Bài viết số 7 lớp 8 đề 1
Tuổi trẻ và tương lai đất nước. (Gợi ý : Trong thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Lời dạy của
Bác giúp em hiểu đề bài trên như thế nào ?)
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng biết rằng tuổi trẻ là một thành phần, yếu
tố quan trọng , ảnh hưởng đến tương lai đất nước, vì thế mà Bác đã căn dặn: “
Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt nam có bước
đến đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em”. Chúng ta cùng tìm
hiểu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước.
Tuổi trẻ là những công dân ở lứa thành niên, thanh niên… là thế hệ măng đã
sắp thành tre, là người đã đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận biết vai trò của
mình đối với bản thân, xã hội.
Tuổi trẻ của mỗi thời đại là niềm tự hào dân tộc, là lớp người tiên phong
trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước.
Tương lai đất nước là vận mệnh, là số phận của đất nước mà mỗi công dân sẽ
góp phần xây dựng, phát triển, trong đó quan trọng nhất là thế hệ trẻ. Thế kỉ
21, thế kỉ của sự phát triển, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá kinh tế,
đất nước. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì đòi hỏi
sự chung sức đồng lòng của tất cả mọi người mà lực lượng chủ yếu là tuổi
trẻ. Bởi đó là lực lượng nồng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp
phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho non sông Tổ quốc.
Tuổi trẻ hôm nay là tôi, là bạn, là những anh chị đang có mặt trên giảng
đường đại học, đang hoạt động bằng cả tâm huyết để cống hiến sức trẻ với
những đam mê cùng lòng nhiệt tình bốc lửa. Tuổi trẻ tốt thì xã hội tốt, còn xã
hội tốt sẽ tạo điều kiện cho tầng lớp trẻ phát triển toàn diện, sinh ra những
người con có ích cho đất nước, đó là điều tất yếu, hiển nhiên mà ai cũng biết.
Mỗi người chúng ta cũng đi qua thời tuổi trẻ- tuổi của sức mạnh phi thường,
của cái tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn và sẵn sàng hi sinh vì
nghĩa lớn. Sức mạnh vô sông của tuổi trẻ “ sông kia phải chuyển, núi kia phải
dời”. Chúng ta chỉ có một lần trong đời là tuổi trẻ vì vậy cần phải nắm bắt,
cần đóng góp sức lực cho đất nước.
Việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của mọi người, mọi công dân chứ
không phải của riêng ai. Nhưng với số lượng đông đảo hàng chục triệu người
thì lẽ nào tuổi trẻ lại không thể xây dựng đất nước. Chẳng lẽ chúng ta để cho
những cụ già đi khuân vác, lao động nặng, những phụ nữ phải ngày đêm làm
việc trong các nhà xưởng đầy khói bụi, những trẻ em phải phụ giúp gia đình
ngay còn nhỏ mà “quên” đi việc học hành, lúc đó chúng ta sẽ “làm” gì?
Chẳng lẽ ngồi không như một “người bị liệt”. Vì vậy chúng ta phải cố gắng
xây dựng đất nứơc như lời dặn của Bác: “ Các vua Hùng đã có công dựng
nước, thì Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Sinh ra ở đời ai cũng khao khát được sống hạnh phúc, sung sướng. Mỗi người
luôn tìm cho mình một lẽ sống hay nói đúng hơn là lý tưởng sống. Là chủ
nhân tương lai thì chúng ta phải xác định cho mình lý tưởng sống phù hợp,
đúng đắn. Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay thì tuổi
trẻ chúng ta lại đứng trước một câu hỏi lớn : “ Sống như thế nào là đúng đắn
là có ích cho xã hội?” Vì lý tưởng sống của chúng ta là động lực thúc đẩy đất
nước phát triển.
Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xong pha vào
những nơi gian khổ mà không ngại khó.Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong
thời kì kháng chiến. Những người con đất nước như: Kim Đồng, Võ Thị Sáu,
Lê Văn Tám… đã hiến dâng cả tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc.Đây là những
thanh niên của hơn 40 năm trước còn lớp thanh niên ngày nay thì sao?
Vâng. Cách bạn ạ! Chúng ta nên biết một điều: những thế hệ trước đã dâng
hiến xương máu để ngày sau độc lập thì chúng ta phải biết “ cùng nhau giữ
nước” và nối tiếp , kế thừa truyền thống cao đẹp đó. Và một điều quan trọng
là các bạn đừng nghĩ đó là nghĩa vụ để rồi miễn cưỡng thực hiện. Chúng ta
phải hiểu rằng: được sinh ra là một hạnh phúc và sống tự do, no đủ là một
món quà quý báu, vô giá mà quê hương xã hội đã ban tặng. Hạnh phúc không
tự nhiên mà có mà đó xương máu, tâm huyết của biết bao người con của đất
nước.Mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh lịch sử mà thanh niên nuôi dưỡng những
ước vọng, suy nghĩ riêng. Chúng ta không được bác bỏ, phũ nhận quá khứ
hay công sức của những anh hùng dân tộc. Đơn giản là vì mỗi thế hệ đều có
sứ mệnh riêng, nhận thức riêng mà chúng ta không nên so bì, tính toán. Vì
vậy: “Không có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với quá khứ” (như tổng bí
thư Đỗ Mười nói)
Nhưng tuổi trẻ chúng ta có điều kiện gì để xây dựng đất nước? Vâng, đó
chính là học tập. Nói đến tuổi trẻ hôm nay là nói đến việc học hành.. Trong
cuộc sống ta gặp không ít trường hợp xem việc học là việc khổ sai chỉ do cha
mẹ, thầy cô thúc ép, chứ không ham học. Họ xem đi học như một hình thúc
giải khuây cho vui nên không cần học tập, coi học học tập là một nỗi nhọc
nhằn.Có người lại coi việc học là để ứng phó với đời, để không xấu hổ với
mọi người, để có “bằng cấp” mà hãnh diện với đời, dù đó chỉ là “hàng giả”
mà thực lực không làm được.Chúng chẳng những không đưa nước ta “sánh
kịp với cường quốc năm châu” mà còn đưa nước ta về lạc hậu, lụn bại.
Cách duy nhất là phải học chân chính, học bằng khả năng của mình.Bước vào
thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể
xây dựng đất nước, lèo lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ quốc.Và
nhiệm vụ của chúng ta phải học, học nũa, học mãi. Nhà nước phải tạo mọi
điều kiện để chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức thì tương lai dân tộc mới sáng
lạn, lấp lánh hào quang.
Tóm lại, tuổi trẻ là người sẽ quyết định tương lai đất nước sau này.Tuổi trẻ
nước ta đầy rẫy nhân tài sẽ góp phần cho dáng hình sứ sở. Ngay từ hôm nay,
tôi, bạn và tất cả mọi người phải cố gắng học tập để sau này có thể giúp nước
ta tiến nhanh trên con đường xây dựng và phát triển nước Việt Nam ngày
càng giàu mạnh.
Đề 2. Văn học và tình thương. (Gợi ý : Chứng minh rằng văn học của dân tộc
ta luôn ca ngợi những ai biết “thương người như thể thương thân” và nghiêm
khắc phê phin những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạii.)
Nói đến văn là nói đến một phương tiện biểu đạt cảm xúc của con người, nói
đến văn học là nói đến một ngành khoa học của văn chương. Nghiên cứu văn
học chính là soi chiếu “ba chiều” đời sống lên “hai mặt phẳng” trang văn
(Chế Lan Viên) để phân định mọi cung bậc tư tưởng, tình cảm của con người.
Đừng hỏi hà. cớ gì chỉ có tình thương mà sao không phải là một loại tình cảm
khác. Tình thương là cội nguồn của mọi cảm xúc vì nó xuất phát từ tấm lòng
chân thành, và cũng là điểm đến cuối cùng mà con người cần đạt đến. Vì thế
như một lẽ tất yếu, văn học là tấm gương phản hình đời sống thì phải khơi
gợi được sâu xa nhất đời sống là tâm hồn con người, là tình thương. Văn học
chuyên chở tình thương là văn học chân chỉnh!
Ầu ơ lời ru của mẹ, thoang thoảng giọng hò bên sông, đọc đôi câu đối đình
làng... thế thôi là yêu, thế thôi là nhớ. Điều nhân bản nhất văn học mang đến
cho con người là cái tình mến thương với cuộc đời bình dị. “Nắng cho đời
nên nắng cũng cho thơ” (Huy Cận), để rồi văn thơ đã đi tiếp chặng hành trình
của nó mang cái tình nồng đượm của đời đến với lòng người. Tình thương
đời có lẽ là mối tình thuỷ chung chân thật nhất...
“Làng tôi ở uốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”
Không cầu kì hoa mỹ, “Quê hương” của Tế Hanh hiện lên trong sự vây bọc
của nỗi nhớ da diết, có gì đâu chỉ một làng chài ven biển như mọi ngôi làng
khác, chỉ là hoạt động lao động rất đỗi bình thường, nhưng lòng mến thương
của thi nhân đã là chất xúc tác biến kí ức thành loại men ngọt ngào. Bao
quanh cái bình dị quen thuộc chợt trở thành hình ảnh biểu tượng với sức gợi
lớn lao:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
Cái đẹp đâu chỉ có từ nghệ thuật nhân hoá thế này hay khả năng liên tưởng
thế nọ, cái đẹp nằm ở ngay đằng sau câu chữ, là lòng tự hào của nhà thơ về
quê hương. Là mảnh đất, là dân chài, là cuộc đời lao động... tất cả đều tồn tại
trong cánh buồm ấy, “cánh buồm gương to” biểu tượng cho lòng say mê,
niềm khát vọng đối với đời sống bình dị mà đẹp đẽ ở chốn quê hương mình.
Để rồi “nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ”, bởi đơn giản thôi, cái tình
thương mến đã thấm vào máu thịt nên “khi ta đi đất đã hoá tâm hồn” (Chế
Lan Viên).
Văn học từ đời sống đến thẳng với mọi người, với sức vang dội riêng của tâm
hồn, bằng tiếng nói riêng của tình cảm. Từ tình thương đời đến tình thương
người là cuộc hành trình tất yếu tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của văn học.
Nó như nhân sự sông lên, làm cho người ta trong cuộc sống giới hạn của
mình có thể bước qua ngưỡng cửa của hàng trăm cuộc đời khác, cùng vui
buồn, ước mơ, lo toan với những con người khác. Ta vừa như quên mình, vừa
như tự tìm ra mình trong sự đồng cảm bao dung ấy. Ai mà không xúc động
trước hình ảnh của “cô bé bán diêm” giữa mùa đông tê tái, cứ từng hồi quẹt
lên những que diêm để ngọn lửa nhỏ nhoi giữ lại những ước mơ đời thường.
Ánh sáng của những que diêm hay ánh sáng của tình yêu và niềm hy vọng
trong trái tim cô bé? Chính ánh sáng ấy đã lấy đi cảm giác về cái giá lạnh của
trời đêm đang cướp dần sự sống ở trong em. Chính ánh sáng của trái tim lung
linh như huyền thoại này đã khép lại câu chuyện bằng một hình ảnh tuyệt vời:
hai bà cháu cầm tay nhau và vụt bay lên cao. Điều mà An-đéc-xen gửi gắm
vào câu chuyện còn gì khác ngoài việc đánh động tình thương của con người.
Tác giả để cho nụ cười đọng lại trên môi em như biểu tượng của tấm lòng vị
tha, nhân hậu với cuộc đời. Nhưng đằng sau cuộc đời ấy là một cáu hỏi xót
xa: tại sao một đứa trẻ không được mỉm cười bằng những hình ảnh tưởng
tượng trước khi về với cõi chết? Chính người đọc phải tự tìm lấy câu trả lời.
Khơi gợi tình thương từ mặt trái của tình thương là cách tiếp cận với con
người chua xót nhất. Không chua xót làm sao được khi hôm nay chỉ là cái
bóng thầm lặng còn sót lại của “vàng son” hôm qua. “Ông đồ” của Vũ Đình
Liên là tiếng thổn thức nhân bản trước sự tàn lụi của một nền văn hoá, sự tồn
tại lay lắt của một nghệ sĩ tài hoa:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường khống ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Kết thúc bài thơ là câu hỏi khắc khoải vọng vào không gian, vọng đến lòng
người:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
“Cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (cách nói của Vũ Đình
Liên) đã ra đi cùng với thái độ thờ ơ, lãnh đạm của người đời. Bài thơ nhẹ
nhàng quá mà sâu nặng những nỗi cảm thương!
Thế giới thức tỉnh trong tôi, sự sống rạo rực trăn trở trong tôi và muốn tôi hoà
tan vào trong thế giới ấy, muốn ban phát cho tất cả mọi người mà tôi càng
thấy thêm gắn bó keo sơn bằng mối tình nhân loại. Tác động của văn học với
con người là như thế! Qua “Chiếc lá cuối cùng”, O-Hen-ri không chỉ gửi
thông điệp tình thương bạn đọc muôn thế hệ mà còn thể hiện lòng tin yêu
mãnh liệt về con người, tin rằng tình người có thể làm thay đổi tất cả, kể cả
cái chết. Bằng khao khát “một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất”,
bằng tấm lòng nhân ái bao la, cụ Bơ-men đã “quên mình” để cứu lây sự sống
cho Giôn-xi từ một “bức hoạ” đặc biệt: chiếc lá thường xuân trên bức tường.
Bệnh lao phổi từ Giôn-xi, cái chết chực chờ của cô đã chuyển giao sang
người hoạ sĩ già. Điều còn lại không phải là cái chết mà là nhân cách sống,
nghị lực sống của những con người “biết” cải tạo hoàn cảnh và “dám’1 cải
tạo hoàn cảnh cho mình và cho người.
Văn học chuyển tải tình thương và văn học là tình thương! Tình thương trong
văn học là tấm lòng của nhà văn đối với nhân vật của mình, là những cảm
xúc rung lên từ mỗi dòng văn, kiểu như “Nguyền Du viết Kiều như có máu
giỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua từng trang giấy” vậy! Tình thương
ấy tuy theo cách nhìn nhận của nhà văn nhà thơ đối với cuộc đời mà có nhiều
sắc thái: một cảnh tình thương trong sáng với quê hương và con người lao
động như “Quê hương” của Tế Hanh, một tình người bao la và niềm tin vững
chắc vào con người như “Chiếc lá cuối cùng” của o Hen-ri, hay một trăn trở
khắc khoải đến đau lòng vì sự dửng dưng, phủ phàng của người đời như trong
“Cố bé bán diêm” của An- đéc-xen hay “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. Nhưng
rốt lại cùng vẫn là cái tình nhân loại.
Ta đứng giữa cuộc đời rộng lớn của nhân loại, hai chân ta đứng trên mặt đất,
lòng ta toả rễ vào đời đế một ngày người ta hiểu ra rằng:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
(Tố Hữu)
Đề 3. Hãy nói không với các tệ nạn. (Gợi ý : Hãy viết một bài nghị luận để
nêu rõ tác hại của một trong các tộ nạn xã hội mà chúng ta cần phải cương
quyết và nhanh chóng bài trừ như cờ bạc, tiêm chích ma tuý, hoặc tiếp xúc
với văn hoá phẩm không lành mạnh...)
Hiện nay, Việt nam chúng ta đang trên đà phát triển công nghiệp hoá-hiện đại
hoá đất nước.Mỗi công dân đều phải có trách nhiệm đối với bản thân cũng
như đối với đất nước để góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nước nhà,song
song đó việc đẩy lùi tệ nạn xã hội cũng là một trong những tiêu chí phát triển
hàng đầu. Một đất nước càng văn minh, hiện đại thì tệ nạn xã hội lại càng
phức tạp, càng đáng phải lên án gay gắt.
Cho đến ngày nay,tệ nạn xã hội vẫn được hiểu là những vấn nạn,những việc
làm sai trái gay nguy hiểm cho xã hội như:ma tuý,mại dâm,tội phạm…Nó
không chỉ làm ảnh hưởng đến sự an nguy của Việt Nam mà còn là mối đe doạ
khủng khiếp của toàn nhân loại.Ai trong chúng ta cũng đều có thể là nạn nhân
của những tệ nạn trên.Vì thế,ta cần tự chủ bản thân.Kiên quyết bài trừ và tiêu
diệt “con quỷ giết người không dao này”.Nếu mọi người trên Trái Đất này
cùng chung tay góp sức với nhau,cùng nhau tuyên truyền những biện pháp
khống chế thì tệ nạn xã hội sẽ không còn là một vấn đề nan giải nữa.Điển
hình như tệ nạn ma tuý,mỗi ngày nó có thể cướp đi mạng sống của hàng chục
triệu người trên thế giới.
Thay vì cam chịu đứng nhìn,chúng ta hãy làm những việc làm tốt nhất có thể
như: đưa người nghiện ma tuý đi cai nghiện,tạo điều kiện để họ vui sống, lạc
quan và hoà nhập tốt hơn với cộng đồng. Nghiêm khắc trừng trị những kẻ
buôn bán ma tuý, những “má mì”chăn dắt gái mại dâm để góp phần chặn
đứng lưỡi hái của “nàng tiên nâu”. Nhưng hơn bao giờ hết,tệ nạn xã hội có
thể bị tiêu diệt còn tuỳ thuộc vào ý thức của chính bản thân mỗi người. Vì
thế, ai trong số chúng ta cũng phải làm chủ bản thân, nói “Không” với những
lời lẽ khiêu khích, những trò ăn chơi sa đoạ. Tuy một ngày, chúng có thể
không gay ra hậu quả gì nghiêm trọng. Nhưng theo thời gian, chúng sẽ lôi
kéo ta ngày càng lún sâu vào vũng bùn nhơ của tệ nạn xã hội.
Trong xã hội này, có nhiều người luôn sống theo phương châm: “Vui có
chừng - Dừng đúng lúc” thì cũng có không ít người từng ngày tiếp tay, làm
lan truyền tệ nạn xã hội ra cộng đồng. Những người cả tin, sống ăn chơi,đua
đòi để rồi cũng trở thành nạn nhân của tệ nạn xã hội that đáng phê phán. Đặc
biệt nguy hiểm là nhiều người có hành vi chủ mưu, lôi kéo giới trẻ sa vào tệ
nạn xã hội. Họ không ý thức được hậu quả mà mình gây ra đã tạo nên một lỗ
hổng đen vào thế hệ trẻ mà chỉ biết hưởng lợi cho riêng mình. Những con
người ích kỉ như vậy đáng phải chịu vô số những hình phạt nghiêm khắc nhất
của pháp luật và sự cắn rứt giày vò của toà án lương tâm.
Trên thế giới cũng có hàng vạn tấm gương sáng bước ra từ tệ nạn xã hội để
sống tốt đẹp hơn và là người có ích cho cộng đồng. Họ xứng đáng nhận được
sự thuong yêu và trân trọng của mọi người. Biết đứng lên để làm lại từ đầu
sau những vấp ngã mới là điều đáng quý nhất. Từ đó, chúng ta hãy gióng lên
hồi chuông cảnh tỉnh mọi người về những tác hại của tệ nạn xã hội và làm
những biện pháp thiết thực nhất để tệ nạn xã hội không còn là nỗi ám ảnh
chung của toàn nhân loại.`