Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP bồi THƯỜNG THIỆT hại DO xâm PHẠM đến tài sản THEO PHÁP LUẬT dân sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.52 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA : 2008 – 2012
ĐỀ TÀI:

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM ĐẾN
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S Tăng Thanh Phương

Lê Yến Nhi

Bộ môn: Tư pháp

MSSV: 5085827
Lớp: Tư pháp 1 - K34

Cần Thơ, tháng 5 năm 2012


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô Khoa Luật và các


thầy, cô đã từng dạy tôi trên giảng đường đại học. Chính thầy, cô là những người đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báo, giúp tôi hiểu biết rất nhiều kiến thức bổ
ích, không chỉ trong học tập mà cả kiến thức bên ngoài xã hội. Nhờ vậy, mà tôi thấy
mình ngày càng trưởng thành hơn và có được như ngày hôm nay. Thứ hai, tôi xin
gửi lời cảm ơn đến các anh, chị và các bạn của tôi. Những người đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong việc tìm kiếm, thu thập tài liệu, trao đổi và thảo luận cùng tôi để đưa ra
hướng giải quyết những khó khăn khi tôi mắc phải trong quá trình nghiên cứu đề tài
này. Cuối cùng tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đặc biệt đến cô: Tăng Thanh

Phương - người đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình làm luận văn, để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn của mình.
Do đây là lần đầu tiên nghiên cứu đề tài khoa học và trình độ, kiến thức còn
hạn hẹp, tài liệu tham khảo không nhiều. Cho nên việc nghiên cứu còn nhiều điểm
thiếu chặt chẽ và sai sót. Kính mong được sự đóng góp từ quý thầy, cô, các bạn
Khoa Luật và các cán bộ có trình độ chuyên môn liên quan để giúp bài viết được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!.
Sinh viên thực hiện

LÊ YẾN NHI


 NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………….…
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………


 NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


BẢNG VIẾT TẮT



BLDS

Bộ luật Dân sự


BLTTDS

Bộ luật tố tụng Dân sự

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

NQ

Nghị quyết

SL

Sắc lệnh

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TT

Thông tư

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ............................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ......................................................................... 3
5. Kết cấu của đề tài.............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM
PHẠM ĐẾN TÀI SẢN ...................................................................................... .5
1.1 Các khái niệm cơ bản.................................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại........................................ 5
1.1.2 Khái niệm về tài sản ............................................................................... 6
1.1.3 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản ..
.................. ..................................................................................................... 9
1.2.3.1 Định nghĩa ........................................................................................ 9
1.1.3.2 Đặc điểm về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản ............. 10
1.2 Lịch sử phát triển của chế định bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài
sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam từ 1945 đến nay .................................... 12
1.2.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản từ năm 1945
đến trước khi có Bộ luật Dân sự 1995. ................................................................ 12
1.2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản từ khi có Bộ
luật Dân sự 1995 đến trước khi có Bộ luật Dân sự 2005...................................... 14
1.2.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản từ khi có Bộ
luật Dân sự 2005 đến nay.................................................................................... 15
1.3 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản....................... 16

1.3.1 Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời ........................................... 16
1.3.2 Nguyên tắc thỏa thuận bồi thường ........................................................ 17
1.3.3 Nguyên tắc giảm trách nhiệm bồi thường.............................................. 17
1.3.4 Nguyên tắc thay đổi mức bồi thường .................................................... 18


1.4 Vai trò của pháp luật đối với việc quy định về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm đến tài sản............................................................................................... 19
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM
PHẠM ĐẾN TÀI SẢN ..................................................................................... 21
2.1 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài
sản............... ...................................................................................................... 21
2.1.1 Có thiệt hại xảy ra.............................................................................. 21
2.1.2 Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại................................................ 22
2.1.3 Có lỗi của chủ thể gây thiệt hại .......................................................... 24
2.1.3.1 Lỗi cố ý ........................................................................................ 24
2.1.3.2 Lỗi vô ý........................................................................................ 25
2.1.3.3 Bồi thường thiệt hại không cần yếu tố lỗi ..................................... 26
2.1.4 Có mối nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra ......... 28
2.2 Xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm ................................................ 29
2.2.1 Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng....................................... 29
2.2.2 Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản ............................ 30
2.2.3 Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.............. 31
2.3 Chủ thể của quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
tài sản ......... ...................................................................................................... 31
2.3.1 Chủ thể được bồi thường ................................................................... 32
2.3.2 Chủ thể phải bồi thường..................................................................... 32
2.3.2.1 Cá nhân ........................................................................................ 32
2.3.2.2 Pháp nhân..................................................................................... 35
2.3.2.3 Nhà nước...................................................................................... 36

2.4 Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại...................................... 38
2.4.1 Khái niệm thời hiệu ........................................................................... 38
2.4.2 Cách tính thời hiệu............................................................................. 38
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ…....... 41
3.1 Các quy định của pháp luật về xác định thiệt hại chưa đầy đủ ................ 41
3.1.1 Thiệt hại về vật chất ................................................................................ 41


3. 1.2 Thiệt hại về tinh thần.............................................................................. 43
3.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại mang tính khả thi không cao ................ 44
3.3 Xác định mức bồi thường chưa hợp lý....................................................... 47
3.4 Khó khăn trong việc xác định trách nhiệm bồi thường do người chưa thành
niên gây ra đang thời gian học ở trường.......................................................... 49
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trên thực tế hiện nay, hành vi xâm phạm đến tài sản diễn ra ngày càng nhiều,
theo chiều hướng gia tăng và mức độ xâm phạm ngày càng nghiêm trọng và phức
tạp hơn. Do đó, gây ra nhiều thiệt hại, tổn thất lớn cho chủ sở hữu tài sản. Ví dụ
như: Vụ cháy nhà ở Bình Định, vì do vô ý mà bà Nguyễn Thị Lan đã làm cháy hoàn
toàn 5 căn nhà và 3 căn còn lại bị cháy một nửa. Số tiền mà bà phải bồi thường cho
những người bị thiệt hại là 1 tỷ đồng. Hay vụ đổ thuốc sâu vào ao tôm ở Hà Tĩnh, vì
mâu thuẫn cá nhân mà ông Dương Hải Lý đã mua 3 gói thuốc sâu FORFOX 400 EC

thả xuống ao tôm hàng xóm, làm cho tôm của họ bị chết hàng loạt, nổi trắng ao.
Thiệt hại về tài sản là 100 triệu đồng, Tòa án đã xét xử ông Dương Hải Lý về tội
hủy hoại tài sản của người khác và ông Lý phải bồi thường thiệt hại về hành vi của
mình gây ra. Ngày nay, thiệt hại về tài sản có thể xảy ra do nhiều tác động khác
nhau cũng có thể là do những tác động khách quan, cụ thể là do tài sản gây ra nhưng
chủ yếu là do hành vi trái pháp luật của con người mà gây ra thiệt hại. Khi tài sản bị
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra thì chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp tài sản, có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường
thiệt hại cho mình. Đây là quy định được pháp luật cho phép đối với chủ sở hữu,
người chiếm hữu có tài sản bị xâm phạm. Vì vậy, quyền yêu cầu người khác bồi
thường thiệt hại do hành vi sai trái của người gây thiệt hại cho tài sản mình là quyền
được quy định bởi Bộ luật Dân sự hiện hành. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về tinh thần, phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của chủ thể gây thiệt hại. Tuy
nhiên, thiệt hại về tài sản thì trách nhiệm bồi thường là trách nhiệm chỉ bồi thường
thiệt hại về vật chất. Thiệt hại về vật chất là những tổn thất thực tế, tính được thành
tiền bao gồm: Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc
sử dụng và khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt
hại. Còn thiệt hại về tinh thần không được xem xét để bồi thường khi tài sản bị xâm
phạm. Trong thực tế có những tài sản bị thiệt hại đã làm cho chủ sở hữu phải mất
ăn, mất ngủ, đau buồn làm cho tinh thần bị suy sụp. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về
tinh thần trong một số trường hợp cần phải xem xét để bồi thường cho người bị thiệt
hại khi tài sản bị xâm phạm. Hiện nay, việc quy định của pháp luật còn nhiều thiếu
sót cần phải sửa đổi, bổ sung để cho pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn. Nhằm
đảm bảo tính công bằng cho các bên chủ thể của quan hệ bồi thường thiệt hại do
xâm phạm đến tài sản và nhất là chủ thể bị thiệt hại.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

1


SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản đã được luật hóa
tại Bộ luật Dân sự 2005, tại chương XXI “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng”, (từ Điều 604 đến Điều 630 BLDS 2005), và các văn bản hướng dẫn thi
hành cụ thể là Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08 tháng 7 năm 2006,
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Mặc dù, đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản nói riêng. Tuy nhiên, ở nước
ta các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này cũng như việc áp dụng các quy
định đó còn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, về sự đầy đủ, tính thống nhất
và các yêu cầu khác của một thể chế pháp luật trong xã hội đang phát triển không
ngừng. Các quy định của pháp luật, khi xác định thiệt hại, chủ thể được bồi thường,
chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cũng như thực trạng áp dụng pháp
luật của Tòa án khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn tồn tại khá nhiều
bất cập. Chính vì lẽ đó, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bồi thường
thiệt hại, trong đó có trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản là
một yêu cầu hết sức cần thiết đối với Việt Nam chúng ta hiện nay. Xuất phát từ đó,
người viết quyết định chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản theo
pháp luật Dân sự Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cử
nhân luật của mình. Trong đề tài này, người viết nghiên cứu tìm hiểu về lý luận, các
quy định của pháp luật cũng như những bất cập trong việc áp dụng pháp luật trên
thực tế để từ đó đưa ra những phương hướng hoàn thiện cho chế định này, cho việc
áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản dễ dàng, giúp
thuận lợi hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là người
viết với mục đích làm rõ chế định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm đến tài sản, cũng như, tìm hiểu việc áp dụng về pháp luật bồi thường thiệt hại
do xâm phạm đến tài sản trên thực tế. Qua đó, giúp ta hiểu rõ hơn về các quy định
của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản, chẳng hạn
như căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, nguyên tắc bồi thường, chủ thể chịu
trách nhiệm bồi thường trong quan hệ về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài
sản. Từ việc tìm hiểu và phân tích các quy định của pháp luật để từ đó chỉ ra những
bất cập, hạn chế của quy định trong các quy định của pháp luật, cũng như thực tiễn
áp dụng pháp luật trên thực tế. Thông qua đó, đưa ra kiến nghị và phương hướng
hoàn thiện các quy định của pháp luật và khắc phục những vướng mắc trong thực

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

2

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản. Nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại
do xâm phạm đến tài sản được tốt hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định của pháp luật dân sự.
Nội dung của chế định này tương đối rộng. Bao gồm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của chủ thể khác…
Nhưng đề tài này người viết chỉ đi sâu vào nghiên cứu quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt ngoài hợp đồng mà cụ thể là “ Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
tài sản”, mà không đi vào nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp

đồng và các trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác ngoài hợp đồng. Tài sản trong đề
tài này là người viết chỉ nghiên cứu đối với tài sản là vật hữu hình. Trong phần
nghiên cứu này người viết chủ yếu tìm hiểu về phương lý luận, pháp lý và thực
trạng của việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Trong vấn đề pháp lý, người viết
chỉ tập trung phân tích các quy định hiện hành về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
đến tài sản chủ yếu dựa vào Bộ luật Dân sự 2005, một số Điều của Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà Nước 2009 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7
năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Trong phần thực tiễn
thì người viết tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm đến tài sản, từ đó tìm ra những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về bồi
thường thiệt hại do xâm đến tài sản và đưa ra hướng hoàn thiện để khắc phục những
hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện hành.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, người viết sử dụng các phương pháp
sau: Trước tiên, để có tài liệu tham khảo cho luận văn của mình người viết đã thu
thập, tìm kiếm tài liệu, chọn lọc và sắp xếp cho phù hợp với từng nội dung của luận
văn. Tiếp đến, trong quá trình viết người viết sử dụng các phương pháp phân tích
luật viết, các biện pháp liệt kê, so sánh giữa các quy định của pháp luật với nhau.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp phân tích, phương pháp quy nạp, diễn dịch, thống kê, tổng hợp cũng được sử
dụng trong quá trình thực hiện đề tài này.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

3

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam

5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm có ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản.
Chương 2. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
tài sản.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
tài sản và một số kiến nghị.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

4

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM ĐẾN
TÀI SẢN
Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là một phần của chế định bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chương lý luận này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
khái niệm, đặc điểm và lịch sử của việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài
sản cũng như nguyên tắc bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản.
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trong thực tiễn hình thành và phát triển của xã hội, hành vi gây thiệt hại
thì phải bồi thường, nếu bên bị xâm phạm và bị thiệt hại là lợi ích được cộng đồng,
nhà nước bảo vệ. Do vậy, chế định bồi thường thiệt hại là một trong những chế định
pháp lý xuất hiện sớm trong lịch sử pháp luật dân sự. Trải qua các thời kỳ lịch sử

khác nhau thì việc bồi thường thiệt hại được quy định khác nhau về chủ thể, điều
kiện, hình thức và phương thức bồi thường.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì bồi thường thiệt hại được
BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và
Chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong
cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm bồi thường mà chỉ nêu lên
căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường và thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Để hiểu được nội dung và đưa ra được khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là gì, thì trước tiên ta cần làm rõ những vấn đề sau: Trách nhiệm pháp lý là gì và
thiệt hại là gì. Khi làm rõ được hai vấn đề này thì ta sẽ rút ra được khái niệm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Thứ nhất, trách nhiệm pháp lý được hiểu như sau: “trách nhiệm pháp lý là
hậu quả bất lợi (sự trừng phạt), đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối
quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước và các chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy
phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu
những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy
phạm pháp luật”1 Như vậy, theo cách định nghĩa trên thì trách nhiêm pháp lý được
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật, được Nhà nước áp dụng đối với những chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật và các chủ thể này phải chịu những hậu quả bất lợi
khi áp dụng các biện pháp chế tài của pháp luật. Trách nhiệm pháp lý không những
1

Xem: Đại học luật Hà Nội, “Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
2009, Tr.508

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

5


SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
trừng trị đối với những chủ thể vi phạm pháp luật, mà còn quy định trách nhiệm bồi
thường những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật gây ra cho chủ thể khác, nhằm
khắc phục lại hậu quả mà người vi phạm pháp luật gây ra.
- Thứ hai, thiệt hại là gì: thiệt hại là những tổn thất thực tế, là sự mất mát, thay
đổi tình trạng tài sản theo hướng xấu do tài sản của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm
hoặc giảm súc, suy sụp về tinh thần mà một bên chủ thể phải gánh chịu khi có
hành vi trái pháp luật gây ra. Nói tóm lại, thiệt hại bao gồm hai loại thiệt hại về vật
chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất chủ yếu là thiệt hại về tài sản,
tính mạng và thiệt hại về tinh thần gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng trong luật Dân sự Việt Nam
và ra đời từ rất sớm.2 Chế định này nhằm bảo vệ người bị thiệt hại trước hành vi trái
pháp luật của người gây thiệt hại. Do đó, Bộ luật dân sự 2005 đã dành riêng một
Chương XXI quy định điều chỉnh về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, được ghi nhận cụ thể tại Điều 604 BLDS 2005: “Người nào do lỗi cố ý hoặc
vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền
lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Vậy, theo pháp luật
Dân sự hiện hành thì người nào gây ra thiệt hại mà có lỗi thì phải bồi thường cho
người bị thiệt hại.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể hiểu: Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là trách nhiệm dân sự phát sinh khi có hành vi xâm phạm các lợi ích được pháp
luật dân sự bảo vệ (tính mạng, sức khỏe, tài sản…) và gây thiệt hại. Theo đó người
gây thiệt hại phải bồi thường những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần cho người bị
xâm phạm lợi ích được pháp luật dân sự bảo vệ. Bồi thường thiệt hại là một loại
quan hệ dân sự phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì

người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại cả thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần.
1.1.2 Khái niệm tài sản
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ pháp luật Dân sự nói riêng. Vì quan hệ tài sản là thuộc đối tượng điều chỉnh

2

Hoàng Thế Liên, “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005” (Tập II), Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và
hợp đồng dân sự. Nxb. Chính trị Quốc gia, 2009, tr 700.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

6

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
cốt yếu nhất của ngành Luật Dân sự. Thuật ngữ “tài sản” (biens – property) có thể
được hiểu theo hai cách:3
- Thứ nhất: Về phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử dụng.
Của cải là một khái niệm luôn luôn biến đổi và hoàn thiện cùng với sự phát triển
của quan niệm về giá trị vật chất. Ở xã hội La Mã cổ xưa, nhắc đến tài sản người ta
liên tưởng ngay đến những của cải trong gia đình như ruộng đất, nhà cửa, gia súc…
Còn trong xã hội hiện đại ngày nay, ngoài của cải trong gia đình, thì còn có một số
loại tài sản đặc biệt như năng lượng mặt trời, thủy năng, phần mềm máy tính.
- Thứ hai: Trong ngôn ngữ thông dụng hằng ngày, tài sản là một vật cụ thể mà có
thể nhận biết bằng các giác quan và được con người sử dụng trong đời sống hằng
ngày. Vì vậy, tài sản được nói đến ở đây chỉ là tài sản hữu hình mà thôi.

Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1995, tại
Điều 172. Tiếp đó, Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 (Bộ luật Dân sự hiện hành) quy
định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Khái niệm tài
sản theo bộ luật Dân sự 2005 đã mở rộng hơn Bộ luật Dân sự 1995 về những đối
tượng nào được coi là tài sản, theo đó, không chỉ những “vật có ở hiện tại” mới
được gọi là tài sản mà cả những vật hình thành trong tương lai cũng được gọi là tài
sản. Tuy nhiên, cũng giống như Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 cũng
đưa ra khái niệm tài sản theo hình thức liệt kê. Theo quy định này thì tài sản được
liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền
tài sản.
- Vật: Vật là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có
thể cảm giác được bằng các giác quan của mình ví dụ xe, nhà, gia súc… Vật chỉ có
ý nghĩa khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật. Nếu bộ phận của thế
giới vật chất mà con người không thể kiểm soát, chiếm hữu được nó thì đồng nghĩa
với việc con người không thể tác động được vào nó. Do đó, không khí, gió, mưa
thuộc về vật chất nhưng không thể coi là tài sản về mặt pháp lý. Hơn nữa, là đối
tượng trong quan hệ pháp luật, vật phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ thể
trong quan hệ. Như vậy, không phải mọi vật điều được xem là tài sản, muốn trở
thành tài sản thì vật phải thỏa mãn những điều kiện sau: Là bộ phận của thế giới vật
chất; con người chiếm hữu được; mang lại lợi ích cho chủ thể; có thể đang tồn tại
hoặc hình thành trong tương lai.
- Tiền: Tiền theo kinh tế chính trị học, là giá trị đại diện cho giá trị thực của
hàng hóa.4 Tiền là vật ngang giá chung được dùng làm thước đo giá trị của các loại
3

TS. Nguyễn Ngọc Điện, “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam”, (tập 1), Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ,
2008, tr. 99.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương


7

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
tài sản khác. Vì vậy tiền được xem là loại tài sản đặc biệt. Ngoài ra, về mặt chính
trị, tiền còn là đại diện cho chủ quyền của một quốc gia. Do đó, đòi hỏi người có
tiền (chủ sở hữu) không thể có toàn quyền định đoạt loại tài sản đặc biệt này mà
phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt của Nhà nước. Theo quy định của BLDS
2005 đã bỏ qua quy định tiền thanh toán phải là tiền Việt Nam như quy định tại
BLDS 1995 nên về mặt pháp lý tiền có thể được hiểu là nội tệ và ngoại tệ. Tuy
nhiên, ngoại tệ là loại tài sản hạn chế lưu thông chứ không được lưu hành rộng rãi
như tiền Việt Nam. Do đo, tiền có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
- Giấy tờ có giá: Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân
sự hiện nay đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác. Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao
được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay được tồn tại dưới nhiều dạng
khác nhau như: séc, cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, công trái, hối phiếu, kỳ phiếu…
Khác với tiền chỉ do cơ quan duy nhất là Ngân hàng Nhà nước ban hành thì giấy tờ
có giá có rất nhiều cơ quan ban hành như: Chính phủ, ngân hàng, kho bạc và các
công ty cổ phần. Việc thực hiện quyền định đoạt về số phận thực tế đối với giấy tờ
có giá cũng không bị hạn chế như việc định đoạt tiền.
Cần lưu ý là các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài
sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
giấy đăng ký ôtô, sổ tiết kiệm không phải là giấy tờ có giá. Nó chỉ được coi là một
vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên vật đó.
- Quyền tài sản: Quyền tài sản được định nghĩa tại Điều 181, BLDS 2005 là
quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả
quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó thì quyền tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự

được phép của chủ thể mang quyền. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự
chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền này phải trị giá
được bằng tiền hay nói cách khác phải tương đương với một đại lượng vật chất nhất
định. Quyền tài sản thì có rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản nào có thể trở
thành đối tượng trong các giao dịch dân sự thì mới coi là tài sản tại Điều 163 BLDS
2005. Hiện nay, pháp luật Dân sự Việt Nam công nhận một số quyền tài sản như
quyền sử dụng đất, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm,
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng, quyền đòi nợ.

4

TS. Nguyễn Ngọc Điện, “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam”, (tập 1), Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ,
tr. 103.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

8

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
Tóm lại, tài sản bao gồm của cải, vật chất và những gì mang lại lợi ích cho con
người đồng thời phải trị giá được bằng tiền. Ngoài ra, của cải hay vật chỉ có thể là
tài sản nếu chúng thuộc sở hữu của một chủ thể trong quan hệ pháp luật Dân sự.
1.1.3 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
tài sản
1.1.3.1 Định nghĩa
Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là một phần của chế định bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là
hình thức của trách nhiệm dân sự nhằm buộc người có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm
đến tài sản của người khác thì phải bồi thường. Luật không nêu rõ khái niệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là gì mà chỉ đưa ra những căn cứ bồi
thường, nguyên tắc bồi thường, xác định thiệt hại để bồi thường, chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm
phạm. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là trách nhiệm dân sự, đó là
trách nhiệm tài sản, nhằm khôi phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại do hành
vi trái pháp luật gây ra. Căn cứ quan trọng để được bồi thường là phải có thiệt hại
xảy ra và thiệt hại đó phải tính được thành tiền. Nếu có hành vi trái pháp luật xâm
phạm đến tài sản, nhưng không có thiệt hại xảy ra, thì việc phải bồi thường không
được xem xét. Do đó, căn cứ quan trọng để xác định xem có phải bồi thường hay
không, điều kiện bắt buộc là phải có thiệt hại xảy ra. Tại Điều 608 BLDS 2005 quy
định cách xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm: “Tài sản bị mất; bị hủy hoại
hoặc hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để
ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.” Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm
khắc phục lại tình trạng tài sản của người bị thiệt hại do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền áp dụng. Tuy nhiên, việc khôi phục tình trạng tài sản bằng biện pháp bồi
thường thiệt hại của người gây thiệt hại không phải bao giờ cũng đem lại kết quả
như mong muốn. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau, người gây ra thiệt hại không
thể bồi thường thiệt hại và người bị thiệt hại không thể phục hồi lại tình trạng tài sản
ban đầu như trước khi bị thiệt hại. Bởi vậy, cần có cơ chế khác và các hình thức
khác để khắc phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại. Ví dụ: Các loại hình bảo
hiểm đang đi theo hướng này và ngày càng đóng vai trò quan trọng, có hiệu quả
nhằm phục hồi, khắc phục những tổn thất của người bị thiệt hại do hành vi trái pháp
luật gây ra.5 Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản không chỉ nhằm bảo đảm
việc đền bù thiệt hại do tài sản bị xâm phạm của người bị thiệt hại mà còn giáo dục
5

Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật Dân sự Việt Nam 2008”, (tập 2), Nxb. Công an nhân dân, tr.

442.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

9

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản XHCN, lợi ích hợp pháp của
người khác. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này luôn mang đến những bất lợi
về tài sản của người gây thiệt hại cho chủ thể khác. Buộc chủ thể gây thiệt hại phải
bồi thường cho người bị thiệt hại một khoản tiền hoặc một tài sản khác tương đương
với tài sản bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra. Ví dụ: A làm hỏng
xe máy của B, thiệt hại được xác định là 5 triệu đồng, số tiền mà B đã bỏ ra để sửa
chữa xe. Vậy, A phải bồi thường cho B phải là 5 triệu đồng.
Qua phân tích các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung có thể hiểu: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là loại
trách nhiệm dân sự mang tính tài sản. Trách nhiệm này phát sinh khi có hành vi
xâm phạm của con người với lỗi cố ý hoặc vô ý, mà gây thiệt hại đến tài sản của
pháp nhân hoặc của chủ thể khác thì phải bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
1.1.3.2 Đặc điểm về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản
Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là một loại trách nhiệm
pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như: Áp dụng
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho
người bị áp dụng, được đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước… thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản có những đặc điểm sau đây:
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản là

một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một
người gây ra tổn thất về tài sản cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và
bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được
quy định trong BLDS Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành
BLDS, cụ thể là Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006. Tại
Điều 307 BLDS quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên
vi phạm gây ra, tổn thất về tài sản bao gồm tài sản bị mất; bị hủy hoại hoặc bị hư
hỏng; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại.6 Ví dụ tài sản bị hư
hỏng thì người gây thiệt hại phải bồi thường một số tiền để sửa chữa tài sản bị hư
hỏng đó.
- Về điều kiện phát sinh: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản chỉ đặt ra
khi thỏa mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại
6

Xem: Điều 608 BLDS 2005.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

10

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
là hành vi trái pháp luật có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt
hại xảy ra có lỗi của người gây thiệt hại. Đây là những điều kiện chung nhất để xác
định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại của người gây ra
thiệt hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt

hại do xâm phạm đến tài sản có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên,
điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Trong trường hợp
này thì chỉ cần có thiệt hại xảy ra là có thể tính toán đến việc bồi thường cho người
bị thiệt hại.
- Về hậu quả: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản luôn
mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một
người gây ra tổn thất cho người khác, thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền
hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định. Việc bồi
thường thiệt hại sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. Do đó, người
gây ra thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại với khoản tiền hoặc hiện vật
tương đương với thiệt hại đó. Vì vậy, sẽ làm giảm đi tài sản của người gây thiệt hại
mà họ đang có, nên khi họ gây thiệt hại cho người khác thì sẽ không có lợi ích gì
cho họ cả mà trái lại là điều bất lợi đối với họ nữa.
Ví dụ: Ông N có con bò buộc gần nhà, chẳng may con bò bị tuột mất dây và đi chỗ
khác kiếm ăn. Nhưng con bò đã đi sang ruộng của ông B và giẫm nát luống rau của
ông B có trị giá là 500.000 đồng. Do đó, ông A phải bồi thường cho ông B là
500.000 đồng.
- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Được áp dụng trước tiên đối với người trực
tiếp có hành vi gây thiệt hại. Ngoài ra, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm đến tài sản còn được áp dụng đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của
người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân với
người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác
như cơ sở dạy nghề. Điều đó có nghĩa là không phải người nào gây thiệt hại thì bắt
buộc người đó phải có trách nhiệm bồi thường, vì có trường hợp người gây thiệt hại
là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người được giám hộ,
người của pháp nhân. Nên có trường hợp người gây thiệt hại là một người khác,
người có trách nhiệm bồi thường là một người khác. Ví dụ: Trong một khóa học
ngoại khóa, em S là học sinh lớp 5 đã làm hỏng một số hoa màu của ông H. Trong
tình huống này, em S là người trực tiếp gây ra thiệt cho ông H, nhưng trách nhiệm

bồi thường thuộc về nhà trường. Vì theo Khoản 1 Điều 621 BLDS thì người dưới
mười lăm tuổi đang học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

11

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
thiệt hại xảy ra. Do đó, em S đang học lớp 5 là người dưới 15 tuổi, đang học tại
trường nên không có trách nhiệm bồi thường, nên nhà trường phải bồi thường thiệt
hại cho ông H trong tình huống này.
- Đối tượng bị xâm phạm: Nếu đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung có thể là sức khỏe, tính mạng, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản. Thì đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm đến tài sản chỉ là tài sản mà thôi. Trong trường hợp xâm
phạm đến tài sản, thường được thông qua hành vi của con người dưới dạng hành
động, trong sự tác động của quá trình nhận thức cũng như ý thức tôn trọng lợi ích
của chủ thể khác và ý thức chấp hành pháp luật của con người. Nếu chủ thể có hành
vi xâm phạm đến tài sản của người khác, có lỗi và gây thiệt hại thì phải bồi thường
cho người bị thiệt hại.
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của chế định bồi thường thiệt hại do
xâm phạm đến tài sản từ 1945 đến nay
1.2.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ năm 1945 đến trước năm 1995
Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, đánh dấu một bước ngoặc mới
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một Nhà nước non trẻ đối phó với
nhiều vấn đề phức tạp về chính trị, văn hóa, xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà
nước là phải bảo vệ cũng cố thành quả cách mạng. Nên ngay lúc này Nhà nước ta

chưa thể ban hành được các văn bản quy phạm pháp luật ngay. Để điều chỉnh các
quan hệ xã hội diễn ra hằng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lần lượt ký Sắc lệnh số
90/SL ngày 10/10/1945 và Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 thừa nhận luật lệ cũ trên
tinh thần không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa của Nhà
nước ta. Những quy định trong Sắc lệnh 97/SL đã đặt nền móng cho sự hình thành
và phát triển của luật dân sự. Lần đầu tiên những nguyên tắc thực sự dân chủ, tiến
bộ mang tính nhân dân sâu sắc được pháp điển hóa như nguyên tắc: “Những quyền
dân sự điều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của người
dân” hay “người ta chỉ được hướng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu tài
sản của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân
dân”. Do nhiệm vụ cấp thiết nên hai bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 vẫn
không có quy định nào đề cập đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị
xâm phạm, nhưng những quy định khác liên quan đến tài sản thì được nhắc đến, đó
là quyền tư hữu tuyệt đối của cá nhân đối với tài sản.
Tiếp đến, ngày 23 tháng 3 năm 1972, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư
hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Thông tư số 173TANDTC, ngày 23/3/1972). Theo thông tư này, để xác định một chủ thể có phải

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

12

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
chịu trách nhiệm bồi thường hay không cần phải căn cứ vào bốn yếu tố: Có thiệt hại
xảy ra; hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; có quan hệ nhân quả giữa thiệt
hại và hành vi trái pháp luật; lỗi của người gây thiệt hại. Nguyên tắc bồi thường là
thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu, tức là phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, cần xem xét mức độ thiệt hại và khả

năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, lỗi của người bị thiệt hại
để ấn định mức bồi thường thấp hơn mức độ thiệt hại. Theo thông tư này, thì cách
tính toán mức độ thiệt hại do tài sản bị xâm phạm như sau: Có thể giải quyết việc
bồi thường thiệt hạ về tài sản bằng hai cách, bồi thường bằng hiện vật hoặc bồi
thường bằng tiền. Đối với tài sản thuộc loại hàng hóa mua bán tự do và giá cả ổn
định, thì việc tính thiệt hại dựa vào giá bán lẻ của mặt hàng đó. Nếu hàng hóa mua
bán tự do, nhưng giá cả không ổn định, thì tính thiệt hại dựa vào giá bán lẻ khi hòa
giải hoặc xét xử. Đối với tài sản được phân phối theo tem phiếu thì nội dung thiệt
hại bao gồm giá trị của tài sản mua theo tem phiếu. Tính toán thỏa đáng tỷ lệ hao
mòn của tài sản từ khi còn mới nguyên cho đến khi xảy ra thiệt hại. Nếu hao mòn
không đáng kể thì không tính. Thông tư này quy định chi tiết về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tài sản bị xâm phạm nói riêng. Có thể nói, đây là văn bản đầu tiên quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm chi tiết nhất, cụ thể nhất từ trước
đến nay. Đây là bước ngoặc đánh dấu sự phát triển của pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật Dân sự nói riêng. Đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm đến tài sản.
Hiến pháp 1980 tại Điều 70 cũng có quy định “công dân có quyền được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm.” Tài sản ngày
càng được pháp luật quan tâm bảo vệ hơn. Đến Hiến pháp 1992 bên cạnh những giá
trị về tinh thần như danh dự, nhân phẩm của con người được pháp luật ngày càng
quan tâm, chú trọng. Thì song song đó, thì quyền sở hữu tài sản của cá nhân cũng
được pháp luật bảo hộ. Tại Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định “công dân có quyền
sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở và tài sản khác...”7 Hiến pháp
1992 không chỉ chú trọng về các thiệt hại về tinh thần mà còn quan tâm đến những
thiệt hại về vật chất của con người.
Với những quy định trên đã đặt nền tảng cho việc chế định bồi thường thiệt
ngoài hợp đồng nói chung và bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản nói
riêng được nâng lên thành luật.
7


Xem: Điều 58 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

13

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
1.2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản từ khi có
Bộ luật Dân sự 1995 đến trước khi có Bộ luật Dân sự 2005.
Sau một thời gian dài đất nước ta bước vào thời kỳ ổn định và tiếp tục phát
huy tinh thần của Hiến pháp 1992, đánh dấu sự phát triển của pháp luật Việt Nam
Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời và các văn bản hướng dẫn giải quyết về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm đến tài sản, pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn. Bộ luật Dân
sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành ngày 28 tháng 10
năm 1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 1996. Sự ra đời của Bộ
luật Dân sự là một bước tiến quan trọng trong việc khẳng định và cụ thể hóa những
quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực dân sự đã được Hiến pháp năm 1992 ghi
nhận, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác, bảo đảm an toàn trong quan hệ pháp luật dân sự, góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đặc
biệt là Bộ luật dân sự dành riêng một Chương V để quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
tài sản. Vì vậy, các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được ghi nhận
trong Bộ luật này. Bộ luật Dân sự 1995 là Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước ta. Bộ
luật này quy định đầy đủ hơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng so
với Thông tư 173-TANDTC. Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật Dân sự 1995 về

bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản mang tính chất kế thừa và đồng thời
phát triển một bước quan trọng của pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm đến tài sản nói riêng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
chung.8 Nói Bộ luật Dân sự 1995 mang tính kế thừa là ở chỗ những quy định của
Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản cũng không có sự
khác biệt lớn với những quy định của Thông tư số 173-TANDTC ngày 23 tháng 3
năm 1972 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, nguyên tắc bồi thường do
xâm phạm đến tài sản. Bộ luật Dân sự 1995 và Nghị quyết 01/2004/NQ-HĐTP, đây
là những văn bản ghi nhận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài
sản với những quy định này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng những quy
định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản trên thực tế được thuận lợi
hơn.

8

Vụ pháp luật Dân sự - Kinh tế Bộ tư pháp “Tìm hiểu Bộ luật Dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”, NXB. TPHCM, tr.10.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

14

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
1.2.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản từ khi có
Bộ luật Dân sự 2005 đến nay.
Sau thời gian áp dụng, BLDS 1995 đã không còn phù hợp với thực tế trong giai
đoạn đất nước đang phát triển và hội nhập như hiện nay, nên yêu cầu phải sửa đổi,

bổ sung BLDS 1995. Vì lý do đó, vào ngày 14 tháng 6 năm 2005 Quốc hội nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 7 đã thông qua Bộ luật
Dân sự 2005. Theo BLDS 2005 thì căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng được quy định tại Điều 604 “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi
ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Để đưa những Điều
luật đi vào thực hiện trên thực tế, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã
ban hành Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng BLDS 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong đó có quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm đến tài sản. Theo Nghị quyết 03/2006 thì căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường cũng giống như các quy định của Bộ luật Dân sự 1995 bao
gồm các yếu tố sau: Phải có thiệt hại xảy ra, phải có hành vi trái pháp luật, phải có
mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật, phải có lỗi cố ý
hoặc vô ý của người gây thiệt hại. Nguyên tắc thực hiện việc bồi thường thiệt hại
phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, các bên có thể tự thỏa thuận việc bồi
thường, giảm mức bồi thường cho người gây thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại
phải phù hợp với thực tế.
So với các văn bản trước, quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì
Bộ luật Dân sự 2005 quy định cụ thể hơn, phù hợp hơn vì các văn bản trước không
có quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại như BLDS 2005.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự 2005 còn quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian
họ được trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý.9 Điều 621 BLDS
2005 quy định trong trường hợp người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực
hành vi dân sự gây thiệt hại cho tài sản của người khác trong thời gian học tại
trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lý, thì trường học, tổ chức khác phải bồi
thường thiệt hại xảy ra, nếu chứng minh được mình không có lỗi thì cha, mẹ hoặc
người giám hộ của người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, BLDS
2005 còn nhiều hạn chế như không quy định về bồi thường thiệt hại về tinh thần khi

9

Vụ công tác lập pháp “ Những nội dung mới của Bộ luật Dân sự năm 2005”, NXB. Tư pháp, tr. 36.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

15

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
tài sản bị xâm phạm, mức bồi thường còn chưa phù hợp, giảm mức bồi thường cho
người gây thiệt hại cũng không nêu rõ mà chỉ nêu ra tùy từng trường hợp mà có
hướng giải quyết khác nhau.
Những quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ
luật Dân sự 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006, đã
tạo cơ sở pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về bồi thường
thiêt hại do xâm phạm đến tài sản, đồng thời cũng giúp cho việc giải quyết tranh
chấp của Tòa án được thuận lợi và nhanh chóng.
1.3 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản
Xuất phát từ đặc điểm các quan hệ tài sản mà luật dân sự điều chỉnh cũng như
địa vị pháp lý các chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự, những điều kiện khách quan
cũng như chủ quan của người bị thiệt hại, tính khả thi của quyết định bồi thường.
Việc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất phát từ các
nguyên tắc cơ bản của BLDS 2005 được quy định từ Điều 4 đến Điều 12 tại
Chương I. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 605 BLDS và
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa

thuận mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà
gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế của người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường”.
1.3.1 Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời
Bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra là nguyên tắc
công bằng và hợp lý, cần bảo đảm thực hiện cho phù hợp với mục đích, ý nghĩa của
việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại là
khi tài sản bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS 2005
quy định trong trường hợp cụ thể đó, thiệt hại tài sản bị xâm phạm bao gồm những
thiệt hại nào và phải xác định được thiệt hại là bao nhiêu, thiệt hại đó phải tính được
thành tiền, để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương
xứng đó. Nói chung là gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu. Ví dụ:
K đốt cỏ bờ vô ý làm cháy cái chòi của Q và các tài sản khác trong chòi, xác định

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

16

SVTH: Lê Yến Nhi


Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam
thiệt hại trị giá 1 triệu đồng. Vậy trong trường hợp này K phải bồi thường toàn bộ
cho Q là 1 triệu đồng.
Bồi thường kịp thời là bồi thường đúng lúc người bị thiệt hại đang cần để

dùng vào việc hạn chế và khắc phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại, để thiệt
hại có thể được bồi thường kịp thời thì Tòa án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án
có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của
pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.
Ví dụ: D thấy có chiếc xe gắn máy của H (H làm nghề chạy xe ôm) đang dựng
trước cửa tiệm thuốc, chìa khóa còn trong ổ khóa, quan sát không thấy ai, D liền
nhảy lên xe nổ máy. Nghe tiếng xe nổ, H quay ra nhìn thấy D đang nổ máy xe của
mình liền tri hô. Nghe tiếng tri hô của H thì D càng chạy nhanh hơn và do không
làm chủ được tốc độ nên D đã lái xe đâm vào gốc cây to bên đường làm xe của H bị
hư hỏng nặng không thể chạy được nữa. Trong tình huống này thì D phải bồi
thường kịp thời cho H để sửa chữa lại chiếc xe. Vì xe này là phương tiện để H kiếm
tiền lo cho cuộc sống gia đình. Nếu không bồi thường kịp thời thì cuộc sống của H
sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
1.3.2 Nguyên tắc thỏa thuận việc bồi thường
Đây là nguyên tắc chủ đạo của ngành luật Dân sự. Theo nguyên tắc chung
thì thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, nhưng luật cho phép các bên
có quyền tự do thỏa thuận khác về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương
thức bồi thường. Các bên có thể thỏa thuận mức bồi thường cao hơn hoặc thấp hơn
mức thiệt hại; có thể thỏa thuận bồi thường bằng tiền, hiện vật hoặc bằng một công
việc cụ thể; các bên có thể thỏa thuận phương thức bồi thường là một lần hoặc nhiều
lần, bồi thường trực tiếp hay qua người thứ ba. Nhưng các thỏa thuận này không trái
với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, nếu các bên không thỏa thuận
được hoặc trong một số trường hợp pháp luật không cho phép thỏa thuận thì phải áp
dụng theo quy định của pháp luật là nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời.
1.3.3 Nguyên tắc giảm trách nhiệm bồi thường
Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, để đảm bảo tính khả
thi của bản án, quyết định của Tòa án, phù hợp với điều kiện thực tế của đương sự
tại khoản 2 Điều 605 BLDS 2005.10 Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức
bồi thường khi có đủ hai điều kiện:11

Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại
10
11

Xem: Điều 605 BLDS 2005.
Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP, ngày 08 tháng 7 năm 2006.

GVHD: Th.S Tăng Thanh Phương

17

SVTH: Lê Yến Nhi


×