều tra…), cần thiết có
một bảng thống kê các phương tiện này và chuẩn bị kỹ càng.
b. Phần kế hoạch:
Đây là phần chính, mô tả từng bước cách làm để tổ chức lớp học và đạt được mục
tiêu của bài. Điều này cung cấp cho GV sự phán đoán làm thế nào để tiến hành có kết quả
kế hoạch bài học. Nó cũng tập trung vào những việc mà GV muốn HS làm trong suốt
thời gian học. Phần này được chia thành các thành phần cơ bản: giới thiệu, hoạt động
chính và kết luận. Đây là những thành phần phức tạp. Có vài hướng dẫn như sau:
Ø Giới thiệu vào bài:
GV giới thiệu mục tiêu của bài
− Làm thế nào để GV có thể khiến HS chú ý và kích thích HS tập trung chú ý
suốt thời gian học?
− Làm thế nào GV có thể kết hợp được mục tiêu của bài học với sự hứng thú của
HS và những hoạt động của lớp học ?
Ø Hoạt động chính:
Người thiết kế cần quan tâm đến những hoạt động chính của lớp học giúp GV tổ
chức tốt hoạt động học tập.
− Trọng tâm của bài
− Tiến hành bài học
− GV cần làm gì để việc học tập trở nên dễ dàng và điều khiển được những hoạt
động khác?
− Những ví dụ quan trọng để minh họa kiến thức GV muốn truyền đạt cho HS
và cách thức biểu diễn chúng. Quan trọng hơn, người thiết kế cần chọn một trong những
kỹ thuật sau để hoạch định nội dung bài học đúng với mục tiêu.
§ Chứng minh: Một bảng thống kê chi tiết và trình tự từng bước
thực hiện.
§ Giải thích: Một bảng phác thảo thông tin chính
§ Thảo luận: Một bảng liệt kê vấn đề thảo luận để hướng dẫn
cuộc thảo luận theo đúng kế hoạch.
Ø Kết luận:
Người thiết kế giúp GV đề ra những ý chính tập trung vào các vấn đề sau:
− GV sẽ phản ánh để HS sửa sai và củng cố việc học tập.
− GV dự đoán những hoạt động nhằm chuẩn bị cho bài học tiếp theo.
− GV đưa ra gợi ý để HS có thể tự xây dựng các sơ đồ khái niệm.
c. Vai trò của GV:
o Trong phương pháp mới (HS làm trung tâm) GV như là người huấn luyện
viên có trách nhiệm xác định môi trường học tập để HS có thể tự do tìm hiểu.
o GV nên nâng cao các bài học hóa để HS hoàn thành các câu hỏi, phát triển lý
thuyết và kiểm tra dự đoán. Trách nhiệm của GV là làm sao chắc chắn rằng các mục tiêu
của bài học phải đạt được.
o GV đánh giá sự hiểu biết của HS thông qua cách trình bày, bài tập về nhà,
bài kiểm tra, câu đố và sự tham gia hoạt động lớp.
o GV đưa ra tình huống có vấn đề để tập trung sự chú ý của HS, giúp HS tham
gia hoạt động của lớp và của nhóm.
o GV phải nắm vững kỷ luật và quy trình lớp học để theo dõi liên tục, nhằm
đảm bảo cho những kỷ luật và quy trình này được tiến hành nghiêm túc.
14
o GV có biện pháp xử phạt những HS không theo đúng kỷ luật và quy trình lớp
học. Vì Hóa học là môn khoa học thực nghiệm nên trật tự kỷ luật rất quan trọng, nhằm
tránh những tổn thương nghiêm trọng có thể xảy ra cho HS.
o GV cũng nên đảm bảo rằng HS được đối xử như nhau. GV khuyến khích HS
qua những lời khen và tinh thần giảng dạy lạc quan.
d.Vai trò của HS:
Nhà tâm lý khẳng định rằng học tập là một quá trình chủ động qua sự yêu cầu
thông tin và sự xây dựng kiến thức (Arend, 1998), Piaget nhận thấy rằng HS vốn có sự tò
mò và ao ước hiểu biết, khám phá môi trường xung quanh. Vì vậy, HS cần đặt câu hỏi,
vận dụng thao tác thực hành thí nghiệm và phân tích. Những khám phá của họ giúp thiết
lập kiến thức, kiến thức này không thay đổi, hơn nữa nó sẽ được phát triển ngay lập tức
và thay đổi qua những khái niệm mới (Arends).
Trong phương pháp này, HS sẽ dùng kiến thức của họ theo hướng khám phá cá
nhân. Bằng cách làm việc theo từng nhóm nhỏ, HS sẽ quan sát hiện tượng và nâng cao ý
kiến, câu hỏi, lý thuyết trên những gì mà họ trông thấy.
Những thí nghiệm được làm để chứng minh hay phản chứng giả thuyết của HS. HS
sẽ tiếp thu kinh nghiệm quý báu bằng cách chia sẻ ý kiến với bạn bè. HS có cơ hội để
trình bày những khám phá trước toàn lớp trong suốt cuộc thảo luận. Qua sự trình bày
thông tin đúng cách, lý luận chặt chẽ, HS trao đổi thông tin với nhau một cách có tổ chức
và thuyết phục.
e. Môi trường học tập:
Lớp học nên là một môi trường thuận lợi để HS có thể cảm thấy thoải mái trong
việc học. Các dãy bàn nên được sắp xếp thành nhóm, mỗi nhóm có từ 4 đến 5 chỗ ngồi,
nhằm khuyến khích sự giao tiếp cần thiết cho việc xây dựng nhóm học tập. Bảng viết
được đặt trước lớp, dùng để ghi những ý kiến thảo luận, những câu hỏi điều tra, kết quả
thí nghiệm… của HS. Cần có một khoảng không gian nhỏ trước lớp để đặt dụng cụ thí
nghiệm (ống nghiệm, becher…), nguyên liệu cần thiết cũng là nơi để HS biểu diễn thí
nghiệm, có ít nhất một tủ hút vì sự an toàn cho những phản ứng có chất khí độc. Dụng cụ
bảo hiểm như vòi sen, bình chữa lửa, kính bảo hộ, tất cả phải được chuẩn bị sẵn sàng.
Ngoài ra, lớp học có thể trang trí những khung hình, sơ đồ, tranh ảnh mô tả các
cách ứng dụng Hóa học trong thực tiễn, hay hình ảnh, chân dung các nhà khoa học nổi
tiếng đã bắt đầu cuộc cách mạng Hóa học như Dimitri Mendeleev, Einstein, Bohr, Mari
Curie…Để HS có thể tiếp cận, khám phá Hóa học và thông tin khoa học có liên quan thì
trong phòng học nên chuẩn bị sẵn sổ tay Hóa học, khung hình Bảng hệ thống tuần hoàn
và tạp chí khoa học. Thêm nữa, đây là thời đại thông tin kỹ thuật nên cần thiết có một
máy vi tính, là phương tiện để HS nghiên cứu phần mềm, CD Rom và trang Web về Hóa
học.
Đây chỉ là những gợi ý về một lớp học trang bị đầy đủ phương tiện cơ sở vật chất
kỹ thuật cho một tiết học Hóa học diễn ra tốt nhất, dựa trên sự tham khảo tài liệu về các
mẫu hình lớp học trong và ngoài nước.
Trong quá trình thực hiện phương pháp POE, chúng ta có thể sử dụng những kỹ
thuật thí nghiệm hiện đại để tăng hiệu quả, ví dụ như kỹ thuật Hóa vi lượng.
2.4.7. Giới thiệu khái quát về Hóa vi lượng: (HVL)
Những lợi ích của thí nghiệm hóa vi lượng đã được nhìn nhận từ cuối thập niên
1970, chủ yếu ở Mỹ. Sự phát triển xã hội kéo theo sự phá hủy tiềm tàng môi trường do
hóa chất, nhu cầu phát triển chất lượng không khí bên ngoài phòng thí nghiệm và việc
giảm chi phí hóa chất, đó là những nguyên nhân dẫn đến cái gọi là những thí nghiệm “vi
lượng”.
15
Một trong những người khởi xướng là Stephen Thompson ở Đại học (ĐH)
Colorado, cũng là người phát minh ra nhiều thí nghiệm vi lượng mới, được in trong sách
“Chemtrek”. Một số nhóm người ở Đông Bắc Mỹ đã dùng kỹ thuật vi lượng trong Hóa
hữu cơ và Hóa đại cương vào cuối những năm 1980, đặc biệt là nhóm của những giáo sư
Mayo, Pike, Butcher và Trumper.
Năm 1993, trung tâm HVL quốc tế (NMCC) đã được thành lập tại ĐH Merrimack
ở Massachusetts, dưới sự quản lý của tiến sĩ Mono Singh, trung tâm có những khóa học
và phòng làm việc cho GV khoa học. Bộ luật mới của Mỹ cũng tạo động lực cho việc
giới thiệu những kỹ thuật và thí nghiệm vi lượng, ở nhiều tiểu bang sẽ là phạm luật nếu
đổ bất cứ hóa chất nào xuống bồn rửa.
Nhận thấy nhu cầu sử dụng HVL của GV, tạp chí ngành Giáo dục Hóa học của câu
lạc bộ Hóa học Mỹ đã bắt đầu xuất bản một chương gọi là “Phòng thí nghiệm vi lượng”
vào năm 1989, để trình bày những thí nghiệm được sắp xếp từ trình độ thấp (cho nhà
trường THCS) đến cao (cho SV).
Ngoài ra, một số người ở Canada cũng đã dùng HVL, đặc biệt là ở trình độ giáo dục
phổ thông vài năm qua. Giáo sư Geoffrey Rayner-Canham và Tiến sĩ Alan Slater đã công
bố những thí nghiệm HVL chính trong “Tin tức Hóa học số 13”, xuất bản ở trường ĐH
Waterloo ở Ontario.
Tại nước Anh, tiến triển của HVL trình độ phổ thông được thực hiện rộng rãi thông
qua sự khởi xướng của Tiến sĩ Stephen Breuer ở trường ĐH Lancaster, người xuất bản sổ
tay những thí nghiệm Hóa hữu cơ vi lượng được dùng trong các trường ĐH. Tháng
05/1994 Tiến sĩ Rayner- Canham đã xuất bản sách GD Hóa học trong đó tóm tắt vài kỹ
thuật và những thí nghiệm HVL mẫu hiện đại.
HVL có một số lợi ích như sau:
− Lượng ít hóa chất và dụng cụ đơn giản làm giảm chi phí nguyên liệu.
− Việc giải quyết hóa chất sau buổi thí nghiệm dễ dàng hơn.
− Sự nguy hiểm được giảm bớt và nhiều thí nghiệm có thể được làm nhanh chóng.
− Thông thường, dụng cụ plastic có thể được dùng nhiều hơn dụng cụ thủy tinh, vì
vậy việc đổ bể được giảm thiểu tối đa.
− HVL không chỉ bao gồm việc dùng những thí nghiệm thuận lợi dựa trên lượng
nhỏ,thường là những thí nghiệm có thể được làm theo cách mới như phản ứng định phân
trong những giọt dung dịch, khi đó tiến hành trong một thể tích dung dịch ít hơn so với
khi tiến hành trong những ống hút và becher, và ta có thể quan sát ở vi lượng những gì
không thể quan sát được ở lượng cân bình thường, những thí nghiệm như vậy sẽ chỉ cho
HS thấy tầm quan trọng của sự quan sát kỹ lưỡng, một kỹ thuật rất quan trọng trong các
ngành khoa học. Bằng việc giảm sự nguy hiểm, HVL đưa đến khả năng sử dụng những
hóa chất độc hại khi nghiên cứu với hàm lượng lớn, làm tăng kỹ thuật thực hành hóa của
HS bằng cách giảm chất độc. HVL khuyến khích HS dùng hóa chất một cách có trách
nhiệm, vấn đề liên quan chặt chẽ đến môi trường hiện nay.
( John Skinner)
Ở trình độ phổ thông còn nhiều khó khăn trong việc sử dụng HVL hữu cơ:
+ Thứ nhất: là nhiều thí nghiệm yêu cầu dụng cụ đặc biệt đắt giá, không thể trang
bị cho toàn bộ lớp học được.
+ Thứ hai: là thời gian chuẩn bị cho phản ứng hữu cơ chậm và khó điều chỉnh cho
phù hợp lứa tuổi HS. Thí dụ, ta tốn một giờ là có thể chấp nhận được ở trường ĐH,
nhưng một giờ đó là rất dài ở trường THPT.
+ Thứ ba: là trong việc phát minh ra những thí nghiệm hóa hữu cơ ở trường
THPT, chúng ta cần tìm ra những đặc tính nào của hợp chất mà chúng có thể dễ sử dụng
16
những phương pháp đơn giản, vì hầu hết các trường học chưa được tiếp cận với những
dụng cụ quang học (trang bị cho các SVĐH kiểm tra màu sắc, điểm nóng chảy, sự xuất
hiện các liên kết đôi, cách thức kết tủa ngưng tụ và vài mùi vị ví dụ như của những ester).
Bên cạnh đó, có một lĩnh vực thuộc Hóa hữu cơ cho những thí nghiệm vi lượng thú
vị được thực hiện, đó là kiểm tra nhóm chức, sự biến đổi qua lại của chúng và sự tổng
hợp nhiều hợp chất hữu cơ sử dụng trong nhà trường THPT và ĐH như: ankan, anken,
ancol, phenol, ester, acid cacboxylic thích hợp với những dụng cụ plastic như đĩa cứng
petri, pipet… Một thí dụ cụ thể là thí nghiệm dùng Brom kiểm chứng liên kết không no,
cần dùng chai đựng Brom hòa tan trong dung môi Halogen, khi dùng HVL thì Brom ngay
lập tức được chuẩn bị và chỉ có một lượng nhỏ thừa, điều này làm giảm bớt việc dùng
hóa chất độc hại và việc vứt bỏ những sản phẩm thừa.
Hóa vô cơ và Hóa đại cương cũng cần áp dụng HVL. Những thí nghiệm có thể
được thay đổi từ các ống kiểm tra thuận tiện và có thể được tiến hành trên đĩa cứng, giấy
trong. Những kỹ thuật đặc biệt như định phân – tìm ra số lượng của chất tạo thành dạng
dung dịch bằng cách cho phản ứng với một chất thử đã biết _ cũng có thể đơn giản hóa
bằng cách dùng HVL.
(Hi ệp hội Hóa học hoàng gia Anh)
“Một số trường ĐH trên thế giới đã cộng tác phát minh ra bộ dụng cụ thí nghiệm
HVL và dùng một loạt phiếu kiểm chứng ở lĩnh vực rộng lớn của thực hành Hóa. Kết quả
ấy đã khuyến khích chúng tôi mở rộng chi nhánh ở Mỹ, Anh, Úc, Pháp, Phần Lan, Ai
Cập, Phillipin, Gihana, Kenya, Zambia, Mozambique và Malawi. Sở thích khác nhau và
ngay cả hàng rào ngôn ngữ cũng không làm giảm sự nhiệt tình. Những nhà giáo dục khoa
học ở Hội nghị của trường ĐH Montpellier đã nhận thấy từ chi nhánh một tiềm năng để
thay đổi tình hình giảng dạy Hóa học ở trường họ. Hội đồng UNESCO cũng có kết luận
tương tự và đề nghị thực hiện chương trình toàn cầu. Điều này làm chúng tôi hy vọng
rằng các chi nhánh của chúng tôi có thể góp phần thay đổi một số phương cách của ngành
thực hành Hóa học.”
(Giáo sư J.D. Bradley- ĐH Witwatersrand-Johannesburg)
TÓM TẮT MỤC 2
Như vậy, qua việc nghiên cứu lý luận dạy học cùng với các yếu tố của nó phù hợp
với phương hướng đổi mới PPDH hiện nay, chúng ta nhận thấy rằng phương pháp POE
là một trong những PPGD tích cực, phù hợp với việc đổi mới PPGD ở nước ta. Chính vì
thế chúng tôi đã vận dụng phương pháp này thông qua việc xây dựng các giáo án và thực
hành giảng dạy trên lớp.
Trong hai tháng TTSP ở trường THPT Nguyễn Việt Hồng (TP Cần Thơ), tôi thực
hiện giảng dạy các giáo án đã soạn theo phương pháp mới (tham khảo phần PHỤ LỤC),
bước đầu thu được một số kết quả.
3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM:
3.1. Chuẩn bị:
Ngay sau khi nhận đề tài từ GVHD LVTN, những công việc đã được chuẩn bị như
sau:
-
Đọc các tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài, lược trích và rút kinh
nghiệm (xem phần TÀI LIỆU THAM KHẢO).
17
-
Thiết kế các giáo án mẫu cho các bài học sau theo chương trình SGK của
Bộ GDĐT – SGK thí điểm ban KHTN (xem phần PHỤ LỤC), sử dụng
phương pháp POE là chính :
• Chương IV: Phân nhóm chính nhóm VII – nhóm Halogen
• Chương V: Oxi – Lưu huỳnh. Lý thuyết về phản ứng hóa học
Tiến hành các thí nghiệm ở hai chương này theo sự hướng dẫn của các tài
liệu tham khảo, để từ đó chọn lọc được các thí nghiệm đặc trưng cho mỗi
bài học, có xác suất thành công cao nhất và có thể áp dụng vào các tiết học
sau này.
Gặp gỡ HS và GVHD TTSP để nắm được thực trạng tình hình học tập của
lớp, tâm tư nguyện vọng trong việc học hóa của HS.
Dự giờ một số tiết dạy của GVHD TTSP và các bạn cùng nhóm TTSP.
Những việc làm trước mỗi tiết dạy ở lớp 10A5 trường THPT Nguyễn Việt
Hồng, Thành phố Cần Thơ:
Nghiên cứu thiết kế các đồ dùng dạy học cho tiết dạy thêm sinh động. Đó
là các bảng biểu, phiếu học tập, mẫu vật... (xem phần PHỤ LỤC), chúng
sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, tạo sự chú ý và hứng thú đối với HS.
Chọn lọc lại các thí nghiệm sao cho có thể biểu diễn thành công, minh họa
được nội dung chính của bài học, có thời gian hợp lý và dụng cụ thí
nghiệm gọn nhẹ (vì phòng thí nghiệm ở trường THPT Nguyễn Việt Hồng
chưa có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho tiết dạy của GV, nên tôi
thường phải đem về các dụng cụ thí nghiệm từ trường ĐH Cần Thơ).
- Giảng dạy thử nghiệm nhằm bổ sung, hoàn chỉnh giáo án, điều chỉnh thời
gian hợp lý.
3.2. Tiến hành giảng dạy:
Trong hai tháng TTSP, thực nghiệm sư phạm các bài học sau (có sử dụng
những phương tiện dạy học) với PPDH chủ yếu là phương pháp POE:
§ Ôn tập chương IV: Phân nhóm chính nhóm VII – nhóm Halogen.
§ Kiểm tra, sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan (chấm điểm, sửa bài
kiểm tra cho các em, qua đó cũng nhận xét được điều kiện thực tế của lớp
học).
§ Bài 1: Phân nhóm chính VIA (trang 76)
−
Phiếu học tập kiểm tra kiến thức về nhóm Halogen, chú trọng tính
thực tiễn của chúng.
−
Sơ đồ phân nhóm VIA.
−
Hướng dẫn HS hoàn thành mô hình sự phân bố các e lớp ngoài
cùng vào các obitan của các nguyên tố nhóm này.
−
Phiếu học tập giúp các em thảo luận nhóm, nắm được kiến thức
tổng quát của chương (bảng tóm tắt cấu tạo nguyên tử và tính chất
của các nguyên tố nhóm VIA).
§ Bài 2: Oxi (trang 83)
−
Phiếu học tập (câu đố vui dự đoán nguyên tố Oxi)
−
Làm thí nghiệm: Đốt Fe, S trong O2 (HS thảo luận nhóm để dự
đoán – quan sát – giải thích)
−
Sơ đồ “Ứng dụng của Oxi” (hình tròn, tỉ lệ %), “Sản xuất Oxi từ
không khí”
18
−
§
§
§
§
§
§
Tài liệu về “Ozon - chất ô nhiễm hay chất bảo vệ”, “Sự phá hủy
tầng Ozon”
Bài 3: Lưu huỳnh (trang 91)
−
Mẫu bột lưu huỳnh, kí hiệu - số thứ tự - khối lượng nguyên tứ
−
Mô hình thí nghiệm đốt S trong O 2
−
Làm thí nghiệm Fe tác dụng với S (HS thảo luận nhóm để dự đoán
– quan sát – giải thích)
−
Hướng dẫn HS hoàn thành bảng tóm tắt các soh có thể có của S
−
Sơ đồ “S trong tự nhiên”, “Ứng dụng của S” (hình tròn, tỉ lệ %)
−
Bảng so sánh tính chất vật lý – hóa học của O và S
Bài 4: Hiđro sunfua H 2S (trang 95)
−
Mô hình thí nghiệm điều chế và thử tính chất của H2S, nhận biết
gốc S2- (HS thảo luận nhóm để dự đoán – quan sát – giải thích)
−
Bảng tính tan của muối Sunfua S2Bài 5: Luyện tập (trang 100)
−
Sơ đồ chuỗi phản ứng
−
Mô hình thí nghiệm điều chế và nhận biết khí H 2S
Bài 6: Các oxit của lưu huỳnh (trang 102)
−
Hướng dẫn HS hoàn thành bảng so sánh tính chất vật lý – hóa học
của SO2 và SO 3
−
Làm thí nghiệm điều chế và thử tính chất của SO2 (HS thảo luận
nhóm để dự đoán – quan sát – giải thích)
Bài 7: Axit sunfuric H 2SO4 (trang 106)
−
Mẫu chai đựng dd H 2SO4 đặc
−
Mô hình thử tính chất vật lý của dd H2SO4 đặc và pha loãng axit
H2SO4 đặc
−
Làm thí nghiệm: [H2SO4 loãng + Fe, Cu]; [H2SO4 đặc+ Cu]; [tính háo
nước của dd H2SO4 đặc ]; [nhận biết gốc SO42-] (HS thảo luận nhóm
để dự đoán – quan sát – giải thích)
−
Hướng dẫn HS hoàn thành bảng so sánh tính chất vật lý – hóa học
của H2SO4 loãng và H2SO4 đặc
−
Sơ đồ “Ứng dụng của H2SO4” (hình tròn, tỉ lệ %)
Bài 8: Thực hành
−
Hướng dẫn HS chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm và dự đoán – quan sát
– giải thích các thí nghiệm thử tính chất hóa học và điều chế trong
SGK.
3.3. Đánh giá:
Mỗi tiết dạy đều được GVHD TTSP và các bạn trong nhóm TTSP dự giờ, một số
tiết còn có GV trường THPT Nguyễn Việt Hồng và GVHD LVTN. Ngay sau giờ dạy,
chúng tôi đã họp rút kinh nghiệm, giải đáp, trao đổi thông tin, nhận xét đánh giá tiết học
để những giờ giảng dạy sau đạt kết quả tốt hơn.
Qua bài kiểm tra 1 tiết và các phiếu thăm dò ý kiến của GV-HS (tiến hành sau
khi TTSP), bước đầu thu được một số kết quả khả quan.
3.3.1. Kết quả thu được từ các phiếu thăm dò ý kiến của GV:
§ Bản thân GV:
19
STT
Tuổi
Giới tính
1
2
3
4
48
42
47
57
Nam
Nữ
Nữ
Nữ
Số năm
giảng dạy
20
20
21
32
Lớp giảng dạy
Môn giảng dạy
10-11-12
10-11-12
10-11-12
10-11-12
Hóa học
Hóa học
Hóa học
Hóa học
§ Ý kiến của GV về PPDH Hóa học hiện nay:
Câu 1
Diễn giảng
Đàm thoại
Kể chuyện
Khám phá
Trực quan
PP khác
Thầy cô thường dùng các PPDH
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
3
3
3
2
13.1%
6
6
6
4
26.2%
4
2
2
3
13.1%
5
4
5
5
22.6%
2
5
4
6
20.2%
1
1
1
1
4.8%
Tổng
100.0%
Câu 2
Những yếu tố quan trọng trong PPDH
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
Kiến thức
6
6
6
6
28.6%
Đồ dùng dạy học
2
5
5
4
19.0%
Thí nghiệm minh họa
1
4
3
3
13.1%
Bố cục minh họa
3
1
2
5
13.1%
Chữ viết, giọng nói của GV 5
2
1
1
10.7%
Cách đặt câu hỏi cho HS
4
3
4
2
15.5%
Tổng
100.0%
Câu 3
Ứng dụng
Làm thí nghiệm
Giải thích các hiện tượng
trong cuộc sống
Cấu tạo các nguyên tố
Tính chất vật lí - hóa học
của các nguyên tố
Các nội dung mà thầy cô thấy khó
khăn khi nghiên cứu
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
6
5
1
4
19.0%
5
4
5
5
22.6%
4
6
4
3
20.2%
1
2
6
1
11.9%
3
1
2
2
9.5%
20
Nội dung khác
2
3
3
Tổng
6
16.7%
100.0%
Qua kết quả chọn lọc các PPDH (theo chiều giảm dần 6>5>4>3>2>1), thấy rằng
thầy cô (đã có nhiều kinh nghiệm giảng dạy) đang áp dụng các PPDH mới (đàm thoại,
khám phá, trực quan…) từ việc cung cấp kiến thức liên quan thực tiễn, sáng tạo đồ dùng
dạy học, biểu diễn thí nghiệm minh họa đến việc tổ chức cho HS thảo luận nhóm (đây
cũng là một trong những thuận lợi cho việc thực thi triển khai đề tài LVTN), mặc dù điều
kiện cơ sở vật chất kỹ thuật chưa cho phép. Hầu hết các trường THPT chưa có đủ phòng
thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm, nhân viên trực phòng thí nghiệm, hóa chất…
Câu 4
Nhiều
Vừa dủ
Ít
Ý kiến khác
Ý kiến của thầy cô về nội dung SGK
hiện nay
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
0.0%
x
x
50.0%
0.0%
x
x
50.0%
Tổng
100.0%
Gần đây PPDH vẫn dựa vào nội dung SGK là chính, và thầy cô nhận xét là: “Nội
dung SGK đang được điều chỉnh vì chưa phù hợp (ít tính thực tiễn và thực hành)”. Số tiết
trong tuần thầy cô đang giảng dạy nhiều, điều này cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng
giảng dạy vì GV không thể bao quát hết lớp để kịp thời điều chỉnh PPDH của mình.
Câu 5
Rất nhiều
Nhiều
Vừa phải
Ít
Câu 6
Cao
Trung bình
Số tiết trong tuần thầy cô đang giảng
dạy hiện nay
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
x
X
50.0%
0.0%
x
x
50.0%
0.0%
Tổng
100.0%
Chất lượng giảng dạy hiện nay theo ý
kiến của các thầy cô
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
0.0%
X
25.0%
21
Thấp
Ý kiến khác
x
x
x
Tổng
Những yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng GD hiện nay
Câu 7
PPGD
Môi trường GD
Ý thức của HS
Sự quan tâm của nhà trường
- gia đình - xã hội
GV1 GV2 GV3 GV4
3
3
3
1
2
4
4
3
4
2
2
4
1
1
1
Tổng
Câu 8
Rất tích cực
Tích cực
Trung bình
Thụ động
Câu 9
Rất đồng ý
Đồng ý
Đồng ý một phần
Không đồng ý
Câu 10
25.0%
50.0%
100.0%
2
Tỉ lệ
25.0%
32.5%
30.0%
12.5%
100.0%
Mức độ tham gia của HS trong tiết học
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
0.0%
x
x
x
75.0%
0.0%
x
25.0%
Tổng
100.0%
Đổi mới PPDH là cần thiết (HS là trung
tâm)
GV1 GV2 GV3 GV4
Tỉ lệ
0.0%
x
x
x
75.0%
x
25.0%
0.0%
Tổng
100.0%
Ý kiến của thầy cô về xu hướng đổi mới PPDH hiện nay
§ Đổi mới PPDH trong quá trình dạy học là rất cần thiết. Tuy
nhiên cần vận dụng tất cả các phương pháp sao cho phù hợp
với nhiều đối tượng HS .
§ Rất đồng ý với xu hướng đổi mới PPDH với những phương
tiện hiện đại, nhưng cần phải đi kèm với đổi mới phương
thức thi cử
§ Phải đổi mới PPDH ngay từ lớp 1 cho HS quen dần, SGK và
22
chế độ thi cử phải thay đổi cho phù hợp với PPDH mới,
trang thiết bị phải đầy đủ và hiện đại
§ Cần thiết đổi mới PPDH tuy nhiên cần đồng bộ, sử dụng
phương pháp mới không rập khuôn, cần sáng tạo và tùy theo
số lượng HS, trình độ HS mà áp dụng một cách tự giác
không gò bó.
Theo các thầy cô thì chất lượng GD hiện nay phụ thuộc nhiều vào môi trường và
ý thức của HS (đóng vai trò trung tâm), đa số các em HS tích cực tham gia vào hoạt động
của lớp học, thông minh sáng tạo, nhanh nhạy và có lòng ham mê học tập. Một số HS còn
thụ động, chưa biết cách xử lí tình huống. Vì vậy, cần thiết phải đổi mới PPDH (cùng với
đổi mới nội dung SGK, phương thức thi cử…) một cách linh động, ví dụ như việc vận
dụng PP POE trong dạy học Hóa học 10.
3.3.2. Kết quả thu được từ các phiếu thăm dò ý kiến của HS:
§ Bản thân HS:
Học lực
Số lượng
Tỉ lệ
Giỏi
5
11.4%
Khá
17
38.6%
TB
15
34.1%
Yếu
7
15.9%
Kém
0
0.0%
Tổng
44
100.0%
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng
Số lượng
13
31
44
Tỉ lệ
29.5%
70.5%
100.0%
Qua bảng tổng kết điểm trung bình học kỳ I của các em HS lớp 10A5 Trường
THPT Nguyễn Việt Hồng (TP Cần Thơ) có thể nhận xét rằng đây là một lớp học điển
hình cho các lớp 10 hiện nay, với số HS khá – trung bình chiếm đa số, một số ít HS giỏi yếu, tỉ lệ HS nữ nhiều hơn HS nam. Vì vậy khi áp dụng một PPDH nào thì GV nên chú ý
đến các yếu tố này (tâm lí HS THPT, khả năng tiếp thu kiến thức khác nhau của HS…),
để có cách điều chỉnh hoạt động giảng dạy sao cho phù hợp, nhằm đạt được hiệu quả giáo
dục cao.
§ Ý kiến của HS về việc học Hóa
Câu 1
a
b
c
d
Để học hóa em nhờ các yếu tố sau:
Số lượng
Học thuộc lòng tất cả
8
Tự khám phá
2
Tóm tắt ghi nhớ vận dụng
29
Xem SGK, sách tham khảo
5
Tổng
44
23
Tỉ lệ
18.2%
4.5%
65.9%
11.4%
100.0%
Cách học của HS phản ánh PPDH của GV. Như vậy, thấy rằng PPDH cũ (GV là
trung tâm) vẫn còn chiếm ưu thế, bên cạnh đó PPDH mới (HS là trung tâm) cũng đang
được thực hiện. Đây là một trong những thuận lợi cho việc thực thi triển khai đề tài
LVTN của chúng tôi.
Câu 2
a
b
c
d
Cho biết quan điểm của em về môn hóa
Số lượng Tỉ lệ
Rất khó
6
13.6%
Bình thường
18
40.9%
Rất dễ
0
0.0%
Gây hứng thú
20
45.5%
Tổng
44
100.0%
Điều này cho thấy kết quả của việc vận dụng các PPDH mới bên cạnh PPDH
truyền thống là đa số HS cảm thấy có hứng thú học tập hơn, còn một số ít HS chưa thích
ứng kịp.
Câu 3
a
b
c
d
e
f
Khi học hóa em thích nhất
Ứng dụng
Làm thí nghiệm
Giải thích các hiện tượng hóa học trong thực tế
Giải bài tập hóa học
Cân bằng phương trình phản ứng
Tìm hiểu tính chất vật lí - hóa học của các nguyên tố
Tổng
Số lượng Tỉ lệ
1
2.3%
27
61.4%
10
22.7%
2
4.5%
3
6.8%
1
2.3%
44
100.0%
Các em HS chú ý đến các thí nghiệm hóa học, vì theo các em thì những thí nghiệm
này thể hiện rõ các tính chất hóa học, các hiện tượng hóa học, là sự vận dụng lí thuyết
một cách rõ ràng nhất, giúp các em dễ hiểu và khó quên hơn.
“What I hear, I forget; what I see, I remember; what I do, I understand”
(Câu tục ngữ Trung Quốc)
Do đó cần thiết phải đảm bảo tính trực quan sinh động trong khi vận dụng các
PPDH vào việc giảng dạy môn Hóa học
Câu 4
a
b
Trong PPDH của GV em thích nhất
Số lượng Tỉ lệ
9
20.5%
19
43.2%
Đồ dùng dạy học
Thí nghiệm
24
c
d
e
f
Giọng nói chữ viết
Kiến thức
GV cho thảo luận nhóm
Các câu hỏi
1
11
3
1
44
Tổng
2.3%
25.0%
6.8%
2.3%
100.0%
Ngoài sự thích thú với các thí nghiệm biểu diễn, HS còn quan tâm đến các vấn đề
mà GV đưa ra bằng lời nói, đồ dùng dạy học hay các câu hỏi thảo luận, các cách thể hiện
nội dung dạy học này đều nhằm mục đích làm cho các em chủ động hơn trong giờ học,
tham gia xây dựng bài.
Thời gian dành cho việc học hóa ở nhà của em (số giờ / tuần)
Số lượng
Dưới 2h
5
2h – 4h
20
Trên 4h
19
Tổng
44
Câu 5
a
b
c
Câu 6
a
b
c
d
Tỉ lệ
11.4%
45.5%
43.2%
100.0%
Ngoài giờ học trên lớp, em có:
Học thêm ở ngoài
§ Thường xuyên
§ Thỉnh thoảng
§ Ít
§ Không
Tổng
Đọc sách tham khảo
§ Thường xuyên
§ Thỉnh thoảng
§ Ít
§ Không
Tổng
Làm bài tập hóa ở nhà
§ Thường xuyên
§ Thỉnh thoảng
§ Ít
§ Không
Tổng
Xem và giải thích những vấn đề khó
§ Thường xuyên
§ Thỉnh thoảng
25
Số lượng
Tỉ lệ
17
18
4
5
44
38.6%
40.9%
9.1%
11.4%
100.0%
8
25
9
2
44
18.2%
56.8%
20.5%
4.5%
100.0%
22
16
6
0
44
50.0%
36.4%
13.6%
.0%
100.0%
2
18
4.5%
40.9%