TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 34 NĂM HỌC (2008 – 2012)
Đề tài:
QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Giảng viên hướng dẫn:
Trương Thanh Hùng
Bộ môn: Luật Tư pháp
Sinh viên thực hiện:
Lai Thị Ngọc Thúy
MSSV: 5086080
Luật Tư Pháp 2 - K34
Cần Thơ, tháng 5/2012
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn tốt nghiệp là nhiệm vụ quan trọng của mỗi sinh viên
trước khi rời khỏi giảng đường Đại học. Đồng thời, luận văn tốt nghiệp cũng thể
hiện tâm huyết của mỗi sinh viên với đề tài nghiên cứu của mình. Đạt được kết quả
hôm nay, trước tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến quý thầy cô
Khoa Luật Trường Đại Học Cần Thơ đã giảng dạy tận tình trong thời gian em theo
học tại trường. Đặc biệt là thầy Trương Thanh Hùng người đã giúp đỡ hướng dẫn
tận tình em trong suốt quá trình làm luận văn tốt nghiệp. Và em cũng xin chân thành
cảm ơn các bạn tập thể lớp Luật Tư Pháp 2 - K34 động viên em trong học tập và
trong cuộc sống, và em cũng chân thành cảm ơn đến gia đình đã tạo điều kiện tốt
nhất cho em theo học tại Trường Đại Học Cần Thơ để đạt được kết quả như ngày
hôm nay.
Mặt dù đã cố gắng vận dụng kiến thức đã học ở trường, cộng với thời gian
tìm hiểu các sách, báo, tạp chí và thực tiễn cũng không tránh khỏi những thiếu sót.
Vì vậy, mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn để luận văn được
hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH:Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
......................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
GVHD: Truơng Thanh Hùng
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
………………………………………………………………………..…
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
GVHD: Truơng Thanh Hùng
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................……1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................2
3. Mục tiêu nghiên cứu .....................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................2
5. Bố cục của đề tài ...........................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN
SỰ………………………………………………………………………………...4
1.1. Khái quát chung về quyền khởi kiện vụ án dân sự ..................................4
1.1.1. Khái niệm quyền khởi kiện vụ án dân sự………………….…………...4
1.1.2. Ý nghĩa của quyền khởi kiện vụ án dân sự ...........................................6
1.2. Lược sử hình thành quyền khởi kiện vụ án dân sự ..................................7
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 .................................................7
1.2.2. Giai đoạn năm 1954 đến năm 2004.......................................................8
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay .......................................................... 10
1.3. Quy định của pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự ..................... 11
1.3.1. Cơ sở pháp lý về quyền khởi kiện vụ án dân sự .................................. 11
1.3.2. Nội dung về quyền khởi kiện vụ án dân sự ......................................... 12
1.3.3. Cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền khởi kiện vụ án dân sự ............ 15
1.3.4. Sự cần thiết khi nghiên cứu quyền khởi kiện vụ án dân sự................ 16
CHƯƠNG 2: CƠ CHẾ ĐẢM BẢO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUYỀN
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ ………………………………………………..19
2.1. Cơ chế đảm bảo quyền khởi kiện vụ án dân sự ...................................... 19
2.1.1. Chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng
Dân Sự hiện hành............................................................................................ 19
GVHD: Truơng Thanh Hùng
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
2.1.1.1. Đương sự có quyền khởi kiện vụ án dân sự .................................... 19
2.1.1.2. Quyền khởi kiện vụ án dân sự của các chủ thể có quyền bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của người khác, lợi ích của Nhà nước.................................. 30
2.1.2. Chủ thể đảm bảo quyền khởi kiện vụ án dân sự theo bộ Luật Tố
tụng Dân sự hiện hành.................................................................................... 32
2.1.2.1. Cơ quan tiến hành tố tụng............................................................... 33
2.1.2.2. Người tiến hành tố tụng .................................................................. 36
2.1.2.3. Mối quan hệ giữa chủ thể hưởng quyền khởi kiện và chủ thể đảm bảo
quyền khởi kiện vụ án dân sự ............................................................................ 38
2.1.3. Điều kiện để khởi kiện một vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng
Dân sự hiện hành ........................................................................................... 38
2.1.3.1. Người khởi kiện vụ án phải có quyền khởi kiện ............................... 39
2.1.3.2. Vụ án khởi kiện phải còn thời hiệu khởi kiện……………………….40
2.1.3.3. Vụ án khởi kiện chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật ………….42
KẾT LUẬN…………………………………………………………………......52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVHD: Truơng Thanh Hùng
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển kéo
theo những quan hệ xã hội nảy sinh và ngày càng phức tạp. Đó cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến các phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra ngày càng
tăng dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật ngày càng phổ biến trong xã hội. Các chủ
thể tham gia vào các quan hệ pháp luật thực hiện đúng, hoặc không đúng quyền và
nghĩa vụ của mình dẫn đến xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
khác từ đó dẫn đến các phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực như: Tranh chấp về dân
sự, tranh chấp kinh doanh thương mại, lao động.
Để duy trì trật tự xã hội, nhằm ngăn chặn các phát sinh tranh chấp mà các
chủ thể không tự thỏa thuận giải quyết được, Nhà nước ta đã ban hành các đạo luật
và văn bản hướng dẫn thi hành quy định rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật đặc biệt là trong các quan hệ pháp luật
dân sự. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi bổ
sung năm 2001 trong Chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã quy định
hệ thống các quyền cơ bản của công dân Việt Nam: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã
hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật.”1
Quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân luôn được Nhà nước đảm bảo, kế
thừa Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 Quốc hội ban hành Bộ luật Tố
tụng Dân sự (viết tắt là BLTTDS) hiện hành, được quy định rõ và chi tiết hơn về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi bị xâm phạm, khi quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân bị xâm phạm pháp luật tố tụng dân sự quy định công dân đó có quyền
khởi kiện vụ án ra Tòa án để giải quyết, trình tự thủ tục Tòa án nhận đơn khởi kiện
của các chủ thể. Khi đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp
luật dân sự mà quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, thì theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án nhân dân để
giải quyết tranh chấp. Ngoài việc được pháp luật tố tụng dân sự quy định quyền
khởi kiện vụ án dân sự của các chủ thể thì Tòa án nhân dân tối cao cũng ban hành
các văn bản để hướng dẫn một cách thống nhất cho các Tòa án các cấp áp dụng xét
xử được thống nhất, nhưng hiện nay các vụ án dân sự được xét xử tại Tòa án cấp sơ
1
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001
GVHD: Trương Thanh Hùng
1
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
thẩm điều bị đương sự kháng cáo lên Tòa án nhân dân phúc thẩm. BLTTDS hiện
hành quy định các chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án khi được áp
dụng xét xử tại Tòa án, thì các chủ thể này có quyền được khởi kiện tất cả các vụ án
dân sự như BLTTDS hiện hành quy định, hoặc Tòa án có quyền từ chối các vụ án
do đương sự khởi kiện và Tòa án có đảm bảo được tất cả các vụ án mà đương sự
khởi kiện tại Tòa án được đưa ra xét xử như đúng luật đã quy định. Chính vì lẽ đó
người viết chọn đề tài “Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn” để
làm luận văn tốt nghiệp. Qua đề tài này người viết mong muốn tìm hiểu và làm rõ
thêm về quyền khởi kiện vụ án dân sự của các đương sự tại Tòa án nhân dân, từ đó
để tìm ra những bất cập và vướng mắc trong quá trình xét xử vụ án để tìm ra giải
pháp đề xuất nâng cao chất lượng xét xử vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân hiện nay.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này người viết tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố
tụng dân sự hiện nay về quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn áp dụng
tại Tòa án. Cụ thể người viết sẽ nghiên cứu quyền khởi kiện vụ án dân sự theo
BLTTDS hiện hành. Đồng thời người viết cũng so sánh với các quy định pháp luật
có liên quan về quyền khởi kiện vụ án dân sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này người viết mong muốn làm rõ thêm những quy
định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý
luận và thực tiễn được áp dụng tại Tòa án nhân dân hiện nay. Đồng thời, người viết
phân tích đánh giá các khái niệm cơ bản về quyền khởi kiện vụ án dân sự, cơ sở
pháp lý của pháp luật quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự từ đó đưa ra đánh
giá quy định pháp luật tố tụng dân sự có phù hợp với thực tế khi áp dụng tại Tòa án
nhân dân, chủ thể có quyền khởi kiện và những chủ thể đảm bảo quyền khởi kiện vụ
án, thực tiễn áp dụng tại Tòa án qua đó để trang bị kiến thức và vận dụng kiến thức
này cho việc giải quyết vụ án dân sự trong thực tiễn, giúp bản thân và những người
khác nắm được những quy định của pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi bị xâm phạm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào những kiến thức đã học trong trường người viết vận dụng thu thập
và tổng hợp các tài liệu có liên quan của pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự
để chứng minh, phân tích làm rõ những vấn đề có liên quan đến quyền khởi kiện vụ
án dân sự. Mặc khác khi viết luận văn này thì người viết còn sử dụng một số
GVHD: Trương Thanh Hùng
2
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích luật viết, phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê.
5. Bố cục của đề tài: Gồm có 2 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền khởi kiện vụ án dân sự hiện nay
Chương 2: Cơ chế đảm bảo và thực tiễn áp dụng quyền khởi kiện vụ án dân
sự.
GVHD: Trương Thanh Hùng
3
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của công
dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, có vị trí quan trọng trong đời sống xã
hội hiện nay, quyền khởi kiện vụ án dân sự được xem là phương tiện cho nhân dân
sử dụng để khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị chủ thể khác
xâm phạm. Trong chương này người viết tập chung giới thiệu khái quát chung về
khái niệm quyền khởi kiện vụ án dân sự, cũng như lược sử hình thành và những quy
định của pháp luật hiện hành về quyền khởi kiện vụ án dân sự theo BLTTDS năm
2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.
1.1. Khái quát chung về quyền khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền khởi kiện vụ án dân sự
Bảo đảm quyền công dân trong đó quyền khởi kiện vụ án dân sự là một
quyền tố tụng quan trọng được khẳng định là trách nhiệm và mục đích của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi hoạt động của cơ quan trong bộ máy nhà
nước điều được thiết kế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Quyền
khởi kiện vụ án dân sự là cơ chế pháp lý để mọi chủ thể có quyền yêu cầu cơ quan
công lý để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình thông qua quyền lực Nhà nước.
Đều đó thể hiện mối liên hệ mật thiết trong quan hệ trách nhiệm giữa Nhà nước với
công dân của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các quyền cơ bản của
công dân được thừa nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Ở nước ta, các
quyền về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được Nhà
nước thừa nhận một cách tương đối đầy đủ. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận: “Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong hiến pháp” 2. Trong các
quyền con người đã được Hiến pháp ghi nhận thì quyền dân sự bao gồm các quyền
sau: Dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân gia đình, những quyền
này có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta hiện nay. Khi đó, chủ thể có quyền tự
do kinh doanh, có quyền thực hiện các giao dịch dân sự hoặc chủ thể có quyền yêu
cầu hủy kết hôn trái pháp luật… Nếu không thực hiện đúng hoặc xâm phạm đến
quyền và lợi ích của người khác thì chủ thể bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan có
2
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001
GVHD: Trương Thanh Hùng
4
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
thẩm quyền giải quyết vụ án tại Tòa án, khi đó Tòa án có thể áp dụng các biện pháp
mà pháp luật quy định bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể.
Quyền dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được
quy định trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 luôn được đảm bảo
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước ta luôn đảm bảo để các cá nhân
các chủ thể khác sử dụng quyền dân sự của mình để tham gia vào các quan hệ dân
sự trong xã hội như giao kết hợp đồng mua bán với các cá nhân trong nước, với các
nước trên thế giới để tạo ra của cải, tài sản có giá trị và thu nhập hợp pháp khác để
đáp ứng tốt hơn các lợi ích vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng cao của mỗi
người góp phần đem lại sự phát triển cho nền kinh tế xã hội hiện nay, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền dân sự chính đáng ấy. Bộ luật
Dân sự (viết tắt là BLDS) năm 2005 quy định tại Điều 9 chính thức ghi nhận quyền
này và cho phép cá nhân và các chủ thể khác được chủ động thực hiện các biện
pháp để tự bảo vệ mình như: Quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công
nhận quyền dân sự của mình, buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc bồi thường thiệt
hại… Để bảo hộ cho các quyền dân sự của các chủ thể, Nhà nước quy định bằng
nhiều biện pháp, cách thức bảo vệ khác nhau bảo vệ bằng biện pháp hình sự, bảo vệ
bằng biện pháp hành chính… Nhưng đặc biệt hơn trong số các biện pháp bảo vệ
quyền dân sự là biện pháp khởi kiện vụ án dân sự theo trình tự thủ tục tố tụng dân
sự tại Tòa án nhân dân.
Khi đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có quyền dân sự bị
xâm phạm có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc
người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt các hành vi trái pháp luật, phải bồi
thường thiệt hại hoặc phải chịu chế tài khi bị phạt vi phạm. Trong các biện pháp bảo
hộ của Nhà nước đối với công dân thì quyền khởi kiện vụ án dân sự là một biện
pháp hữu hiệu quan trọng và có hiệu quả cao đối với các chủ thể. Vì trong trường
hợp các chủ thể không tự thỏa thuận giải quyết được khi xảy ra tranh chấp thì có
quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp để giải quyết vụ án. Vì vậy, khái
niệm quyền khởi kiện vụ án dân sự được quy định trong BLTTDS năm 2004 sửa
đổi bổ sung năm 2011 cụ thể như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự (sau đây gọi chung
là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình”3. Theo đó, quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
được bảo hộ bình đẳng cho mọi chủ thể không phân biệt tôn giáo, dân tộc, thành
3
Điều 161 BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011
GVHD: Trương Thanh Hùng
5
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
phần địa vị trong xã hội. Mọi cá nhân, kể cả người nước ngoài, người không quốc
tịch, các cơ quan tổ chức của Việt Nam, của nước ngoài, khi cho rằng quyền lợi ích
hợp pháp của mình trong các quan hệ như dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động bị vi phạm hoặc có tranh chấp điều có quyền gửi đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
mình theo trình tự tố tụng dân sự. So với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự trước đây thì quyền khởi kiện vụ án dân sự trong BLTTDS hiện hành quy định
đầy đủ hơn, nhưng có điểm mới là không quy định về quyền khởi tố của Viện kiểm
sát nhân dân điều này cho thấy Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp
luật.
Ngoài các chủ thể có quyền khởi kiện vụ án nêu trên thì cơ quan dân số gia
đình và trẻ em trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ
án hôn nhân gia đình do luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm
2010 quy định, Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án
lao động trong trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao
động, cơ quan tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách Điều 162 BLTTDS hiện hành. Với quy định đó Nhà
nước chính thức xác nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của
xã hội.
Có thể khẳng định rằng quyền khởi kiện vụ án dân sự trong BLTTDS hiện
hành do Nhà nước thừa nhận mang tính khách quan. Quyền khởi kiện vụ án dân sự
là cơ sở pháp lý để cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện hành vi khởi kiện vụ án khi
có nhu cầu. Nó cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Việc thực hiện các quyền này của
các chủ thể được gọi là quyền khởi kiện vụ án dân sự.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng khi đó cá
nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của đương sự và các chủ thể khác khi bị xâm phạm theo quy định của
pháp luật. Theo đó, quyền khởi kiện là phương thức trao cho các đương sự quyền tự
do hành động, cùng với quyền tự định đoạt trong phạn vi pháp luật cho phép như
khởi kiện để đòi lại tài sản đã bị mất, khởi kiện để yêu cầu đòi bồi thường thiệt
GVHD: Trương Thanh Hùng
6
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
hại… Với hành vi khởi kiện như vậy các cơ quan tố tụng sẽ có hoạt động can thiệp
kịp thời tránh được những thiệt hại đáng tiết có thể xảy ra giữa các chủ thể, các
quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể được bảo vệ một cách tốt nhất từ phía cơ các
quan Nhà nước, thiệt hại sớm được ngăn chặn khắc phục, khôi phục lại mối quan hệ
thiện chí, cởi mở giao hòa giữa các bên trong đời sống đương sự, làm cho cuộc sống
của người dân được an tâm tin tưởng vào cơ quan Nhà nước.
Với việc yêu cầu giải quyết vụ án dân sự của các đương sự, Tòa án là cơ
quan có thẩm quyền xét xử để góp phần cũng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa nâng
cao được hiệu quả xét xử, Tòa án có trách nhiệm giải quyết để bảo vệ quyền lợi của
đương sự. Khi hoạt động xét xử kết thúc một bản án được tuyên thì mọi người phải
tôn trọng nghiêm chỉnh chấp hành. Vì vậy, quyền khởi kiện vụ án dân sự làm cho
đương sự và các chủ thể khác có thể hiểu biết pháp luật một cách chặt chẽ, từ đó
mỗi người tự nâng cao ý thức của bản thân mình để tuân theo quy định pháp luật,
tránh được tình trạng xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của người khác. Khi
nhân dân đã tin tưởng vào cơ quan xét xử, thì cơ quan xét xử cũng là chỗ dựa cho
nhân dân để họ đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật.
1.2. Lược sử hình thành quyền khởi kiện vụ án dân sự
Trước Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta bị nô lệ, bị đàn áp dưới ách
thống trị của thực dân Pháp, mục tiêu của cách mạng là quyền của dân tộc, quyền
của cộng đồng tức là quyền độc lập tự do của dân tộc. Dựa vào lịch sử và sự phát
triển của pháp luật nước ta về quyền khởi kiện vụ án dân sự thì người viết có thể
chia thành các giai đoạn hình thành lược sử về quyền khởi kiện vụ án dân sự như
sau:
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 đến năm 1954
Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám thành công, bản tuyên ngôn độc lập đã
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, vừa mới ra đời những người làm nên
thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và nhân dân phải lo lắng trăm công nghìn việc,
phải đối mặt với nhiều thế lực thù trong giặt ngoài, nền kinh tế nước ta lúc này kém
phát triển, việc giao lưu mua bán của nước ta trong lúc này còn nhiều khó khăn, đời
sống của người dân còn nhiều gian nan cực khổ, trước tình hình khó khăn của đất
nước để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp trong nhân dân. Ngày 10/10/1945 Chính phủ
lâm thời ra Sắc lệnh về việc tạm thời sử dụng một số luật lệ của chế độ củ để lại về
kinh tế, xã hội, dân sự, hôn nhân gia đình. Các quy định về việc kiện cáo để giải
quyết tranh chấp của nhân dân trong giai đoạn này thì rất hạn chế, trong lúc này
GVHD: Trương Thanh Hùng
7
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
nước ta bị thực dân Pháp xâm lược nên quyền tự do dân chủ của nhân dân ta thì
không có, các quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân nằm rải rác
trong pháp luật củ để lại như: Bộ luật dân sự của pháp, Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật
Gia Long, Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ hình luật Trung kỳ. Quyền kiện cáo trong dân
trong khoản thời gian này cũng hạn chế trong Bộ dân luật Bắc kỳ có quy định vài
điều để bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể về tiêu hôn và ly hôn thì trong Bộ dân luật
Bắc kỳ có quy định để bảo vệ quyền lợi của người dân trong hôn nhân gia đình thì
đương sự có quyền xin Tòa án cho tiêu hôn khi một bên kết hôn bị nhầm lẫn, ly hôn
lại quy định vợ hoặc chồng một trong hai người có thể xin Tòa án cho ly hôn.
Về quan hệ cha mẹ con cái cũng được Bộ dân luật Bắc kỳ quy định như con
cháu không được kiện ông bà cha mẹ trước Tòa án. Như vậy trong thời gian từ
trước năm 1945 đến năm 1954 nước ta áp dụng quyền khởi kiện vụ án trong các
pháp luật củ để lại chưa có văn bản mới nào quy định cụ thể hơn quyền khởi kiện
vụ án dân sự để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nhân dân.
1.2.2. Giai đoạn năm 1954 đến năm 2004
Trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta đang phát triển, đời sống nhân dân
ngày càng được nâng cao, việc tham gia của người dân vào các quan hệ dân sự ngày
càng nhiều, từ đó dẫn đến xảy ra tranh chấp giữa các chủ thể là điều không tránh
khỏi, trong lúc này Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý xã hội
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân. Ngày 29/11/1989 Quốc hội thông qua
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, trong pháp lệnh này thì
quyền lợi của công dân được Nhà nước bảo vệ bằng cách trao cho công dân có
quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền khởi kiện vụ án dân sự này được ghi nhận đầu
tiên trong lịch sử của nước ta về quyền khởi kiện vụ án dân sự, được quy định một
cách tương đối đầy đủ những trường hợp nào được quyền khởi kiện vụ án, chủ thể
có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích khi bị xâm phạm cụ thể tại Điều 1
của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định như sau: “Công dân,
pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để
yêu cầu Toà án nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình”. Ngoài các chủ thể
nêu trên thì Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 còn quy định
nếu không có người khởi kiện thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các thành viên của Mặt
trận Tổ quốc trong phạm vi nhiệm vụ chức năng của mình có quyền khởi kiện hoặc
đề nghị Viện kiểm sát xem xét để khởi tố vụ án.
Ngày 19/10/1990 Nghị quyết 03/HĐTP (Hội đồng thẩm phán) được ban
hành hướng dẫn Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định cụ thể về
GVHD: Trương Thanh Hùng
8
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
quyền khởi kiện vụ án dân sự, trong đó có quy định những trường hợp về người đại
diện cho đương sự không có quyền khởi kiện vụ án dân sự. Với sự ra đời của Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 đã tạo điều kiện cho công dân
thực hiện quyền khởi kiện của mình trước cơ quan có thẩm quyền. Hiến pháp năm
1992 được ban hành cũng ghi nhận quyền dân sự của nhân dân tại Điều 50 và năm
1995 thì Quốc hội đã ban hành BLDS cũng có quy định quyền và lợi ích của chủ thể
khi bị xâm phạm được pháp luật bảo vệ tại Điều 12 để bảo vệ quyền dân sự.4
Về kinh tế thì sự giao lưu mua bán hàng hoá diễn ra tương đối ngày càng
nhiều với các nước trên thế giới. Năm 1989 Quốc hội cũng ban hành Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân khi bị xâm phạm cụ thể
tại Điều 1 quy định: “Cá nhân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quy định, có
quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình”.
Trong lĩnh vực lao động thì Nhà nước cũng ban hành Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 để bảo vệ quyền và lợi ích của người
lao động khi bị xâm phạm và được quy định cụ thể tại Điều 1 quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cụ thể: “Người lao động, tập thể lao động, người
sử dụng lao động theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án lao
động để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động thì công
đoàn cấp trên công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện”.
Trong lịch sử trải dài Nhà nước ta điều quy định quyền khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích của công dân những quyền khởi kiện do các pháp lệnh quy định
chưa thật sự phù hợp khi áp dụng còn gặp nhiều vướng mắc và khó khăn, cho nên
năm 2004 thì Quốc hội nước ta đã ban hành BLTTDS quy định bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của công dân một cách tốt nhất không chỉ trong lĩnh vực dân sự mà còn
điều chỉnh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và trong lĩnh
vực lao động. Cụ thể bằng quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền giải quyết quy định tại Điều 161 và Điều 162 BLTTDS hiện hành. Với
sự ra đời của BLTTDS năm 2004 đã giải quyết được những khó khăn vướng mắc
mà các pháp lệnh trước đây không được quy định cụ thể, sự ra đời BLTTDS năm
2004 đã quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự một cách tương đối đầy đủ, tạo điều
kiện cho người dân thực hiện quyền tự bảo vệ mình khi quyền lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm, có quyền khởi kiện vụ án ra Tòa án có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi
4
Điều 12 BLDS năm 1995
GVHD: Trương Thanh Hùng
9
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
ích hợp pháp. Như vậy trong giai đoạn này quyền khởi kiện vụ án dân sự được quy
định một cách tương đối đầy đủ để bảo vệ quyền lợi của công dân khi bị các chủ thể
khác xâm phạm.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Từ năm 2005 đến nay thì Nhà nước luôn đảm bảo quyền khởi kiện vụ án
dân sự của công dân theo quy định của BLTTDS năm 2004 và còn ban hành thêm
một số văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cho Tòa án các
cấp để khởi kiện vụ án được hoàn thiện hơn về quyền khởi kiện vụ án dân sự cụ thể
là: Nghị quyết 02/2006 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao ban hành để hướng dẫn
thi hành các quy định trong phần thứ hai thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ
thẩm. Nghị quyết quy định chi tiết những trường hợp nào thì người đại diện được
quyền khởi kiện vụ án dân sự. Năm 2007 Tòa án nhân dân tối cao ban hành công
văn số 38/KHXX ngày 29/03/2007 hướng dẫn việc pháp nhân khởi kiện vụ án và ủy
quyền khởi kiện vụ án dân sự, trong công văn này thì Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn cụ thể về người đại diện hợp pháp của pháp nhân, những trường hợp
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thực hiện việc khởi kiện vụ án cũng
được hướng dẫn chi tiết, trong công văn còn hướng dẫn trường hợp người đại diện
hợp pháp của pháp nhân ủy quyền cho người khác thực hiện việc khởi kiện vụ án.
Để đáp ứng và quản lý xã hội tốt hơn BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung năm
2011 quy định thêm một số vấn đề mà BLTTDS năm 2004 chưa được điều chỉnh.
Năm 2011 Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn về một số vấn đề
liên quan đến quyền khởi kiện vụ án dân sự của cơ quan bảo hiểm xã hội, cụ thể
trong Công văn 143/KHXX ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân tối cao quy định
cơ quan bảo hiểm xã hội có quyền khởi kiện vụ án dân sự. Như vậy trách nhiệm của
cơ quan Nhà nước đối với nhân dân luôn được Nhà nước xem trọng luôn được Nhà
nước bảo vệ.
Tóm lại, quyền khởi kiện vụ án dân sự ở nước ta hiện nay được nhân dân sử
dụng để khởi kiện vụ án tại Tòa án nhân dân để bảo vệ quyền lợi hợp pháp diễn ra
ngày càng nhiều, khởi kiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau diễn ra ngày càng phức
tạp nhưng pháp luật nước ta được quy định ngày càng chặt chẽ và hoàn thiện hơn để
kịp thời bảo vệ người bị xâm phạm. Được pháp luật quy định quyền khởi kiện vụ án
dân sự một cách tương đối đầy đủ và cụ thể về mặt nội dung lẫn hình thức đáp ứng
được nhu cầu tốt nhất cho nhân dân trong giai đoạn hiện nay khi mà quyền lợi ích
hợp pháp của nhân dân ngày càng bị xâm phạm.
GVHD: Trương Thanh Hùng
10
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
1.3. Quy định của pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự
1.3.1. Cơ sở pháp lý về quyền khởi kiện vụ án dân sự
Những năm gần đây tranh chấp, xung đột trong lĩnh vực dân sự ở nước ta
nổi lên ngày càng nhiều, khiến cho người dân hết sức quan tâm lo lắng, đặc biệt
những vụ tranh chấp trong lĩnh vực dân sự gây ra cụ thể trong các lĩnh vực tranh
chấp như vi phạm hợp đồng, các tranh chấp quyền sử dụng đất, kinh doanh, thương
mại, lao động… diễn ra ngày càng gay gắt. Các phương pháp mà các chủ thể lựa
chọn để giải quyết tranh chấp này thường là các bên tự thỏa thuận với nhau giải để
quyết. Tuy nhiên, có một số tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại đương sự không tự
thỏa thuận giải quyết được nên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp để giải
quyết. Điều dễ nhận thấy các phương thức thỏa thuận hòa giải để giải quyết tranh
chấp còn thụ động chưa tháo gỡ dứt điểm những vướng mắc nảy sinh, chưa có cơ
chế giải quyết phù hợp thỏa đáng là do sự hiểu biết và nhận thức pháp luật của các
đương sự còn hạn chế, sự điều chỉnh pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự còn
gặp nhiều khó khăn chưa phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Hiện nay, việc bảo vệ quyền lợi của công dân được pháp luật quy định cụ
thể trong Hiến pháp và các bộ luật có liên quan, quyền lợi ích của công dân được
quy định cụ thể trong đó có các quyền như chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã
hội được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp
nêu trên thì BLTTDS năm 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011 đã quy định cụ thể
điều chỉnh về quyền lợi ích của công dân, khi có tranh chấp thì công dân có quyền
khởi kiện vụ án dân sự ra Tòa án cho rằng quyền lợi ích hợp pháp bị xâm phạm cần
được bảo vệ từ phía cơ quan có thẩm quyền, quyền lợi ích của đương sự được quy
định cụ thể trong các nguyên tắc của BLTTDS hiện hành những nguyên tắc cơ bản
là những qui tắc chung mà mọi người phải tuân theo, trong các nguyên tắc cơ bản
của BLTTDS hiện hành quy định thì việc bảo vệ quyền lợi ích của đương sự được
điều chỉnh một cách cụ thể và được Tòa án đảm bảo quyền lợi ích đó. Hai nguyên
tắc được điều chỉnh trong quá trình bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân
được quy định tại Điều 4 BLTTDS hiện hành quy định quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, Điều 5 BLTTDS hiện hành quy định quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự. Khi đương sự bị xâm phạm có tranh chấp thì có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu trong quá trình giải quyết vụ án có bất kỳ
hành vi nào, do bất kỳ chủ thể nào thực hiện trong bất kỳ trường hợp nào bị xử lý
giải quyết công bằng như nhau. Nếu không thực hiện đúng theo quy định pháp luật
là căn cứ để hủy bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc.
GVHD: Trương Thanh Hùng
11
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
Như vậy, pháp luật luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các đương sự khi có quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm thì đương sự có quyền khởi kiện vụ án yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền can thiệp giải quyết.
1.3.2. Nội dung về quyền khởi kiện vụ án dân sự
Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Theo
quy định BLTTDS hiện hành tại Điều 4 quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi
kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Tòa
án nhân dân theo chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước thành lập nhằm bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tài sản, tính mạng, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân. Trong tố tụng dân sự, khi cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền lợi ích hợp pháp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và
lao động cần được bảo vệ bằng quyền lực của Nhà nước thì đương sự có quyền gửi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng. Tòa án nhận
đơn có trách nhiệm xem xét giải quyết vụ việc đúng thẩm quyền, trình tự thời hạn tố
tụng để bảo vệ lợi ích hợp pháp thông qua hoạt động tố tụng. BLTTDS hiện hành
quy định cơ chế thuận lợi bảo đảm công dân có quyền tiếp cận Tòa án, tiếp cận
công lý của mọi cá nhân, cơ quan tổ chức cho phép các chủ thể gửi đơn khởi kiện
đến Tòa án một cách trực tiếp hoặc có thể gửi qua đường bưu điện đến Tòa án. Tòa
án có trách nhiệm nhận đơn khởi kiện của các chủ thể gửi đến và chỉ được trả lại
đơn cho đương sự sau khi đã xem xét và có căn cứ sai theo quy định pháp luật. Nếu
không có căn cứ trả lại đơn khởi kiện thì Tòa án có trách nhiệm thụ lý vụ án đó, và
tiến hành giải quyết vụ án theo trình tự tố tụng do pháp luật quy định bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức, một cách kịp thời đúng thời
hạn mà pháp luật tố tụng quy định.
Nhà nước đại diện cho lợi ích các giai cấp trong xã hội nên các quyền, lợi
ích chính đáng của các chủ thể được Nhà nước bảo hộ. Trong vụ án dân sự nếu các
đương sự có quyền lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Điều này cho thấy khi đương sự trong
vụ án nếu thấy quyền lợi bị xâm phạm thì tự mình hoặc thông qua người đại diện
đến cơ quan có thẩm quyền để khởi kiện vụ án, trong trường hợp quyền lợi ích của
các chủ thể khác bị xâm phạm mà người bị xâm phạm không khởi kiện được vụ án
thì chủ thể khác theo quy định cũng có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ, Tòa án là cơ
GVHD: Trương Thanh Hùng
12
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
quan có thẩm quyền có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của các đương
sự, Tòa án có nhiệm vụ xem xét giải quyết các yêu cầu của đương sự để bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp cho đương sự, Tòa án xét xử buộc người chấm dứt hành vi
vi phạm, bồi thường thiệt hại là một trong những biện pháp để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự. Không chỉ trong vụ án dân sự mà trong việc dân sự
thì theo nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích cũng được Tòa án
bảo vệ kịp thời.
Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam. Nguyên tắc này được pháp luật bảo đảm khi quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự bị xâm phạm có quyền quyết định và tự định đoạt có khởi kiện
vụ án hay không khởi kiện vụ án được quy định như sau: “Đương sự có quyền quyết
định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án
chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự
và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; Trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của
mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo
đức xã hội”5. Điều 5 BLTTDS hiện hành quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự trước hết thể hiện ở quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo
nghĩa rộng (bao gồm vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân
gia đình). Tuy nhiên quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam phải thực hiện trong phạm vi pháp luật cho phép và theo thủ tục tố
tụng dân sự thì mới được Tòa án chấp nhận thụ lý giải quyết.
Ngoài ra, trong tố tụng dân sự Việt Nam quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự luôn đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước thông qua vai trò
của Tòa án và Viện kiểm sát. Mọi hành vi định đoạt trong tố tụng chỉ có giá trị pháp
lý khi được Tòa án chấp nhận và hơn thế nữa sự chấp nhận của Tòa án lại tiếp tục
được giám sát bởi vai trò của Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát trong quá trình tố
tụng để đảm bảo vụ án được giải quyết đúng theo quy định của pháp luật. Đối với
quyền quyết định và tự định đoạt thì việc dân sự được một cá nhân, cơ quan, tổ
chức có thể yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận sự kiện pháp lý là căn
cứ để phát sinh quyền nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động của mình hoặc của người khác thì trong việc dân sự lại không có nguyên
đơn và bị đơn chỉ có người yêu cầu, (ví dụ như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự,
5
Điều 5 BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011
GVHD: Trương Thanh Hùng
13
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
mất tích hoặc đã chết theo quy định của BLDS hiện hành…) Đối với vụ án dân sự,
nguyên tắc chung nguyên đơn (chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, cơ
quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ
án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc
lĩnh vực mình phụ trách) mới có quyền quyết định việc khởi kiện hay không khởi
kiện vụ án dân sự. Ngoại lệ, trong trường hợp cần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước, thì Cơ quan dân số, gia
đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình do luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 sửa đổi bổ sung năm 2010 quy định; Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở
có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ lợi ích hợp pháp
của tập thể người lao động do pháp luật quy định. Nhưng cũng cần lưu ý tuy có
quyền khởi kiện vụ án dân sự nhưng theo quy định tại Điều 73 của BLTTDS hiện
hành thì Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ và Công đoàn
cấp trên của công đoàn cơ sở không phải là nguyên đơn mà là người đại diện theo
pháp luật cho đương sự trong tố tụng dân sự.
Theo Điều 161 BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 nguyên đơn
là cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là người khởi kiện) có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm
quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Để khởi kiện được vụ án dân sự
thì nguyên đơn phải có đơn khởi kiện vụ án. Trong đơn khởi kiện phải trình bày
dưới dạng văn bản và phải được nguyên đơn ký tên và điểm chỉ, nếu nguyên đơn là
cá nhân; nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức đó ký tên đóng dấu ở cuối đơn. Dựa trên nguyên tắc quyền quyết định
và tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án thì nguyên đơn tự mình xác
định ba nội dung chính của đơn kiện: Khởi kiện một hoặc nhiều bị đơn (một hoặc
nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác) về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ
pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; đối tượng khởi
kiện (những vấn đề cụ thể mà nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết đối với bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); căn cứ khởi kiện (tài liệu, chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu khởi kiện có căn cứ và hợp pháp).
Trong nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự bao hàm
tất cả các nội dung quyền như: Quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút các yêu cầu; quyền
hòa giải, thương lượng; quyền đưa ra chứng cứ và chứng minh; quyền kháng cáo
của đương sự. Người khởi kiện vụ án dân sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu
GVHD: Trương Thanh Hùng
14
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện không trái pháp luật đạo
đức xã hội và điều này cho thấy tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo quy định Điều 218
BLTTDS hiện hành, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ
được hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi bổ sung yêu cầu đó không vượt
quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. Ví dụ tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự sơ
thẩm nếu thấy bị đơn không có khả năng hoàn trả tài sản đã vay, nguyên đơn có thể
thay đổi yêu cầu đề nghị Tòa án buộc bị đơn thanh toán bằng tiền theo giá trị tài sản
đã vay. Trường hợp các đương sự tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục
giải quyết vụ án (Điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS hiện hành), thì Tòa án ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Các đương sự không có quyền khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó. Trừ một số trường hợp do pháp luật quy
định Điều 193 khoản 1 BLTTDS hiện hành thì đương sự có quyền khởi kiện lại vụ
án. Như vậy quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự luôn được các cơ quan
có thẩm quyền bảo vệ giải quyết kịp thời cho đương sự. Quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc thể hiện tính chất đặc thù để
bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước và của xã hội.
1.3.3. Cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền khởi kiện vụ án dân sự
Muốn bảo vệ được quyền và nghĩa vụ của công dân khi bị chủ thể khác
xâm phạm thì cần có những quy định của pháp luật về nội dung lẫn hình thức chặt
chẽ, từ đó quyền lợi ích hợp pháp của công dân mới được bảo vệ một cách kịp thời,
hiện nay trong các bộ luật được ban hành thì mổi ngành luật điều có các nguyền tắc
được đảm bảo riêng. BLTTDS hiện hành quy định các nguyên tắc chung mọi người
phải tuân theo các chủ thể phải nghiêm chỉnh chấp hành khi xét xử các vụ án dân
sự, các nguyên tắc này phải được đảm bảo xuyên suốt trong quá trình xét xử vụ án,
trong đó có hai nguyên tắc được quy định trong BLTTDS hiện hành và luôn được
đảm bảo khi quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm.
Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự, việc đảm bảo quyền này được cơ quan xét xử bảo
đảm cho đương sự khi có quyền lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, đương sự là người
có mâu thuẫn, phát sinh tranh chấp, bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết bằng bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật được mọi người tuân
thủ chấp hành. Tuy nhiên, khi áp dụng quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp khi giải quyết vụ án tại Tòa án còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc
xảy ra, thực tế cho thấy khi quyền lợi bị xâm phạm người bị xâm phạm có quyền
khởi kiện hay không khởi kiện vụ án đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết là
GVHD: Trương Thanh Hùng
15
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
quyền của đương sự bị thiệt hại, nhưng pháp luật quy định trường hợp quyền lợi ích
của các chủ thể khác bị xâm phạm thì một chủ thể khác đứng ra khởi kiện vụ án tại
Tòa án hiện nay là rất ít, vì việc khởi kiện vụ án không liên quan đến quyền lợi ích
hợp pháp của họ nên họ không muốn tham gia khởi kiện vụ án đó, việc khởi kiện
bảo vệ quyền lợi cho một chủ thể khác thì người khởi kiện cũng có tâm lý lo sợ khi
phải đối mặt với cơ quan xét xử, mất nhiều thời gian mà không đem lại được một
lợi ích vật chất cho người đứng ra khởi kiện cho chủ thể khác, đây là một hạn chế
mà một số Tòa án gặp phải từ đó dẫn đến những vụ án được khởi kiện tại Tòa án
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người khác tại Tòa án hiện nay là rất ít.
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong BLTTDS hiện hành
đã đáp ứng được nhu cầu của công dân hiện nay, trong khi các tranh chấp trong xã
hội ngày càng nhiều điều đó cho thấy nếu đương sự tự định đoạt yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền giải quyết khi bị xâm phạm thì được cơ quan có thẩm quyền thụ lý xem
xét giải quyết, sự phát triển xã hội phát triển kinh tế thì đương sự tham gia vào quan
hệ pháp luật bị xâm phạm diễn ra ngày càng nhiều cho nên quyền quyết định và tự
định đoạt khởi kiện vụ án hiện nay luôn được Tòa án đảm bảo giải quyết khi quyền
lợi của công dân bị xâm phạm. Tuy nhiên, quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự còn gặp khó khăn vướng mắc khi được áp dụng tại Tòa án như: Nhà nước
trao cho đương sự có quyền quyết định và tự định đoạt khởi kiện hay không khởi
kiện vụ án dân sự, cho nên khi đương sự khởi kiện vụ án mà Tòa án đã thụ lý và
được đưa ra xét xử mà người khởi kiện lại thay đổi không khởi kiện vụ án nửa làm
cho những người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn phải mất
nhiều thời gian để xem xét lại người khởi kiện đó không khởi kiện vụ án tự nguyện
hay do người khác ép buộc không cho khởi kiện.
1.3.4. Sự cần thiết khi nghiên cứu quyền khởi kiện vụ án dân sự
Trong giai đoạn hiện nay sự phát triển kinh tế kéo theo các quan hệ xã hội
diễn ra ngày càng phức tạp, mâu thuẫn tranh chấp giữa những chủ thể trong các
quan hệ pháp luật diễn ra ngày càng quyết liệt, vì vậy việc nghiên cứu về quyền
khởi kiện vụ án dân sự là phương tiện cần thiết để giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền được
Nhà nước trao cho công dân khi có quyền lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Đứng về
góc độ phát triển kinh tế xã hội hiện nay sự tham gia các đương sự vào các quan hệ
pháp luật ngày càng nhiều, từ đó xảy ra các mâu thuẫn là điều không tránh khỏi
mâu thuẫn tranh chấp xảy ra xâm phạm đến quyền lợi ích là do các đương sự họ cố
tình không thực hiện quyền nghĩa vụ của mình, trong quan hệ pháp luật thì quan hệ
GVHD: Trương Thanh Hùng
16
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
pháp luật dân sự là do các đương sự tự thỏa thuận với nhau để đạt được những lợi
ích mà họ mong muốn, có những trường hợp đương sự không thực hiện đúng những
gì đã thỏa thuận để đạt được những lợi ích vật chất nhiều hơn xâm phạm đến quyền
lợi của người khác. Đương sự có quyền lợi ích bị xâm phạm bị thiệt hại thì cần
được bồi thường những tổn thất thiệt hại trên thực tế đáng lẽ ra họ được hưởng, khi
bị chủ thể khác xâm phạm quyền lợi các đương sự cần được giải quyết một cách
nhanh chóng ổn thỏa bồi thường theo quy định của pháp luật, pháp luật quy định
biện pháp phạt chế tài khác nhau nhưng mục đích là bảo vệ quyền lợi cho công dân
khi bị xâm phạm. Những nhu cầu cần thiết đó đã được pháp luật quy định cụ thể
bằng việc trao cho đương sự có quyền khởi kiện vụ án dân sự ra Tòa án. Quyền
khởi kiện vụ án dân sự là phương tiện cần thiết quan trọng mà Nhà nước đã trao cho
đương sự có quyền khởi kiện hay không khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi ích bị
xâm phạm, việc quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm hạn chế được một
phần các chủ thể khác ngang nhiên xâm phạm đến quyền lợi của người khác, còn
người bị xâm phạm thì được Nhà nước bảo vệ một cách kịp thời.
Thứ hai, người xâm phạm quyền lợi người khác có tôn trọng pháp luật, tôn
trọng quyền lợi của người bị xâm phạm mà những người bị xâm phạm luôn được
Nhà nước bảo vệ. Thực tiễn trong xã hội hiện nay xâm phạm đến quyền lợi người
khác là vấn đề diễn ra ngày càng gay gắt, nhiều hình thức xâm phạm khác nhau như
chiếm hữu sử dụng tài sản của người khác đang sử dụng, vi phạm các hợp đồng
không thực hiện nghĩa vụ dân sự… Những người xâm phạm quyền lợi của người
khác có thể biết hoặc không biết những quy định của pháp luật khi vi phạm sẽ bị xử
lý thế nào hoặc biết pháp luật quy định mà vẫn có tình xâm phạm, hiện nay pháp
luật quy định nhiều biện pháp chế tài nhưng vẫn có nhiều chủ thể vẫn không tuân
thủ chấp hành mà ngang nhiên xâm phạm đến quyền lợi của người khác, xem
thường những quy định của pháp luật. Vì vậy pháp luật cần quy định những biện
pháp phạt vi phạm mạnh hơn để răn đe, xử lý những người không tôn trọng quyền
lợi người khác, những người xem thường những quy định của pháp luật. Quyền
khởi kiện là một trong những phương thức giúp người khác khi bị xâm phạm được
cơ quan có thẩm quyền nhân danh Nhà nước để bảo vệ kịp thời cho các chủ thể
tránh những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. Ngoài ra khi khởi kiện bằng bản án có
hiệu lực pháp luật buộc các chủ thể xâm phạm đến quyền lợi của người khác
nghiêm chỉnh chấp hành, vì vậy khi nghiên cứu về quyền khởi kiện vụ án dân sự là
cần thiết để biết những quy định của pháp luật từ đó có thể tránh xâm phạm đến
quyền lợi của người khác.
GVHD: Trương Thanh Hùng
17
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
Thứ ba, quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền được Nhà
nước quy định để quản lý xã hội hiện nay. Xã hội hiện nay các tệ nạn cờ bạc, ma tý,
mại dâm trong xã hội diễn ra phức tạp, tình trạng xâm phạm trong lĩnh vực dân sự
như: Tranh chấp đất đai, vấn đề vi phạm điều kiện kết hôn, vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng… Trước những thực tế đó thì cần có những quy định bắt buộc để quản lý xã
hội quản lý công dân, buộc công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành, Nhà nước quy
định nhiều biện pháp quản lý xã hội khác nhau bằng các biện pháp pháp luật hình
sự, dân sự, hành chính, các quy định của pháp luật này được áp dụng nhằm hướng
tới là bảo vệ quyền lợi ích của công dân, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, nhằm ổn
định xã hội. Những quy định của pháp luật này còn nhiều hạn chế từ đó các cơ quan
ban hành có những quy định mới bằng việc sửa đổi bổ sung các văn bản để đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của công dân. Những quy định của pháp luật được áp dụng khi có
vi phạm xảy ra, người bị thiệt hại có yêu cầu thì những quy định này được áp dụng
vào để bảo vệ quyền lợi ích cho các chủ thể. Ngoài ra Nhà nước muốn quản lý xã
hội bằng pháp luật được tốt thì cần quy định phù hợp với thực tế, một trong những
biện pháp quản lý xã hội là trao cho đương sự có quyền khởi kiện vụ án dân sự ra
Tòa án. Quy định đó bắt buộc đương sự nghiêm chỉnh chấp hành những gì mà pháp
luật quy định, có như vậy thì xã hội mới ổn định người dân mới an tâm làm việc tạo
ra những vật chất để nuôi sống họ.
Tóm lại, từ những quy định của pháp luật nêu trên thì quyền khởi kiện vụ
án dân sự hiện nay luôn được đảm bảo, khi quyền lợi ích hợp pháp của công dân bị
xâm phạm, công dân có quyền khởi kiện vụ án và được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ theo trình tự thủ tục tố tụng, quyền khởi kiện vụ án dân sự được sự
đồng tình của đương sự và được mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Khi chủ thể bị
xâm phạm thì được Nhà nước bảo vệ kịp thời thiệt hại sớm được khắc phục. Bên vi
phạm sẽ bị trừng trị theo quy định của pháp luật. Vì vậy quyền khởi kiện vụ án dân
sự có vai trò quan trọng bảo vệ quyền và lợi ích của công dân hiện nay
GVHD: Trương Thanh Hùng
18
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy
Quyền khởi kiện vụ án dân sự - lý luận và thực tiễn
CHƯƠNG 2
CƠ CHẾ ĐẢM BẢO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUYỀN KHỞI KIỆN
VỤ ÁN DÂN SỰ
Nhìn từ góc độ phát triển của xã hội con người cần phải làm việc để tạo ra
được thu nhập để nuôi bản thân và các thành viên khác trong gia đình, nhưng việc
tạo ra được thu nhập hợp pháp là một quá trình rất gian nan, nhiều thử thách mới có
được thu nhập ổn định, các chủ thể này làm nhiều việc khác nhau có thể họ thông
qua các giao dịch mua bán, trao đổi hàng hóa với các cá nhân khác nhưng việc thực
hiện các giao dịch mua bán của các chủ thể nếu tôn trọng lẫn nhau không phát sinh
tranh chấp mâu thuẫn là điều đáng khen ngợi, nhưng có những trường hợp các chủ
thể họ cố tình trốn tránh không tôn trọng những gì đã thỏa thuận với nhau dẫn đến
xâm phạm quyền lợi của người khác. Nhà nước ta ban hành pháp luật để bảo vệ
quyền lợi chủ thể bị xâm phạm bằng việc khởi kiện vụ án ra Tòa án có thẩm quyền
giải quyết. Nhưng quy định pháp luật hiện nay có được đảm bảo giải quyết kịp thời
tránh những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra cho các chủ thể bị xâm phạm. Trong
chương này người viết tập trung phân tích những quy định của pháp luật về quyền
khởi kiện vụ án dân sự như: Chủ thể có quyền được khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể
đảm bảo quyền khởi kiện vụ án dân sự, điều kiện để khởi kiện được một vụ án dân
sự như thế nào, từ đó tìm ra những vướng mắc khó khăn đưa ra những đề xuất để
hoàn thiện pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi cho nhân
dân trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Cơ chế đảm bảo quyền khởi kiện vụ án dân sự
2.1.1. Chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng Dân sự
hiện hành
2.1.1.1. Đương sự có quyền khởi kiện vụ án dân sự
Đương sự không phải là một khái niệm mới trong tố tụng, đương sự được
hiểu là người tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Các pháp lệnh về tố tụng dân sự trước đây quy
định đương sự một cách cụ thể là cá nhân hoặc pháp nhân (trong pháp lệnh tố tụng
dân sự, kinh tế), hoặc là người lao động, tập thể người lao động, người sử dụng lao
động (trong tố tụng lao động). Việc quy định cụ thể như trên dễ hiểu nhưng không
mang tính khái quát, bị thiếu đối tượng như nhóm đối tượng tổ chức không phải là
pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân, tổ hợp tác cũng có thể trở thành đương sự
trong vụ án dân sự. Để khắc phục khuyết điểm này, đồng thời thể hiện tính khái
GVHD: Trương Thanh Hùng
19
SVTH: Lai Thị Ngọc Thúy