TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
----- -----
TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM
Luận văn Tốt nghiệp
Ngành: SƯ PHẠM VẬT LÝ-TIN HỌC
Giáo viên hướng dẫn:
Hoàng Xuân Dinh
Sinh viên: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Lớp: Sư Phạm Vật lý-Tin học K32
Mã số SV: 1062640
Cần Thơ, 2010
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ khi năng lượng nguyên tử ra đời và phát triển đến nay thì tiếng vang lớn nhất của
nó là những vụ nổ bom nguyên tử, những thông tin làm cả thế giới hoảng sợ về số người
chết, bị thương và ảnh hưởng chất phóng xạ. Khi sử dụng năng lượng nguyên tử cho mục
đích chiến tranh có thể dẫn đến cái chết cho loài người và đe dọa sự tuyệt chủng của nhiều
loài động vật. Vậy tại sao năng lượng nguyên tử vẫn tồn tại vẫn phát triển? Câu trả lời nằm
trong tính hai mặt của mọi vấn đề. Được biết năng lượng nguyên tử có những đóng góp tích
cực hết sức cần thiết và cấp bách cho nhân loại, những ứng dụng trong nhiều lĩnh vực đời
sống, là biện pháp tối ưu cho những căn bệnh thời hiện đại, cả thế giới coi năng lượng
nguyên tử là một đề tài nóng bỏng… Đối với một xã hội phát triển, năng lượng nguyên tử
đóng góp vai trò ngày càng quan trọng vì khả năng ứng dụng của nó rất rộng từ chăm sóc
sức khoẻ con người, thúc đẩy kinh tế, nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và công
nghiệp quốc gia đến góp phần bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh năng lượng.
Ở Việt Nam, ứng dụng năng lượng nguyên tử đầu tiên xuất hiện vào năm 1923 và
được sử dụng trong việc chữa bệnh. Đến nay, hiệu quả kinh tế - xã hội mà năng lượng
nguyên tử đem lại không hề nhỏ. Trong một số lĩnh vực, năng lượng nguyên tử trở thành
những công cụ, phương pháp hữu hiệu bởi chưa có loại năng lượng nào thay thế được
chúng.
Chính vì vậy, em chọn đề tài “TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT
NAM” để nghiên cứu và tiếp cận hơn với vấn đề của thời đại.
2. Mục tiêu của đề tài
* Tìm hiểu về nhu cầu năng lượng ở Việt Nam.
* Tìm hiểu về việc phát triển năng lượng nguyên tử ở Việt Nam trước và sau năm 1975.
* Tìm hiểu về ứng dụng lượng nguyên tử trong các lĩnh vực đời sống.
* Tìm hiểu tình hình điện hạt nhân ở Việt Nam.
* Tìm hiểu vấn đề an toàn chất phóng xạ.
* Biết được chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử đến năm 2020.
3. Các bước thực hiện đề tài
Bước 1: Nhận đề tài luận văn tốt nghiệp từ giáo viên hướng dẫn, định hướng công
việc.
Bước 2: Tìm những tài liệu có liên quan đến đề tài, nghiên cứu cơ sở lý thuyết của đề
tài từ những tài liệu tham khảo được.
Bước 3: Thực hiện đề tài.
Bước 4: Đưa giáo viên hướng dẫn nhận xét và chỉnh sửa.
Bước 5: Hoàn tất và báo cáo luận văn.
Bước 6: Bảo vệ luận văn tốt nghiệp.
4. Các phương pháp và phương tiện nghiên cứu
* Sưu tầm, phân tích các dữ liệu có trong sách tham khảo, các phương tiện thông tin
đại chúng.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
1
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
* Tìm tài liệu trên mạng internet.
* Trao đổi với giáo viên hướng dẫn, với các bạn cùng lớp các vấn đề khó hiểu.
* Tổng hợp các thông tin có được sau đó sắp xếp chúng lại thành bài luận văn hoàn
chỉnh.
5. Giới hạn của đề tài
5.1. Giới hạn khách quan
Hiện nay các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã giành cho năng
lượng nguyên tử một vị trí tương đối vững chắc. Song một bộ phận không nhỏ vẫn lo sợ về
sự nguy hiểm và phản đối sự tồn tại, phát triển của năng lượng nguyên tử. Vì vậy dù đã trải
qua hàng chục năm với những thăng trầm thì năng lượng nguyên tử vẫn là một đề tài nhạy
cảm. Do đó trong quá trình tìm hiểu gặp không ít trở ngại với những ý kiến trái ngược nhau
với vấn đề thời đại này. Hơn nữa, thời gian nghiên cứu một luận văn không nhiều mà trong
khoảng thời gian đó những sinh viên năm cuối còn phải đi thực tập sư phạm 2 tháng nên
công việc nghiên cứu có phần chưa được như ý và còn hạn chế.
5.2. Giới hạn chủ quan
Khi thực hiện đề tài em vẫn là một sinh viên ngồi trên ghế nhà trường nên sự hiểu
biết về một vấn đề xã hội mang tầm vóc quốc gia chưa được thấu đáo. Các kiến thức để thực
hiện đề tài chỉ nằm trong phần tổng hợp lại những kiến thức đã học chứ chưa có những phát
kiến cho bản thân để làm đề tài. Cho nên đề tài chỉ nghiên cứu dưới góc nhìn của sinh viên
chứ chưa thực sự ở góc nhìn nhà nghiên cứu nên có nhiều điều sai sót cũng như đề tài chỉ
dừng lại ở mức độ hiểu biết của bản thân.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
2
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Lịch sử tìm ra nguyên tử đến năng lượng nguyên tử
Cách đây hàng nghìn năm các nhà hiền triết, bác học từ Đông sang Tây đã hằng cố
gắn đi tìm lời giải cho câu hỏi: vật chất cấu tạo như thế nào, vạn vật xung quanh thiên hình
vạn trạng, nhưng phải chăng đều là do một số nguyên tố nào đấy cấu tạo nên. Các triết gia
mỗi người một thuyết, người thì cho rằng bản chất thế giới là lửa, người lại cho là nước,
người lại cho là đất, không khí. Nhưng người nói đúng đắn hơn cả là bác học cổ Hi Lạp
Démocrite, Ông cho rằng vạn vật cấu tạo bởi những phần tử nhỏ nhất gọi là nguyên tử (có
nghĩa là phần tử không thể chia cắt được).
Trước chúng ta gần 2500 năm Démocrite đã viết: “Chúng ta nói nóng,chúng ta nói
lạnh, chúng ta nói ngọt, chúng ta nói màu sắc, nhưng thực ra chỉ có nguyên tử và chân
không”.
Năm 1932, lịch sử năng lượng hạt nhân bắt đầu bằng việc phát hiện hạt neutron của
James Chadwick ( 1891 – 1974), một nhà bác học người Anh.
2. Năng lượng và nguyên tử
2.1 Năng lượng
2.1.1. Khái niệm
Năng lượng được định nghĩa là năng lực làm vật thể hoạt động. Có nhiều dạng năng
lượng như: động năng làm dịch chuyển vật thể, nhiệt năng làm tăng nhiệt độ của vật thể…
Trong xã hội văn minh ngày nay, con người không thể sống thiếu năng lượng. Nhưng
do nguồn năng lượng là hữu hạn nên nhân loại phải sử dụng năng lượng một cách hiệu quả
không lãng phí.
2.1.2. Nguồn gốc năng lượng
Năng lượng có thể thu được từ các nguồn như:
- Gỗ
- Sức nước
- Sức gió
- Địa nhiệt
- Ánh sáng mặt trời
- Than đá, dầu, khí tự nhiên (nhiên liệu hóa thạch)
- Uranium (nhiên liệu hạt nhân)
2.2. Nguyên tử
2.2.1. Khái niệm
Vật chất tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như thể rắn, thể lỏng, hay thể khí và gồm
rất nhiều thành phần. Thành phần nhỏ bé nhất của một chất là nguyên tử. Phân tử là một
dạng liên kết hóa học của nguyên tử.
Chẳng hạn, phân tử của nước là H 2O là hợp chất hóa học giữa 2 nguyên tử hydro và 1
nguyên tử oxy, phân tử CO2 là hợp chất hóa học giữa 1 nguyên tử cacbon và 2 nguyên tử
oxy.
2.2.2. Cấu tạo nguyên tử
Nguyên tử gồm hạt nhân nguyên tử và các điện tử (electron) quay xung quanh nó ở vị
trí khá xa nên có thể nói rằng nguyên tử có cấu tạo chỉ toàn là khoảng trống.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
3
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
2.2.3. Cấu tạo hạt nhân
Thực nghiệm chứng minh rằng hạt nhân tạo nên bởi dày đặc các hạt proton và nơtron
như hai anh em sinh đôi, trọng lượng giống nhau, chúng chỉ khác nhau ở chỗ proton là hạt
tích điện dương còn nơtron là hạt không tích điện, có tên gọi chung là nucleon.
Như vậy về cơ bản vật chất được cấu thành từ proton, nơtron và electron với các cách
kết hợp rất đa dạng.
2.2.4. Hiện tượng phóng xạ
2.2.4.1. Khái niệm
Hiện tượng phóng xạ là hiện tượng hạt nhân nguyên tử tự động phóng ra những bức
xạ và biến đổi thành hạt nhân khác. Các bức xạ này còn gọi là tia phóng xạ, mắt thường
không nhìn thấy được nhưng nó làm đen kính ảnh, ion hóa các chất…
2.2.4.2. Đặc điểm
Hiện tượng phóng xạ do nguyên nhân bên trong hạt nhân gây ra, không hề phụ thuộc
vào yếu tố lý hóa bên ngoài.
Các điều kiện bên ngoài dù có thay đổi, dù nguyên tử nằm trong các hợp chất khác
nhau đều không ảnh hưởng gì đến sự phóng xạ của hạt nhân.
2.2.5. Hiện tượng bức xạ
2.2.5.1. Khái niệm
Bức xạ là sự phát năng lượng vào môi trường dưới dạng tia (tia bức xạ). Bức xạ iôn
hóa là bức xạ gây ra sự iôn hóa trong vật chất mà nó đi qua, gồm: Bức xạ dạng hạt như
anpha, bêta, nơtrôn... và bức xạ dạng sóng điện từ như tia gamma, tia X.
2.2.5.2. Nguồn bức xạ
Nguồn bức xạ là vật chất hay địa điểm phát ra bức xạ. Trong thiên nhiên có nguồn
bức xạ tự nhiên như tia vũ trụ, các chất phóng xạ tự nhiên trong đất, đá, nước và không khí.
Ngoài ra, con người đã tạo ra nguồn bức xạ nhân tạo như máy phát tia X, máy gia tốc chỉ
phát bức xạ khi được cấp điện để hoạt động và chất phóng xạ như Co-60 phát bức xạ được
liên tục.
2.2.5.3. Bức xạ tự nhiên
Một phần của phông phóng xạ là bức xạ vũ trụ đến từ không gian. Chúng hầu hết bị
cản lại bởi khí quyển bao quanh Trái đất, chỉ một phần nhỏ tới được Trái đất. Trên đỉnh núi
cao hoặc bên ngoài máy bay, độ phóng xạ lớn hơn nhiều so với ở mặt biển. Các phi hành
đoàn làm việc chủ yếu ở độ cao có bức xạ vũ trụ lớn hơn mức bình thường ở mặt đất khoảng
20 lần.
Các chất phóng xạ có đời sống dài có trong thiên nhiên thường ở dạng các chất bẩn
trong nhiên liệu hoá thạch. Trong lòng đất, các chất như vậy không làm ai bị chiếu xạ,
nhưng khi bị đốt cháy, chúng được thải vào khí quyển rồi sau đó khuyếch tán vào đất, làm
tăng dần phông phóng xạ.
Nguyên nhân chung nhất của sự tăng phông phóng xạ là Radon, một chất khí sinh ra
khi Radi kim loại phân rã. Các chất phóng xạ khác được tạo thành trong quá trình phân rã
tồn tại tại chỗ trong lòng đất, nhưng Radon thì bay lên khỏi mặt đất.
Nếu nó lan toả rộng và hoà tan đi thì không gây ra nguy hại gì, nhưng nếu một ngôi nhà xây
dựng tại nơi có Radon bay lên tới mặt đất, thì Radon có thể tập trung trong nhà đó, nhất là
khi các hệ thống thông khí không thích hợp. Radon tập trung trong nhà có thể lớn hơn hàng
trăm lần, có khi hàng ngàn lần so với bên ngoài.
Loại trừ khí Radon, bức xạ tự nhiên không có hại đối với sức khoẻ. Nó là một phần
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
4
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
của tự nhiên và các chất phóng xạ có trong cơ thể con người cũng là một phần của tạo hoá.
2.2.5.3. Bức xạ nhân tạo
Những hoạt động của con người cũng tạo ra các chất phóng xạ được tìm thấy trong
môi trường và cơ thể. Một số chất đã được thải vào khí quyển do các vụ thử vũ khí hạt nhân
và phần nhỏ hơn nhiều là các nhà máy điện hạt nhân. Những giới hạn phát thải được phép
đối với nhà máy điện hạt nhân bảo đảm chúng không gây tác hại gì. Hầu hết các chất phóng
xạ sinh ra từ phân hạch hạt nhân nằm trong chất thải phóng xạ và được lưu giữ cách biệt với
môi trường.
3. Năng lượng nguyên tử
3.1. Khái niệm
Năng lượng sinh ra khi đốt dầu, than, khí và năng lượng sinh ra khi chất nổ phát nổ
được gọi là năng lượng sinh ra bởi phản ứng hóa học, là năng lượng sinh ra bởi sự chuyển
động của các điện tử quay xung quanh hạt nhân.
Năng lượng nguyên tử là năng lượng sinh ra khi có sự phân hạch hạt nhân hoặc tổng
hợp hạt nhân.
Năng lượng của 1g Uranium phân hạch tương đương với năng lượng thu được khi
đốt 2.000 kg dầu hoặc 3 tấn than đá.
3.2. Nguồn gốc năng lượng nguyên tử
Trong hạt nhân nguyên tử, các nucleon (không phân biệt proton hay nơtron), khi ở
khoảng cách rất bé, sẽ hút nhau rất mạnh. Nhờ năng lượng liên kết này mà proton và nơtron
kết hợp với nhau ổn định trong hạt nhân. Khi phân hạch hạt nhân hay tổng hợp hạt nhân, thì
năng lượng liên kết của hạt nhân sẽ được giải phóng ra gọi là năng lượng nguyên tử.
4. Phản ứng phân hạch hạt nhân và phản ứng tổng hợp hạt nhân
4.1. Phản ứng phân hạch hạt nhân
4.1.1. Khái niệm
Phản ứng phân hạch hạt nhân (còn gọi là phản ứng phân rã nguyên tử) là một quá
trình vật lý hạt nhân và hoá học hạt nhân mà trong đó hạt nhân nguyên tử bị phân chia thành
hai hoặc nhiều hạt nhân nhỏ hơn và vài sản phẩm phụ khác. Vì thế, sự phân hạch là một
dạng của sự chuyển hoá căn bản. Các sản phẩm phụ bao gồm các hạt neutron, photon tồn tại
dưới dạng các tia gama, tia beta và tia alpha. Sự phân hạch của các nguyên tố nặng là một
phản ứng toả nhiệt và có thể giải phóng một lượng năng lượng đáng kể dưới dạng tia gama
và động năng của các hạt được giải phóng (đốt nóng vật chất tại nơi xảy ra phản ứng phân
hạch).
Năng lượng do phản ứng phân hạch hạt nhân sản sinh ra dùng trong nhà máy điện hạt
nhân và vũ khí hạt nhân. Sư phân hạch được xem là nguồn năng lượng hữu dụng vì một số
vật chất được gọi là nhiên liệu hạt nhân, vừa sản sinh ra các nơtron tự do vừa kích hoạt phản
ứng phân hạch bởi tác động của các nơtron tự do này. Nhiên liệu hạt nhân còn là một phần
của phản ứng dây chuyền tự duy trì mà nó giải phóng ra năng lượng ở mức có thể kiểm soát
được như trong các lò phản ứng hạt nhân hoặc ở mức không thể kiểm soát được dùng chế
tạo các loại vũ khí hạt nhân.
Lượng năng lượng tự do chứa trong nhiên liệu hạt nhân lớn gấp hàng triệu lần lượng
năng lượng tự do có trong một khối lượng nhiên liệu hoá học tương đương như là dầu hoả,
làm cho năng lượng hạt nhân trở thành một nguồn năng lượng rất hấp dẫn, tuy nhiên, các
chất thải hạt nhân thì có mức phóng xạ rất cao và tồn tại rất lâu, hàng thiên niên kỷ.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
5
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Ví dụ để tạo ra sự phân hạch 235U, cần phải làm cho nơtron đi vào hạt nhân của nó. Vì
hạt nhân nguyên tử rất nhỏ, nên nơtron có tốc độ cao, mặc dù có thể đến gần hạt nhân,
nhưng nhiều khi lại bay qua bên cạnh mà không trúng hạt nhân và cơ hội xâm nhập vào bên
trong hạt nhân rất ít. Nếu làm giảm tốc độ của nơtron và kéo dài thời gian tồn tại của nó ở
bên cạnh hạt nhân, thì xác suất va chạm với hạt nhân sẽ trở nên cao hơn. Người ta gọi nơtron
đã bị giảm tốc độ là nơtron nhiệt.
Uranium trong thiên nhiên cấu tạo bởi 99,3% 238U và 0,7% 235U.
Có một quy luật đối với những nguyên tử phân hạch thông thường: những nguyên tử
mà số khối là số lẻ sẽ có sự phân hạch tương đối dễ. Như với Uranium, 235U phân hạch dễ
hơn 238U.
Sản phẩm
phân hạch
Hạt nhân
bia
Sản phẩm
phân hạch
Ảnh: Quá trình phân hạch
4.1.2. Nhiên liệu phản ứng phân hạch
* Uranium: là nguyên tố thứ 92 trong bảng hệ thống tuần hoàn của các nguyên tố hóa
học, được đặt tên theo sao thiên vương (uranus). Uranium có các đồng vị sau: 234U, 235U,
238
U. Trong tự nhiên thì tỉ lệ của các đồng vị như sau : 0.0055% 234U, 99.274% 238U và
0.07205% 235U. Như ta đã xét trên thì chỉ có 235U mới cho phản ứng dây chuyền.
* Plutonium: Plutonium là một nguyên tử đứng ở vị trí thứ 94 trong bảng hệ thống
tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Người ta đã xác định được 15 đồng vị plutonium trong đó
có năm đồng vị có tỷ lệ đáng kể. Đó là những đồng vị Pu-238, Pu-239, Pu-240, Pu-241 và
Pu-242.
Tất cả những đồng vị plutonium đều có thể bị neutron nhanh phân hạch. Những đồng vị
Pu-239 và Pu-241 cũng có thể bị những neutron chậm phân hạch. Ngoài việc là đồng vị khả
phân hạch, những đồng vị Pu-238 và Pu-240 cũng có thể hấp thụ neutron để trở nên những
đồng vị khả phân hạch Pu-239 và Pu-241.
Cũng như uranium thì plutonium phải được làm giàu trước khi cho phản ứng phân hạch
người ta cũng có thể làm giàu giống như các phương pháp làm giàu uranium. Sau khi phân
tách plutonium từ những nguyên tử khác của những thanh nhiên liệu thì hàm lượng đồng vị
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
6
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
plutonium Pu-239 đã sẵn là 70 phần trăm. Tăng hàm lượng đó lên tới 90 hay 95 phần trăm là
một điều khó nhưng dễ hơn là tăng hàm lượng đồng vị uranium U-235 từ 0,7 phần trăm lên
đến 90 phần trăm.
4.1.3. Phản ứng phân hạch hạt nhân dây chuyền
Neutron
đầu tiên
của chuỗi
Chín neutron
sản phẩm
Hình 1.4 Sơ đồ phản ứng dây chuyền của 235U
4.1.4. Khái niệm tới hạn
Tới hạn là trạng thái phản ứng phân hạch hạt nhân dây chuyền được duy trì ổn định.
Trong lò phản ứng hạt nhân, người ta có thể khống chế được trạng thái tới hạn của lò phản
ứng bằng các thanh điều khiển.
4.2. Phản ứng tổng hợp hạt nhân
Phản ứng tổng hợp hạt nhân hay phản ứng hợp hạch trong vật lý học là quá trình
2 hạt nhân hợp lại với nhau để tạo nên một nhân mới nặng hơn. Cùng với quá trình này là sự
phóng thích năng lượng hay hấp thụ năng lượng tùy vào khối lượng của hạt nhân tham gia.
Nhân sắt và nickel có năng lượng kết nối nhân lớn hơn tất cả các nhân khác nên bền vững
hơn các nhân khác. Sự kết hợp hạt nhân của các nguyên tử nhẹ hơn sắt và nickel thì phóng
thích năng lượng trong khi với các nhân nặng hơn thì hấp thụ năng lượng.
Phản ứng hợp hạch là một trong hai loại phản ứng hạt nhân. Loại kia là phản ứng
phân hạch.
Phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nguyên tử nhẹ tạo ra sự phát sáng của các ngôi
sao và làm cho bom hydro nổ. Phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nhân nặng thì xảy ra
trong điều kiện các vụ nổ sao (siêu tân tinh). Phản ứng tổng hợp hạt nhân trong các sao và
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
7
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
các chòm sao là quá trình chủ yếu tạo ra các nguyên tố hóa học tự nhiên.
Để làm cho các hạt nhân hợp lại với nhau, cần tốn một nguồn năng lượng rất lớn,
ngay cả với các nguyên tử nhẹ nhất như hydro. Nhưng sự kết hợp của các nguyên tử nhẹ, để
tạo ra các nhân nặng hơn và giải phóng 1 neutron tự do, sẽ phóng thích nhiều năng lượng
hơn năng lượng nạp vào lúc đầu khi hợp nhất hạt nhân. Điều này dẫn đến một quá trình
phóng thích năng lượng có thể tạo ra phản ứng tự duy trì. Việc cần nhiều năng lượng để khởi
động thường đòi hỏi phải nâng nhiệt độ của hệ lên cao trước khi phản ứng xảy ra. Chính vì
lý do này mà phản ứng hợp hạch còn được gọi là phản ứng nhiệt hạch.
Năng lượng phóng thích từ phản ứng hạt nhân thường lớn hơn nhiều so với phản ứng
hóa học, bởi vì năng lượng kết dính giữ cho các nhân với nhau lớn hơn nhiều so với năng
lượng để giữ các electron với nhân. Ví dụ, năng lượng để thêm 1 electron vào nhân thì bằng
13.6 eV, nhỏ hơn 1 phần triệu của 17 MeV giải phóng từ phản ứng D-T (deuterium-tritium,
các đồng vị của Hiđrô).
Ví dụ hạt nhân Hydro cấu tạo bởi 1 proton. Hạt nhân nguyên tử đơteron, đồng vị của
Hydro cấu tạo bởi 1 proton và 1 nơtron. Trong toàn bộ Hydro tự nhiên có khoảng 1/60.000
đơteron.
Nếu kết hợp 2 nguyên tử đơteron, thì sẽ hình thành một hạt nhân gồm 2 proton và 2
nơtron. Đây là hạt nhân nguyên tử Heli. Khi tạo ra Heli bằng cách kết hợp 2 đơteron như vậy
sẽ giải phóng ra năng lượng cực lớn. Hiện tượng này được gọi là sự tổng hợp hạt nhân.
Để thực hiện được phản ứng tổng hợp hạt nhân trên Trái Đất, nhiệt độ cần thiết là
khoảng 100 triệu độ.
Năng lượng
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
8
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Tình hình trước năm 1975.
Cơ sở đầu tiên ở nước ta ứng dụng thành tựu của ngành khoa học nguyên tử có thể
nói là Viện Radium Hà Nội, thành lập năm 1923. Viện này được xây dựng với sự giúp đỡ
của Viện Radium Paris thành lập 1914, do bà Marie Curie làm Giám Đốc. Bà Marie Curie
sinh ngày 7 tháng 11 năm 1867 tại Warszawa, Ba Lan.
Trong thời gian ông bà Pierre và Marie Curie nghiên cứu tách từ quặng urani ra chất
rađi phóng xạ, hai ông bà cũng đã từng dùng mấy tấn quặng urani lấy từ các mỏ của Việt
Nam (Năng lượng của 1g Urani phân hạch tương đương với năng lượng thu được khi đốt
20.000 lít dầu hoặc 3 tấn than đá).
Ảnh: Ông bà Pierre và Marie Curie.
Viện Radium Hà Nội ra đời chỉ sau Viện Raium Paris có 9 năm và trước cả Viện
Vacsava (Ba Lan) khánh thành vào năm 1925, sau khi Ba Lan đã dành độc lập sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất. Bà Marie Curie đã từ Paris sang Vacsava dự lễ khánh thành Viện
Radium xây dựng tại quê hương bà.
Từ năm 1923 đến 1924 Viện Radium Hà Nội chủ yếu dùng các kim rađi phát ra bức
xạ gamma để chữa bệnh ung thư. Những chiếc kim rađi này do Viện Radium Paris chế tạo ra
cùng với một bản chứng nhận (certificate) ghi rõ chiều dài, đường kính, trọng lượng chất
phóng xạ rađi chứa trong cái kim ấy. Dưới mỗi bản chứng nhận đều có chữ ký của bà Marie
Curie - Giám đốc Viện Radium Paris.
Cuộc đại chiến thế giới thứ hai, nhất là sau vụ Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945 đã
làm đảo lộn cục diện chính trị trong nước. Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, đến
thời điểm này, Viện đã xác lập được vai trò và có một vị trí đáng kể trong việc điều trị bệnh
ung thư ở Việt Nam, góp phần làm giảm bớt số lượng bệnh nhân tử vong vì căn bệnh nan y
này. Viện còn là nơi thực tập cho sinh viên trường Đại học Y dược Hà Nội về bộ môn giải
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
9
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
phẫu và tổ chức học.
Do chu kỳ bán rã của rađi (88Ra226) dài đến 1620 năm nên hoạt độ phóng xạ của những
chiếc kim rađi này cho đến nay vẫn còn khá mạnh và hiện nay những chiếc kim ấy vẫn được
sử dụng.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội, Viện
Radium bị tận dụng làm trụ sở của quân Pháp. Cơ sở vật chất và các phương tiện khám chữa
bệnh
của
viện
Radium
vẫn
bảo
toàn
gần
như
nguyên
vẹn.
Sau 2 tháng bị chiếm đóng, Viện được trả lại cho chuyên môn, các hoạt động của Viện
Radium dần dần được phục hồi trở lại.
Sau năm 1954, Viện Radium Hà Nội đổi tên là bệnh viện K, là cơ sở duy nhất ở miền
Bắc nước ta chuyên điều trị ung thư bằng chiếu xạ. Bệnh viện K Hà Nội còn gọi là bệnh viện
Ung thư Trung Ương thành lập năm 1969 trên cơ sở Viện Radium Đông Dương hoạt động
từ năm 1923. Nằm ở số 43 phố Quán Sứ Hà Nội.
Vào năm 1956 - 1957 ta nhập máy chiếu xạ côban của Liên Xô củ và từ đấy việc xạ trị chủ
yếu tiến hành bằng chất phóng xạ côban-60. Những chiếc kim rađi vẫn còn dùng nhưng chỉ
đối với một số bệnh đặc biệt. Thời gian bán rã của côban-60 là 5,3 năm, nghĩa là sau 5 năm
hoạt độ phóng xạ giảm đi một nửa. Vì vậy vào đầu những năm 70 đã phải nhập thêm máy
chiếu xạ côban của Tiệp Khắc.
Như vậy có thể nói rằng ngành sử dụng năng lượng nguyên tử đầu tiên ở nước ta là
ngành y tế.
Vào những năm 1958 - 1959, chuyên gia địa chất Liên Xô củ sang giúp xây dựng
ngành địa chất ở nước ta đã lần đầu tiên áp dụng phương pháp carôta gamma và nơtron trong
việc thăm dò và đánh giá trữ lượng khoáng sản. Nhiều nguồn phóng xạ đã được nhập vào
nước ta, đã giúp cho việc phát hiện nhiều mỏ quặng và đánh giá trữ lượng nhiều mỏ than ở
miền Bắc nước ta.
Năm 1959 khoa Vật Lý trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mở chuyên ngành đào tạo
sinh viên ngành Vật Lý hạt nhân, ít năm sau trường Đại học Bách khoa Hà Nội mở chuyên
ngành đào tạo kỹ sư vật lý hạt nhân.
Năm 1957 Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân các nước xã hội chủ nghĩa được thành
lập ở Đúpna gần Matxcơva. Nước ta là thành viên của Viện và đã cử cán bộ đến nghiên cứu
tại Viện ngay từ ngày đầu Viện mới thành lập, những cán bộ này sau đã trở thành cán bộ đầu
đàn trong ngành hạt nhân nước ta.
Năm 1969 sau khi đi tìm hiểu tình hình sử dụng chất đồng vị phóng xạ trong các Viện
nghiên cứu, xí nghiệp và bệnh viện ở Trung Quốc, khi về nước Ông Đinh Ngọc Lân (tác giả
cuốn sách Năng Lượng Nguyên Tử Và Đời Sống) có trình lên lãnh đạo Ủy ban khoa học và
kỹ thuật nhà nước đề nghị xin nhập chất đồng vị phóng xạ ngắn ngày phục vụ cho ngành y tế
và các ngành khác ở nước ta. Ủy ban đã giao cho Ông làm tờ trình lên Thủ tướng Chính phủ
và ngày 27/8/1970, Thủ tướng đã có quyết định số 162 KTQ như sau:
“Căn cứ đề nghị của Ủy ban khoa học và kỹ thuật nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã đồng
ý:
1. Cho nhập khẩu chất đồng vị phóng xạ để dùng trong công tác nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật và từng bước sử dụng vào sản xuất. Bước đầu cho ngành y tế được dùng chất đồng vị
phóng xạ vào việc chẩn đoán bệnh, chữa bệnh và nghiên cứu y học.
2. Giao trách nhiệm cho Ủy ban khoa học và kỹ thuật nhà nước cùng Bộ y tế xây dựng và
ban hành quy chế bảo quản, sử dụng chất đồng vị và hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
10
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
hiện quy chế này.
3. Cho ngành y tế nhập khẩu của Liên Xô trong năm 1970 một số chất đồng vị phóng xạ và
một số máy đếm, dụng cụ bảo vệ phóng xạ và đo độ nhiểm xạ…trị giá khoảng 5752 rúp.
Rúp là tiền tệ của Liên Bang Nga và hai nước cộng hòa tự trị Abkhazia và Nam Ossetia.
Trước đây, đồng rúp cũng là tiền tệ của Liên Xô và Đế Quốc Nga trước khi các quốc gia này
tan rã.
Để thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ, ngành y tế đã thành lập 2 cơ sở sử
dụng chất đồng vị phóng xạ là khoa y học hạt nhân Bệnh viện Bạch Mai số 78 Đường Giải
Phóng, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội và khoa y học hạt nhân Học viện Quân y có trụ sở
chính: quận Hà Đông, Hà Nội.
Nhờ giúp đỡ tích cực của Bộ Ngoại thương, cuối năm 1971 lần đầu tiên những lô hàng chất
đồng vị phóng xạ ngắn ngày như iốt – 131 (8 ngày), phốt pho – 32 (14,2 ngày),…từ Liên xô
củ đã được nhập vào để sử dụng trong ngành y tế nước ta.
Bản quy chế an toàn phóng xạ đầu tiên ở nước ta là bản “Quy định tạm thời về việc
bảo đảm an toàn cho cán bộ, nhân viên và nhân dân trong việc khai thác, sử dụng, bảo quản,
chuyên chở các chất đồng vị phóng xạ và vật tư có chất phóng xạ” ban hành theo Nghị định
số 177 – CP ngày 13/9/1972 của Hội đồng Chính phủ.
Năm 1970 Viện Vật lý thuộc Viện khoa học Việt Nam được thành lập. Viện được
trang bị một máy phát nơtron và một số máy móc điện tử do Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt
nhân Đúpna giúp. Máy phát nơtron được sử dụng để phân tích kích hoạt phục vụ cho công
tác phân tích trong ngành địa chất, nông nghiệp và các ngành khác.
Ở miền Nam, việc phát triển ngành năng lượng hạt nhân bắt đầu bằng việc thành lập
Việt Nam nguyên tử lực cuộc (Office Ienergie atomique) theo sắc lệnh của Tổng thống
chính quyền miền Nam ký ngày 11/10/1958. Người được cử làm giám đốc đầu tiên của
Nguyên tử lực cuộc là giáo sư Bửu Hội, một nhà bác học Việt Nam nổi tiếng ở Pháp về
nghiên cứu thuốc điều trị bệnh ung thư.
Khi cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (Iternational Atomic Energy Agency –
IAEA) thuộc Liên hiệp quốc được thành lập vào năm 1957, miền Nam Việt Nam đã được
xem là một trong 55 nước đầu tiên tham gia IAEA từ năm 1957 (cùng với Nga, Ucraina, Ba
Lan, Cu Ba, Belarus còn Trung Quốc gia nhập IAEA từ 1984 và CHDCND Triều Tiên trước
đây là thành viên của IAEA nhưng sau đã xin rút lui).
Theo quy chế của IAEA các nước thành viên của các nước đang phát triển hàng năm
được nhận viện trợ kỹ thuật dưới hình thức cung cấp thiết bị, đào tạo cán bộ và nhận sự giúp
đỡ của chuyên gia. Từ năm 1958 IAEA đã giúp miền Nam Việt Nam một nguồn chiếu xạ để
nghiên cứu bảo quản lương thực thực thực phẩm và tạo giống mới bằng đột biến phóng xạ,
cung cấp một số thiết bị sử dụng các chất đồng vị phóng xạ và kỹ thuật hạt nhân trong ngành
y tế, đồng thời một số cán bộ khoa học cũng được đi đào tạo ở nước ngoài.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
11
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Ảnh: Kỷ niệm đợt công tác của đoàn chuyên gia IAEA.
Năm 1958, chính quyền miền Nam đã thành lập Nguyên tử lực cuộc và đến năm 1961
một cơ sở nghiên cứu khoa học và kỹ thuật hạt nhân được thành lập mang tên Trung tâm
Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt. Công trình được khởi công xây dựng từ tháng 4-1961 và
được hoàn thành vào tháng 12-1962. Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt (Institut de recherché
nucléaire de Dalat – IRND) được xây dựng trên một diện tích 21,34 hecta, trên một ngọn đồi
ở thành phố Đà Lạt số 4 đường Nguyên Tử Lực. Thiết bị chủ yếu của Viện là lò phản ứng
nghiên cứu (Réacteur de recherché – Research reactor) kiểu TRIGA Mark II do Công ty Mỹ
“General Atomic Division of General Dynamics Corporation”chế tạo. Chữ TRIGA là viết tắt
của các chữ Training (Đào tạo), Research (nghiên cứu), Isotope production (Chế tạo chất
đồng vị phóng xạ) và General Atomic. Công suất nhiệt của lò phản ứng là 250 kW. Nhiên
liệu sử dụng là urani-235. Chất làm chậm nơtron là hiđrua ziriconi (hydrure de zirconium ).
Nhiên liệu và chất làm chậm được trộn lẫn thành một hỗn hợp đồng chất.
Sau một thời gian lắp đặt và thử nghiệm, lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt là lò hạt nhân
đầu tiên ở Đông Nam Á đã đạt trạng thái “tới hạn” vào lúc 12 giờ 40 phút ngày 26-2-1963
(Tới hạn là trạng thái phản ứng phân hạch hạt nhân dây chuyền được duy trì ổn định. Trong
lò phản ứng hạt nhân, người ta có thể khống chế được trạng thái tới hạn của lò phản ứng
bằng các thanh điều khiển) lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt chính thức đi vào hoạt động theo
công suất danh định từ ngày 3-3-1963.
Ngoài lò phản ứng còn có một số phòng thí nghiệm về vật lý hạt nhân, hóa học phóng
xạ, sinh học phóng xạ,…Toàn Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt được khánh thành vào
10/1963. Người thiết kế Viện này là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Ông đã từng đạt giải thưởng
lớn (Grand prix) về kiến trúc ở Rôma và ông cũng là người đã thiết kế Dinh Độc lập (nay là
Hội trường Thống Nhất) và Viện Đại Học Huế.
Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt cùng với lò phản ứng ký hiệu là VNR -1 (Vietnam
Reactor 1) chủ yếu hoạt động trong 5 năm 1963 – 1968. Sau cuộc tổng tiến công năm 1968,
đường đi lại giữa Sài Gòn và Đà Lạt khó khăn, tình hình an ninh không bảo đảm nên hoạt
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
12
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
động của Viện cũng giảm đi. Ngày 3/4/1975 Đà Lạt được giải phóng thì trước ít ngày, ngày
31/3/1975 viện cớ bảo đảm an toàn, Mỹ đã lấy tất cả các thanh nhiên liệu trong lò phản ứng
Đà Lạt đem về Mỹ, lò phản ứng phải ngừng hoạt động.
Các bộ phận nghiên cứu khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt từ khi
được thành lập đến trước ngày đất nước được giải phóng (30-4-1975) gồm có: Phòng Vật lý
lò, Phòng Kiểm soát Phóng xạ, Phòng Điện tử, Phòng Vật lý hạt nhân, Phòng Hoá học
Phóng xạ, Phòng Sinh học Phóng xạ và một thư viện với hơn 3.000 đầu sách, hàng trăm tạp
chí khoa học và hơn 30.000 báo cáo khoa học để phục vụ cho công tác nghiên cứu hoặc
tham khảo.
Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt triển khai 3 chương trình chính:
- Chương trình khai thác lò phản ứng: Lò phản ứng hạt nhân có khả năng sản xuất nhiều loại
đồng vị phóng xạ khác nhau, không những để bảo đảm cho các hoạt động của Trung tâm mà
còn cung ứng cho các cơ quan khảo cứu khoa học hay ứng dụng kỹ thuật hạt nhân khác.
- Chương trình huấn luyện, đào tạo về kỹ thuật: Tổ chức các lớp huấn luyện ở trình độ đại
học để đào tạo những chuyên viên kỹ thuật nguyên tử ứng dụng vào các mục tiêu hòa bình
nhằm phục vụ cho các ngành của nền kinh tế - xã hội.
- Chương trình nghiên cứu khoa học: Xúc tiến khảo cứu khoa học và thực hiện một số ứng
dụng thực tiễn của kỹ thuật hạt nhân trong đời sống.
2. Tình hình sau năm 1975.
Sau khi miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, ngày 26/4/1976 theo quyết
định số 64 CP của Hội đồng Chính phủ, Viện nghiên cứu hạt nhân trực thuộc Ủy ban khoa
học và kỹ thuật nhà nước đã được thành lập. Theo nghị định số 59 CP của Hội đồng Chính
phủ, Viện nghiên cứu hạt nhân tách ra khỏi Ủy ban khoa học kỹ thuật nhà nước và đặt dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 11/6/1984 theo Nghị định số 87 –
HĐBT Viện nghiên cứu hạt nhân được đổi tên là Viện năng lượng nguyên tử quốc gia đặt
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trưởng.
Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia có trụ sở chính ở Hà Nội và có các cơ sở trực
thuộc là:
- Viện khoa học và kỹ thuật hạt nhân ở Hà Nội.
- Viện công nghệ xạ hiếm ở Hà Nội.
- Viện nghiên cứu hạt nhân ở Đà Lạt.
- Trung tâm ứng dụng kỹ thuật hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi thành lập Viện nghiên cứu hạt nhân vào năm 1976, ngay từ năm 1977 nước ta
đã đàm phán với Liên Xô củ về việc Liên Xô giúp ta khôi phục và nâng công suất của lò
phản ứng hạt nhân Đà Lạt lên gấp đôi, từ 250 kW lên 500 kW.
Do trước ngày giải phóng Đà Lạt, Mỹ đã rút hết các thanh nhiên liệu của lò phản ứng
nên cần phải thay thanh nhiên liệu mới. Nhiên liệu trước kia của Mỹ là một hỗn hợp đồng
chất urani giàu 20% và hiđrua ziriconi dùng làm chất làm chậm nơtron. Nhiên liệu được sử
dụng chứa 2,423 kg urani – 235. Liên Xô đã thay bằng thanh nhiên liệu tiêu chuẩn hình 6
cạnh loại VVR–M2, hợp kim U- AL, độ giàu urani là 36% urani – 235. Nhiên liệu được sử
dụng chứa 3,567 kg urani -235.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
13
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Ảnh: Trước bàn làm việc lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt.
Để chuẩn bị cho việc khôi phục và nâng cấp lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, Liên Xô
củ đã cử đoàn chuyên gia sang tìm hiểu tình hình tại hiện trường và ta đã cử đoàn cán bố
sang thực tập tại Gruzia và Ucraina. Sau khi đoàn cán bộ về nước, công việc khôi phục và
nâng cấp lò chính thức bắt đầu từ tháng 8/1982. Vào hồi 19 giờ 50 phút ngày 1/11/1983 lò
phản ứng đạt trạng thái tới hạn. Công trình khôi phục và nâng cấp lò phản ứng hạt nhân Đà
Lạt được chính thức khánh thành ngày 20/3/1984. Từ ngày ấy đến nay trong 25 năm qua, lò
phản ứng đã hoạt động an toàn mỗi năm bình quân 1500 giờ, phục vụ cho công tác nghiên
cứu khoa học, phân tích kích hoạt, sản xuất chất đồng vị phóng xạ phục vụ cho ngành y tế và
các ngành khác.
Trong sự phát triển của ngành hạt nhân nước ta trong gần 35 năm qua, việc hợp tác
quốc tế đã có tác dụng rất lớn, đặc biệt là sự giúp đỡ và hợp tác với Cơ quan Năng lượng
nguyên tử quốc tế (IAEA). Trong những năm qua chúng ta đã nhận được trên 70 dự án viện
trợ kỹ thuật của IAEA với tổng số tiền khoảng 15 triệu USD. Nhờ sự giúp đỡ này nhiều
phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu đã được trang bị các thiết bị hiện đại, hàng năm IAEA
cử chuyên gia sang giúp đỡ và nhận cán bộ khoa học nước ta đi dự các lớp học ngắn ngày,
tham gia hội thảo, đi học dài ngày theo học bổng của IAEA. Ngoài sự hợp tác với IAEA,
chúng ta cũng đã có sự hợp tác song phương với nhiều nước như Nga, Ấn Độ, Pháp, Nhật,
Hàn Quốc, Trung Quốc.
Tháng 4/1991 tiến sĩ Hans Blix, Tổng giám đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
(sau này là Trưởng đoàn thanh sát vũ khí của Liên hiệp quốc tại Irak) có sang thăm Việt
Nam. Ông đã thăm lò phản ứng Đà Lạt, thăm các cơ sở hạt nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội và làm việc với Viện năng lượng nguyên tử quốc gia Việt Nam.
Sáng 9/4/1991 phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách khoa học kỹ thuật Võ
Nguyên Giáp đã tiếp ông. Cùng ngày ông đã đến chào Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ
Mười. Ông Đinh Ngọc Lân đã được giao làm nhiệm vụ phiên dịch trong hai buổi tiếp kiến
này. Xin trích một số câu trong bản ghi chép các câu hỏi và trả lời:
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
14
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Phó Chủ tịch Võ Nguyên Giáp “Tôi xin nhiệt liệt hoan nghênh Ngài đã đến thăm Việt
Nam và làm việc với những người phụ trách ngành khoa học kỹ thuật hạt nhân, thăm một số
cơ sơ nghiên cứu về khoa học hạt nhân ở nước chúng tôi. Ngài có nhận xét như thế nào về
các cơ sở ấy? Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt hoạt động có an toàn không và công việc nghiên
cứu ở đó như thế nào?”.
Tiến sĩ Hans Blix: “Tôi nhận thấy các cơ sở nghiên cứu hạt nhân của Việt Nam làm
việc tốt. Các cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn tốt, làm việc chăm chỉ, sử dụng các
thiết bị do Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế viện trợ. Theo những báo cáo tôi nhận
được thì lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt hoạt động an toàn, là một trong những lò phản ứng hạt
nhân làm việc có hiệu quả nhất trong các nước đang phát triển.
Tôi thấy hiện nay ở Đà Lạt có hai vấn đề cần quan tâm là: Hiện đại hóa hơn nữa các
thiết bị điều khiển lò phản ứng và tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà khoa học sinh sống và
làm việc. Đối với người làm khoa học có hai vấn đề quan trọng nhất, đó là điều kiện làm
việc và lương bổng. Theo tôi được biết thì lương của cán bộ khoa học ở Đà Lạt quá thấp.
Việc đó dễ dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”, không phải “chảy” ra nước ngoài mà là
sang các ngành khác có thu nhập cao hơn. Mong rằng Chính phủ Việt Nam quan tâm đến
vấn đề này.
Trong buổi tiếp tiến sĩ Hans Blix, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã thay mặt
Chính phủ Việt Nam hoan nghênh chuyến thăm và làm việc của ông. Chủ tịch nói: “Tôi
mong rằng Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế sẽ giúp Việt Nam nhiều hơn nữa để áp
dụng khoa học kỹ thuật hạt nhân phục vụ thiết thực cho nền kinh tế. Cách đây ít lâu tôi có
vào thăm Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Tôi có nói với cán bộ khoa học ở Đà Lạt là
chúng ta nhất định phải có điện nguyên tử, phải chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy điện
nguyên tử trong tương lai. Năng lượng nguyên tử có thể đóng góp tốt cho các ngành năng
lượng của Việt Nam”.
Tiến sĩ Hans Blix: “Hiện nay trên thế giới đang có 435 lò phản ứng hạt nhân phát hiện
hoạt động ở 30 nước trên thế giới. Điện nguyên tử chiếm khoảng 16 – 17% toàn bộ sản
lượng điện, thủy điện chiếm khoảng 20%. Nhà máy điện chạy than có vấn đề lớn là thải khí
cacbonic, làm ô nhiễm môi trường, làm tăng “hiệu ứng nhà kính”, ảnh hưởng đến khí hậu
toàn cầu. Tôi đồng ý với Ngài Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là cần thiết phải phát triển điện
nguyên tử, đấy là giải pháp tốt nhất. Các dạng năng lượng khác như: mặt trời, sức gió…chỉ
có tính chất phụ trợ, không thỏa mãn nhu cầu năng lượng trên quy mô lớn”.
Chủ tịch Đỗ Mười: “Với tư cách là Tổng Giám đốc cơ quan Năng lượng nguyên tử
quốc tế, Ngài có cho rằng khả năng loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân không?”.
Tiến sĩ Hans Blix: “Tôi lạc quan tin tưởng rằng việc đó sẽ thực hiện được nhưng phải
có thời gian. Cần có sự cộng tác tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác hữu nghị.
Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế đã ký kết các hiệp định bảo đảm (accord de garantie)
với hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam và tiến hành kiểm tra thường xuyên
để đảm bảo không phổ biến vũ khí hạt nhân, đảm bảo năng lượng nguyên tử chỉ được sử
dụng vào mục đích hòa bình”.
Tiến sĩ Hans Blix đã làm Tổng Giám đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế
trong 16 năm (1981 – 1997). Trong thời gian đó, ông đã quan tâm giúp đỡ cho sự phát triển
của ngành khoa học kỹ thuật hạt nhân của Việt Nam qua việc cung cấp thiết bị nghiên cứu
hiện đại, cử chuyên gia sang giúp đỡ và nhận cán bộ khoa học Việt Nam đi tào đạo ở nước
ngoài và tham dự các hội nghị quốc tế.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
15
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Năm 2002 ông được cử làm Trưởng đoàn thanh sát vũ khí của Liên hiệp quốc ở Irak.
Mặc dù bị nhiều sức ép, ông đã trung thực báo cáo chưa tìm thấy vũ khí hàng loạt ở Irak và
đề nghị kéo dài thời gian thanh sát trước khi quyết định tiến hành chiến tranh.
Trong giai đoạn 2003-2004 Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt danh mục 5 dự án viện trợ kỹ thuật với tổng số tiền trên 1,6 triệu USD do Tổ chức
Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) tài trợ. Trong các dự án nhận viện trợ có 3 dự án mới
là:
v Hỗ trợ cho đào tạo kỹ sư về kỹ thuật hạt nhân ở Đại học Bách khoa Hà Nội;
v Phát triển nguồn nhân lực;
v Nâng cấp hệ điều khiển lò phản ứng hạt nhân với số tiền hơn 1,3 triệu USD, 2 dự án còn
lại được bổ sung vốn viện trợ trong tài khoá này thuộc lĩnh vực nông nghiệp, với tổng trị giá
trên 300.000 USD.
Ngày 23/04/2004 Hội Năng lượng Nguyên tử Việt Nam được thành lập theo Quyết
định số 85/2004/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Hội là tổ chức nghề nghiệp của những
người làm công tác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, hoạt động trên cơ sở tự nguyện để
trao đổi thông tin, kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ, giúp đỡ nhau nâng cao trình độ,
nghiệp vụ, giúp đỡ nhau nâng cao trình độ, xây dựng và áp dụng các giải pháp về khoa học
và công nghệ hạt nhân...
3. Ứng dụng các chất đồng vị phóng xạ và kỹ thuật hạt nhân phục vụ sản xuất và đời
sống.
3.1. Ứng dụng trong ngành y tế.
Khi miền Nam giải phóng vào năm 1975, cả nước chỉ có 3 cơ sở sử dụng chất đồng vị
phóng xạ ngắn ngày để chẩn đoán và điều trị bệnh là khoa y học hạt nhân Bệnh viện Bạch
Mai, khoa y học hạt nhân Học viện Quân y ở Hà Nội và khoa y học hạt nhân Bệnh viện Chợ
Rẫy ở thành phố Hồ Chí Minh. Sau năm 1975, ngoài việc tăng cường thiết bị hiện đại cho
các cơ sở trên với sự giúp đỡ của IAEA, chúng ta đã từng bước mở rộng việc xây dựng các
khoa học y học hạt nhân trong cả nước, đầu tiên là Huế, rồi đến Lâm Đồng, Khánh
Hòa…Đến nay trong cả nước đã có 28 cơ sở y học hạt nhân được trang bị thiết bị hiện đại và
sử dụng chất đồng vị phóng xạ một phần nhập của nước ngoài, một phần sản xuất tại lò phản
ứng hạt nhân Đà Lạt.
Đặc biệt Viện Năng lượng hạt nhân Đà Lạt đã nghiên cứu và triển khai nhiều ứng
dụng kỹ thuật hạt nhân và bức xạ phục vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng:
- Đã chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ, cung cấp một phần thiết bị và các hỗ trợ khác
để phát triển mạng lưới các cơ sở y học hạt nhân trong cả nước phục vụ nhu cầu khám chữa
bệnh của nhân dân. Trước khi đưa lò phản ứng Đà Lạt vào hoạt động (3/1984) toàn quốc chỉ
có 2 cơ sở y học hạt nhân, đến nay đã có trên 20 cơ sở và 10 bệnh viện có thiết bị kỹ thuật
hạt nhân để điều trị bệnh đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám và chữa bệnh ngày càng tăng của
nhân dân.
- Thường xuyên cung cấp gần 20 loại dược chất phóng xạ được sản xuất trên lò phản ứng Đà
Lạt chủ yếu là các dược chất chứa đồng vị I -131, P-32, Tc-99m, Cr-51 để phục vụ cho chẩn
đoán và điều trị các bệnh như bướu cổ, ung thư, tim mạch, thận, bệnh ngoài da, xét nghiệm
nội tiết tố trong máu,... Trung bình mỗi năm lò phản ứng Đà Lạt sản xuất và cung cấp
khoảng 150 Ci các chất phóng xạ, trong khi đó trước giải phóng miền Nam con số này là 2
Ci. Tuy nhiên, hiện nay Viện cũng chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu về chủng loại sản
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
16
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
phẩm các chất phóng xạ và 70% nhu cầu số lượng chất phóng xạ đối với các chủng loại đã
cung cấp.
Ảnh: Dược chất phóng xạ sản xuất tại Viện Nghiên cứu hạt nhân.
- Số bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị hàng năm bằng đồng vị phóng xạ của Đà Lạt lên
đến hàng trăm nghìn người. Theo số liệu thống kê, hàng năm hơn 150.000 người được xét
nghiệm bằng kỹ thuật hạt nhân, gần 1000 người được điều trị biếu cổ bằng đồng vị I -131, số
lượng bệnh nhân được điều trị ung thư và khối u bằng xạ trị ngoại, xạ trị áp sát và xạ trị nội
chiếm 1/3 tổng số bệnh nhân ung thư trong toàn quốc.
- Thành công trong chế tạo và triển khai áp dụng tại Viện Quân y 103 một máy xạ trị áp sát
liều cao điều trị ung thư.
- Trung tâm Chiếu xạ của Viện tại thành phố Hồ Chí Minh được khánh thành đầu năm 1999
với mục đích là khử trùng các dụng cụ y tế như bao tay mổ, dụng cụ mổ, dây truyền dịch,
bao cao su, kim tiêm dùng 1 lần, mô ghép,... Tuy nhiên sau gần 5 năm hoạt động thấy rằng
đối tượng chiếu xạ chủ yếu lại không phải là sản phẩm y tế như khi thiết kế dự án mà phần
nhiều là sản phẩm hải sản đông lạnh. Dự án đã hoàn thành trả nợ ngân hàng và hàng năm thu
lợi cho Viện khoảng 7 tỷ đồng, đóng thuế cho Nhà nước khoảng 2 tỷ. Viện chủ trương tiếp
tục duy trì và đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ bức xạ khử trùng các dụng cụ và
sản phẩm y tế.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
17
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Ảnh: Phương pháp xạ trị
- Nghiên cứu thành công phương pháp chế tạo màng trị bỏng từ chitosan vỏ tôm, cua bằng
công nghệ bức xạ. Sản phẩm đã được thử nghiệm lâm sàng tại một số bệnh viện trong quân
đội và Viện Bỏng quốc gia, đã được Viện Quân y 175 và Xí nghiệp Dược phẩm 25 xin cấp
giấy phép sản xuất.
- Thường xuyên thực hiện việc kiểm chuẩn các thiết bị x -quang, xạ trị và y học hạt nhân cho
các cơ sở y tế nhằm nâng cao chất lượng trong chẩn đoán và điều trị. Viện kết hợp với Cục
Kiểm soát và ATBXHN và Bộ Y tế đã tổ chức nhiều khoá huấn luyện về an toàn bức xạ cho
nhân viên y tế và cán bộ quản lý y tế các tỉnh, thực hiện dịch vụ đo liều và tư vấn kỹ thuật
đảm bảo an toàn trong khám chữa bệnh ở các cơ sở x -quang, xạ trị và y học hạt nhân trong
cả nước.
3.2. Ứng dụng trong ngành công nghiệp.
Các kỹ thuật hạt nhân được áp dụng ở nước ta bao gồm: kỹ thuật kiểm tra không phá
mẫu (Non Destructive Testing – NDT), hệ điều khiển hạt nhân (Nuclear Control System –
NCS) và phương pháp đánh dấu đồng vị. Kỹ thuật kiểm tra không phá mẩu NDT được áp
dụng trong việc kiểm tra các công trình xây dựng và giao thông vận tải. Các hệ NCS được sử
dụng trong công nghiệp dầu khí, sản xuất giấy, hóa chất, vật liệu xây dựng, đáp ứng quá
trình sản xuất liên tục và tự động hóa. Kỹ thuật đánh dấu đồng vị được áp dụng trong nghiên
cứu thủy văn, nghiên cứu sa bồi và trong công nghiệp dầu khí.
Đặc biệt Viện Năng lượng hạt nhân Đà Lạt đã triển khai nghiên cứu và ứng dụng 3
phương pháp phổ biến của kỹ thuật hạt nhân là NDT, NCS và TRACER trong một số lĩnh
vực khác nhau của công nghiệp, ưu tiên cho các lĩnh vực công nghiệp trọng điểm như dầu
khí, giao thông, xây dựng,... Các kết quả nổi bật:
- Kỹ thuật NDT đã được ứng dụng để kiểm tra chất lượng cọc nhồi các trụ cầu, độ chặt nền
đường, nền móng nhà xưởng, chất lượng mối hàn, đường ống, bình chứa, nồi hơi,... của
nhiều công trình lớn của quốc gia như cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, cầu Việt Trì, Nhà
máy nhiệt điện Phú Mỹ, khu chế xuất Tân Thuận,...
- Tổ chức nhiều khoá huấn luyện cho các kỹ thuật viên hành nghề NDT của các cơ sở công
nghiệp và các cán bộ thanh tra nhà nước về an toàn lao động.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
18
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
- Thực hiện việc bảo dưỡng các hệ NCS cho một số nhà máy như nhà máy xi măng Hà Tiên,
nhà máy giấy Bãi Bằng,... Thiết kế chế tạo các hệ NCS như máy đo mức cho nhà máy bia
Khánh Hoà, thiết kế hệ báo cháy tự động theo yêu cầu của Công an PCCC các tỉnh, máy đo
độ dày của giấy trên dây chuyền nhà máy giấy Tân Mai, máy đo mật độ bùn,...
- Tiến hành nghiên cứu quy trình tối ưu trong việc phối trộn vật liệu cho nhà máy xi măng
Hà Tiên, cho nhà máy sản xuất bóng đèn Điện Quang thành phố Hồ Chí Minh, nhà máy
phân Long Thành, Đồng Nai.
- Triển khai nghiên cứu sa bồi cảng Hải phòng và khảo sát tìm bãi đổ cát nạo vét tối ưu cho
luồng tàu Nam Triệu bằng kỹ thuật đánh dấu đồng vị phóng xạ. Số liệu thực nghiệm thu
nhận được cho phép đánh giá tốc độ, hướng di chuyển của trầm tích, các yếu tố ảnh hưởng
của gió mùa, làm cơ sở cho việc định vị tối ưu bãi đổ cho hoạt động nạo vét cửa Cảng, luồng
tàu hoặc định hướng cho các quyết định duy trì luồng tàu cũ hay mở luồng tàu mới ở cảng
Hải Phòng. Năm 2003 đã triển khai nghiên cứu sa bồi cho cảng Định an, bồi lấp hồ thủy
điện Trị an.
- Tiến hành nghiên cứu quá trình thấm qua đập ngăn nước tại đập thủy điện Hoà Bình, đập
suối Rộp và đập tràn hồ thủy điện Trị An để cung cấp số liệu xây dựng báo cáo phân tích an
toàn đập phục vụ cho công tác đảm bảo an toàn và duy tu định kỳ của các nhà máy thuỷ điện
này. Kết quả nghiên cứu của Viện cùng với các số liệu khác đã cho phép quyết định nâng
mức nước của đập thủy điện Hoà Bình từ 115 m lên 117 m.
- Viện đã hợp tác rất tốt với Liên doanh Dầu khí Việt - Xô nghiên cứu bài toán tối ưu trong khai thác
nhằm tăng cường hiệu suất thu hồi dầu, đánh giá lượng dầu dư bão hoà ở mỏ Bạch hổ bằng kỹ thuật
đánh dấu. Các kết quả nghiên cứu đã được triển khai áp dụng mang lại hiệu quả kinh tế. Trên cơ sở
các kết quả nghiên cứu theo hướng này, trong năm 2003 đã có 2 hợp đồng kinh tế được ký kết với
Công ty dầu khí Việt – Nhật JVPC với tổng kinh phí gần 4 tỷ đồng.
3.3. Công nghệ chiếu xạ.
Việc nghiên cứu về kỹ thuật chiếu xạ trong phòng thí nghiệm được tiến hành vào năm
1981 – 1982 trên một thiết bị chiếu xạ dùng côban - 60 do Cơ quan Năng lượng nguyên tử
quốc tế (IAEA) giúp cho Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Thiết bị này có hoạt độ 16000
curi.
Năm 1984 Viện năng lượng nguyên tử quốc gia đề nghị và được IAEA chấp nhận
một dự án viện trợ kỹ thuật giúp xây dựng tại Hà Nội một trung tâm chiếu xạ trên quy mô
bán thương mại (Semi – commercial) với một nguồn chiếu xạ côban – 60 hoạt độ 110.000
curi. Trung tâm bắt đầu hoạt động từ năm 1991 tại Cầu Diễn, huyện Từ Liêm ngoại thành
Hà Nội.
Trong 13 năm qua, Trung tâm chiếu xạ Hà Nội đã tiến hành chiếu xạ để bảo quản khoai tây,
hành tây, diệt sâu bọ và vi khuẩn cho thuốc lá, thuốc nam, khử trùng dụng cụ y tế như kim
tiêm dùng một lần, chỉ khâu phẩu thuật…, đổi màu các loại kính, biến tính các loại vật liệu,
chủ yếu là chất dẻo,…
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
19
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Ảnh: Đưa hàng hóa vào chiếu xạ
Tháng 2/1999 tại thành phố Hồ Chí Minh khánh thành một Trung tâm chiếu xạ với
nguồn côban hoạt độ 400.000 curi. Trung tâm này đã dùng chiếu xạ để bảo quản thực phẩm
(chủ yếu là hải sản đông lạnh) và khử trùng dụng cụ y tế và dược phẩm trên quy mô thương
mại (commercial). Trong hơn 5 năm hoạt động, Trung tâm đã mang lại hiệu quả kinh tế lớn.
3.4. Ứng dụng trong nông nghiệp và công nghệ sinh học.
Là một đất nước mà ngành nông nghiệp giữ một vai trò then chốt trong nền kinh tế
quốc dân, việc ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến nhằm tăng năng suất và nâng cao hiệu quả
kinh tế của sản xuất nông nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Chính vì
vậy, mặc dù còn nhiều khó khăn và chưa được đầu tư thoả đáng cho lĩnh vực này song cũng
Viện cũng đã thu được những kết quả có ý nghĩa góp phần từng bước công nghiệp hóa nông
nghiệp nông thôn:
- Hợp tác rất chặt chẽ với các cơ sở nông nghiệp như Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Bộ
môn cây lương thực Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, Viện lúa Đồng bằng
sông Cửu Long, Viện Di truyền Nông nghiệp nghiên cứu tạo đột biến các giống lúa năng
suất cao, chất lượng tốt, ngắn ngày, khả năng thích ứng rộng bằng kỹ thuật chiếu xạ như
VND 95-19, VND 95-20, TNĐB, THĐB,... Một số giống đã được Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn công nhận là giống quốc gia và được gieo trồng trên hàng trăm nghìn ha.
Tuy nhiên cơ sở di truyền của lúa đột biến còn chưa được xác lập, tỷ trọng của giống đột
biến còn rất khiêm tốn trong cơ cấu giống hiện nay. Trong 4 năm qua Viện đã tập trung
nghiên cứu tạo ra các giống lúa thơm chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu nội tiêu và xuất
khẩu bằng đột biến phóng xạ. Các kết quả thu được rất khả quan, hy vọng sẽ có đựơc các
giống quốc gia mang thương hiệu của Viện trong thời gian tới.
- Đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm áp dụng phương pháp chiếu xạ tạo đột biến đa dạng
trên hệ nuôi cấy invitro nhiều cây trồng như khoai lang, khoai tây, dâu tằm, chuối, hoa cẩm
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
20
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
chướng, hoa hồng, điạ lan, cúc,... Tuy nhiên kết quả thu được còn hạn chế.
- Kỹ thuật đồng vị đánh dấu đã được sử dụng rất hiệu quả để nghiên cứu sinh lý dinh dưỡng
cây trồng, nông hóa thổ nhưỡng, quan hệ đất, phân, cây trồng nhằm tối ưu hoá quá trình
canh tác, tưới nước và bón phân. Các kết quả nghiên cứu về chế độ bón phân N, P cho một
số loại giống lúa trồng trên các loại đất khác nhau ở Nam Bộ trong các mùa vụ khác nhau đã
được khuyến cáo cho nông dân sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế.
- Tiến hành nghiên cứu khả năng cố định đạm và các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng đó của
cây lạc và đậu nành trồng trên các nền đất khác nhau bằng kỹ thuật đánh dấu N - 15.
Ảnh: Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trên ruộng khoai tây
- Kỹ thuật đánh dấu để xác định nhanh vận động của nước tưới trong đất cùng với phương
pháp đo độ ẩm, mật độ của đất bằng phương pháp nơtron và gamma đã được triển khai áp
dụng thử nghiệm nhằm điều chỉnh chế độ tưới nước thích hợp cho cây cà phê ở tỉnh Bình
Phước. Kỹ thuật này sẽ rất có ích cho vùng đất cao nguyên vào mùa khô khi mà nước tưới là
vấn đề lớn ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
- Tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống các quá trình sinh lý, dinh dưỡng của một số loại
nấm quý ở vùng cao nguyên Lâm Đồng bằng kỹ thuật đồng vị và phân tích hạt nhân kết hợp,
và đã chuyển giao thành công quy trình nuôi trồng nấm Linh chi cho các hộ nông dân ở Lâm
Đồng. Quy mô chuyển giao ngày càng được mở rộng cho nhiều loại nấm đã được khảo
nghiệm thành công nhờ có sự hợp tác và đầu tư của tỉnh Lâm Đồng. Có đóng góp đáng kể
vào nghiên cứu nấm cơ bản sử dụng kỹ thuật hạt nhân.
- Nghiên cứu thành công chế phẩm kích thích tăng trưởng thực vật bằng kỹ thuật cắt mạch
bức xạ và đã thử nghiệm thành công trên diện rộng ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận,
Quảng Nam cho kết quả khá tốt trên nhiều loại cây với năng suất tăng từ 20-30%. Chế phẩm
đã được cấp phép sản xuất.
- Nghiên cứu thử nghiệm kỹ thuật chiếu xạ để khử trùng cơ chất trồng nấm thực phẩm, nấm
dược phẩm cao cấp phục vụ xuất khẩu. Qua nghiên cứu, Viện đã đề xuất giải pháp chiếu xạ
công nghiệp và lên men nấm nhằm xử lý hầu hết các loại phụ phế nông, lâm, công nghiệp.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
21
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Qua đó thu nhận sinh khối nấm làm thực phẩm và dược phẩm quý và nhiều hoạt chất sinh
học quý. Bã nấm được xử lý tiếp để làm thức ăn gia súc và phân bón sinh học. Đây là hướng
rất có triển vọng trong giai đoạn tới.
- Tiến hành nghiên cứu bất dục sâu tơ bằng kỹ thuật chiếu xạ ở quy mô phòng thí nghiệm,
đây là hướng nghiên cứu đang được các nước trong vùng quan tâm cho một số loại sâu hại
hoa quả.
- Nghiên cứu bảo quản lương thực thực phẩm bằng chiếu xạ đã được triển khai trên nhiều
đối tượng, tuy nhiên việc áp dụng thực tế còn gặp không ít khó khăn cần phải được tiếp tục
nghiên cứu.
- Giúp tỉnh Lâm Đồng tiến hành nghiên cứu tốc độ bồi lấp lòng hồ cho một số hồ quan trọng
của tỉnh đối với du lịch và tưới tiêu bằng kỹ thuật đo Pb -210 và Cs -137 giúp cho các cơ
quan quản lý của tỉnh tìm giải pháp nhằm kéo dài thời gian sử dụng của các hồ này. Kỹ thuật
này sẽ được sử dụng để nghiên cứu bức tranh xói mòn trên phạm vi toàn quốc nhằm giúp
cho việc xây dựng các giải pháp khắc phục, quản lý và chống thoái hoá đất.
- Các nghiên cứu về thuỷ văn đồng vị của Viện đã cung cấp những số liệu rất cơ bản mà các
kỹ thuật khác khó có thể có được về nguồn gốc, tuổi, lượng bổ cấp, cơ chế bổ cấp, vận tốc
chảy, hướng chảy, lưu lượng, độ phân tán, thời gian lưu, nguồn gốc, tình trạng ô nhiễm và
khả năng mặn hoá của các nguồn nước ngầm giúp cho việc quản lý tài nguyên nước phục vụ
cho tưới tiêu và sinh hoạt. Nghiên đã được tiến hành ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Hà
nội và các tỉnh xung quanh, đặc biệt đã có sự hợp tác với các cơ quan có liên quan trong lĩnh
vực quản lý và khai thác tài nguyên nước ngầm của Việt Nam. Năm 2003 Viện đã đầu tư
một phòng thí nghiệm về khối phổ kế dùng cho việc phân tích các thành phần đồng vị trong
nước ngầm, tạo kiện kiện mở rộng hoạt động nghiên cứu về nước ngầm ở Việt nam và tham
gia vào các chương trình hợp tác trong khu vực vì đây là hệ thiết bị duy nhất trong khu vực.
- Với ưu việt của các kỹ thuật phân tích hạt nhân, đặc biệt là phân tích kích hoạt nơtron trên
lò phản ứng Đà Lạt có độ nhạy cao (tới 10-9 g/g), việc xác định thành phần nguyên tố
khoáng của các loại đất và cây trồng bao gồm các nguyên tố đa lượng, vi lượng, nguyên tố
vết hiếm, đất hiếm, kim loại nặng,... cũng đã được thực hiện tại Viện phục vụ cho các nghiên
cứu thổ nhưỡng, trồng trọt, chăn nuôi và môi trường địa hoá tự nhiên
3.5. Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong nghiên cứu môi trường.
Trong lĩnh vực nghiên cứu bảo vệ môi trường, Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt đã
sử dụng các kỹ thuật phân tích hạt nhân để thực hiện quan trắc cảnh báo, đánh giá tình trạng
ô nhiễm các loại môi trường nước, đất, không khí. Các kỹ thuật này được nghiên cứu và phát
triển tại Viện, có ưu việt về độ nhạy cao hơn rất nhiều so với các phương pháp khác. Ngoài
ra một số nghiên cứu liên quan đến xử lý môi trường cũng đã được triển khai nghiên cứu.
- Đánh giá tác động môi trường của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và các hoạt động khai thác
sử dụng Lò phản ứng là hoạt động thường xuyên của Viện nhằm đảm bảo sao cho các chất
thải phóng xạ không gây ra liều chiếu ngoài đối với dân chúng vượt quá mức cho phép và
không vượt quá giới hạn xâm nhập hàng năm qua đường hô hấp theo “Quy phạm an toàn
bức xạ ion hoá TCVN -4397-87”. Trong gần 20 năm vận hành và khai thác lò phản ứng Đà
Lạt, các yêu cầu về khí thải phóng xạ, về thải phóng xạ lỏng và rắn được đảm bảo, không có
các tác động có hại cho môi trường và dân chúng nói chung. Các thiết bị công nghệ và thiết
bị nghiên cứu phục vụ cho mục đích này tương đối đủ và đồng bộ. Các quy trình và thiết bị
công nghệ được nghiên cứu áp dụng tại Viện có thể được sử dụng cho việc xử lý một số loại
thải khí, thải lỏng, thải rắn khác do các hoạt động kinh tế - xã hội sinh ra.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
22
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
- Các hoạt động nghiên cứu triển khai phục vụ việc quan trắc, đánh giá trạng thái môi trường
được Viện thực hiện ở nhiều điạ phương trong cả nước và từ khá sớm. Kết quả quan trắc
cho thấy hoạt động của Lò phản ứng Đà Lạt không gây ra tác động nào cho môi trường. Các
dị thường về phóng xạ môi trường được ghi nhận vào tháng 5-6/1986 tại 2 trạm quan trắc
của Viện ở Hà Nội và Đà Lạt liên quan đến sự cố hạt nhân ở nhà máy điện hạt nhân
Chernobyl. Có thể nói Việt Nam là một trong số không nhiều các nước đã thực hiện được
việc quan trắc các bất thường về phóng xạ môi trường do ảnh hưởng xuyên biên giới của các
sự cố môi trường đối với Việt Nam như tai nạn Chernobyl và các vụ thử vũ khí hạt nhân. Dự
án điều tra cơ bản về nhiễm bẩn phóng xạ Cs -137 trong đất trên toàn lãnh thổ Việt Nam
được thực hiện đã tạo ra bộ số liệu với độ tin cậy cao về mật độ tồn lưu của Cs -137 trong
đất bề mặt Việt Nam. Các số liệu này sẽ được sử dụng để nghiên cứu xói mòn đất, làm cơ sở
cho chương trình tiền quan trắc các địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân và đánh giá
tác động môi trường của hoạt động của các nhà máy này trong tương lai, nghiên cứu đánh
giá liều tập thể cho dân chúng. Tiếp theo dự án điều tra về Cs -137, Viện đã triển khai
nghiên cứu về nhiễm bẩn Pu -239 trong đất. Viện cũng đã tham gia nghiên cứu tình trạng ô
nhiễm các nguyên tố kim loại nặng độc dọc theo một số kênh thoát nước lớn ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh nhằm đánh giá hiện trạng, tìm nguyên nhân và đề xuất các giải pháp
hạn chế khắc phục. Hai trạm quan trắc môi trường của Viện đã được công nhận là các trạm
thuộc hệ thống quan trắc môi trường quốc gia.
- Tham gia điều tra khảo sát nền phông môi trường Việt Nam: Qua việc phân tích các mẫu
môi trường khác nhau gồm son khí, sa lắng, thực vật, trầm tích, nước tự nhiên, nước khoáng,
than, tro bay, phân bón, vật liệu xây dựng, thực phẩm (gạo, cá, rau, trà, thịt,...) được thu góp
từ nhiều vùng khác nhau trong nước đã giúp cho việc xây dựng bộ khung số liệu về nền
phông môi trường Việt Nam. Các số liệu thu được là những đóng góp có ý nghĩa khoa học
và thực tiễn vào bộ khung số liệu về nền phông môi trường của nước ta trong thời kỳ tiền
công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Viện đã phối hợp với các cơ quan trong nước như Viện
Biển Nha trang, Cục Môi trường tiến hành nghiên cứu tình trạng phóng xạ môi trường biển
của Việt nam.
- Nghiên cứu của Viện về ô nhiễm bụi hô hấp có phân biệt kích thước hạt trong môi trường
đô thị đã đưa ra nhiều kiến nghị cho các cơ quan quản lý môi trường nhằm cải thiện chất
lượng môi trường đô thị trong khả năng kinh phí còn hạn chế.
- Ngoài ra Viện cũng đã tiến hành nghiên cứu khả năng làm giảm một số kim loại nặng độc trong
nước thải công nghiệp bằng vật liệu hấp thụ tạo ra từ công nghệ bức xạ, xử lý một số loại phế thải
công nghiệp bằng công nghệ lên men dùng làm chất bổ sung trong công nghiệp nuôi trồng nấm, chế
tạo thiết bị xử lý môi trường cho một số cơ sở công nghiệp.
4. Vấn đề đảm bảo an toàn phóng xạ
Bức xạ là một trong những tác nhân có liên quan tới bệnh tật, gây ra sự tổn thương
bức xạ ở mức phân tử, tế bào và hệ thống cơ quan của con người.
* Cơ chế trực tiếp: bức xạ trực tiếp gây iôn hóa các phân tử trong tế bào làm đứt gãy liên
kết trong các gien, các nhiễm sắc thể, làm sai lệch cấu trúc và tổn thương đến chức năng của
tế bào.
* Cơ chế gián tiếp: Khi phân tử nước trong cơ thể bị iôn hóa sẽ tạo ra các gốc tự do, các gốc
này có hoạt tính hóa học mạnh sẽ hủy hoại các thành phần hữu cơ như các Enzyme, prôtêin,
lipit trong tế bào và phân tử ADN, làm tê liệt các chức năng của các tế bào lành khác. Khi số
tế bào bị hại, bị chết vượt quá khả năng phục hồi của mô hay cơ quan thì chức năng của mô
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
23
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên
Luận văn tốt nghiệp
Tình hình năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
hay cơ quan sẽ bị rối loạn hoặc tê liệt, gây ảnh hưởng đến sức khỏe.
- Các hiệu ứng cấp do bức xạ gây ra: Khi toàn thân nhận một liều cao trong một thời
gian ngắn sẽ làm ảnh hưởng đến hệ mạch máu, hệ tiêu hóa, hệ thần kinh trung ương. Các
ảnh hưởng trên đều có chung một số triệu chứng như: buồn nôn, ói mửa, mệt mỏi, sốt, thay
đổi về máu và những thay đổi khác. Đối với da, liều cao của tia X gây ra ban đỏ, rụng tóc,
bỏng, hoại tử, loét, đối với tuyến sinh dục gây vô sinh tạm thời, đối với mắt gây hư hại giác
mạc, kết mạc.
- Các hiệu ứng muộn do bức xạ gây ra: Ung thư, bệnh máu trắng, ung thư xương, ung thư
phổi, đục thủy tinh thể, giảm thọ, rối loạn di truyền....
Ảnh: Các bức xạ trong tự nhiên
4.1. Chất thải phóng xạ của nhà máy điện nguyên tử
Trong nhà máy điện nguyên tử, nơi sinh ra chất phóng xạ là lò phản ứng do các hoạt
động sau:
- Nhiên liệu Uranium phân hạch tạo ra các chất phóng xạ khác.
- Các chất bên trong thùng áp lực lò phản ứng bị phóng xạ hoá do tác động của nơtron
và tạo ra chất phóng xạ.
Thông thường, các sản phẩm phân hạch bị nhốt kín bên trong nhiên liệu. Nếu có
khuyết tật ở vỏ bọc thanh nhiên liệu thì các sản phẩm phân hạch sẽ rò rỉ vào chất tải nhiệt.
Đồng thời, chỉ cần một lượng nhỏ tạp chất sinh ra do ăn mòn trong chất tải nhiệt, chúng
cũng sẽ bị nhiễm xạ do tác động của nơtron.
GVHD: Hoàng Xuân Dinh
24
SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Tiên