BÀI DỰ THI:
Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống
Tìm hiểu Lịch sử địa phương tỉnh Bắc Giang
Môn học chính: Lịch sử
Môn học tích hợp: Địa lý, Văn học và Tin học
1
1. Tên tình huống: Tìm hiểu lịch sử địa phương tỉnh Bắc Giang
2. Mục tiêu giải quyết tình huống
- Vận dụng kiến thức liên môn để tìm hiểu về nơi mình sinh sống để qua đó
thêm yêu mến và hiểu biết về địa phương.
3. Tổng quan về nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống
- Lịch sử: Lịch sử địa phương
- Địa lý: Điều kiện địa lý, khí hậu, sông ngòi,dân cư, kinh tế,… của địa
phương
- Văn học: Sử dụng từ ngữ, câu, văn học dân gian, phương pháp thuyết minh
- Tin học: Sử dụng thành thạo Word và tìm kiếm thông tin trên mạng
4. Giải pháp giải quyết tình huống:
Tìm hiểu, tra cứu tư liệu, hình ảnh liên quan đến địa phương thông qua mạng
internet và các tư liệu ở thành phố Bắc Giang.
5. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống
TỈNH BẮC GIANG
I. Vị trí địa lí, lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh Bắc Giang:
1. Vị trí địa lí:
Là một tỉnh thuộc tiểu vùng đông bắc, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, phía
đông giáp tỉnh Quảng Ninh, phía bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía tây giáp tỉnh Thái
Nguyên và huyện Sóc Sơn (Hà Nội) và phía nam giáp tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hải
Dương.
Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 50 km.
Trong những năm gần đây, Kinh tế của Bắc Giang phát triển khá toàn diện và
đang dần khẳng định được vị thế là một trong 3 Trung tâm kinh tế lớn nhất của
vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
- Gồm:
+ 1 thành phố Bắc Giang
+ 9 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Tân Yên, Hiệp Hòa, Lạng
Giang, Việt Yên, Yên Dũng ( trong đó có 06 huyện miền núi và 01 huyện vùng
cao: Sơn Động; 230 xã, phường, thị trấn.
2
2. Lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh Bắc Giang:
Thời vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh.
Đời Lý - Trần gọi là lộ Bắc Giang.
Đời Lê, đây là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là
phủ Đa Phúc.
Từ ngày 5 tháng 11 năm 1889 đến ngày 9 tháng 9 năm 1891 đã tồn tại tỉnh Lục
Nam. Tỉnh Lục Nam gồm các huyện Bảo Lộc, Phượng Nhỡn, Lục Nam, Hữu
Lũng (tách từ phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh, ở bên tả ngạn sông Thương) và
huyện Yên Bái (tách từ tỉnh Lạng Sơn). Năm 1891 sau khi trả hai huyện Bảo Lộc
và Phượng Nhỡn cho tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Lục Nam bị xóa bỏ để nhập vào Đạo
Quan binh I.
Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc
Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên
Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía
nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang).
Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1950, tỉnh Bắc Giang thuộc Liên khu Việt Bắc (1949-1956) và gồm 7
huyện: Hiệp Hoà, Lục Ngạn, Yên Thế, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Dũng, Hữu
Lũng.
3
Ngày 22 tháng 2 năm 1955, huyện Sơn Động từ tỉnh Quảng Yên trả về tỉnh Bắc
Giang.
Ngày 1 tháng 7 năm 1956, khi thành lập Khu tự trị Việt Bắc, huyện Hữu Lũng
sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc.
Ngày 21 tháng 1 năm 1957, chia 2 huyện Sơn Động và Lục Ngạn thành 3 huyện
Sơn Động, Lục Ngạn và Lục Nam.
Ngày 6 tháng 11 năm 1957, chia huyện Yên Thế thành 2 huyện: Yên Thế và Tân
Yên.
Năm 1959, đổi tên thị xã Phủ Lạng Thương thành thị xã Bắc Giang.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và
đến ngày 1 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Bắc Giang có
tỉnh lị là thị xã Bắc Giang và 9 huyện: Hiệp Hòa, Lạng Giang, Lục Nam, Lục
Ngạn, Sơn Động, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng, Yên Thế.
Ngày 7 tháng 6 năm 2005, chuyển thị xã Bắc Giang thành thành phố Bắc Giang.
Ngày 3 tháng 12 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số
2168/QĐ-TTg công nhận thành phố Bắc Giang là đô thị loại II trực thuộc
tỉnh Bắc Giang
BẮC GIANG – XƯA VÀ NAY
Cầu sông Thương
Cầu sông Thương, phủ Lạng Thương nhìn từ bờ phía Nam năm 1902
(Ảnh tư liệu)
4
Cầu sông Thương ngày nay
Thành cổ Xương Giang
Dấu tích Thành cổ Xương Giang (năm 1979). Nơi diễn ra trận đánh oanh liệt
5
của nghĩa quân Lam Sơn, góp phần chấm dứt 20 năm ách đô hộ của nhà Minh
(Ảnh tư liệu)
Thành Xương Giang ngày nay
Sông Thương
Sông Thương - dòng sông gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử, văn hóa của tỉnh
Bắc Giang (Ảnh tư liệu)
6
Sô
ng Thương ngày nay.
Thị xã Bắc Giang (nay là thành phố Bắc Giang)
Thị xã Bắc Giang là một trong những cái nôi cách mạng năm 1928 (Ảnh tư liệu)
7
Quảng trường 3/2 (thành phố Bắc Giang) - nơi diễn ra nhiều sự kiện chính
trị quan trọng của tỉnh
Nhà nhà treo cờ Tổ quốc hưởng ứng 120 năm ngày kỷ niệm thành lập tỉnh
(10/10/1895 - 10/10/2015)
8
Băng rôn, khẩu hiệu đỏ rực khắp các tuyến đường chính.
2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
* Diện tích: Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.823 km², chiếm 1,2% diện tích tự
nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của
Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%;
còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất
* Địa hình: Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng: Miền núi và trung du có đồng
bằng xen kẽ. Vùng trung du bao gồm các huyện: Hiệp Hòa, Việt Yên và thành
phố Bắc Giang. Vùng miền núi bao gồm 7 huyện: Sơn Động, Lục Nam, Lục
Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang. Trong đó một phần các huyện
Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và Sơn Động là vùng núi cao.
Đặc điểm chủ yếu về địa hình miền núi (chiếm 72% diện tích toàn tỉnh) là chia
cắt mạnh, phức tạp, chênh lệch về độ cao lớn. Nhiều vùng đất đai tốt, nhất là ở
các khu vực còn rừng tự nhiên.
Vùng đồi núi thấp có thể trồng được nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp như: Vải
thiều, cam, chanh, na, hồng, chè, đậu tương, lạc...; thuận tiện để chăn nuôi các
loại gia súc, gia cầm, thuỷ sản.
Đặc điểm chủ yếu của địa hình miền trung du (chiếm 28% diện tích toàn tỉnh) là
đất gò, đồi xen lẫn đồng bằng tùy theo từng khu vực. Vùng trung du có khả năng
9
trồng nhiều loại cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn
nuôi các loại gia súc, gia cầm, cá và nhiều loại thuỷ sản khác.
* Khí hậu: Tỉnh Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa khu vực
Đông Bắc Việt Nam, một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa Đông có khí hậu khô,
lạnh; mùa Hè khí hậu nóng, ẩm; mùa Xuân và Độ ẩm trung bình trong năm là
83%, một số tháng trong năm có độ ẩm trung bình trên 85%. Các tháng mùa khô
có độ ẩm không khí dao động khoảng 74% - 80%.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.533 mm, mưa nhiều trong thời gian
các tháng từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng nước bốc hơi bình quân hàng năm
khoảng 1.000 mm, 4 tháng có lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa là từ tháng 12
năm trước đến tháng 3 năm sau.
Chế độ gió cơ bản chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam (mùa Hè) và gió Đông Bắc
(mùa Đông). Một số khu vực thuộc miền núi cao có hình thái thời tiết khô lạnh,
rét đậm, có sương muối vào mùa Đông. Ít xuất hiện gió Lào vào mùa Hè. Một số
huyện miền núi có hiện tượng lốc cục bộ, mưa đá, lũ vào mùa mưa. Bắc Giang ít
chịu ảnh hưởng của bão do có sự che chắn của nhiều dãy núi cao.
Nắng trung bình hàng năm từ 1.500 - 1.700 giờ, thuận lợi cho canh tác, phát triển
các cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới.
Đất đai: Bắc Giang có 382.200 ha đất tự nhiên, bao gồm 123.000 ha đất nông
nghiệp, 110.000 ha đất lâm nghiệp, 66.500 ha đất đô thị, đất chuyên dùng và đất
ở, còn lại khoảng 82.700 ha là các loại đất khác, trong đó nhóm đất đỏ vàng
chiếm diện tích lớn hơn cả khoảng 63,13% diện tích tự nhiên. Nguồn tài nguyên
đất được chia làm 6 nhóm đất chính:
*
10
- Nhóm đất phù sa: Diện tích khoảng 50.246 ha, chiếm 13,14% diện tích đất tự
nhiên. Loại đất này được phân bố chủ yếu ở vùng địa hình bằng phẳng ven các
sông. Đây là nhóm đất có hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp với các loại cây
nông nghiệp, đặc biệt là các loại cây trồng ngắn ngày.
- Nhóm đất bạc màu: Diện tích khoảng 42.897 ha, chiếm 11,22% diện tích đất
tự nhiên, là loại đất bạc màu trên phù sa cổ, tập trung nhiều ở các huyện: Việt
Yên, Tân Yên, Hiệp Hòa. Đây là nhóm đất bằng, nghèo đạm, lâm, giàu ka-li, tơi,
xốp, thoát nước tốt, thích hợp với các loại cây lấy củ, hạt như: Khoai tây, khoai
lang, cây đậu đỗ và các loại cây công nghiệp ngắn ngày.
- Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ: Diện tích khoảng 6.546 ha, chiếm
1,71% diện tích đất tự nhiên. Loại đất này phân bố chủ yếu ở các thung lũng nhỏ,
kẹp giữ các dãy núi. Đây là loại đất được hình thành và phát triển trên sản phẩm
rửa trôi và lắng đọng của tất cả các loại đất nên thường có độ phì khá, rất thích
hợp với các loại cây trồng như: Ngô, đậu, đỗ và cây công nghiệp ngắn ngày.
- Nhóm đất đỏ vàng: Diện tích khoảng 241.358 ha, chiếm 63,13% diện tích đất
tự nhiên. Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất trong các nhóm đất ở Bắc Giang.
Loại đất này thường có màu nâu đỏ, đỏ nâu, đỏ vàng tùy theo mẫu chất, quá trình
phong hóa và quá trình tích lũy hữu cơ.
11
- Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: Diện tích 1.008 ha, chiếm 0,27% diện tích
đất tự nhiên, phân bố ở các ngọn núi cao giáp dãy núi Yên Tử và giáp tỉnh Thái
Nguyên.
- Nhóm đất xói mòn: Diện tích khoảng 18.809 ha, chiếm 4,92% diện tích đất tự
nhiên. Loại đất này có đặc điểm là tầng đất mỏng, độ phì kém, khó khăn cho sản
xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có khoảng 668,46 ha núi đá bằng 0,17% diện tích đất
tự nhiên; khoảng 20.796 ha đất ao, hồ, chiếm khoảng 5,44% diện tích đất tự
nhiên.
* Sông, hồ:
Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục
Nam, sông Thương và sông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên
quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa
hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong.
Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và
Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn năm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi
rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600
ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước
240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có
thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy,
vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức
những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè.
* Sinh vật: Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng
nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao
gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18
loài bò sát.
12
3. Dân cư, xã hội:
* Dân số và các dân tộc thiểu số:
- Dân số: 1624456 người (2014) , mật độ dân số 423 người/km², gấp 1,7 lần mật
độ dân số bình quân của cả nước.
-Trên địa bàn Bắc Giang có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất
là người Kinh, chiếm 88,1% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Nùng chiếm
4,5%; người Tày 2,6%;người Sán Chay và người Sán Dìu, mỗi dân
tộc 1,6%; người Hoa 1,2%; người Dao 0,5%...
* Văn hóa Bắc Giang có các điểm đặc trưng sau:
- Tính chất đan xen đa văn hóa. Đan xen không phải hòa đồng mà tất cả cùng tồn
tại tạo nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Bắc Giang.
- Tính chất tụ hội văn hóa người Việt. Trong lịch sử lâu dài của đất nước người
dân từ nhiều nơi như Thanh Hóa, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Hưng Yên...
đã lên đây sinh sống. Họ mang theo tập tục của mình và có những biến đổi theo
người dân bản xứ trên đất Bắc Giang và ngược lại người dân Bắc Giang ở trước
đó cũng bị những tác động của cư dân mới đến.
- Con người Bắc Giang vốn là những cư dân đồng cam cộng khổ, cưu mang nhau
vượt qua thiên tai địch họa, khai phá rừng hoang lập làng, lập bản. Tính chất hào
hùng còn dễ nhận thấy hơn qua các cuộc bảo vệ đất nước của dòng họ Giáp, họ
Thân và đặc biệt hơn là cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
- Bắc Giang là sự giao thoa giữa hai miền văn hóa Việt cổ (Bắc Ninh) và văn hóa
Tày Nùng (Lạng Sơn). Những người dân tộc Thái, dân tộc Dao… vẫn có nét
riêng trong sinh hoạt nhưng họ học tiếng Kinh, mặc quần áo người Kinh.
- Văn hóa Bắc Giang là tính chất đoàn kết, sáng tạo. Từ vùng rừng thiêng nước
độc cộng đồng dân cư Bắc Giang sinh sống đã tạo nên những vẻ đẹp riêng có cả
về văn hóa vật thể và phi vật thể. Bắc Giang có hơn 500 lễ hội lớn nhỏ.
Người dân Bắc Giang tự hào là cái nôi của quan họ cổ với 23 làng ven sông
Cầu, tồn tại như một sự kết duyên song song với quan họ ở Bắc Ninh. Đất quan
họ Bắc Giang còn là nơi có tục kết chạ từ lâu đời đến nay vẫn tồn tại trong cuộc
sống cộng đồng, có đóng góp tích cực làm đẹp thêm đời sống xã hội.
Bắc Giang có chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) - cái nôi đào tạo phật pháp thiền
phái Trúc Lâm; chùa Bổ Đà (Việt Yên) phản ánh tính chất cổ kính gần với phật
giáo Ấn Độ, đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa) được dựng vào cuối thế kỷ XVI từng
được mệnh danh là "Đệ nhất Kinh Bắc". Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trên
địa bàn Bắc Giang cách đây khoảng hai vạn năm có người thời đại đồ đá khai
phá, sinh sống ở đây. Điều đó được thể hiện qua các di chỉ Bố Hạ (Yên Thế),
Chũ, Cầu Cát (Lục Ngạn), Khe Táu, An Châu (Sơn Động). Thời gian tiếp theo
13
các nhà khảo cổ cũng tìm thấy con người thời đại đồ đá mới sinh sống trên vùng
đất này qua di chỉ Mai Sưu (Lục Nam), thời đại đồ đồng qua di chỉ Đông Lâm
(Hiệp Hòa).
4. Kinh tế:
Nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà
Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Bắc Giang rất thuận
lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực.
Bắc Giang đã quy hoạch và triển khai các khu công nghiệp cùng một số cụm
công nghiệp với tổng diện tích gần 1.500 ha, trong đó có một khu công nghiệp đã
cơ bản lấp đầy.
Các khu công nghiệp nằm ở phía nam tỉnh Bắc Giang thuộc các huyện Việt
Yên và Yên Dũng. Được quy hoạch liền kề nhau, nằm dọc theo đường quốc lộ
1A mới Hà Nội - Lạng Sơn, gần với các đô thị lớn, thuận lợi cả về đường bộ,
đường sông, đường sắt và đường hàng không và các cảng sông, cảng biển. Cách
thủ đô Hà Nội khoảng 40 km, Sân bay quốc tế Nội Bài 45 km; Cảng Hải
Phòng khoảng 110 km và cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan 120 km, có hệ thống hạ
tầng tương đối hoàn chỉnh; thuận lợi cả về hệ thống cung cấp điện, nước, bưu
chính viễn thông.
Các khu, cụm công nghiệp đó là:
Khu công nghiệp Đình Trám, diện tích 100 ha;
Khu công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng, diện tích 180 ha;
Khu công nghiệp Quang Châu, diện tích 426 ha;
Khu công nghiệp Vân Trung, diện tích khoảng 442 ha;
Khu công nghiệp Châu Minh - Mai Đình diện tích 207 ha
Cụm công nghiệp cơ khí ô tô Đồng Vàng, diện tích khoảng 38 ha.
Ngoài các khu, cụm công nghiệp trên, hiện nay tỉnh Bắc Giang dự kiến quy
hoạch một số khu, cụm công nghiệp khác, tập trung ở các huyện Yên Dũng, Việt
Yên, Hiệp Hoà và huyện Lạng Giang với diện tích các khu khoảng từ 200 ha đến
trên 1.000 ha.
Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư
kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc
biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh
bạch với cơ chế "một cửa liên thông", nhà đầu tư chỉ cần đến một địa chỉ là Ban
quản lý các Khu công nghiệp hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư là được cấp giấy
chứng nhận đầu tư, mã số thuế và con dấu.
14
* Công nghiệp:
Công nghiệp phát triển nhanh cả về không gian, quy mô và trình độ công nghệ
với tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân 19,4%. Cơ cấu công nghiệp - xây
dựng tăng từ 32,9% năm 2011 lên 41,5% năm 2015. Toàn tỉnh hiện có 4 khu công
nghiệp và 27 cụm công nghiệp đi vào hoạt động; thu hút 455 dự án đầu tư, trong
đó 127 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD. Giá trị sản
xuất công nghiệp (giá hiện hành) ước đạt 58.672 tỷ đồng, bằng 147,7% mục tiêu
và cao gấp 4,7 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân
giai đoạn 2011-2015 đạt 36,4%, góp phần tăng thu ngân sách, tạo chuyển dịch
mạnh cơ cấu lao động. Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng tạo việc làm cho khoảng
250 nghìn lao động.
* Nông nghiệp:
Bắc Giang phát triển khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất tăng bình
quân 5,2%/năm, trong đó tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân đạt
4,0%/năm. Giá trị sản xuất trên 1ha đất sản xuất nông nghiệp năm 2015 ước đạt
86 triệu đồng, tăng 1,8 lần so với năm 2010. Cơ cấu ngành nông nghiệp tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi (năm 2015 tỷ trọng chăn nuôi
chiếm 45%). Tỉnh đã hình thành được một số vùng sản xuất nông nghiệp hàng
hóa tập trung quy mô lớn, tạo được sản phẩm đặc trưng có thương hiệu. Đã hình
thành vùng trồng cây ăn quả lớn thứ 3 toàn quốc, vùng trồng vải thiều là vùng sản
xuất chuyên canh đứng thứ nhất, đàn gà đứng thứ 4 và là một trong 2 tỉnh có đàn
lợn dẫn đầu cả nước. Đến hết năm 2015, toàn tỉnh có 34/202 xã đạt chuẩn nông
thôn mới, chiếm 16,3% số xã toàn tỉnh; bình quân các xã trên địa bàn tỉnh đạt
12,7/19 tiêu chí xã nông thôn.
* Dịch vụ:
Dịch vụ phát triển đa dạng, ngày càng nâng cao chất lượng. Thu hút được một số
dự án lớn như: Sân Golf – Dịch vụ Yên Dũng, khách sạn Mường Thanh, siêu thị
BigC, Co.op mart… Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt
17.200 tỷ đồng, tăng bình quân 19,6%/năm. Phương tiện vận tải tăng bình quân
11%/năm; phủ sóng điện thoại di động và Internet tới tất cả các xã. Hệ thống dịch
vụ tài chính, tiền tệ phát triển khá, cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp, vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Các dịch vụ giáo dục, y
tế, tư vấn pháp luật, bảo hiểm, du lịch... tiếp tục phát triển phong phú, đa dạng.
- Giao thông:
Tập trung ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc kết nối với các tỉnh bạn và các vùng kinh tế động lực. Đã phối hợp triển
khai cải tạo, nâng cấp các quốc lộ 1, 31, 37; đầu tư nâng cấp nhiều tuyến đường
tỉnh: 293, 398, 295B, 296, 297, 298, 299... Tập trung đầu tư nâng cấp, cải tạo hệ
thống giao thông nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Trong 5 năm đã cải
tạo, nâng cấp, cứng hóa 215 km đường tỉnh; 240 km đường huyện; 695 km
đường liên xã, trục xã; 654 km đường thôn, bản; nâng tỷ lệ cứng hóa đường
15
huyện từ 50% (năm 2010) lên 85%; đường xã từ 21,5% lên 58,5%; đường thôn,
bản đạt 47,6%.
- Danh lam thắng cảnh và du lịch:
- Khu di tích và danh thắng Tây Yên Tử thuộc Quần thể di tích danh thắng Yên
Tử đang được 2 tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh lập hồ sơ đề nghị UNESCO công
nhận di sản thế giới.
- Đình Lỗ Hạnh (Đông Lỗ-Hiệp Hòa)- Đình cổ nhất Kinh Bắc
16
- Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt
- Chùa Vĩnh Nghiêm thuộc làng Đức La xã Trí Yên huyện Yên Dũng có bộ
Mộc bản kinh phật được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu khu vực châu Á
Thái Bình Dương.
- Chùa Bổ Đà thuộc xã Tiên Sơn huyện Việt Yên.
- Làng nghề Thổ Hà thuộc xã Vân Hà huyện Việt Yên
- ATK2 - An toàn khu dự bị của Trung ương và Xứ ủy Bắc kỳ
17
- Bảo tàng Hoàng Hoa Thám và Đồn Phồn Xương ở huyện Yên Thế
- Lăng Dinh Hương ở Hiệp Hòa
- Khu di tích Suối Mỡ và Đền Suối Mỡ huyện Lục Nam
- Thành cổ Xương Giang
- Rừng nguyên sinh Khe Rỗ thuộc huyện Sơn Động
18
- Hồ Cấm Sơn và Khu du lịch Khuôn Thần huyện Lục Ngạn
- Cây Dã hương hơn 1.000 tuổi ở xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, gốc cây Dã
hương phải 8 người ôm.
- Cây dã hương đình Dương Lâm Tân yên
19
Công tác phát triển du lịch của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực. Triển khai
nhiều công trình, dự án đầu tư phát triển các điểm du lịch để xây dựng các tour,
tuyến du lịch như: Dự án xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng, Quy
hoạch xây dựng bảo tồn di tích, danh thắng chùa Vĩnh Nghiêm; Dự án xây dựng
Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử...; đầu tư xây dựng các tuyến giao thông
(đường tỉnh 293) để kết nối các điểm du lịch trong tỉnh và kết nối với các tỉnh
trong khu vực. Toàn tỉnh có 330 cơ sở lưu trú, trong đó có 01 khách sạn 4 sao, 10
khách sạn 2 sao, 15 khách sạn 1 sao và trên 300 nhà nghỉ, với khoảng 4.000
buồng nghỉ, trong đó có 3.750 buồng nghỉ đạt tiêu chuẩn. Tốc độ tăng khách du
lịch bình quân đạt 23,8%/năm, năm 2015 ước đạt 400 nghìn lượt người; doanh
thu từ du lịch có tốc độ tăng bình quân đạt 37%/năm, năm 2015 ước đạt 262 tỷ
đồng.
* Giáo dục và đào tạo:
Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển. Mạng lưới các trường được bố trí hợp lý,
bảo đảm mỗi xã có đủ 03 trường (mầm non, tiểu học, trung học cơ sở); tỷ lệ
trường chuẩn quốc gia đạt 80%, vượt mục tiêu đề ra. 100% đội ngũ cán bộ, giáo
viên đã đạt chuẩn và trên chuẩn. Công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5
tuổi hoàn thành trước một năm so với kế hoạch; phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi mức độ 2 đạt 70,8% số xã (tăng 56,5% so với năm 2010). Giáo dục - đào
tạo duy trì vị trí trong nhóm 15 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước; thi học sinh giỏi
văn hóa cấp quốc gia năm 2015 xếp thứ 12 về số lượng giải, xếp thứ 9 về chất
lượng giải và luôn ở vị trí từ 1 đến 3 các cuộc thi cấp khu vực, toàn quốc.
*
Danh nhân:
Thánh Hùng Linh Công.
Thánh Thiên Công chúa
Đoàn Xuân Lôi.
Trịnh Ngô Dụng.
Hoàng Hoa Thám.
Nguyễn Đình Tuân.
Nguyễn Khắc Nhu.
Cô Giang tức Nguyễn Thị Giang.
Bàng Bá Lân.
Nhà thơ Anh Thơ.
Cô Bắc tức Nguyễn Thị Bắc.
Thân Nhân Trung.
20
Trạng nguyên Giáp Hải.
Dương Quốc Cơ
Sáu Hà.
Nguyễn Hồng Long.
Anh hùng Nguyễn Văn Cốc.
* Đặc sản:
Rượu làng Vân
Cái tên làng Vân đã trở thành thương hiệu Làng Vân nổi danh thiên hạ, nơi có
thứ rượu đặc biệt không chỉ dân ta ưa xài mà các ông Tây cũng rất khoái.
Rượu Làng Vân là một thứ đặc sản không thể thiếu vào các dịp lễ hội, tết hay làm
quà biếu. Rượu được nấu bằng gạo nếp thơm ngon trồng trên cánh đồng làng Vân
Xá, xã Vân Hà huyện Việt Yên, cộng thêm men gia truyền bằng các vị thuốc bắc
quý hiếm và nghệ thuật nấu rượu tài tình của người làng Vân. Cha truyền con nối,
rượu làng Vân nhãn hiệu ‘ông tiên’ nổi tiến khắp mọi miền đất nước và cả ở nước
ngoài. Từ hàng trục thế kỷ qua hương vị dặc biệt của rượu làng Vân luôn được
nhiều du khác chọn mua về làm quà khi lên một vùng Kinh Bắc. Về Vân Hà bạn
sẽ được thưởng thức đặc sản rượu làng Vân, thực sự cảm thấy mình ‘‘say" không
chỉ bởi những ly rượu mềm môi, thơm nồng mà du khách còn "say" trong những
làn điệu dân ca quan họ mượt mà đằm thắm của các liền anh, liền chị bên bờ bắc
sông Cầu. Uống rượu và hát quan họ là nét văn hóa truyền thống của người làng
Vân. Mỗi khi nâng chén mời nhau ly rượu người làng Vân lại ý tứ và kín đáo
bằng việc hát những câu dân ca quan họ để tỏ lòng chân thành của người mời
rượu, đó cũng là nét văn hóa đặc trưng của con người vùng Kinh Bắc.[7]
Một nhầm lẫn cho rằng Rượu làng Vân là đặc sản của Bắc Ninh.
21
Vải thiều Lục Ngạn
Được thiên nhiên ưu đãi, vườn đồi Lục Ngạn có thế mạnh về cây an quả và là nơi
tập trung trồng vải thiều lớn nhất cả nước. Đất đá son ở đây rất phù hợp với vải
thiều nên cây được nuôi dưỡng tươi tốt, lá xanh thẫm, tán cây tròn như những
mâm xôi. Đặc biệt, những chùm quả vải chín đỏ mọng, vỏ mỏng căng, hạt rất
nhỏ, cùi đầy ngọt lịm, có vị thơm mát, từ lâu trở thành sản vật của quê hương
Kinh Bắc, không chỉ nổi tiếng khắp mọi miền quê hương đất nước mà còn được
xuất khẩu ra nước ngoài.
Cam sành Bố Hạ
22
Cam Bố Hạ, giống cam số 1 của đất nước, đã từng nổi tiếng khắp vùng tại các kỳ
thi đấu xảo quốc gia được tổ chức ở cố đô Huế, đã từng một thời là niềm tự hào
của người dânxứ Bắc.Đây là loại cam thường chín rộ vào dịp Tết Nguyên Đán:
quả màu vàng nâu tươi, hình cầu dẹt, tròn trịa, đẹp mắt, cùi dày, da hơi sần. Tuỳ
theo sự chăm bón và mức độ lâu năm của cây mà hàng năm, một cây cam có thể
cho từ 50 đến 200 quả. Sự hấp dẫn đặc biệt của loại cam này là mùi thơm đặc
trưng, vị ngọt đậm, tép to mọng nước, ruột vàng đỏ, hàm lượng dinh dưỡng rất
cao.
Ngày xưa, ở Bố Hạ nhà nghèo cũng có vài chục gốc cam còn nhà giàu thì có đến
vài nghìn gốc. Cam cũng là nguồn thu nhập quan trọng và cũng là niềm tự hào
của người dân Bố Hạ. Thế mà trải qua những thăng trầm của thời gian, một vùng
cam với những giống cam qúy đặc sản như vậy đang dần bị thoái hoá, mai một
bởi nhiều nguyên nhân.Những người dân trồng cam và lãnh đạo địa phương có
tâm huyết với giống cam quý đặc sản này đang day dứt, trăn trở: "tìm cách duy trì
phát triển giống cam quý của tổ tiên"..
Bánh đa Kế
Bánh đa Kế xuất phát từ làng nghề truyền thống bánh đa xã Dĩnh Kế, Bắc Giang.
Điều đặc biệt, cái vị của nó vừa giòn, vừa ngọt của gạo mới và thơm thơm của
nắng quê Bắc bộ.Độ nở của chiếc bánh cũng là một đặc điểm để phân biệt.Để ra
lò một chiếc bánh đa Kế hoàn hảo phải trải qua rất nhiều công đoạn phức tạp. Với
bàn tay khéo léo của người dân Dĩnh Kế, kỹ năng quạt bánh thủ công bằng than
hoa khiến chiếc bánh luôn luôn nở đều, đầy đặn, tròn vạnh như mặt trăng đêm
rằm và không bị cháy sém. Ngoài ra kỹ thuật rắc vừng, lạc sao cho màu đen, màu
vàng điểm lốm đốm đều trên bánh.Bánh đa Kế luôn luôn tạo ra được một nét
riêng, không thể lẫn vào đâu. Nó trở thành một thứ đặc sản đậm chất đồng quê
Bắc Bộ.
Mỳ Chũ
Dù có từ lâu đời nhưng mỳ Chũ chỉ thực sự để lại ấn tượng cho người ăn cách
đây vài năm. Khi mới xuất hiện, thứ mỳ gạo này ít được biết đến, tuy nhiên theo
thời gian, cùng với những ưu điểm nổi trội như cái ngọt của bột bao thai hồng,
sợi mỳ dai không bị nhừ nát mà loại mỳ của thị trấn Chũ đã có tên và được biết
đến trong cuộc sống đời thường của người dân quanh vùng. Không chỉ có thế, mỳ
Chũ đã trở thành món quà quê đặc sản người dân nơi đây là quà biếu cho khách
và người quen ngoài tỉnh.
6. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống
Việc kết hợp các kiến thức liên môn như Ngữ văn, Địa lý, Tin học, Giáo dục
công dân vào môn Lịch sử là rất quan trọng, giúp cho việc học Lịch sử bao quát,
23
đầy đủ ý hơn. Kiến thức liên môn tạo điều kiện cho chúng em chủ động, tích cực
tìm hiểu để nâng thêm những hiểu biết về quê hương cũng như địa phương nơi
mình sinh sống qua đó để thêm yêu quê hương đất nước; giúp chúng em có ý
thức hơn trong việc học phải đi đôi với hành, rèn luyện các kĩ năng giải quyết
tình huống trong cuộc sống.
24