Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP PHONG tục tập QUÁN NUÔI CON NUÔI cơ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 83 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƢ PHÁP
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009 – 2013)

Đề tài:

PHONG TỤC TẬP QUÁN NUÔI CON NUÔI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Mỹ Linh

Sinh viên thực hiện
Huỳnh Thị Hƣơng Thảo
MSSV: 5095654
Lớp: Tƣ Pháp 1 – K35

Cần Thơ 05/2013


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................... 2
4. Phƣơng pháp nhiên cứu .......................................................................................... 2
5. Bố cục đề tài ............................................................................................................. 3


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG PHONG TỤC, TẬP QUÁN VỀ NUÔI CON NUÔI
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHONG TỤC, TẬP QUÁN NUÔI CON NUÔI .. 4
1.1.1 Khái niệm chung về phong tục tập quán và phong tục tập quán nuôi con
nuôi ............................................................................................................................ 4
1.1.1.1 Khái niệm chung về phong tục tập quán ................................................... 4
1.1.1.2 Khái niệm phong tục tâp quán nuôi con nuôi ............................................ 5
1.1.2 Đặc điểm phong tục tập quán về nuôi con nuôi .......................................... 7
1.1.2.1 Phong tục, tập quán về nuôi con nuôi có hình thức thể hiện chủ yếu là
truyền miệng (bất thành văn) ................................................................................. 7
1.1.2.2 Tính tự giác, tự nguyện thực hiện rất cao của phong tục, tập quán về nuôi
con nuôi.................................................................................................................. 8
1.1.2.3 Phong tục, tập quán về nuôi con nuôi còn mang nặng tính địa phương,
tính tộc người, phạm vi điều chỉnh hẹp. ................................................................ 8
1.1.2.4 Phong tục tập quán về nuôi con nuôi mang tính ổn định, bền vững và có
tính bảo thủ rất lớn. ............................................................................................... 8
1.2 PHÂN LOẠI CÁC HÌNH THỨC NUÔI CON NUÔI THEO PHONG TỤC
TẬP QUÁN .................................................................................................................. 9
1.3 NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA PHONG TỤC TẬP
QUÁN NUÔI CON NUÔI ........................................................................................ 11
1.3.1 Nguyên nhân hình thành phong tục tập quán nuôi con nuôi ................... 11
1.3.2 Ý nghĩa của phong tục tập quán về nuôi con nuôi .................................... 13
1.4 LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TỤC TẬP QUÁN NUÔI CON
NUÔI .......................................................................................................................... 15


CHƢƠNG 2
PHÂN TÍCH CÁC NỘI DUNG TRONG PHONG TỤC, TẬP QUÁN VỀ
NUÔI CON NUÔI
2.1 ĐIỀU KIỆN XÁC LẬP QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI-CON NUÔI THEO

PHONG TỤC TẬP QUÁN ....................................................................................... 18
2.1.1 Điều kiện liên quan đến ngƣời nhận nuôi .................................................. 19
2.1.2 Điều kiện liên quan đến ngƣời đƣợc nhận nuôi ......................................... 26
2.2 THẨM QUYỀN XÁC LẬP QUAN HỆ NUÔI CON NUÔI THEO PHONG
TỤC TẬP QUÁN ....................................................................................................... 31
2.3 THỦ TỤC XÁC LẬP QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI – CON NUÔI ................. 32
2.3.1 Hình thức xác lập quan hệ nuôi con nuôi ................................................... 32
2.3.2 Việc giao nhận con nuôi theo phong tục tập quán .................................... 35
2.4 HIỆU LỰC CỦA VIỆC THIẾT LẬP QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI-CON
NUÔI THEO PHONG TỤC TẬP QUÁN ............................................................... 41
2.4.1 Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi đối với con nuôi theo phong tục tập
quán......................................................................................................................... 42
2.4.1.1 Quyền và nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng ................................................ 42
2.4.1.2 Quyền và nghĩa vụ giáo dục .................................................................... 45
2.4.1.3 Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con nuôi gây ra ................................... 47
2.4.1.4 Quyền quản lý, định đoạt tài sản riêng của con nuôi .............................. 50
2.4.1.5 Một số quyền và nghĩa vụ khác................................................................ 52
2.4.2 Quyền và nghĩa vụ của con nuôi đối với cha mẹ nuôi .............................. 56
2.4.2.1 Quyền và nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng ................................................ 56
2.4.2.2 Quyền thừa kế di sản ............................................................................... 58
2.4.2.3 Quyền có tài sản riêng ............................................................................. 61
2.5 PHONG TỤC TẬP QUÁN LIÊN QUAN ĐẾN CHẤM DỨT VIỆC NUÔI
CON NUÔI................................................................................................................. 62
2.5.1 Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi theo phong tục tập quán ................ 62
2.5.2 Thủ tục chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán
................................................................................................................................. 64


CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHONG TỤC, TẬP QUÁN VỀ NUÔI CON NUÔI

NHỮNG VẤN ĐỀ CÕN TỒN TẠI VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
3.1 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHONG TỤC, TẬP QUAN VỀ NUÔI CON NUÔI
..................................................................................................................................... 66
3.2 NHỮNG VẤN ĐỀ CON TỒN TẠI VỀ NUÔI CON NUÔI THEO PHONG
TỤC, TẬP QUÁN...................................................................................................... 69
3.2.1 Những mặt tích cực của phong tục tập quán nuôi con nuôi ..................... 69
3.2.2 Những mặt tiêu cực của phong tục tập quán nuôi con nuôi ..................... 71
3.3 HƢỚNG HOÀN THIỆN TRONG VIỆC ÁP DỤNG PHONG TỤC, TẬP
QUÁN VỀ NUÔI CON NUÔI .................................................................................. 75
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 79


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước Việt Nam với biết bao phong tục tập quán tốt đẹp được xem là
những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh
sống hòa thuận với nhau, mỗi dân tộc lại có những phong tục tập quán riêng thể hiện
sự phong phú đa dạng trong đời sống, tín ngưỡng và mang lại nét đặc trưng cho dân
tộc đó. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận rằng có những phong tục tập quán tốt
đẹp mang đậm giá trị đạo đức và ý nghĩa nhân văn, trong số đó việc nhận trẻ em mồ
côi, không nơi nương tựa làm con nuôi là một việc làm thiện, nhân đạo, là một
phong tục tốt đẹp, thể hiện đạo lý của dân tộc và được xã hội ủng hộ. Nó không chỉ
là nét đặc trưng của riêng bất cứ dân tộc nào cả mà nó đã được phổ biến rộng rãi và
có mặt ở hầu khắp các dân tộc đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
Tuy hầu hết các dân tộc đều có phong tục tập quán này, nhưng mỗi dân tộc
lại có những nét đặc trưng riêng về nghi lễ, hình thức nhận con nuôi thể hiện nét văn
hóa riêng của dân tộc đó. Bên cạnh đó, đối với trẻ em, đặc biệt là trẻ em người dân

tộc thiểu số khi điều kiện kinh tế và cuộc sống còn khó khăn thì một mái ấm gia đình
là nơi quan trọng nhất. Bởi lẽ, gia đình là nơi hình thành, phát triển và là cái nôi nuôi
dưỡng nhân cách mỗi con người, trong gia đình cũng như xã hội mối quan giữa cha
mẹ và con cái là một trong những mối quan hệ mang tính chất thiêng liêng và cao cả
nhất, con cái cần phải được sống trong môi trường chăm sóc và giáo dục lành mạnh,
được hưởng sự yêu thương che chở của cha mẹ, như thế mới bảo đảm cho đứa trẻ
được phát triển toàn diện và đầy đủ nhất.
Nhiều văn bản pháp luật được ban hành quy định về việc bảo vệ quyền lợi đối
với trẻ em, về vấn đề nuôi con nuôi, tuy nhiên nhìn nhận ở một khía cạnh nào đó với
trình độ nhận thức và tâm lý chủ quan, e ngại của nhiều người đặt biệt là với đồng
bào dân tộc thiểu số, thì những chủ trương, chính sách trên cũng phần nào chưa đi
sâu vào đời sống và áp dụng được nhiều đối với họ. Ở một số vùng miền đặc biệt là
đối với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số thì việc áp dụng các văn bản pháp luật
đó vào đời sống của họ chưa đạt hiệu quả cao bằng việc áp dụng phong tục tập quán,
do những phong tục tập quán về nuôi con nuôi này có sức ảnh hưởng rất lớn đã ăn
sâu bám rể vào đời sống tinh thần của họ. Do đó phong tục tập quán về nuôi con
nuôi là một công cụ hữu hiệu, mang tính tương trợ cho pháp luật góp phần mang lại
hiệu quả cao, bảo vệ tốt nhất cho những quyền lợi của trẻ em, đồng thời đáp ứng
được nhu cầu về tinh thần, ước muốn quyền được làm cha, mẹ của người nhận nuôi
đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa, thể hiện tấm lòng
thương người và nét đẹp văn hóa dân tộc được lưu giữ từ bao đời nay.

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

1

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn

Việc nghiên cứu phong tục tập quán về nuôi con nuôi phần nào giúp hiểu
thêm về nét đẹp văn hóa riêng của từng vùng miền dân tộc đồng thời duy trì và phát
huy những mặt tích cực trong phong tục tập quán về nuôi con nuôi. Bên cạnh những
mặt tốt của phong tục tập quán về nuôi con nuôi thì cũng còn tồn tại nhiều hạn chế,
do là phong tục tập quán nên chưa được quy định cụ thể rõ ràng và còn tồn tại nhiều
bất cập so với các văn bản pháp luật như quyền và nghĩa vụ, điều kiện xác lập quan
hệ nuôi con nuôi giữa các bên…từ phong tục tập quán về nuôi con nuôi mà có những
hành vi trái với quy định của pháp luật, nhiều khía cạnh của quan hệ nuôi con nuôi
mà phong tục tập quán chưa có những quy phạm điều chỉnh dẫn đến chưa giải quyết
thỏa đáng được những vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tế. Từ ý nghĩa về lý luận
và thực tiễn nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Phong tục, tập quán về nuôi con
nuôi-cơ sở lý luận và thực tiễn” là một yêu cầu cấp thiết, khách quan góp phần hạn
chế và xóa bỏ những quy định lạc hậu, nhằm hoàn thiện vấn đề nuôi con nuôi theo
phong tục phong tục tập quán với ý nghĩa là một biện pháp nhằm giúp cho trẻ em có
được một mái ấm gia đình, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của trẻ em, khuyến khích tinh
thần tương thân, tương ái của con người.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ những nét đặc trưng trong phong tục tập
quán về nuôi con nuôi, làm rõ những mặt tích cực và những vấn đề còn hạn chế,
chưa hoàn thiện của phong tục tập quán về nuôi con nuôi. So sánh, đánh giá ưu
khuyết điểm của phong tục tập quán nuôi con nuôi với các quy định của pháp luật về
nuôi con nuôi hiện hành. Trên cơ sở đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề
về nuôi con nuôi theo phong tục tập quán bảo đảm tốt hơn quyền được sống trong
gia đình của trẻ em.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về nguồn thông tin: tài liệu chủ yếu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau
như sách nghiên cứu, giáo trình các trường đại học, báo, tạp chí chuyên ngành và
trên internet.
- Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích làm rõ những nội dung của
phong tục tập quán về nuôi con nuôi ở các dân tộc sinh sống trên khắp các vùng

miền trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đó có cái nhìn tổng quan để so sánh, đối chiếu với
các quy định của pháp luật hiện hành.
4. Phƣơng pháp nhiên cứu
Trong suốt quá trình nghiên cứu người viết sử dụng các phương pháp phân tích
câu chữ, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu sách, báo. Ngoài ra người viết
còn kết hợp các phương pháp liệt kê, so sánh, phân tích, tổng hợp…nhằm đi sâu tìm
hiểu nội dung, để xem xét vấn đề được toàn diện và đạt hiệu quả cao.

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

2

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
5. Bố cục đề tài
Đề tài nghiên cứu được xây dựng gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Khái quát chung phong tục tập quán về nuôi con nuôi
Nội dung chương 1: Nêu lên một số khái niệm, đặc điểm phong tục tập quán
về nuôi con nuôi, phân loại, nguyên nhân hình thành và ý nghĩa, sơ lược lịch sử phát
triển của phong tục tập quán nuôi con nuôi
Chƣơng 2: Phân tích các nội dung của phong tục tập quán về nuôi con nuôi
Nội dung chương 2: Tập trung phân tích các quy định về nuôi con nuôi theo
phong tục tập quán như: điều kiện xác lập quan hệ nuôi con nuôi, thẩm quyền và
trình tự thủ tục xác lập quan hệ nuôi con nuôi, hiệu lực của việc thiết lập quan hệ cha
mẹ nuôi-con nuôi cũng như chấm dứt việc nuôi con nuôi theo phong tục tập quán.
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng phong tục tập quán về nuôi con nuôi những vấn
đề còn tồn tại và hƣớng hoàn thiện
Nội dung chương 3: Nêu lên những thực trạng của việc áp dụng phong tục tập

quán về nuôi con nuôi, những mặt tích cực và tiêu cực của nó, từ đó kiến nghị và sửa
đổi bổ sung nhằm hoàn thiện những quy định của phong tục tập quán về nuôi con
nuôi.

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

3

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG PHONG TỤC, TẬP QUÁN VỀ
NUÔI CON NUÔI
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG PHONG TỤC TẬP QUÁN VỀ NUÔI CON NUÔI
1.1.1 Khái niệm chung về phong tục, tập quán và phong tục tập quán nuôi
con nuôi
1.1.1.1 Khái niệm chung về phong tục tập quán
Từ xưa đến nay phong tục tập quán đã ăn sâu bám rễ vào trong từng nếp sống,
nếp ăn ở của nhân dân, có nhiều phong tục tập quán được xem như là nét đẹp văn
hóa truyền thống của dân tộc nói chung và ở vùng, miền địa phương nói riêng.
Phong tục, tập quán là một khái niệm phức tạp, hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác
nhau về thuật ngữ này, dưới đây là một số cách hiểu về phong tục tập quán:
Trước hết, tập quán được hiểu là “thói quen”1, hay “theo thói quen mà thành
ra vững chắc”2 hoặc “những thói quen (những ứng xử) được lặp lại theo thời gian ở
cá thể hay tập thể”3. Từ đó có thể hiểu một cách khái quát tập quán là phương thức
ứng xử và hành động đã định hình quen thuộc và đã thành nếp trong lối sống, trong
lao động sản xuất không chỉ ở một cá nhân mà phải được cả cộng đồng thừa nhận và

ai cũng tuân theo ở một địa phương nhất định, tập quán của cộng đồng chi phối mỗi
thành viên sống trong đó.
Tập quán bao hàm những thói quen liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau
trong đời sống xã hội như thói quen về sinh hoạt, đời sống trong lao động và sản
xuất, chẳng hạn như tập quán du canh du cư của một số dân tộc ít người ở miền núi,
tập quán ăn trầu, cà răng…Tập quán có phạm vi điều chỉnh rộng, mang tính bền lâu,
khó thay đổi, tập quán xuất hiện và định hình một cách tự phát, hoặc hình thành và
ổn định thông qua sự rèn luyện và là kết quả của quá trình giáo dục có định hướng rõ
rệt. Tập quán thường có tính bắt buộc không cao, những hành vi vi phạm tập quán sẽ
có những chế tài nhất định đó là dư luận xã hội, tuy nhiên tính chất của chế tài này
không nặng nề lắm, nếu ai không làm theo sẽ bị dư luận phê phán, dị nghị hoặc tẩy
chay…
Còn phong tục được xem là "thói quen trên xã hội" theo Đào Duy Anh trong
Hán-Việt từ điển hay theo Đào Văn Tập trong Tự điển Việt Nam Phổ Thông, định
nghĩa phong tục là "thói tục chung của nhiều người từ lâu đời". Trong từ điển Hán
Việt của tác giả Nguyễn Văn Khôn được hiểu là "thói quen chung của số đông người
từ lâu đời đúc thành khuôn khổ nhất định". Theo nghĩa Hán-Việt, "Phong" là nền
nếp đã lan truyền rộng rãi, "Tục" là thói quen được hình thành từ lâu đời. Nội dung
1

Bửu Kế: Từ điển Hán – Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hóa, Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
Đào Duy Anh: Hán – Việt từ điển, Nxb Khoa học xã hội, 1999.
3
Đào Văn Chúc: Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997, tr 129.
2

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

4


SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
phong tục tập quán bao hàm mọi mặt sinh hoạt trong đời sống xã hội…Vì vậy trên
cơ sở nghiên cứu khái niệm phong tục dưới góc độ của ngôn ngữ học, và trong cách
định nghĩa của một số tác giả có thể định nghĩa phong tục như sau:
Phong tục là toàn bộ những thói quen trong hoạt động sống của con người đã
được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng
thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo
nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng.
Phong tục không mang tính cố định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức, tuy
nhiên nó cũng không tuỳ tiện, nhất thời như hoạt động sống thường ngày. Nhưng nó
đã trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững. Phong tục có thể ở một dân
tộc, một địa phương, một tầng lớp xã hội, thậm chí của một dòng họ và gia tộc, thể
hiện qua nhiều chu kì khác nhau của đời sống con người. Phong tục rất đa dạng có
nhiều phong tục khác nhau trong đời sống như phong tục về ngày giỗ, lễ tết, cưới
sinh...Phong tục luôn mang trong mình những khuôn mẫu ứng xử, là chuẩn mực đạo
đức, thẩm mỹ của cộng đồng trong xã hội. Là một bộ phận của văn hoá, phong tục có
vai trò quan trọng trong việc hình thành truyền thống của một dân tộc, một địa
phương, nó ảnh hưởng rất lớn đến cách ứng xử của cá nhân trong cộng đồng.
Tóm lại, phong tục, tập quán là những quy tắc ứng xử chung đã được hình
thành và phát triển trong một phạm vi nhất định ở địa phương được mọi người chấp
nhận và tuân thủ một cách tự giác.
Từ xa xưa cho đến ngày nay, phong tục, tập quán rất đa dạng và phong phú nó
gắn liền với cuộc sống con người và khi những phong tục, tập quán được chấp nhận
trở thành quy ước chung của cộng đồng và áp dụng rộng rãi trong cuộc sống xã hội,
được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp nghiêm khắc mà cộng đồng nhất trí,
được nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực công khi đó những
phong tục, tập quán được phát triển dưới hình thức luật tục và chúng thường có tính

hiệu lực cao. Tất cả các luật tục đều đã từng là phong tục tập quán nhưng có những
phong tục tập quán không phải là luật tục, bởi vì nó không được đảm bảo thực hiện
bằng quyền lực nhà nước và không phát triển chi phối ra khỏi phạm vi mà chúng
hình thành và tác động. Như vậy, luật tục là hình thức phát triển cao nhất của phong
tục tập quán, nó ra đời biến đổi và quy định những hành vi của từng cá nhân trong
cộng đồng phù hợp hoàn cảnh xã hội và có phương pháp xử lý rất linh hoạt.
1.1.1.2 Khái niệm phong tục tập quán nuôi con nuôi
Xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau trong xã hội, trong cuộc sống cộng đồng
của người dân tộc thiểu số mà quan niệm về hôn nhân và gia đình luôn là một trong
những vấn đề được chú trọng, được quan tâm nhiều nhất. Trong quan hệ về hôn nhân
và gia đình có nhiều phong tục tập quán đã hình thành như trong việc kết hôn, ly
hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, quan hệ nuôi con
nuôi…Đặc biệt trong quan hệ nuôi con nuôi tuy mức đa dạng về số lượng phong tục
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

5

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
tập quán không nhiều bằng việc kết hôn, ly hôn, nhưng những phong tục tập quán về
nuôi con nuôi này mang một giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện tinh thần dân tộc là sự
che chở yêu thương giữa con người với nhau nói chung và trong mối quan hệ tình
cảm của cha, mẹ với con cái nói riêng. Từ xa xưa do hoàn cảnh kinh tế, xã hội xuất
phát từ nhiều nhu cầu khác nhau của con người và ích nhiều cũng chịu sự tác động từ
những quan niệm xưa của các vị già làng, trưởng lão mà phong tục tập quán nuôi con
nuôi cũng dần hình thành và việc nhận con nuôi cũng không kém phần quan trọng
như các phong tục về hôn nhân và gia đình khác. Tuy không bắt buộc, gò ép nhưng
dần dần việc nhận nuôi con nuôi được nhân rộng ra nhiều nơi được nhiều người làm

theo trở thành thói quen và nề nếp chung trong cộng đồng các dân tộc. Nhiều phong
tục tập quán tốt đẹp về nuôi con nuôi được phổ biến rộng rãi và nhiều phong tục đã
trở thành luật tục riêng của một dân tộc, quy định về các mối quan hệ nuôi con nuôi,
hướng dẫn và điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con cái trong gia
đình.
Phong tục tập quán về nuôi con nuôi hướng đến việc xác lập quan hệ cha, mẹ
và con lâu dài, bền vững giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi
thông qua lời nói, sự giao kết hoặc các nghi lễ tập tục truyền thống của đồng bào dân
tộc thiểu số. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi, con nuôi tuy không được quy định
cụ thể nhưng vẫn được đảm bảo thực hiện bằng các quy ước chung của cộng đồng
dân tộc, nếu ai vi phạm sẽ phải chịu những chế tài nhất định nhưng tính chất của chế
tài này không nặng nề lắm, bởi lẽ nó được đảm bảo thực hiện bằng dư luận xã hội,
bằng sức thuyết phục và bằng các biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Về mặt pháp lý việc nuôi con nuôi theo quy định pháp luật được định nghĩa là
“việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận
làm con nuôi”4. Theo đó nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu
dài, bền vững giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi thông qua
việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi các bên có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật, vì mục đích bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình động viên, khơi dậy tinh thần
nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam. Việc nhận con nuôi được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền công nhận theo thủ tục luật định sẽ làm phát sinh quan hệ cha
mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Các
quyền và nghĩa vụ phát sinh trong mối quan hệ này được quy định cụ thể trong các
văn bản pháp luật. Quan hệ cha mẹ nuôi con nuôi về quyền và nghĩa vụ của các bên
được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước từ tuyên
truyền, phổ biến giáo dục, cho đến áp dụng các biện pháp chế tài của nhà nước đối
với hành vi vi phạm pháp luật. Nhưng suy cho cùng dù là pháp luật hay phong tục
tập quán thì cũng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận làm con nuôi, bảo đảm trẻ
4


Khoản 1, Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

6

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
em được yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình
thay thế. Qua đó xuất phát từ khái niệm chung về phong tục tập quán và dưới góc độ
khái niệm về nuôi con nuôi theo luật nuôi con nuôi năm 2010, mục đích, ý nghĩa của
việc nuôi con nuôi, phong tục tập quán về nuôi con nuôi có thể được định nghĩa khái
quát như sau:
Phong tục tập quán về nuôi con nuôi là những thói quen đã thành nếp, hình
thành trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định mang đậm nếp sống, nếp văn
hóa đặc trưng riêng của từng địa phương, dân tộc trong mối quan hệ nuôi con nuôi.
Phản ánh ý chí, nguyện vọng qua nhiều thế hệ của con người trong một cộng đồng tự
quản (thôn, làng, bản, ấp), nhằm xác lập quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi các quyền và
nghĩa vụ trong mối quan hệ này theo phong tục tập quán riêng của từng nơi, được
các chủ thể sinh sống trong địa phương, dân tộc đó thừa nhận và tuân theo một cách
tự giác.
1.1.2 Đặc điểm phong tục tập quán về nuôi con nuôi
1.1.2.1 Phong tục, tập quán về nuôi con nuôi có hình thức thể hiện chủ yếu là
truyền miệng (bất thành văn)
Việc nhận trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa làm con nuôi là một việc làm
thiện, nhân đạo, là một phong tục tốt đẹp, thể hiện đạo lý của dân tộc và được xã hội
ủng hộ do đó từ lâu phong tục tập quán về nuôi con nuôi được hình thành và được cố

định hướng dạng lời nói (văn vần) có vần, điệu, giàu hình ảnh, cụ thể sinh động được
truyền miệng từ đời này sang đời khác, hoặc ở một số vùng miền những phong tục
tập quán này chưa cố định thành lời văn vần mà vẫn chỉ là sự ghi nhớ và thực thi
biểu hiện qua các hành động bắt chước thông qua giao tiếp của cộng đồng. Tuy chỉ
tồn tại dưới hình thức bất thành văn nhưng do ngôn ngữ giàu hình ảnh vừa giản dị,
dễ nhớ, dễ lưu truyền và gần gũi với cuộc sống làm cho người nghe dễ hình dung
nên nó có một sức sống mãnh liệt, trở thành nét văn hóa riêng của vùng miền dân
tộc, được mọi người tuân thủ một cách nghiêm túc. Tuy nhiên phong tục tập quán về
nuôi con nuôi do được lưu truyền bằng miệng nên thiếu tính chính xác dẫn tới việc
áp dụng một cách tuỳ tiện, không thống nhất so với các hình thức thành văn khác.
1.1.2.2 Tính tự giác, tự nguyện thực hiện rất cao của phong tục, tập quán về
nuôi con nuôi
Phong tục, tập quán về nuôi con nuôi vốn đã có từ rất lâu đời, nó gắn bó gần gũi với
đời sống con người, được con người biết đến từ lúc bé một cách tự nhiên và mặt
nhiên tuân thủ một cách tự giác nên đối với người dân đặc biệt là dân tộc ít người họ
thường ít quan tâm đến luật pháp của nhà nước mà chỉ quan tâm tới những chuẩn
mực đã được biết đến qua phong tục, tập quán. Do vậy, phong tục, tập quán về nuôi
con nuôi nói riêng và phong tục tập quán nói chung đã trở thành chuẩn mực để mọi
người tự giác noi theo mà không mang tính cưỡng chế bắt buộc thực hiện như pháp
luật của nhà nước. Là cơ chế tâm lý bên trong thể hiện ước muốn và tâm tư nguyện
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

7

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
vọng của con người, phong tục tập quán về nuôi con nuôi điều khiển, điều chỉnh
những hoạt động hành vi, lối sống của con người hướng con người đến những giá trị

đạo đức tốt đẹp về tình cảm gia đình, về mối quan hệ giữa cha, mẹ nuôi - con nuôi,
không nên làm những điều đi ngược, trái với lối sống đạo đức chung của cộng đồng
và trở thành thước đo các giá trị đạo đức trong đời sống của con người thông qua dư
luận xã hội.
1.1.2.3 Phong tục, tập quán về nuôi con nuôi còn mang nặng tính địa phương,
tính tộc người, phạm vi điều chỉnh hẹp.
Phong tục, tập quán về nuôi con nuôi thể hiện kinh nghiệm sống, sinh hoạt
của một cộng đồng nhất định, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội ở địa phương,
bản, làng. Do vậy, phong tục, tập quán về nuôi con nuôi với những nét văn hóa đặc
trưng riêng của từng vùng miền, phản ánh tâm tư, nguyện vọng riêng của người dân
ở địa phương, bản làng nào thì chỉ phù hợp với người dân sinh sống tại địa phương,
bản làng đó mà nếu đem áp dụng phong tục tập quán này sang một địa phương, một
bản, làng khác thì không hẳn đã phù hợp và được mọi người chấp nhận. Phong tục
tập quán về nuôi con nuôi có phạm vi điều chỉnh hẹp nó chỉ tác động, điều chỉnh
trong một cộng dân cư ở một địa phương nhất định (thôn, làng, bản, ấp...). Phong
tục, tập quán về nuôi con nuôi thể hiện ý chí và sự đồng thuận của một cộng đồng
dân cư, là tình cảm, ý nguyện của cả một cộng đồng, là sự tích lũy, chắt lọc các kinh
nghiệm trong đời sống và sinh hoạt xã hội, nó không do một cá nhân nào quy định cả
mà do một nhóm người, một cộng đồng dân cư ở địa phương đó đặt ra.
1.1.2.4 Phong tục tập quán về nuôi con nuôi mang tính ổn định, bền vững và
có tính bảo thủ rất lớn.
Do được hình thành rất sớm và phát triển lâu dài cùng với quá trình phát triển
của lịch sử, phong tục tập quán về nuôi con nuôi được lưu truyền qua nhiều thế hệ,
trải qua chặng đường dài của thời gian nhiều phong tục tập quán bị lỗi thời, không
còn phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại sẽ bị cộng đồng đào thải loại bỏ
dần, tuy vậy có những phong tục tập quán về nuôi con nuôi vẫn tồn tại bền vững và
giữ được giá trị đạo đức tốt đẹp phát triển cho đến ngày nay như tục nhân con nuôi
của người Dao, người Mông ở Sa Pa... Nếu muốn thay đổi hay loại bỏ một phong tục
tập quán nuôi con nuôi nào đó là cả một chặng đường dài đấu tranh, biến đổi cùng
với quá trình lịch sử không thể một sớm một chiều mà có thể dễ dàng thay đổi được

bởi lẽ những phong tục tập quán này đã ăn sâu bám rễ vào tư tưởng của mỗi con
người hình thành những thói quen chung mà một sớm, một chiều không thể thay đổi
được.
1.2 PHÂN LOẠI CÁC HÌNH THỨC NUÔI CON NUÔI THEO PHONG TỤC
TẬP QUÁN

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

8

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
Thực tế trong đời sống xã hội quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán
tồn tại dưới dạng một số hình thức sau đây:
 Con nuôi chính thức
Con nuôi chính thức gồm có hai loại:
- Con lập tự: là hình thức đặt người nói dõi khi trong gia đình không có con
trai thì cháu trai sẽ trở thành người lập tự tức là nhận con nuôi trong cùng một dòng
họ như nuôi con của anh em ruột hoặc con anh em chú bác ruột để khi tuổi già còn
có người chăm sóc, lúc qua đời còn có người thờ cúng. Con lập tự có thể nhận nuôi
từ bé, hoặc lớn rồi mới nuôi, thậm chí có người đã thành gia lập thất, có con rồi mới
nhận làm con nuôi, tùy theo nét đặc trưng riêng của từng dân tộc và phong tục ở mỗi
vùng miền có sự khác nhau. Người con nuôi lập tự chịu trách nhiệm săn sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ nuôi lúc tuổi già và hương khói tang tế sau khi mất và được hưởng
quyền thừa kế như con đẻ. Con nuôi lập tự được hưởng ruộng hương hoả, được họ
hàng chấp nhận là cùng huyết thống thân thuộc, khi cha mẹ nuôi chết, người lập tự
cũng để tang như cha mẹ đẻ. Trường hợp cha mẹ ruột chết trước, phải xin phép cha
mẹ nuôi mới được về chịu tang, nhưng không được phép mặc áo khâu gấu, khăn

ngang không được để hai giải bằng nhau tùy theo phong tục ở mỗi nơi.
- Con nuôi hạ phóng tử gồm có:
+ Con hoang thai: là những người phụ nữ có thai hoang, đứa trẻ trong bụng không
biết cha mình là ai được nhận nuôi từ lúc mới sinh. Có những nhà hiếm con nhận
nuôi đứa trẻ từ lúc còn trong bụng mẹ từ trước, đợi sau khi người mẹ sinh nở xong
thì đón đứa trẻ về, sản phụ được bồi dưỡng một ít tiền và sau đó không được quyền
nhận hay thăm con. Đứa trẻ sau này lớn lên cứ nghĩ cha, mẹ nuôi là cha mẹ ruột của
mình.
+ Nuôi con nuôi để lấy phúc: Thực tế đời sống không ít trường hợp nhận con mồ côi
hay con nhà nghèo khó đem về nuôi coi như con của mình để làm phúc, để có thể
giảm bớt tai vạ, những điều không may mắn cho gia đình hoặc để vợ chồng có thể
sinh được con của mình, giữa người nhận nuôi và đứa trẻ được nhận nuôi có thể có
quan hệ quen biết hoặc không quen biết. Nếu nuôi thực sự từ lúc còn nhỏ cũng được
hưởng mọi quyền lợi như con đẻ trong gia đình, cha mẹ nuôi cũng có trách nhiệm
dựng vợ gả chồng, cũng được cha mẹ nuôi chia cho một phần gia tài khi ra ở riêng.
Trường hợp cha mẹ nuôi không có con trai cũng có thể lập người con này làm thừa
tự, song không được can dự vào phần hương hoả, tự điền cũng như việc họ hàng, bởi
lẽ khác dòng máu, không được họ hàng chấp nhận. Tang chế đối với cha mẹ nuôi
cũng giống như cha mẹ đẻ, đối với anh em nuôi cũng một năm như anh em ruột,
nhưng đối với họ hàng bên bố mẹ nuôi thì không tang. Trừ một trường hợp con nuôi
đã mang họ của bố nuôi, không biết bố đẻ là ai và đã được họ hàng chấp nhận thì
mọi lễ nghi hiếu hỷ, tang chế đều như người trong họ, song vẫn không được hưởng
hương hoả, tự điền.
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

9

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo



Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
Theo phong tục một số địa phương "vô nam dụng nữ" thì người con rể cũng
có quyền lợi và nghĩa vụ như con nuôi hạ phóng tử nói trên, nhưng chỉ để tang bố mẹ
vợ một năm, anh em ruột của vợ chín tháng, ngoài ra không để tang cho ai bên nhà
vợ. Lập tự chỉ lập tự cho cháu ngoại, không lập tự cho con rể.
 Con nuôi giả vờ:
Vì con khó nuôi, hay bị ốm yếu, bệnh tật sợ ma quấy nhiễu người mẹ đem con
bỏ đường bỏ chợ, nhưng dặn trước người trực sẵn đưa về nuôi, sau vài giờ hoặc vài
ngày đến chuộc nhận làm con nuôi. Đây là cách đánh tráo con đẻ thành con nuôi,
con nuôi là con đẻ để lừa ma. Ở một số đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở miền
núi, trong gia đình có đứa trẻ hay bị ốm yếu, bố mẹ đứa trẻ sẽ đến nhờ các thầy cúng
cao tay trong làng tìm giúp bố mẹ nuôi cho đứa trẻ, hoặc thầy cúng sẽ chủ động tìm
một người khác trong làng làm bố mẹ nuôi cho đứa trẻ mà không báo cho gia đình
biết trước. Người được thầy cúng nhờ sẽ đợi thời cơ khi bố mẹ đứa trẻ vắng nhà sang
bế đứa trẻ về nhà nuôi hai, ba ngày. Đến khi bố mẹ đứa trẻ về thấy mất con, cả gia
đình nhốn nháo đi tìm, khóc than thể hiện sự mất mát, nhớ thương của cha mẹ với
con cái. Theo phong tục mặc dù là khóc giã, nhưng bố mẹ phải khóc càng to càng tốt
với ý nghĩa tiếng khóc đau thương của bố mẹ báo hiệu cho các loại ma biết là đứa trẻ
đã bị người khác bắt đi và khi nghe thấy tiếng khóc thất thanh của bố mẹ, các con ma
dữ sẽ bỏ đi không về làm hại đứa trẻ nữa. Ba ngày sau, bố mẹ nuôi sẽ thông báo cho
bố mẹ đẻ biết để mang lễ vật đến xin con về. Nhiều gia đình lại chọn bố mẹ nuôi cho
trẻ theo một cách ngẫu nhiên, người cha, hoặc mẹ bế đứa trẻ ngồi ở một ngã ba
đường, nơi có nhiều người qua lại. Khi gặp được người đi qua đầu tiên thì người đó
sẽ được nhận làm cha mẹ nuôi cho đứa trẻ, lúc này bố mẹ đứa trẻ sẽ lấy một sợi dây
bất kỳ để làm lý buộc vào bắp chân hoặc xé một miếng vải làm vòng đeo vào cổ cho
đứa trẻ. Bố mẹ nuôi đặt cho đứa trẻ một cái tên mới và họ chính thức trở thành cha
mẹ nuôi của đứa trẻ. Trong các trường hợp trên đứa trẻ được nhận làm con nuôi
không sống chung với ba mẹ nuôi, do đó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
chăm sóc nuôi dưỡng và hưởng quyền thừa kế tài sản như ở cha mẹ ruột.
 Con nuôi danh nghĩa:

Đây là những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống nuôi con nuôi trên
danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát từ tình
cảm, nhưng không gắn với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không nhằm mục
đích hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế. Các bên có thể đối xử với
nhau, gọi nhau là cha, mẹ và con, nhưng không ràng buộc thực hiện nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế. Hai bên thường không sống chung với nhau. Việc
nuôi con nuôi này chỉ tuỳ thuộc vào tình cảm, sự tự nguyện của các bên, phù hợp với
cách ứng xử, chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Việc nuôi con nuôi này thường
được thực hiện dưới hình thức thoả thuận bằng lời giữa các bên. Quan hệ cha mẹ và
con trong hình thức này thường chỉ tồn tại trên danh nghĩa, có ý nghĩa đối với hai
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

10

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
bên chủ thể, mà không có ý nghĩa nhiều lắm đối với những người khác trong gia
đình của hai bên, những người xung quanh và xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội Việt
Nam, hình thức nhận con nuôi hoặc nhận cha mẹ nuôi trên danh nghĩa thường hay
xảy ra, vì người Việt Nam vốn có lối sống trọng tình, trọng nghĩa, có thể là do cảm
ân đức, nghĩa tình nhận làm con nuôi hoặc do anh em kết nghĩa với nhau thân tình,
nhận bố mẹ của anh em cũng như bố mẹ của mình và ngược lại bố mẹ cũng nhận
người anh em kết nghĩa với con mình như con cái trong nhà...Ví dụ: việc nhận những
người già cả, không có khả năng lao động là cha nuôi, mẹ nuôi để chăm sóc, nuôi
dưỡng; việc bạn bè của những đồng đội đã hy sinh trong chiến tranh nhận những
người mẹ liệt sĩ làm mẹ nuôi; hoặc cho con làm con nuôi của những người có tài, có
đức, giỏi giang, trên danh nghĩa để con cái có thể học được những phẩm chất tốt đẹp
của họ…Hình thức nuôi con nuôi trên danh nghĩa thể hiện nét đẹp trong đời sống

tinh thần của người Việt Nam. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường, việc nuôi
con nuôi trên danh nghĩa còn thể hiện sự chăm sóc, quan tâm của cộng đồng đối với
những người nghèo khổ, già cả, trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Điều đó ít nhiều tạo
điều kiện giúp đỡ họ bớt khó khăn, tạo niềm tin cho họ trong cuộc sống. Việc nhận
nuôi con nuôi này chủ yếu hướng tới những giá trị đạo đức, tinh thần, nhưng không
có giá trị pháp lý.
1.3 NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA PHONG TỤC TẬP
QUÁN NUÔI CON NUÔI
1.3.1 Nguyên nhân hình thành phong tục tập quán nuôi con nuôi
Phong tục tập quán về nuôi con nuôi đã hình thành từ rất lâu trải qua rất nhiều
thế hệ, kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp từ các thế hệ tổ tiên đi trước,
không riêng gì người Kinh mà các đồng bào dân tộc thiểu số khác như Ê Đê, Mông,
Dao, Gia Rai…xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn xem đây là một nét
đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc họ và lưu giữ cho đến ngày nay.
Dưới thời phong kiến xưa và mãi cho đến ngày nay, trong nhiều gia đình của
người Kinh còn mang nặng quan niệm truyền thống “trọng nam khinh nữ”, người ta
quan trọng nhất là việc kế tự, nếu không có người kế tự cho mình được xem là bất
hiếu với tổ phụ cho nên nếu gia đình không có con hoặc không sanh được con trai để
nói dỗi tông đường, thì họ sẽ nhận một đứa con trai làm con nuôi chủ ý để mai sau
có người giữ hương hỏa cho nhà mình . Ngoài ra có một số trường hợp do cha mẹ
kết nghĩa huynh đệ, do ân nghĩa, quý mến nhau mà nhận con của nhau làm con nuôi.
Không phải chỉ những gia đình “hiếm muộn” mà ngay cả những gia đình đã con đàn
cháu đống vẫn muốn nhận thêm con cái vì họ cho rằng đó chính là cái phúc, cái lộc
trời ban, càng đông con, gia đình càng yên ấm, hạnh phúc.
Trong số 54 dân tộc anh em, không riêng gì người Kinh mà một trong những
dân tộc thiểu số mang đậm dấu ấn của phong tục tập quán về nhận con nuôi trước
tiên phải kể đến đó là dân tộc Dao, M’Nông, La Chí...Từ bao đời nay, trong mỗi nếp
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

11


SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
nhà của những dân tộc này, tục nhận con nuôi dường như đã ăn sâu vào tiềm thức
hầu như gia đình nào cũng có con nuôi hoặc có người đi làm con nuôi, với họ con
nuôi cũng mang ý nghĩa và tình mẩu tử thiên liêng như chính con ruột của mình.
Nguyên nhân chủ yếu của việc nhận con nuôi là do họ hiếm con, với tập tục lạc hậu,
đó là quần hôn và nay là hôn nhân cận huyết, nên nhiều gia đình đặc biệt là dân tộc
Dao khó có thể sinh con đàn cháu đống như người Mông hay người Thái, như trường
hợp của nhà ông Triệu Quý Lục, bà Đặng Thị Pham không có con nên đi nhận con
về nuôi. Theo lời bà Pham kể khi 15 tuổi thì đi lấy chồng nhưng không có con nên
phải đi nhận con về nuôi, nhận nuôi tám đứa nhưng giờ chỉ còn bốn đứa, vì lúc trước
chưa có điều kiện, chưa có sữa nên bốn đứa bị chết từ khi còn nhỏ5 . Hầu hết các gia
đình trong nhà thường không có nhiều tiền nhưng sợ không có người làm nương, làm
rẫy, mai này chết không có ai khiêng đi chôn nên phải nhận nhiều con nuôi. Ngoài
ra, đối với dân tộc Dao không sinh được con trai nên chủ yếu họ nhận con trai về
nuôi để lấy người nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên và thờ “tranh ma”6. Bởi theo
quan niệm của họ, khi đã cúng ma nhà là đứa trẻ trở thành con đẻ của mình, vì thế có
nhiều gia đình không sinh được con trai mà vẫn có người nối dõi tông đường, thờ
cúng tổ tiên. Không phải chỉ những nhà hiếm con hoặc sinh toàn con gái mới nhận
con nuôi, nhiều nhà nhận con nuôi theo phong tục để có cuộc sống vui vẻ, đầm ấm
như gia đình bà Đặng Thị Còi trước kia là chủ tịch hội phụ nữ xã đã có sáu con gái,
hai con trai mà vẫn muốn nhận thêm một người con nuôi cho vui cửa vui nhà và
cũng một phần theo quan niệm của người xưa thì đã sinh ra trời phải sinh ra đất, đẻ
con cũng phải có nếp có tẻ, thì trong nhà mới hoà hợp âm dương.
Đối với một số dân tộc thiểu số khác như dân tộc Mông, La Chí… sinh sống
tập trung chủ yếu ở miền núi thì có tục nhận cha mẹ nuôi cho trẻ diễn ra rất phổ biến
nhưng mỗi dân tộc lại có quan niệm, cách thức và những nghi lễ nhận con nuôi một

cách khác nhau. Xuất phát từ nhiều lí do khác nhau nhưng chủ yếu rơi vào những
đứa trẻ hay bị ốm đau, còi cọc, kém ăn, khó nuôi thì bố mẹ cũng đi tìm bố mẹ nuôi
để cầu mong cho đứa trẻ sau này mới mau lớn, khỏe mạnh, không bị ốm đau. Đôi
khi việc nhận bố mẹ nuôi, con nuôi xuất phát từ sự tình cờ, quý mến nhau mà thành.
Tùy vào từng trường hợp mà mỗi dân tộc có cách tìm cha mẹ nuôi cho đứa trẻ bằng
nhiều cách khác nhau.
Thông thường, khi đứa trẻ hay bị ốm yếu, bố mẹ đứa trẻ sẽ đến nhờ các thầy
cúng cao tay trong làng xem giúp đứa trẻ ốm đau do nguyên nhân gì. Nếu thầy cúng
thấy đứa trẻ cần phải tìm một người làm bố mẹ nuôi thì gia đình phải nhờ thầy cúng
xem giúp tuổi đứa trẻ hợp với tuổi của người nào đó trong làng để đến nhận làm bố
5

Trần Tân: Tại sao người Dao đua nhau mua con nuôi, Báo điện tử Báo mới, 2010,
[ngày truy cập 11-12013].
6
Tranh ma thường có 18 tờ là một bức tranh được thầy cúng vẻ lại hình ảnh của các bậc tổ tiên, ông bà để con
cháu thờ cúng

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

12

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
mẹ nuôi cho đứa trẻ. Tùy vào những nét đặc trưng riêng mà mỗi dân tộc có các nghi
lễ nhận con nuôi diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có chung ý
nghĩa là cầu mong cho đứa trẻ luôn sống tốt, phòng - chống được mọi tà ma, bệnh tật
giúp cho đứa trẻ luôn được bảo vệ khỏe mạnh. Đây là nghi lễ mang đậm nét văn hoá

truyền thống, góp phần làm phong phú, đa dạng văn hoá của đồng bào dân tộc ở
miền núi.
1.3.2 Ý nghĩa của phong tục tập quán về nuôi con nuôi
Phong tục, tập quán là một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống văn
hoá và các giá trị đạo đức trong gia đình Việt nam, việc duy trì và áp dụng phong
tục, tập quán nuôi con nuôi là một là một trong các biện pháp cần thiết để bảo vệ bản
sắc văn hoá trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Không những thế phong tục tập quán nuôi con nuôi còn thể hiện tinh thần
nhân đạo đảm bảo cho trẻ em nhận được sự đùm bọc che chở và giáo dục từ cha mẹ,
được phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần. Đối với trẻ em miền núi phải chịu
cảnh mồ côi cha, mẹ từ nhỏ sẽ gặp nhiều thiệt thòi hơn rất nhiều lần so với những
đứa trẻ khác. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau (một số nơi nguyên nhân
chủ yếu vẫn là các hủ tục lạc hậu như tục “nối dây” còn tốn tại ở một vài dân tộc
thiểu số) mà hơn nghìn đứa trẻ phải sống cảnh mồ côi, đối với những đứa trẻ này thì
mái ấm gia đình và tình yêu thương được xem là thứ quý giá và quan trọng nhất, do
đó tục nhận con nuôi của đồng bào dân tộc thiểu số đã phần nào bù đắp được những
thiệt thòi và tạo dựng nên một mái ấm gia đình cho những đứa trẻ đó.
Việc nuôi con nuôi cũng mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho người nhận
nuôi, đặc biệt là những cặp vợ chồng hiếm con nhằm đáp ứng niềm mong muốn
được thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của họ và đảm bảo cho người nhận nuôi được
hưởng sự chăm sóc, thương yêu của con cái khi về già, là chỗ dựa tinh thần đầy ý
nghĩa cho người nuôi và người được nhận nuôi.
Hầu hết ở các vùng miền đặt biệt là với người dân tộc thiểu số thường có các
nghi lễ, tập tục nhận cha, mẹ nuôi. Các nghi lễ tập tục này thường mang một ý nghĩa
rất lớn đến cuộc sống của đứa trẻ sau này đặc biệt là đối với những đứa trẻ khó nuôi,
còi cọc hay ốm đau, bệnh tật…họ thường nhờ thầy cúng giỏi trong làng tiến hành
các nghi lễ nhận cha, mẹ nuôi cho đứa trẻ. Với mong muốn xua đuổi tà ma khỏi đứa
trẻ, giúp chúng được khỏi bệnh, khỏe mạnh, gặp nhiều mai mắn trong cuộc sống.
Từ bao đời nay cái đức tính về lòng yêu thương con người, sự đùm bọc giúp
đỡ lẫn nhau đã ăn sâu bám rễ vào trong đời sống mỗi con người đặt biệt là với người

đồng bào dân tộc thiểu số. Không riêng gì người Kinh mà trong hầu khắp dưới mái
nhà của người đồng bào dân tộc sinh sống ở miền núi gia đình nào cũng có con nuôi,
đủ cả trai lẫn gái với ý nguyện cầu mong cho gia đình đông vui con cái đủ cả nếp lẫn
tẻ, cuộc sống gia đình hạnh phúc, đầm ấm. Tuy điều kiện sống khó khăn nhưng họ
vẫn dành tình cảm quan tâm, chăm sóc những đứa con nuôi như chính con ruột của
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

13

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
mình. Đây là một thứ tình cảm thiêng liêng và đáng trân trọng, nó không chỉ thể hiện
tấm lòng nhân ái, săn sàng đùm bọc cưu mang, giúp đỡ những đứa trẻ bất hạnh
không nơi nương tựa mà nó còn là một tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái sẵn
sàng nhường cơm, sẽ áo giúp cho trẻ em miền núi cơ nhỡ có được mái ấm gia đình,
đầm ấm hạnh phúc bù đắp được phần nào khoảng trống về tinh thần.
Theo tập tục ở nhiều nơi, con gái hoặc con trai không được thờ cúng tổ tiên
do vậy trong gia đình cần phải có con trai hoặc con gái để nói dõi, thừa kế tài sản và
thờ cúng ông bà tổ tiên khi cha, mẹ qua đời. Do đó gia đình nào mà không có con
được xem là có lỗi rất lớn với tổ tiên, họ nhất quyết phải kiếm cho bằng được người
nói dõi. Có thể thấy việc xin được một đứa con nuôi và đặc biệt là con trai hay con
gái đều có ý nghĩa rất lớn và quan trọng giúp cho gia đình có được người nói dõi duy
trì việc thờ cúng, duy trì truyền thống của gia đình và dòng họ.
Đối với xã hội, phong tục tập quán nuôi con nuôi góp phần làm giảm thiểu
gánh nặng cho xã hội, khi pháp luật chưa có nhiều những chính sách hỗ trợ quy định
cụ thể rõ ràng đặt biệt là với các đối tượng là trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số
mồ côi, có hoàn cảnh gia đình khó khăn…Thì những phong tục tập quán này là một
trong những biện pháp hữu hiệu hạn chế được tình trạng trẻ em lang thang không nơi

nương tựa, góp phần giảm thiểu hoặc ngăn ngừa trẻ em phạm tội, ít bị kẻ xấu dụ dỗ,
lợi dụng hoặc các hành vi lạm dụng trẻ em vào mục đích vô nhân đạo.
1.4 LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TỤC TẬP QUÁN NUÔI CON
NUÔI
Khi nhà nước chưa hình thành pháp luật cũng chưa ra đời con người thường
áp dụng các thói quen, những quy tắc ứng xử chung được đề ra để điều chỉnh các vấn
đề trong xã hội, dần dần những thói quen, quy tắc ứng xử ấy trở thành phong tục tập
quán được đưa vào đời sống để quy định cách ứng xử và giải quyết các vấn đề tranh
chấp trong xã hội, phong tục tập nuôi con nuôi được xem là đã ra đời sớm hơn so với
các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng và vấn đề nuôi con
nuôi nói chung. Pháp luật về hôn nhân gia đình ra đời để điều chỉnh các quy phạm xã
hội phát sinh trong các mối quan hệ gia đình như kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi…Do
đó từ trong mối quan hệ gia đình xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà vấn
đề nhận con nuôi cũng dần hình thành để đáp ứng được những nhu cầu thiết thực đó,
tùy theo nét đặc trưng riêng của từng vùng miền, từng dân tộc mà mỗi nơi lại có các
phong tục tập quán về nuôi con nuôi khác nhau.
Phong tục về nuôi con nuôi được xem là một trong những phong tục tập quán
tốt đẹp do đó xuất phát từ thực tiễn phong tục tập quán nuôi con nuôi mà dần dần các
quy định của pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi ra đời nhằm khuyến khích tiếp tục
phát huy những truyền thống tốt đẹp đó và để điều chỉnh các vấn đề nảy sinh ngày
càng phức tạp trong việc nuôi con nuôi. Thực tiễn đã chứng minh, ngay trong thời kỳ
phong kiến, ở Việt Nam có bốn bộ luật lớn, nhưng vấn đề nuôi con nuôi được ghi
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

14

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn

nhận khá cụ thể trong hai bộ luật là Quốc triều Hình luật triều Lê và Hoàng triều luật
lệ của nhà Nguyễn. Không thể phủ nhận rằng hai bộ luật lớn ấy đều tồn tại, phát huy
hiệu lực trên một nền tảng pháp lý cơ bản của cộng đồng người Việt Nam truyền
thống là phong tục, tập quán. Trong đó pháp luật triều Lê có quy định việc nhận trẻ
em mồ côi, không nơi nương tựa làm con nuôi là một việc làm thiện, nhân đạo, là
một phong tục tốt đẹp, thể hiện đạo lý của dân tộc và được xã hội ủng hộ. Trách
nhiệm cứu người, cưu mang những người nghèo khổ, tàn tật nặng, mồ côi mà không
có người thân thích để nương tựa cũng đã được phản ánh trong điều 294, điều 295 bộ
Quốc triều hình luật, ngoài ra còn có rất nhiều quy định điều chỉnh về vấn đề nuôi
con nuôi được quy định trong các bộ luật dưới triều đại nhà Lê, nhà Nguyễn.
Phong tục tập quán nói chung và phong tục tập quán nuôi con nuôi nói riêng
đã hình thành từ rất lâu, ra đời gần như gắn liền và phát triển với sự ra đời của con
người, ở một số địa phương nhất là ở các dân tộc thiểu số người dân còn xem trọng
phong tục tập quán và tuân theo một cách tự giác còn hơn cả pháp luật chúng được
áp dụng khá rộng rãi nhiều phong tục tập quán đã trở thành luật tục, hương ước riêng
của một địa phương, làng, xã…Trong đó phong tục về nuôi con nuôi là một trong số
những phong tục tập quán tốt đẹp còn lưu giữ cho đến ngày nay, ở một số địa
phương vẫn còn lưu giữ và lưu truyền được những nghi lễ hình thức của phong tục
tập quán này, đặc biệt phong tục tập quán này cho đến ngày nay còn phát triển khá
phổ biến ở các dân tộc ít người như Thái, Dao, Thổ, Mông…Và nó còn được quy
định trong cả luật tục của các dân tộc như Ê Đê, Chăm, những phong tục về nuôi con
nuôi được người dân ở những địa phương đó coi như “luật dân gian” hay “luật tự
nhiên” và mặt nhiên áp dụng một cách tự giác.
Trong nền văn hóa truyền thống của Việt Nam do quy luật giao lưu văn hóa
và hoàn cảnh lịch sự, phong tục tập quán nuôi con nuôi ở một số vùng miền, địa
phương được phổ biến rộng rãi và ở một số địa phương có đôi nét giống nhau, nhưng
nói chung phong tục nuôi con nuôi của người Việt Nam tuy ở nhiều nơi khác nhau
nhưng vẫn mang đậm đà bản sắc riêng của mỗi dân tộc, thể hiện rõ nét đời sống văn
hoá tốt đẹp xưa và nay của cộng đồng các dân tộc sống trên khắp các vùng miền đất
nước từ Bắc chí Nam.

Phong tục tập quán nuôi con nuôi được hình thành vì nhiều lý do khác nhau,
xuất phát từ những quan niệm của người xưa và nó gắn liền với đời sống hằng ngày
của con người. Có những phong tục tập quán nuôi con nuôi bắt đầu hình thành ngay
ở một địa phương là nét đặc trưng riêng của địa phương đó, nhưng cũng có nhiều
phong tục tập quán nuôi con nuôi di chuyển từ nơi khác tới do quá trình hội nhập và
giao lưu văn hóa từ nhiều địa phương vùng miền khác nhau. Dù bắt đầu ở một địa
phương hay di chuyển từ nơi này sang nơi khác, thì những thói quen cũng như những
tục lệ nhận con nuôi hoặc cha mẹ nuôi không phải ngày một, ngày hai mà thành.
Muốn được mọi người tuân theo những thói quen và tục lệ đó cần phải trải qua một
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

15

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
thời gian lâu dài để con người tập quen dần thì những thói quen và tục lệ đó mới đi
vào nền nếp, được mọi người xem như khuôn thước ứng xử trong xã hội và một phần
không thể thiếu trong đời sống gia đình và dần dần trở thành những phong tục tập
quán được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Phong tục tập quán Việt Nam nói chung và phong tục tập quán nuôi con nuôi
nói riêng đã có truyền thống lâu đời từ hàng ngàn năm nay, trải qua biết bao thời kỳ
lịch sử từ khi khai thiên lập địa đến thời kỳ xây dựng đất nước và giữ nước, phong
tục tập quán nuôi con nuôi đã trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử dân tộc do đó
những nghi lễ, hình thức của phong tục tập quán này cũng không ngừng biến đổi
theo trào lưu biến đổi văn hóa xã hội.
Phong tục tập quán nuôi con nuôi có thể nói nó được hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Những tục lệ nhận con nuôi từ thời
xa xưa trải qua các triều đại lịch sử cho tới ngày nay ích nhiều cũng đã dần mất đi

hoặc đã được phát triển thêm không còn giữ giá trị nguyên văn như lúc trước, có
những nghi lễ hình thức nhận con nuôi tốt đẹp nó được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, nhưng theo thời gian các nghi lễ hình thức này cũng đã dần biến đổi để
phù hợp với thời đại, với trào lưu biến đổi trong cuộc sống của con người.
Theo thời gian và sự phát triển của xã hội, phong tục tập quán nuôi con nuôi
đã được sàng lọc, phong tục tập quán này luôn luôn biến đổi dần dần để những điều
gì, trước đây thích hợp với tổ tiên ta, nhưng sau này trở nên lỗi thời, bị đào thải từ từ,
và chỉ còn lại những điều gì không phản lại sự tiến hoá của dân tộc. Đấy chỉ là một lẽ
tự nhiên bất cứ phong tục nào cũng vậy, phải chịu sự "gạn đục khơi trong" để bỏ bớt
đi những cái lạc hậu, lỗi thời mà gìn giữ lấy cái tốt đẹp , để truyền thống được bảo
tồn và phát huy phù hợp với nhận thức và sự tiến bộ của nhân loại.
Cùng với xu hướng phát triển của thời đại, của đất nước thì phong tục tập
quán nuôi con nuôi cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội,
nhưng quá trình biến đổi này diễn ra khá chậm chạp, dai dẳng hơn và có quy luật
riêng của nó, không dễ gì một sớm một chiều đã được mọi người, mọi nhà, mọi tầng
lớp chấp nhận và tuân theo. Bởi lẽ phong tục tập quán này là một trong những phong
tục tập quán tốt đẹp của dân tộc thể hiện lòng thương người tinh thần tương thân
tương ái, mang lại mái ấm gia đình cho nhiều trẻ em và là niềm mong ước của những
người muốn được làm cha, làm mẹ, do đó nó sẽ được nhiều người bắt chước nhau
làm, tiếp tục phát huy và gìn giữ những truyền thống của dân tộc. Không giống như
một số phong tục tập quán đã lạc hậu lỗi thời dần dần sẽ bị xã hội đào thải, phong tục
tập quán nuôi con nuôi đã khẳng định được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó
qua việc những phong tục tập quán đó còn hiện hữu trong cuộc sống ngày nay của
người Việt Nam đã và đang tiếp tục phát triển.

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

16

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo



Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn

CHƢƠNG 2
PHÂN TÍCH CÁC NỘI DUNG TRONG PHONG TỤC, TẬP QUÁN
VỀ NUÔI CON NUÔI
Ở mỗi vùng miền, dân tộc lại có những nét đặc trưng riêng về phong tục tập
quán nuôi con nuôi, có thể thấy trong phong tục tập quán nuôi con nuôi rất đa dạng
và phong phú, ở mỗi nơi đều có nét đặc sắc trong việc thể hiện các tập tục, nghi lễ về
việc giao nhận con nuôi hay những quy ước chung về điều kiện nuôi con
nuôi…không nơi nào giống nơi nào. Phong tục tập quán nuôi con nuôi là một phong
tục tập quán tốt đẹp cần được phát huy, nhưng bên trong nó lại còn tồn tại nhiều bất
cập, nhiều nội dung lạc hậu vẫn được cộng đồng lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác do nó đã ăn sâu bám rễ vào đời sống của con người. Bên cạnh đó, xuất phát từ
những quy định của pháp luật nuôi con nuôi hiện hành, người viết nhận thấy trong
phong tục tập quán còn tồn tại nhiều điểm lạc hậu trái với quy định của pháp luật
nhưng cũng không thể phủ nhận phong tục tập quán cũng đã tiếp thu được một phần
những quy định của pháp luật và một số nội dung tiến bộ. Do đó để đi sâu được vào
vấn đề và làm rõ các vấn đề liên quan đến phong tục tập quán nuôi con nuôi, người
viết chia bố cục đề tài trong chương này có một số nội dung tương ứng với các quy
định của pháp luật để dễ dàng có cái nhìn tổng quát hơn, từ đó so sánh với các quy
định của pháp luật hiện hành để xem xét, nhìn nhận những mặt tích cực cũng như
tiêu cực của phong tục tập quán về nuôi con nuôi được khách quan và hoàn thiện
hơn.
2.1 ĐIỀU KIỆN XÁC LẬP QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI-CON NUÔI THEO
PHONG TỤC TẬP QUÁN
Điều kiện xác lập quan hệ cha mẹ nuôi con nuôi theo theo phong tục tập quán
là cơ sở để hình thành nên mối quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi, theo phong tục, tập
quán ở mỗi vùng miền, địa phương mỗi dân tộc lại có những quy ước riêng về điều

kiện nhận con nuôi. Tuy không được quy định thống nhất và cụ thể rõ ràng như
những quy định của pháp luật trong đó giữa người nhận nuôi và người được nhận
nuôi chỉ phát sinh quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi khi nào thỏa hết các điều kiện về
xác lập quan hệ cha mẹ nuôi con nuôi (trừ một số trường hợp ngoại lệ), nhưng ngược
lại với pháp luật điều kiện xác lập quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi theo phong tục tập
quán nó lại mang nét đặc trưng riêng, không nằm trong một khuôn khổ, quy định cụ
thể thống nhất nào cả, mỗi một vùng miền, địa phương dân tộc lại có những nét riêng
về điều kiện để xác lập mối quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán ở nơi đó.
Việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có thể được thực hiện theo những cách thức khác
nhau, tuỳ theo sự lựa chọn và yêu cầu của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh
nhất định.

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

17

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1.1 Điều kiện liên quan đến ngƣời nhận nuôi
Theo phong tục tập quán nuôi con nuôi tuy ở mỗi vùng miền đều có những
nghi thức, nghi lễ và phong tục nhận con nuôi khác nhau nhưng nhìn chung người
nhận con nuôi chỉ có thể là vợ, chồng hoặc một cá nhân không phải là một pháp
nhân, một hộ gia đình hay một tổ hợp tác. Đối với phong tục nhận con nuôi ở mỗi
dân tộc, địa phương khác nhau lại có những quy ước riêng về điều kiện đối với người
nhận con nuôi, nhằm đáp ứng được mong muốn của người cho và nhận con nuôi,
ngoài ra đó còn là những giá trị tinh thần ẩn chứa bên trong là ước muốn của cha mẹ
về một cuộc sống tốt đẹp cho con cái. Do là phong tục tập quán nên nó điều chỉnh
trong phạm vi hẹp ở một cộng đồng người cho nên mỗi nơi lại có những điều kiện

liên quan đến người nhận nuôi khác nhau, phong tục nhận con nuôi không phân biệt
trường hợp người nhận nuôi là cá nhân hay cả hai người là vợ chồng nên các điều
kiện dưới đây có thể áp dụng cho cả hai trường hợp trên, dưới đây là điều kiện về
người nhận con nuôi theo phong tục tập quán áp dụng ở một số dân tộc hoặc địa
phương.
Thứ nhất là thông thường, khi nhận một đứa trẻ làm con nuôi, bố mẹ nuôi
cũng không phải là cứ đến xin không, mà sẽ mất một khoản tiền hoặc một món vật
phẩm nhất định coi như một thứ tín lễ trao tay điều kiện này thường thấy ở tục nhận
con nuôi của các dân tộc ít người sinh sống ở miền núi. Hầu hết các gia đình nhận
cho con nuôi theo phong tục tập quán đều không quan tâm nhiều đến điều kiện nhận
con nuôi như quy định của pháp luật mà đối với những gia đình khó khăn thì ai có
thể đáp ứng được nhu cầu vật chất mà họ đang thiếu thốn thì có thể đem con về nuôi.
Một số đồng bào dân tộc thiểu số như người Dao ở bản Na Páo Hành, xã Nậm
Mười, tỉnh Yên Bái nhận về làm con nuôi đều là con của người dân tộc Thái ở những
huyện lân cận, sở dĩ như vậy vì người dân tộc Thái đời sống kinh tế còn khó khăn, kế
hoạch hóa gia đình cũng như việc áp dụng biện pháp tránh thai chưa tốt nên nhiều
gia đình sinh con ra nhưng không thể nuôi được. Người Dao đi tìm con nuôi bằng
cách xuống chợ huyện, thấy cặp vợ chồng người Thái nào dẫn theo một đàn con
đông liền lại gần hỏi mua hoặc trong những chuyến đi xuống đồng bằng nhờ qua lại
mối lái, biết có gia đình nào khó khăn, những người Dao ở Nậm Mười liền đến để
xin về nuôi. Hay một số người tập hợp lại rồi đi xuống núi suốt nhiều ngày đường,
hễ thấy gia đình người Thái nào đông con, họ liền vào nhà xin ngủ nhờ và hỏi thăm
xem có ý bán con hoặc trao đổi thứ gì đó không, gọi là bán chứ thực chất là cũng chỉ
đổi lấy ít thóc, sắn hoặc gánh bí ngô hoặc một số tiền nhất định để sinh sống qua
ngày vì gia đình quá khó khăn. Nếu gia đình họ đồng ý bán con, người Dao sẽ hẹn
một ngày tốt rồi dắt theo một con trâu ba đến bốn tuổi, một đôi gà và ít tiền đến trao
đổi, làm thủ tục mang con về nuôi.
Còn đối với tộc người Khơ mú và một số dân tộc khác người dân nơi đây có
tập tục cho con nuôi. Theo đó, hai gia đình muốn xin con của nhau về nuôi thỏa
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh


18

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
thuận từ khi bà mẹ mang thai, khi nào đứa trẻ được sinh ra, cha mẹ nuôi sẽ đến đón
trẻ về và đặt tên cúng ma cho trẻ. Hai bên thỏa thuận trao cho nhau một khoản thù
lao nào đó, khoảng vài triệu khi trẻ lớn lên thì chỉ cần mang hai lít rượu, một con gà
và một ít lễ vật đến cho cha mẹ đẻ là tuyệt giao mối quan hệ giữa hai bên với nhau 7.
Như vậy theo tập tục một số nơi, người nhận con nuôi muốn xin đứa trẻ đem về nuôi
cũng cần phải có một khoảng tài sản nhất định có thể là tiền hoặc vật phẩm như con
gà, tải gạo hoặc có khi là cả con trâu giá trị tùy theo sự thỏa thuận của hai bên như
thế là đã có thể đem đứa con về nuôi.
Thứ hai là cha, mẹ nuôi phải hợp tuổi hoặc số mệnh với đứa trẻ, trong một số
trường hợp tùy vào cách thức tiến hành nghi lễ tìm cha mẹ nuôi cho trẻ nên cha mẹ
nuôi được nhận con nuôi một cách ngẫu nhiên tùy thuộc vào cơ duyên giữa cha mẹ
với đứa trẻ. Theo quan niệm địa phương thì cơ duyên này là do thần linh chỉ dẫn để
người cha, mẹ ruột tìm được cha mẹ nuôi cho trẻ, điều kiện này thường thấy ở hình
thức nhận con nuôi giả vờ. Nhiều địa phương do đứa trẻ từ lúc nhỏ đã khó nuôi, ba
mẹ phải đem con bỏ đường, bỏ chợ rồi giả vờ mất con than khóc thảm thiết để ma
xấu nghe được biết đứa trẻ không ai thương sẽ thôi không theo phá đứa trẻ nữa, phần
đứa trẻ sẽ có người đến mang về nuôi vài ngày sau cha mẹ đẻ mang lễ vật đến chuộc
con lại và nhận người đó làm cha mẹ nuôi.
Đối với tập tục nhận con nuôi của một số dân tộc như Mông, La Chí…những
đứa trẻ khi sinh ra mà khó nuôi hay ốm đau thì cha mẹ sẽ đi coi thầy hoặc nhờ thầy
cúng cao tay xem đứa trẻ hợp với tuổi của người nào đó trong làng và gia đình sẽ
đến xin họ nhận đứa trẻ làm con nuôi. Nhiều gia đình lại chọn bố mẹ nuôi cho trẻ
một cách ngẫu nhiên theo tập tục, người cha hoặc mẹ bế đứa trẻ ngồi ở một ngã ba

đường, nơi có nhiều người qua lại khi gặp được người đi qua đầu tiên thì người đó sẽ
được nhận làm cha mẹ nuôi cho đứa trẻ. Nhiều nơi lại chọn bố mẹ nuôi cho đưa trẻ
theo tập tục địa phương bằng cách vào buổi sáng sớm, bố đứa trẻ sẽ múc đầy một bát
nước đặt lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó người chủ gia đình đợi xem ai là người đầu tiên
bước vào nhà (trừ những người trong gia đình), thì chủ nhà sẽ mời người đó vào nhà
uống nước, rồi thưa chuyện với người khách, nếu họ đồng ý thì hai gia đình nhận
làm thông gia, rồi gia đình hẹn ngày đưa con, cùng lễ vật sang gia đình vái nhận làm
cha mẹ nuôi cho con mình. Ngoài ra, bố mẹ đứa trẻ có thể chọn cha mẹ nuôi cho đứa
trẻ bằng cách khác, gia đình sẽ chọn một ngày tốt, sau đó bện một sợi chỉ màu rồi
người bố địu con trên lưng đi theo lời chỉ dẫn của thầy cúng. Người bố địu con đến
một đoạn đường nơi có nhiều người qua lại rồi đứng ở đó chờ khi nào gặp được
người đầu tiên thì bố mẹ đứa trẻ sẽ nhận người đó làm cha, mẹ nuôi. Trong trường
hợp nhiều người gặp đầu tiên mà còn nhỏ tuổi, thì người bố sẽ nhờ bố mẹ đứa trẻ đó
làm cha mẹ nuôi cho đứa trẻ.
7

Hương Nguyên: Chủ tịch xã cũng muốn mua con nuôi, Báo điện tử Nhân dân, 2001,
. vn/phapluat/thoi-su-phap-luat/item/13014102-.html, [ngày truy cập 1-2-2013]

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

19

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
Với người Phù Lá thì thường có hai cách chủ yếu để tìm cha mẹ nuôi, một là
dùng cách bẫy dây ở tại nhà, hai là phải nhờ thầy cúng đến cúng xem giúp đứa trẻ
hợp với tuổi của người nào đó trong dòng họ, hoặc trong làng thì gia đình sẽ đến đặt

vấn đề nhờ người đó làm cha mẹ nuôi cho đứa trẻ. Bẫy dây tại nhà là cách tìm cha
mẹ nuôi phổ biến hơn cả, vì cách làm này đơn giản, không cần phải nhờ đến thầy
cúng. Gia đình sẽ chọn một ngày tốt trong tháng, nhưng phải là ngày chẵn. Sau đó
lấy một bát nước rồi lấy sợi chỉ vắt ngang qua bát nước với ý nghĩa hồn của đứa trẻ
đang chơi vơi trong bát nước cần có người đến cứu giúp. Đợi đến khi màn đêm đã về
khuya, không còn khách đến chơi nhà, bố đứa trẻ sẽ mang bát nước đặt lên bàn thờ
tổ tiên rồi theo dõi xem ngày hôm sau bất cứ ai là người đến chơi nhà đầu tiên, thì
người đó sẽ được gia đình nhận làm cha nuôi hoặc mẹ nuôi cho đứa trẻ. Một số gia
đình thì tìm cách chọn cha mẹ nuôi cho trẻ bằng hình thức nhờ thầy cúng, trường
hợp này phức tạp hơn, gia đình sẽ chọn một ngày đẹp rồi nhờ một thầy cúng đến tìm
giúp, thầy cúng sẽ dùng đồng âm gieo xuống đất xem quả chỉ về hướng nào thì họ đi
tìm cha mẹ nuôi theo hướng đó. Khi đi, họ phải đếm đi đủ 360 bước với ý nghĩa đây
là con số nơi hồn bị thất lạc, sau đó dừng lại trên đường đi nếu gặp người nào đầu
tiên thì bố mẹ đứa trẻ sẽ nhận người đó là cha mẹ nuôi, không kể trai gái, già trẻ.
Thứ ba là theo phong tục địa phương ở một số nơi có hình thức nuôi con nuôi
trên danh nghĩa do đó điều kiện đối với người nhận nuôi cũng tùy thuộc vào nhiều
nguyên nhân khác nhau. Có một số rơi vào trường hợp người nhận nuôi đã mang ơn
hoặc chịu sự giúp đỡ của cha mẹ đứa trẻ đối với một số dân tộc ít người có phong tục
kết nghĩa làm cha con hay mẹ con, người muốn kết nghĩa hàm ơn về người khác tộc
đã giúp đỡ mình vượt qua hoạn nạn như ốm đau, nghèo khó, hoặc giữa họ đã có tình
cảm yêu thương, quý mến nhau như anh em ruột thịt. Là người mà cha mẹ đứa trẻ
thấy ngưỡng mộ, tin tưởng, quý mến thì có thể nhận người này làm cha mẹ nuôi cho
đứa trẻ. Hay người nhận nuôi là những người có tài năng và đức độ làm việc giỏi
giang, cũng có thể là các vị trưởng lão trong làng được nhiều người kính trọng được
cha mẹ cho con mình nhận làm con nuôi, vì theo quan niệm xưa con cái có thể noi
theo, hưởng được nhiều phúc lộc của cha mẹ nuôi sau này có được một cuộc sống tốt
đẹp. Người nhận nuôi phải là người có gia đình hạnh phúc, con cái khỏe mạnh để
đứa trẻ cho nhận làm con nuôi có thể được nhờ phúc. Đối với những gia đình có trẻ
nhỏ hay bị ma quấy nhiễu hoặc không may sinh ra mà có tuổi xung khắc với cha mẹ
sống chung một nhà không hợp thành ra khó nuôi, do vậy gia đình thường hay tìm

những người ngoài điều kiện phải hợp tuổi ra còn phải kén những người có phúc, có
tài, gia đình có đông con và con cái đều khỏe mạnh thì càng tốt để cho làm con nuôi.
Theo quan niệm người xưa tìm được cha mẹ nuôi như vậy đứa trẻ mới có thể xua
đuổi được tà ma, được mọi điềm xấu, sau khi làm lễ nhận con nuôi bố mẹ nuôi sẽ
đem đứa trẻ về nuôi dưỡng (đây chỉ là hình thức tượng trưng) ít lâu sau bố mẹ ruột

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

20

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo


Phong tục tập quán nuôi con nuôi – cơ sở lý luận và thực tiễn
đứa trẻ sẽ đến gia đình xin mang con về, nếu không phải ân tình nuôi giúp phải chịu
ơn, phí tổn.
Một số dân tộc thiểu số theo tập tục địa phương có quy ước chung là người
thầy cúng chữa trị bệnh cho người nào trong làng thì người được chửa trị hết bệnh sẽ
nhận người đó làm cha nuôi, ở các vùng dân tộc miền núi khi đứa trẻ ốm đau hay
bệnh tật nặng người dân thường tin tưởng nhiều vào tài năng chửa trị bệnh của các vị
thầy cúng. Đặc biệt là một số dân tộc như Xinh Mun, Kháng, Thái…nếu các vị thầy
cúng trong làng có thể trị khỏi bệnh cho đứa trẻ hoặc một người nào đó thì theo tập
tục người được trị hết bệnh sẽ nhận người đó làm cha nuôi. Hằng năm người Kháng
có lễ hội Xek Pang Ả trong đó những người được Pà ả (thầy cúng) chữa cho khỏi
bệnh (được coi là con nuôi) đến dâng lễ, tạ ơn, hay lễ hội “Xên lẩu nó” của người
Thái phần quan trọng nhất của lễ hội là lễ cúng các con nuôi. Ông Lường Văn Ơn,
bản Nà Mè cho biết hiện ông có gần 100 người con nuôi, nên phải mất hơn một ngày
mới thực hiện xong lễ cúng. Các con nuôi sau khi mang lễ vật đến nhà ông, chia
nhau ra mỗi gia đình một chỗ, tự mổ gà, vo gạo đồ xôi để chuẩn bị cho mâm lễ dâng
lên cảm tạ Ông một đã chữa khỏi bệnh. Khi chuẩn bị xong, mâm lễ của các con nuôi

được rải trên là chuối, gồm có 1 con gà hoặc 1 con lợn, 1 nải chuối, 1 bát gạo, 2 chén
rượu, 3 mét vải…Sau đó, lần lượt từng người con nuôi dâng lễ để làm lễ cúng, khấn
cho các con nuôi8.
Như vậy có thể thấy các điều kiện về người nhận con nuôi theo phong tục tập
quán chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân thiết thực từ đời sống, cũng giống như
quy định của pháp luật, phong tục tập quán nhận con nuôi cho phép người nhận nuôi
có thể nuôi nhiều con nuôi. So với luật nuôi con nuôi năm 2010 thì các quy định về
điều kiện liên quan đến người nhận con nuôi theo phong tục tập quán không được
quy định cụ thể và rõ ràng như các quy định của pháp luật.
So với phong tục tập quán nhận con nuôi pháp luật đã chia điều kiện đối với
người nhận con nuôi thành hai trường hợp là trường hợp người nhận nuôi là cá nhân
và trường hợp con nuôi của cả hai người là vợ chồng.

 Người nhận nuôi là cá nhân:
Theo quy định của pháp luật thì để đảm bảo cho việc cha mẹ nuôi có thể thực
hiện tốt chức năng làm cha làm mẹ của mình đối với con nuôi thì người nhận nuôi
phải có đầy đủ các điều kiện sau: người nhận con nuôi phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có điều kiện bảo đảm việc chăm sóc, nuôi
dưỡng giáo dục con nuôi chưa thành niên, có tư cách đạo đức tốt. Bên cạnh đó phong
8

Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La: Các lễ hội, [ngày truy cập
1/2/2013]

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

21

SVTH: Huỳnh Thị Hương Thảo



×