Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƢƠNG MẠI
----------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009 – 2013)
ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT
VỀ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
THEO LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 2010
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Thị Hoa Cúc
Bộ môn Luật thƣơng mại
Sinh viên thực hiện:
Tô Huyền Trang
MSSV: 5095576
Lớp: LK0964A2 – K35
Cần Thơ, 11/2012
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 1
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 2
5. Bố cục của luận văn ........................................................................................ 3
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG
MẠI VÀ PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
1.1 Khái quát về Trọng tài thƣơng mại ............................................................ 4
1.1.1 Lược sử phát triển của Trọng tài thương mại ...................................... 4
1.1.1.1. Giai đoạn trước khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có hiệu
lực ................................................................................................................ 4
1.1.1.2. Giai đoạn từ khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có hiệu lực6
1.1.1.3 Giai đoạn từ khi Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực đến
nay ................................................................................................................. 7
1.1.2 Khái niệm Trọng tài thương mại........................................................... 8
1.1.3 Đặc điểm của Trọng tài thương mại ..................................................... 9
1.1.4 Ưu điểm của Trọng tài thương mại so với Tòa án ............................. 10
1.1.5 Các hình thức tổ chức trọng tài .......................................................... 13
1.1.5.1 Trọng tài vụ việc ( ad- hoc) ........................................................... 13
1.1.5.2 Trọng tài quy chế ........................................................................... 14
1.1.6 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại .......... 16
1.1.6.1 Các bên phải có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài
phải có hiệu lực ......................................................................................... 16
1.1.6.2 Tranh chấp phát sinh phải thuộc thẩm quyền của Trọng tài ........ 17
1.2 Sơ lƣợc về phán quyết trọng tài thƣơng mại ........................................... 17
1.2.1 Khái niệm phán quyết trọng tài ........................................................... 17
1.2.2 Phân biệt quyết định và phán quyết của Trọng tài ............................. 18
1.2.3 Nguyên tắc ban hành phán quyết trọng tài ........................................ 19
1.2.4 Phân loại phán quyết trọng tài ............................................................ 19
CHƢƠNG 2. ĐÁNH GIÁ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THEO LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI 2010 VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
2.1 Hình thức, nội dung, hiệu lực và lƣu trữ phán quyết trọng tài thƣơng
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 2
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
mại ................................................................................................................... 22
2.1.1 Hình thức và nội dung của phán quyết trọng tài ............................... 22
2.1.2 Hiệu lực của phán quyết trọng tài ....................................................... 24
2.1.3 Lưu trữ phán quyết trọng tài ............................................................... 25
2.2 Sữa chữa và giải thích phán quyết trọng tài, phán quyết bổ sung ........ 26
2.2.1 Sữa chữa phán quyết trọng tài ............................................................ 26
2.2.2 Giải thích phán quyết trọng tài ............................................................ 27
2.2.3 Phán quyết bổ sung .............................................................................. 28
2.3 Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc ...................................................... 31
2.3.1 Thủ tục đăng ký phán quyết ................................................................ 31
2.3.2 Nội dung đăng ký phán quyết .............................................................. 35
2.4 Thi hành phán quyết trọng tài thƣơng mại ............................................. 35
2.4.1 Thỏa thuận thi hành phán quyết trọng tài.......................................... 36
2.4.2 Quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài .................................... 37
2.4.2.1 Căn cứ thực hiện quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài .... 37
2.4.2.2 Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm khi yêu cầu thi hành
phán quyết trọng tài ................................................................................... 38
2.4.3 Thủ tục yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài .................................. 39
2.4.4 Thời hiệu yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài ............................... 40
2.4.5 Từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài ................. 40
2.5 Hủy phán quyết trọng tài thƣơng mại...................................................... 41
2.5.1 Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết trọng tài ................................ 41
2.5.2 Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài ........................................ 41
2.5.3 Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài ................................................ 43
2.5.4 Căn cứ hủy phán quyết trọng tài ......................................................... 43
2.5.5 Nghĩa vụ chứng minh phán quyết trọng tài cần bị hủy ..................... 53
2.5.6 Phạm vi xem xét hủy phán quyết trọng tài ......................................... 53
2.5.7 Thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài ................ 54
2.5.7.1 Chuẩn bị mở phiên họp xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài 54
2.5.7.2 Mở phiên họp xét đơn hủy phán quyết trọng tài ........................... 54
2.5.7.3 Hậu quả pháp lý khi Tòa án ra quyết định .................................... 54
2.5.7.4 Tạm đình chỉ xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài................ 55
2.5.7.5 Sự vắng mặt của bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài ................ 55
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 3
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 Nhà nƣớc ta đã thực
hiện đƣờng lối đổi mới công nhận nền kinh tế nhiều thành phần với sự tham gia của
nhiều ngành kinh tế khác nhau làm cho các hoạt động thƣơng mại càng trở nên đa
dạng và phức tạp. Mặt khác, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 tại Điều 57 có
quy định “công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”, có
nghĩa là các chủ thể có quyền tự do kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận trong khuôn
khổ pháp luật. Chính vì vậy, tranh chấp thƣơng mại là một phần tất yếu trong hoạt
động thƣơng mại và không thể tránh đƣợc.
Với nền kinh tế thị trƣờng hiện nay càng ngày càng có nhiều khó khăn đối
với nền kinh tế nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng. Số vụ tranh chấp
trong thƣơng mại ngày càng tăng. Không chỉ có sự tranh chấp thƣơng mại trong
nƣớc mà sự tranh chấp thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài cũng xảy ra rất nhiều.
Và một phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại nhanh chóng và hiệu
quả hiện nay là giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thƣơng mại. Mặc dù vậy nhƣng
các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ƣa chuộng phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng
Tòa án hơn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là họ cho rằng quyết định của
Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn phán quyết của Trọng tài và họ nghĩ rằng chỉ với
bản án của Tòa án thì kết quả giải quyết tranh chấp của họ mới đƣợc đảm bảo thi
hành trên thực tế.
Bởi lẽ, rõ ràng không có gì làm thất vọng các bên kinh doanh bằng việc bỏ ra
những tốn kém khổng lồ về công sức và tiền của để rồi chỉ có đƣợc một tờ giấy ghi
phán quyết mà số phận của nó mong manh dễ dàng bị hủy bởi Tòa án. Các bên kinh
doanh sẽ không bao giờ lựa chọn Trọng tài một khi họ không tin tƣởng vào hiệu lực
thi hành của phán quyết trọng tài. Có thể thấy rằng giá trị thi hành của phán quyết
trọng tài sẽ ảnh hƣởng đến quyết định của các chủ thể kinh doanh lựa chọn phƣơng
thức giải quyết bằng Trọng tài hay Toà án, chọn Trọng tài ở đâu thì kết quả giải
quyết tranh chấp sẽ đạt hiệu quả…
Và quả thật, mặc dù đã kế thừa và rút kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết
tranh chấp của việc áp dụng Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 nhƣng Luật trọng
tài thƣơng mại 2010 ra đời và có hiệu lực ngày 01/01/2011 ngoài những tiến bộ đã
đạt đƣợc thì vẫn còn không ít những quy định chƣa phù hợp và thiếu sót cần đƣợc
sửa đổi và bổ sung. Một trong số những vấn đề cần đƣợc nghiên cứu để hoàn thiện
là những quy định liên quan đến phán quyết của Trọng tài thƣơng mại, điều mà ít
ngƣời quan tâm đến. Qua khảo sát của ngƣời viết thì chủ yếu các nghiên cứu tập
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 4
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
trung vào vấn đề giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng Trọng tài thƣờng trực, quy
chế pháp lý Trọng tài viên, thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Trọng tài…
Từ những lý lẽ trên cho thấy cần thiết phải quan tâm đúng mức và hoàn thiện
những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài thƣơng mại. Chính vì vậy mà
ngƣời viết chọn đề tài “Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết
trọng tài theo Luật trọng tài thƣơng mại 2010 và hƣớng hoàn thiện” để làm đề
tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong những phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại hiện nay, giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài thƣơng mại có nhiều ƣu điểm vƣợt trội tuy nhiên
các nhà kinh doanh vẫn không mấy “mặn mà” với phƣơng thức này. Một trong
những lý do quan trọng là quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài còn tồn tại
nhiều vấn đề ảnh hƣởng đến giá trị thi hành của phán quyết. Ngƣời viết nghiên cứu
đề tài này với mong muốn đánh giá một cách khách quan, toàn diện những tiến bộ
đã đạt đƣợc đồng thời cũng làm sáng tỏ những hạn chế, bất cập trong những quy
định của Luật trọng tài thƣơng mại 2010 về phán quyết trọng tài thƣơng mại. Từ đó
ngƣời viết đề ra những giải pháp để hoàn thiện những quy định của pháp luật về
phán quyết trọng tài thƣơng mại. Với sự cố gắng của ngƣời viết, mong rằng sẽ giúp
ngƣời đọc hiểu một cách rõ ràng nhất có thể những vấn đề xoay quanh phán quyết
trọng tài và hi vọng trong tƣơng lai gần những quy định của pháp luật về phán quyết
trọng tài sẽ đƣợc hoàn thiện góp phần làm Trọng tài thƣơng mại Việt Nam tạo đƣợc
niềm tin vững chắc cho không chỉ chủ thể kinh doanh trong nƣớc mà đối với cả chủ
thể kinh doanh ngoài nƣớc.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian cũng nhƣ khả năng của ngƣời viết có hạn nên đề tài chủ yếu
phân tích đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật
trọng tài thƣơng mại 2010. Bằng cách so sánh những quy định về phán quyết trọng
tài của Luật trọng tài thƣơng mại 2010 với một số quy định của Luật mẫu trọng tài
UNICITRAL và Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003. Từ đó làm nổi bật lên những
vấn đề mà Luật trọng tài thƣơng mại 2010 đã đạt đƣợc và những vấn đề còn tồn tại
cần đƣợc sửa đổi bổ sung để Luật đi vào thực tế, phát huy đƣợc hiệu quả điều chỉnh
đồng thời để tƣơng thích với pháp luật trọng tài thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu ngƣời viết đã sử dụng phƣơng pháp nghiên
cứu lý luận trên tài liệu, sách vở; phƣơng pháp trình bày, phân tích, tổng hợp vấn đề
đồng thời so sánh các quy định của pháp luật với nhau và phƣơng pháp phân tích
luật viết để giải quyết vấn đề đặt ra của đề tài.
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 5
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
5. Bố cục của luận văn
Luận văn đƣợc trình bày gồm những phần:
Mục lục
Lời nói đầu
Chƣơng 1. Khái quát chung về Trọng tài thƣơng mại và phán quyết của
Trọng tài
Chƣơng 2. Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài
theo Luật trọng tài thƣơng mại 2010 và hƣớng hoàn thiện
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 6
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ
PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát về Trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Lược sử phát triển Trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp thƣơng mại là một đòi hỏi tất yếu bắt nguồn từ sự phát
triển của các quan hệ kinh tế và gắn liền với nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc đặt ra trong
từng giai đoạn. Việc xây dựng nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở
nƣớc ta luôn là mục tiêu, định hƣớng phấn đấu của Đảng và Nhà nƣớc ta. Tuy nhiên
tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, chủ trƣơng của từng thời kì mà pháp luật nói
chung và pháp luật trọng tài nói riêng đã có những bƣớc phát triển để đáp ứng với
tình hình thực tế phục vụ cho mục tiêu này.
1.1.1.1. Giai đoạn trước khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 có
hiệu lực1
Trƣớc khi có Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003, ở Việt Nam tồn tại hai
loại hình Trọng tài, đó là Trọng tài kinh tế nhà nƣớc và Trọng tài phi chính phủ.
Thứ nhất, đối với Trọng tài kinh tế nhà nƣớc:
Trọng tài kinh tế nhà nƣớc là mô hình Trọng tài do nhà nƣớc lập ra, có chức
năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế của các doanh
nghiệp nhà nƣớc. Thực chất, Trọng tài kinh tế nhà nƣớc là cơ quan của Nhà nƣớc,
vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng giải quyết tranh
chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nƣớc. Mô hình này đƣợc thiết lập lần đầu
tiên bằng Nghị định số 20/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1960 của Thủ tƣớng chính phủ
về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc. Qua quá trình phát triển
đến năm 1990 Nghị định này đƣợc nâng lên bằng Pháp lệnh trọng tài kinh tế2. Theo
đó, Trọng tài đƣợc tổ chức ở ba cấp, bao gồm Trọng tài kinh tế nhà nƣớc, Trọng tài
kinh tế tỉnh và Trọng tài kinh tế huyện. Đến năm 1993, mô hình này đã không còn
phù hợp với điều kiện cơ chế kinh tế mới. Sự phát triển đa dạng của các loại hình
kinh tế cùng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có hình thức sở hữu khác
nhau dẫn đến sự thay đổi về hình thức, tính chất và nội dung tranh chấp. Điều này
đòi hỏi phƣơng pháp giải quyết tranh chấp cũng phải đƣợc đổi mới. Chính vì vậy,
hệ thống Tòa án kinh tế với tƣ cách là một tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án
1
Vũ Ánh Dƣơng, Dự án luật Trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, số 14, 2009, tr 31
2
Pháp lệnh Trọng tài kinh tế do Hội đồng Nhà nƣớc ban hành ngày 10/01/1990, có hiệu lực ngày 12/01/1990
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 7
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
nhân dân theo Luật sửa đổi một số điều của Luật tổ chức Tòa án năm 19933 đƣợc
hình thành. Bắt đầu từ thời điểm này, các Tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh
chấp kinh tế, chấm dứt vai trò của Trọng tài kinh tế nhà nƣớc tồn tại hơn 30 năm.
Thứ hai, đối với Trọng tài phi chính phủ:
Trọng tài kinh tế phi chính phủ là một tổ chức độc lập, không phụ thuộc vào
hệ thống cơ quan nhà nƣớc. Nó có thể đƣợc thành lập dƣới dạng Công ty hoặc các
Hiệp hội trọng tài. Mô hình này phổ biến ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng.
Chẳng hạn: Hiệp hội trọng tài Mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản, Tòa án trọng tài
quốc tế Luân Đôn…
Trong giai đoạn này để đáp ứng nhu cầu về giải quyết tranh chấp đối với hợp
đồng chuyên biệt, những tranh chấp đặc thù, ở Việt Nam tồn tại hai mô hình Trọng
tài khác nhau, đó là Hội đồng trọng tài kinh tế và Trung tâm trọng tài kinh tế.
Hội đồng trọng tài kinh tế:
Hội đồng trọng tài ngoại thƣơng ra đời bằng Nghị định 59/CP ngày
30/4/1963 của Hội đồng chính phủ về việc thành lập Hội đồng trọng tài ngoại
thƣơng. Sau đó với Nghị định 153/CP ngày 5/10/1964 về việc thành lập Hội đồng
trọng tài hàng hải, Hội đồng trọng tài hàng hải đã đƣợc thành lập. Hai tổ chức này
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong mua bán và hàng hải khi có
ít nhất một bên là chủ thể nƣớc ngoài. Phán quyết của cả hai Hội đồng đều chung
thẩm và không thể kháng cáo ở bất kì tổ chức nào. Thực tế thì Hội đồng trọng tài ở
thời kì này rất ít việc để giải quyết. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế
thị trƣờng, ngày 28/4/1993, Thủ tƣớng chính phủ ra quyết định số 204/TTg về việc
thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) đặt bên cạnh Phòng thƣơng
mại và công nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài ngoại thƣơng
và Hội đồng trọng tài hàng hải. Cụ thể tại Điều 1 Quyết định 204/TTg quy định:
“Cho phép thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài ngoại thương
và Hội đồng trọng tài hàng hải”.
Trung tâm trọng tài kinh tế:
Sau khi Nghị định 116/CP có hiệu lực thì hàng loạt các Trung tâm trọng tài
kinh tế đƣợc thành lập: 02 Trung tâm trọng tài kinh tế tại Hà Nội, 01 Trung tâm
trọng tài kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh, 01 Trung tâm trọng tài kinh tế ở thành
phố Cần Thơ và 01 Trung tâm trọng tài kinh tế tại tỉnh Bắc Giang.
3
Luật tổ chức Tòa án nhân dân 06/10/1992 đã đƣợc sửa đổi, bổ sung theo các luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân 28/ 12/1993 và 28/10 /1995. Hiện nay luật này đã đƣợc thay thế bằng
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 đƣợc Quốc hội thông qua ngày 02/4/2002 và có hiệu lực từ ngày
01/10/2002.
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 8
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
Có thể dễ dàng thấy rằng tuy các Trung tâm trọng tài đƣợc thành lập theo
Nghị định 116/CP mang bản chất là tổ chức trọng tài phi chính phủ, nhƣng lại chịu
sự điều chỉnh của nhiều văn bản khác nhau. Cụ thể, VIAC hoạt động theo Quyết
định 204/TTg, còn 05 Trung tâm trọng tài còn lại đƣợc thành lập và hoạt động theo
quy định của Nghị định 116/CP, không liên quan gì đến Quyết định 204/TTg của
Thủ tƣớng chính phủ. Hơn nữa, các văn bản pháp luật ở giai đoạn này giá trị pháp
lý còn thấp, chỉ mới dừng lại ở Nghị định. Nội dung văn bản còn nhiều bất cập,
thiếu đồng bộ và chƣa có cơ chế bảo đảm cần thiết để vận hành có hiệu quả. Các
văn bản về pháp luật trọng tài cũng chƣa đề cập đến những vấn đề cơ bản nhƣ : thỏa
thuận trọng tài, sự hỗ trợ cần thiết của Cơ quan tƣ pháp…. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này nhƣng chủ yếu là do nƣớc ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế
tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng nên có nhiều vấn đề mới chƣa hề có
trong thực tiễn Việt Nam. Những điều này làm hệ thống pháp luật điều chỉnh trong
lĩnh vực thƣơng mại đi chậm hơn so với các quan hệ phát sinh trong thực tiễn.
1.1.1.2. Giai đoạn từ khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 có hiệu
4
lực
Trong quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh, Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại đƣợc Quốc hội thông qua
ngày 25/3/2003 và có hiệu lực ngày 1/7/2003 đánh dấu một bƣớc phát triển mới
trong quá trình lập pháp của Việt Nam nói chung và pháp luật trọng tài nói riêng.
Sự ra đời của Pháp lệnh phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế nhƣ hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trở thành Trọng tài viên, ghi
nhận Trọng tài vụ việc, mở rộng thẩm quyền chọn Trọng tài viên, ghi nhận mối
quan hệ giữa Trọng tài và Tòa án bằng một loạt các quy định cụ thể nhƣ hỗ trợ thi
hành thỏa thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu
cầu hủy quyết định trọng tài, lƣu trữ hồ sơ trọng tài…Về cơ bản Pháp lệnh đã khắc
phục đƣợc những khiếm khuyết, hạn chế trong các quy định của pháp luật trọng tài
thƣơng mại trƣớc đây mà theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu chính những
khiếm khuyết, hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút đáng kể sự hấp dẫn
của các chế định Trọng tài trong thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá
trình kinh doanh. Với sự ra đời của Pháp lệnh đã góp phần làm cho các doanh
nghiệp hứng thú hơn, tin tƣởng lựa chọn và sử dụng Trọng tài nhiều hơn.
4
Nguyễn Thái Phúc, Một số ý kiến về Pháp lệnh Trọng tài thương mại, tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 2/
2003, tr. 35
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 9
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
1.1.1.3. Giai đoạn từ khi Luật Trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực cho
đến nay
Gần 10 năm thực hiện, Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 đã bộc lộ không
ít hạn chế, bất cập và cần đƣợc khắc phục kịp thời. Những vấn đề cần đƣợc xem xét
để hoàn thiện nhƣ: thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời, việc triệu tập nhân chứng, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài, việc hủy quyết định trọng tài, cơ chế hỗ trợ của Tòa
án, Cơ quan thi hành án đối với quyết định trọng tài…..
Để hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, Luật Trọng tài
thƣơng mại đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII,
kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực ngày 01 tháng 01
năm 2011. Luật trọng tài thƣơng mại 2010 đã giúp cho pháp luật về Trọng tài của
Việt Nam tiến gần đến các chuẩn mực quốc tế, bƣớc sang một giai đoạn phát triển
mới.
Luật trọng tài thƣơng mại 2010 đã có những thay đổi tiến bộ so với Pháp
lệnh trọng tài thƣơng mại 2003. Một số điểm mới nổi bật nhƣ sau:5
Thứ nhất, Luật trọng tài thƣơng mại đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh trọng
tài thƣơng mại về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thƣơng mại của Trọng tài
thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp
liên quan đến quyền và lợi ích của các bên.6
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài an toàn hơn bởi tính vô hiệu của nó đã đƣợc hạn
chế, ví dụ khi thỏa thuận không rõ ràng mà các bên không thỏa thuận lại hoặc thỏa
thuận không đƣợc thì nguyên đơn có thể lựa chọn hình thức và tổ chức trọng tài
thích hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, quyền của Hội đồng trọng tài đƣợc mở rộng chẳng hạn nhƣ quyền
đƣợc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đƣợc thu thập chứng cứ, đƣợc triệu tập
nhân chứng…
Thứ tƣ, Luật trọng tài thƣơng mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc
tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là ngƣời nƣớc ngoài cũng có thể đƣợc chỉ định làm
Trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm
họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cƣờng hội
nhập kinh tế quốc tế.
5
Hà Phƣơng, Những điểm mới cơ bản của Luật trọng tài thương mại,
[ngày đăng
04/8/2010], [ngày truy cập 18/8/2012]
6
Xem Điều 2 Luật Trọng tài thƣơng mại 2010, đƣợc Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khóa XII, kỳ họp thứ 7 ngày 17/6/2010 thông qua, có hiệu lực ngày 01/01/2011
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 10
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
Ngoài ra, điều quan trọng phải kể đến là căn cứ để hủy phán quyết trọng tài
rõ ràng hơn, minh bạch hơn. Trƣớc đây không ít bên thua kiện đã lợi dụng một số
nhƣợc điểm của căn cứ hủy phán quyết trọng tài theo Pháp lệnh trọng tài thƣơng
mại 2003 để yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài. Tăng tính minh bạch của căn
cứ hủy phán quyết trọng tài đồng nghĩa với việc tăng sự tin tƣởng vào hình thức giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài thƣơng mại.
Tóm lại, theo pháp luật Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại có
thể bằng nhiều hình thức nhƣ: thƣơng lƣợng, hòa giải, Trọng tài và Tòa án. Mỗi
phƣơng thức có những ƣu điểm riêng, các bên có thể cân nhắc để lựa chọn một cách
thức giải quyết phù hợp nhất, hiệu quả nhất. Nếu nhƣ phƣơng thức giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài thƣơng mại đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới ƣa chuộng và xem
đó là sự ƣu tiên hàng đầu thì ở Việt Nam, Trọng tài thƣơng mại vẫn chƣa thực sự
chiếm đƣợc lòng tin của các doanh nghiệp. Nhìn lại quá trình phát triển cho thấy
pháp luật về Trọng tài thƣơng mại đang cố gắng từng bƣớc hoàn thiện, tiến gần đến
các chuẩn mực quốc tế, góp phần gánh bớt gánh nặng cho Tòa án. Với những bƣớc
tiến dài, phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài ngày càng đƣợc coi là sự
lựa chọn tối ƣu của các doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm Trọng tài thương mại
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đƣa
những tranh chấp ra một Trọng tài viên hoặc Ủy ban trọng tài để giải quyết và
Trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đƣa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh
chấp. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thƣơng mại là hình thức giải quyết tranh
chấp của Trọng tài viên, với tƣ cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các
xung đột bằng cách đƣa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải
thực hiện.7
Theo Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 đƣợc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội
nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI thông qua ngày 25 tháng 2 năm
2003 thì: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại được các bên thỏa thuận và tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng
do Pháp lệnh này quy định”.
Theo Luật trọng tài thƣơng mại 2010 đƣợc Quốc hội nƣớc cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 có
hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011 thì: “Trọng tài thương mại là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”.
7
Dƣơng Kim Thế Nguyên, Giáo trình Luật thương mại 3, Khoa luật, Trƣờng đại học Cần Thơ, 6/2008, tr. 7
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 11
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
Nhìn chung, có thể hiểu rằng Trọng tài thƣơng mại là hình thức giải quyết
tranh chấp thông qua hoạt động của Trọng tài viên theo một trình tự thủ tục nhất
định, với tƣ cách là bên thứ ba độc lập với các bên tranh chấp nhằm chấm dứt xung
đột, mâu thuẫn bằng việc đƣa ra phán quyết buộc các bên phải thi hành. Khác với
hòa giải, bên thứ ba trong tố tụng trọng tài có quyền quyết định đúng sai giữa các
bên tranh chấp và đƣa ra phán quyết. Phán quyết này có hiệu lực bắt buộc, nếu
không thi hành sẽ bị cƣỡng chế bằng quyền lực nhà nƣớc.
1.1.3. Đặc điểm của Trọng tài thương mại
Từ những mô hình tổ chức và hoạt động của Trọng tài thƣơng mại của một
số nƣớc trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, có thể đƣa ra một số đặc điểm sau:8
Thứ nhất, Trọng tài thƣơng mại là một tổ chức phi chính phủ, hoạt động theo
pháp luật và quy chế về Trọng tài thƣơng mại. Khi giải quyết tranh chấp Trọng tài
không nhân danh quyền lực nhà nƣớc, các Trọng tài viên không do Nhà nƣớc bổ
nhiệm, không hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc. “Phi chính phủ” không có nghĩa
là tách biệt hoàn toàn mà chịu sự quản lý của Nhà nƣớc thông qua hệ thống các quy
định của pháp luật, cũng nhƣ những tác động khác nhƣ tham gia Điều ƣớc quốc tế,
đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất cho hình thức giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài.
Thứ hai, Trọng tài chỉ tiến hành khi có thỏa thuận của các bên tranh chấp.
Thời điểm lựa chọn Trọng tài có thể bất kì lúc nào và không phụ thuộc vào tính
pháp lý của hợp đồng mà các bên giao kết. Bởi giá trị của thỏa thuận trọng tài độc
lập hoàn toàn với hợp đồng. Cho dù hợp đồng có vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài
vẫn có giá trị. Các bên tranh chấp toàn quyền quyết định việc lựa chọn Trọng tài
viên để giải quyết tranh chấp. Đối với các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài, các bên
có quyền thỏa thuận luật áp dụng cho mình. Nếu không có thỏa thuận thì Hội đồng
trọng tài quyết định luật áp dụng mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất. Phán
quyết của trọng tài đƣợc Cơ quan thi hành án hoặc Tòa án ra quyết định thi hành tùy
thuộc vào quy định của mỗi nƣớc.
Thứ ba, pháp luật của nhiều nƣớc và pháp luật Việt Nam đều có ghi nhận sự
hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động của Trọng tài thƣơng mại.
Chẳng hạn: thông qua trình tự thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của
Trọng tài thƣơng mại, Tòa án đảm bảo các phán quyết của Trọng tài thƣơng mại
đƣợc thực thi trên thực tế khi các bên không tự nguyện thi hành, Tòa án hỗ trợ trong
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chỉ định Trọng tài viên, kê biên tài sản,
8
Nguyễn Thị Hoài Phƣơng, Thủ tục khởi kiện và tranh chấp tại Tòa án, Trọng tài, cơ chế hiện hữu bảo vệ
quyền dân sự, NXB Lao Động, 2011, tr. 292 – 293
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 12
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
cấm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản đang tranh chấp….. Xét cho cùng, sự hỗ trợ
của Tòa án là cần thiết để Trọng tài thƣơng mại hoạt động có hiệu quả.
Thứ tƣ, Trọng tài thƣờng đƣợc tổ chức theo hai mô hình: Trọng tài vụ việc
và Trọng tài quy chế. Nhìn chung, về cơ bản các quy tắc tố tụng trọng tài của các
nƣớc cũng có những điểm chung do hầu hết các Trung tâm trọng tài trên thế giới
đều xây dựng trên khuôn mẫu của Luật Trọng tài mẫu UNICITRAL9.
Thứ năm, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng
cáo trƣớc bất kì cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử một lần và phán quyết có
giá trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phải đƣợc các bên thi hành, nếu không
tự nguyện thi hành thì bên đƣợc thi hành có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có
thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.10 Đây chính là ƣu điểm nổi bật của Trọng
tài thƣơng mại.
Thứ sáu, tất cả các tổ chức trọng tài đều có biểu phí trọng tài dựa vào tính
chất vụ việc, giá trị tài sản tranh chấp, trình độ của Trọng tài viên. Trọng tài phải tự
hạch toán. Phần lớn các nƣớc phƣơng Tây không đặt ra vấn đề hỗ trợ của Nhà nƣớc
đối với Trọng tài. Tuy nhiên ở nhiều nƣớc Châu Á nhƣ Hàn Quốc, Malaysia,
Philipine… Nhà nƣớc lại hỗ trợ cho hoạt động của Trọng tài rất nhiều, đặc biệt là về
tài chính. Thái Lan có Viện trọng tài nằm trong Bộ tƣ pháp đƣợc cấp trụ sở và trả
lƣơng hành chính cho tất cả các nhân viên cùng các chi phí văn phòng.
Ở Việt Nam hiện nay, Trọng tài với tính chất là hình thức tài phán phi chính
phủ, hiệu quả giải quyết tranh chấp cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng chƣa cao, chƣa
thật sự tạo đƣợc vị thế của mình trong nƣớc lẫn quốc tế. Hơn nữa, các nhà doanh
nghiệp Việt Nam vẫn còn tâm lý tin tƣởng việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
nhiều hơn Trọng tài. Đây là vấn đề cần thật sự quan tâm trong quá trình hội nhập
của nền kinh tế quốc tế, kêu gọi đầu tƣ nƣớc ngoài nhằm phát triển kinh tế trong bối
cảnh của Việt nam hiện nay.
1.1.4. Ưu điểm của Trọng tài thương mại so với Tòa án
Toà án là cơ quan xét xử của Nhà nƣớc, giải quyết tranh chấp theo trình tự
đƣợc quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Chính vì vậy mà phải trải qua nhiều
thủ tục tố tụng rƣờm rà, thời gian kéo dài; xét xử công khai; án đã tuyên dù có
quyền kháng cáo, nhƣng “gỡ” đƣợc không phải dễ. Trong khi đó, Trọng tài thƣơng
mại là một tổ chức phi chính phủ, chỉ giải quyết tranh chấp khi các bên có thoả
9
Luật Trọng tài mẫu quốc tế của UNICITRAL thông qua tháng 12/1966 tại khóa họp thứ XXI Đại hội đồng
Liên hợp quốc.
10
Điều 66 Luật trọng tài thƣơng mại 2010, đƣợc Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa
XII, kỳ họp thứ 7 ngày 17/6/2010 thông qua, có hiệu lực ngày 01/01/2011
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 13
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
thuận trọng tài. Nhƣ vậy, so với Toà án thì việc lựa chọn phƣơng thức giải quyết
tranh chấp bằng Trọng tài có một số ƣu điểm nhƣ sau:11
Thứ nhất, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm, có giá trị bắt buộc đối
với các bên, không thể chống án hay kháng cáo. Phán quyết trọng tài đƣợc thực hiện
ngay, phù hợp với nhu cầu khôi phục nhanh những tổn thất trong kinh doanh
thƣơng mại. Trong khi Tòa án có hai cấp xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia
của nhiều cơ quan khác (nhƣ Viện kiểm sát…).. Xét xử tại Trọng tài chỉ có một cấp
xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Hội đồng trọng tài hoàn thành nhiệm vụ và
chấm dứt sự tồn tại của mình.
Thứ hai, Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật. Hầu hết pháp
luật về Trọng tài của các nƣớc đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín nếu các
bên không quy định khác. Thông thƣờng, các bên tranh chấp không muốn các đối
tác khác và giới truyền thông biết họ đang có tranh chấp nhằm đảm bảo bí mật và
uy tín trong sản xuất kinh doanh. Nếu vụ tranh chấp đƣợc giải quyết bằng phƣơng
thức Tòa án thì tất cả phải công khai theo nguyên tắc tố tụng của Tòa án. Do đó,
xuất phát từ nguyên tắc xét xử không công khai của Trọng tài, các bên có quyền yêu
cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp không công khai. Điều này sẽ bảo vệ đƣợc danh
tiếng cũng nhƣ sự nghiệp kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trƣờng thông qua
tính bảo mật thông tin kinh doanh khi giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp có tính độc lập và độ
tin cậy của các bên khá cao. Với tính chất là một tổ chức phi chính phủ, Trọng tài
viên hoàn toàn độc lập, không bị chi phối bởi một cơ quan chủ quản nào. Họ xét xử
vụ việc theo pháp luật và theo khả năng hiểu biết của mình. Hơn nữa, sự gần gũi và
quan tâm của Trọng tài viên đối với các bên tranh chấp cũng là một ƣu điểm của
Trọng tài so với Tòa án. Đây là yếu tố thuận lợi cho các bên tranh chấp khi sử dụng
phƣơng thức này, vì trong quá trình giải quyết tranh chấp các bên đôi khi thiếu sự
bình tĩnh, Trọng tài viên sẽ là ngƣời bám sát, theo dõi tiến trình vụ việc và giúp đỡ
các bên kịp thời. Ngoài ra, Trọng tài viên là những ngƣời đƣợc sự lựa chọn từ chính
các bên tranh chấp nên độ tin cậy, tin tƣởng của các bên đối với Trọng tài viên là
khá cao. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp đƣợc tiến hành
không quá nhiều căng thẳng và áp lực. Bởi Hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện đã
đƣợc các bên lựa chọn, hoặc đƣợc chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. Khi giải quyết
bằng Trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn Trọng tài viên có trình độ chuyên
11
Bạch Thị Lệ Hoa, Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án, Trang thông tin pháp
luật dân sự, [ ngày đăng 11/8/2009], [ngày truy cập
18/7/2012]
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 14
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
môn phù hợp với đối tƣợng tranh chấp, đem lại hiệu quả, công bằng trong giải quyết
tranh chấp.
Thứ tƣ, Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, linh hoạt cho
các bên. Ngoài ra tố tụng trọng tài là một thể thức hết sức linh hoạt, phù hợp với
tính chất kinh doanh. Điều này thể hiện ở những nội dung nhƣ các bên tranh chấp
có thể chọn bất cứ nơi nào thuận tiện để giải quyết tranh chấp, thậm chí có thể thỏa
thuận giải quyết tranh chấp không cần dựa theo pháp luật mà chỉ dựa vào sự công
bằng trên nguyên tắc không trái pháp luật. Có nghĩa là họ giao trọn niềm tin của
mình cho các Trọng tài viên mà họ lựa chọn. Trên lĩnh vực thƣơng mại quốc tế, các
bên có thể thỏa thuận chọn luật và thông lệ quốc tế nào mà các bên cho là có lợi
nhất cho họ.
Thứ năm, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài sẽ nhanh chóng, tiết kiệm thời
gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng đƣợc do luôn phải giải quyết nhiều
tranh chấp cùng một lúc. Tính nhanh chóng khi giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
là một ƣu điểm mà các nhà kinh doanh thƣờng lựa chọn khi xảy ra tranh chấp. Bởi
vì, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không trải qua nhiều cấp xét xử
nhƣ Tòa án. Đối với các nhà kinh doanh thì thời gian là tiền bạc và cũng là cơ hội
góp phần vào sự thành bại trong kinh doanh. Vì thế Trọng tài đƣợc ƣa chuộng đối
với những ai không muốn đồng vốn bị giam giữ quá lâu bởi tố tụng tòa án cho phép
các bên đƣợc quyền kháng án làm cho tiến độ giải quyết tranh chấp bị kéo dài.
Trong hoạt động kinh doanh thời gian là lợi nhuận, là cơ hội cho nên không thể lãng
phí. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, ví dụ nhƣ giải quyết tranh
chấp bằng VIAC thƣờng kéo dài tối đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể kéo dài
hàng năm trời.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài giúp duy trì quan hệ đối tác.
Tố tụng tại trọng tài là tự nguyện. Xét xử bằng Trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung
đột của những bất đồng tạo điều kiện để các bên duy trì đƣợc quan hệ đối tác, quan
hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài của
một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tƣởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong
tƣơng lai.
Thứ bảy, Trọng tài cho phép các bên tự lựa chọn và chỉ định Trọng tài viên
mà họ tín nhiệm, điều mà không tồn tại ở Tòa án . Điều này có ý nghĩa quan trọng
để giúp các bên tìm thấy sự công bằng trong việc bảo vệ quyền lợi cho mình. Khi
vụ việc đƣợc đem ra xét xử ở Toà án, có thể Thẩm phán đƣợc chỉ định giải quyết vụ
việc không có trình độ chuyên môn liên quan đến đối tƣợng tranh chấp, đặc biệt các
ngành có đặc thù chuyên môn cao nhƣ: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tƣ, bảo
hiểm… Nhƣng khi giải quyết bằng Trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 15
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
Trọng tài viên và sử dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của chuyên gia có trình độ
chuyên môn phù hợp với đối tƣợng tranh chấp, đem lại hiệu quả, công bằng và
chính xác trong giải quyết tranh chấp. Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài
dựa trên năng lực, sự hiểu biết của họ về pháp luật thƣơng mại quốc tế, về các lĩnh
vực chuyên ngành có tính chuyên sâu nhƣ chứng khoán, đầu tƣ, xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ…
1.1.5. Các hình thức tổ chức Trọng tài
1.1.5.1. Trọng tài vụ việc ( ad-hoc)12
Trọng tài vụ việc có thể đƣợc hiểu là hình thức trọng tài đƣợc lập ra theo yêu
cầu của các đƣơng sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh
chấp đó đã đƣợc giải quyết.
Trọng tài vụ việc không có trụ sở, không hình thành bộ máy ổn định, không
lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc tố tụng nào. Hình thức này phù hợp với những tranh
chấp ít tình tiết phức tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng và nhất là các bên
tranh chấp có kiến kiến thức và hiểu biết về pháp luật cũng nhƣ có kinh nghiệm
tranh tụng.
Ưu điểm:
Ƣu điểm cơ bản của hình thức Trọng tài vụ việc đó là quyền tự định đoạt của
các bên. Các bên tự thỏa thuận thủ tục giải quyết và các Trọng tài viên phải tuân
theo. Việc tiến hành Trọng tài vụ việc có chi phí thấp và thời gian giải quyết nhanh,
các bên sẽ không phải trả thêm các khoản chi phí hành chính cho các Trung tâm
trọng tài (thông thƣờng khoản chi phí này không nhỏ). Ví dụ, theo quy tắc tố tụng
của Tòa án trọng tài Quốc tế ICC, khi nộp đơn kiện, nguyên đơn phải nộp một
khoản đăng ký là 2.500 USD và khoản phí này sẽ không đƣợc hoàn lại trong bất kì
điều kiện nào. Mức phí hành chính tối đa mà ICC yêu cầu các bên phải nộp có thể
lên tới 75.800 USD.13 Ngoài ra, đối với Trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận
bỏ qua một số thủ tục tố tụng không cần thiết để rút ngắn thời gian giải quyết vụ
tranh chấp.
Nhược điểm:
Nhƣợc điểm lớn nhất của Trọng tài vụ việc đó là phụ thuộc hoàn toàn vào
thiện chí của các bên. Quá trình tố tụng có nguy cơ bị trì hoãn và nhiều khi không
thể thành lập đƣợc Hội đồng trọng tài nếu một bên không có thiện chí và có thể
không có quy tắc tố tụng nào đƣợc áp dụng.
12
Giải quyết tranh chấp: Trọng tài Ad- hoc hay Trọng tài quy chế, [ngày truy cập
20/7/2012]
13
Biểu phí tổn và các chi phí trọng tài của ICC có hiệu lực ngày 01/01/1998
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 16
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
Trong Trọng tài vụ việc không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành trọng
tài và giám sát các Trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến
hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các Trọng tài viên. Cả
Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận đƣợc sự ủng hộ và giúp đỡ đặc
biệt nào từ một tổ chức Trọng tài thƣờng trực trong trƣờng hợp phát sinh sự kiện
không dự kiến trƣớc và trong trƣờng hợp các Trọng tài viên không thể giải quyết
đƣợc vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận đƣợc là từ Tòa án.
Do vậy, chỉ khi có tồn tại một Hội đồng trọng tài và một quy tắc tố tụng cụ
thể đƣợc xác lập thì quá trình tố tụng mới có thể tiến hành đƣợc suôn sẻ nhƣ Trọng
tài quy chế.
1.1.5.2. Trọng tài quy chế (Trọng tài thường trực)14
Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài đƣợc thành lập dƣới dạng các Trung
tâm, Tổ chức hoặc Hiệp hội, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố định. Có quy
tắc tố tụng trọng tài riêng, có danh sách trọng tài viên riêng.
Trọng tài thƣờng trực có quy chế tố tụng chặt chẽ, khi các bên lựa chọn
Trọng tài thƣờng trực, các bên nhận đƣợc sự hỗ trợ nhất định của tổ chức trọng tài
này liên quan tới việc tổ chức và giám sát tố tụng trọng tài.
Tính đến thời điểm hiện tại, theo khảo sát của ngƣời viết thì ở Việt Nam có
07 Trung tâm trọng tài tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Cụ thể nhƣ
sau:15
1. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thƣơng mại và
công nghiệp Việt Nam- VIAC (tại Hà Nội & Chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh)
www.viac.org.vn
2. Trung tâm trọng tài thƣơng mại thành phố Hồ Chí Minh – TRACENT (tại
thành phố Hồ Chí Minh) www.tracent.com.vn
3. Trung tâm trọng tài thƣơng mại quốc tế Thái Bình Dƣơng – PIAC (tại
thành phố Hồ Chí Minh) www.piac.com.vn
4. Trung tâm trọng tài thƣơng mại quốc tế Á Châu (tại Hà Nội)
/>5. Trung tâm trọng tài thƣơng mại Hà Nội (tại Hà Nội)
6. Trung tâm trọng tài thƣơng mại Cần Thơ (tại thành phố Cần Thơ)
7. Trung tâm Trọng tài Viễn Đông (tại Hà Nội)
14
Giải quyết tranh chấp: Trọng tài Ad- hoc hay Trọng tài quy chế, [ngày truy cập
20/7/2012]
15
Nguyễn Văn Lộc, Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại tại Việt Nam( phần 3),
[ngày đăng 09/3/2010], [ngày truy cập 20/7/2012]
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 17
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
Ưu điểm:
Việc quy định chi tiết các thủ tục tố tụng khi bắt đầu cho đến khi kết thúc là
thuận lợi lớn nhất của Trọng tài quy chế. Chẳng hạn, khi các bên thỏa thuận trọng
tài sẽ đƣợc tiến hành bởi một Hội đồng trọng tài gồm ba Trọng tài viên nhƣng bị
đơn lại không tiến hành chỉ định Trọng tài viên. Trong trƣờng hợp đó, quy tắc tố
tụng trọng tài sẽ quy định cụ thể về việc chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Theo
Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC, nếu bị đơn không tiến hành chỉ định Trọng tài
viên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đƣợc yêu cầu chỉ định Trọng tài viên
thì Chủ tịch Trung tâm sẽ chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.
Ngoài ra, các quy tắc tố tụng của các tổ chức trọng tài thƣờng quy định rất
chi tiết về các bƣớc của quá trình tố tụng, đảm bảo trong mọi trƣờng hợp tranh chấp
sẽ đƣợc giải quyết, không phụ thuộc vào việc một bên có tham gia vào quá trình tố
tụng trọng tài hay không. Theo Quy tắc của ICC: “Nếu một trong các bên, mặc dù
đã được thông báo hợp lệ, nhưng không tham dự, thì Trọng tài viên, nếu thấy rằng
việc gửi thông báo đã được tiến hành hợp lệ mà bên nhận được thông báo vắng mặt
không có lý do chính đáng, thì trọng tài vẫn có quyền tiếp tục các bước tố tụng, và
quá trình tố tụng tố vẫn được coi là được tiến hành với sự có mặt của các bên”.16
Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp một bên không có thiện chí tham gia tố tụng trọng tài thì
các quy định trên là rất cần thiết.
Ƣu điểm thứ hai đó là để tăng cƣờng khả năng cạnh tranh, các tổ chức trọng
tài cố gắng đƣa vào danh sách trọng tài viên những ngƣời có uy tín, hiểu biết rộng
và giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp. Các bên tranh chấp sẽ có
nhiều cơ hội lựa chọn Trọng tài viên phù hợp với yêu cầu của mình. Đây chính là
một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động của các tổ chức
trọng tài.
Nhược điểm:
Nhƣợc điểm lớn nhất của Trọng tài quy chế đó là tốn kém nhiều chi phí. Vì
ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho các Trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm
các chi phí hành chính để nhận đƣợc sự hỗ trợ của các Trung tâm trọng tài.
Nhƣợc điểm thứ hai của Trọng tài quy chế đó là nhiều khi quá trình tố tụng
bị kéo dài vì phải tuân theo các thời hạn theo quy định của quy tắc tố tụng.
Nhƣ vậy, mỗi hình thức trọng tài đều có những ƣu điểm và nhƣợc điểm nhất
định. Sẽ là lý tƣởng khi có thể lựa chọn hình thức Trọng tài vụ việc hoặc Trọng tài
quy chế khi tranh chấp đã phát sinh. Khi đó các bên sẽ xem xét bản chất của vụ
16
Giải quyết tranh chấp: Trọng tài Ad- hoc hay Trọng tài quy chế, ngày truy cập
[20/7/2012]
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 18
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
tranh chấp và quyết định loại trọng tài nào sẽ thích hợp, có lợi nhất cho mình để giải
quyết. Thông thƣờng thì Trọng tài quy chế đƣợc ƣu tiên lựa chọn.
1.1.6. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại
1.1.6.1. Các bên phải có thỏa thuận Trọng tài, thỏa thuận phải có hiệu
lực
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng
Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh. Trong đó, các chủ thể của
các quan hệ kinh tế thể hiện sự nhất trí về việc sẽ đƣa các tranh chấp đã hoặc sẽ có
thể phát sinh đến Trọng tài để giải quyết. Thỏa thuận trọng tài là nội dung đầu tiên
trong trình tự, thủ tục trọng tài. Tức có nghĩa là tố tụng trọng tài chỉ đƣợc hình
thành trên cơ sở một thỏa thuận trọng tài của các bên tranh chấp. Nói cách khác
không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng
tài.17
Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực tức không rơi vào trƣờng hợp bị coi là vô
hiệu theo quy định của Luật trọng tài 2010. Có 06 tình huống thoả thuận trọng tài bị
coi là vô hiệu gồm:18
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền
của Trọng tài theo quy định tại Điều 2 của Luật trọng tài thƣơng mại 2010.
Thứ hai, ngƣời xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
Thứ ba, ngƣời xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của Bộ luật dân sự.
Thứ tƣ, hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều 16 của Luật trọng tài thƣơng mại 2010.
Thứ năm, một trong các bên bị lừa dối, bị đe doạ, bị cƣỡng ép trong quá trình
xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô
hiệu.
Thứ sáu, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
So với Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003, Luật trọng tài thƣơng mại 2010
đã bỏ quy định về việc thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi không chỉ rõ tên tổ chức
trọng tài có thẩm quyền giải quyết. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thỏa thuận trọng
tài không rõ ràng, Luật cho phép các bên có quyền thỏa thuận lại. Trong trƣờng hợp
không thỏa thuận đƣợc thì bên khởi kiện có quyền đƣợc tự do lựa chọn tổ chức
17
Dƣơng Đăng Huệ, Một điển hình của việc xây dựng pháp luật theo hướng hội nhập, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 06/2003, tr.60
18
Điều 18 Luật trọng tài thƣơng mại 2010, đƣợc Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa
XII, kỳ họp thứ 7 ngày 17/6/2010 thông qua, có hiệu lực ngày 01/01/2011
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 19
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
trọng tài mà mình cho là phù hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.19 Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận
trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
1.1.6.2. Tranh chấp phát sinh phải thuộc thẩm quyền của Trọng tài
Phạm vi thẩm quyền xét xử của Trọng tài là một yếu tố quan trọng, Trọng tài
chỉ thụ lý khi xem xét thấy vụ kiện nằm trong thẩm quyền xét xử của mình.
Theo quy định tại Điều 2 của Luật trọng tài thƣơng mại, Trọng tài có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp sau:
“Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại;
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài”.
Luật đã khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003,
khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với
các tranh chấp thƣơng mại.
Nhƣ vậy, ngoài việc có thẩm quyền đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thƣơng mại20, Luật còn cho Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
không phát sinh từ hoạt động thƣơng mại nhƣng đƣợc pháp luật có liên quan quy
định sẽ đƣợc giải quyết bằng Trọng tài.
Ngoài ra, Luật trọng tài thƣơng mại 2010 không có giới hạn về phạm vi chủ
thể tranh chấp. Tổ chức, cá nhân bất kỳ đều có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài để
giải quyết tranh chấp miễn là lĩnh vực tranh chấp phát sinh từ hoạt động thƣơng
mại. Trong khi đó, theo Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003, chỉ có tổ chức
kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh mới có quyền lựa chọn Trọng tài.
Với việc mở rộng thẩm quyền trọng tài số vụ tranh chấp đƣa ra Trọng tài
thƣơng mại giải quyết sẽ nhiều hơn, góp phần giảm bớt gánh nặng cho Tòa án.
1.2. Sơ lƣợc về phán quyết Trọng tài thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm phán quyết trọng tài
Trƣớc khi Luật trọng tài thƣơng mại 2010 ra đời thì quyết định giải quyết
toàn bộ nội dung tranh chấp của Trọng tài có tên gọi là quyết định. Tuy nhiên trong
các Điều ƣớc quốc tế về trọng tài (kể cả Công ƣớc NewYork 1958 về công nhận và
thi hành quyết định của trọng tài) cũng không có định nghĩa cụ thể về khái niệm
19
Khoản 5 Điều 43 Luật trọng tài thƣơng mại 2010, đƣợc Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Khóa XII, kỳ họp thứ 7 ngày 17/6/2010 thông qua, có hiệu lực ngày 01/01/2011
20
Khoản 1 Điều 3 Luật thƣơng mại 2005: Hoạt động thƣơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác.
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 20
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
quyết định của Trọng tài thƣơng mại. Mặc dù vậy Công ƣớc NewYork 1958 có các
quy định xác định cụ thể các loại quyết định của Trọng tài. Theo nghĩa rộng, có thể
định nghĩa quyết định của trọng tài nhƣ sau: quyết định của Trọng tài là quyết định
cuối cùng giải quyết tất cả các vấn đề đƣợc các bên thỏa thuận đệ trình lên Trọng tài
và bất cứ một quyết định nào khác của Trọng tài xác định rõ vấn đề tài sản, vấn đề
về thẩm quyền hay bất cứ một vấn đề nào về thủ tục giải quyết tranh chấp đƣợc các
bên đệ trình. Nhƣ vậy theo cách định nghĩa đó, có hai loại quyết định của Trọng tài:
quyết định cuối cùng và quyết định không phải là cuối cùng. Từ đó nảy sinh vấn đề
là cần có sự phân biệt hai loại quyết định này để dễ thực hiện và tránh nhầm lẫn.21
Trong Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 tất cả các quyết định của Trọng
tài bao gồm cả quyết định giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp đều đƣợc thể hiện
dƣới một tên gọi là quyết định. Tuy nhiên Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003
cũng không có khái niệm quyết định của Trọng tài thƣơng mại. Cho đến Luật trọng
tài thƣơng mại 2010 mới khái niệm về quyết định cuối cùng của Trọng tài thể hiện
quan điểm giải quyết vụ tranh chấp bằng tên gọi “phán quyết”. Theo khoản 10 Điều
3 Luật trọng tài thƣơng mại 2010 định nghĩa “Phán quyết trọng tài là quyết định
của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố
tụng trọng tài”.
1.2.2. Phân biệt quyết định và phán quyết trọng tài
Phán quyết trọng tài là kết quả tiến hành tố tụng trọng tài và có sự khác biệt
so với các quyết định trọng tài ban hành trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp.
Trong quá trình tố tụng Trọng tài có quyền ra nhiều loại quyết định khác nhau liên
quan đến vụ tranh chấp nhƣ: quyết định về thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của
Hội đồng trọng tài, quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời… Sự giống
nhau giữa phán quyết trọng tài với những quyết định khác chỉ đơn thuần đều là
quyết định của Trọng tài. Trƣớc đây Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 chỉ có
một tên gọi chung cho tất cả các quyết định của trọng tài bao gồm cả quyết định giải
quyết toàn bộ nội dung tranh chấp của Hội đồng trọng tài trong suốt quá trình tố
tụng. Tuy nhiên giữa phán quyết Trọng tài và các quyết định khác của Trọng tài
đƣợc phân biệt dựa trên các cơ sở sau: phán quyết của Trọng tài có ý nghĩa chấm
dứt tố tụng trọng tài, nội dung của phán quyết Trọng tài thể hiện nội dung giải quyết
toàn bộ các vấn đề tranh chấp giữa các bên đƣơng sự, trong đó có quyền lợi và
nghĩa vụ, lợi ích tranh chấp giữa các bên đƣợc xác định một cách rõ ràng, cụ thể
làm cơ sở cho việc thi hành. Thiết nghĩ chính vì vậy mà Luật trọng tài thƣơng mại
21
Nguyễn Trung Tín, Công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam, NXB
Tƣ Pháp Hà Nội, 2005, tr 73
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 21
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
2010 đã dùng hai thuật ngữ “quyết định” và “phán quyết” để phân biệt rõ ràng đâu
là quyết định liên quan đến vụ tranh chấp, đâu là quyết định chấm dứt quá trình tố
tụng để tránh nhầm lẫn và dễ thi hành. Bởi khi nói hủy quyết định trọng tài, thi hành
quyết định trọng tài ngƣời ta không biết là đang nói đến quyết định nào vì trong quá
trình tố tụng trọng tài ra rất nhiều quyết định.
1.2.3. Nguyên tắc ban hành phán quyết trọng tài
Nguyên tắc ban hành phán quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài là biểu
quyết theo đa số. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản của Luật mẫu về trọng tài và đƣợc
thừa nhận trong pháp luật trọng tài của các nƣớc.22 Điều này có nghĩa phán quyết
trọng tài đƣợc ban hành và có giá trị thi hành, ràng buộc trách nhiệm với các bên
không nhất thiết phải có sự thống nhất tuyệt đối của các thành viên Hội đồng trọng
tài giải quyết vụ tranh chấp đó. Tuy nhiên nguyên tắc này không phải là tuyệt đối.
Đối với Luật trọng tài thƣơng mại 2010 mặc dù không quy định rõ nhƣng có thể
hiểu rằng nguyên tắc ban hành phán quyết trọng tài là biểu quyết theo đa số sẽ loại
trừ trƣờng hợp Hội đồng trọng tài chỉ có một Trọng tài viên duy nhất và trƣờng hợp
không đạt đƣợc đa số thì phán quyết đƣợc lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng
trọng tài.
Tố tụng trọng tài bảo đảm cho các bên tranh chấp trong mọi trƣờng hợp đều
có phƣơng án giải quyết cuối cùng bằng một phán quyết. Theo đó, nếu có sự thống
nhất đa số thì phán quyết đƣợc lập theo ý kiến của đa số, nếu biểu quyết không đạt
đƣợc đa số thì phán quyết trọng tài đƣợc lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng
trọng tài kể cả có Trọng tài viên không ký vào phán quyết trọng tài thì phán quyết
trọng tài vẫn có hiệu lực. Trong trƣờng hợp này Chủ tịch Hội đồng trọng tài phải
ghi rõ trong phán quyết trọng tài về việc Trọng tài viên không ký vào phán quyết.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa tố tụng trọng tài với tố tụng tòa án trong giải
quyết tranh chấp. Bởi vì trong tố tụng tòa án, pháp luật chỉ thừa nhận giá trị của bản
án khi đạt đƣợc biểu quyết theo đa số phiếu và không có bất kỳ ngoại lệ nào đƣợc
áp dụng cho Hội đồng xét xử, và Chủ tọa phiên tòa không có quyền tự mình quyết
định các vấn đề cho vụ tranh chấp nhƣ Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Phán quyết
trọng tài có giá trị chung thẩm; không bị kháng cáo, kháng nghị trƣớc bất kỳ cơ
quan, tổ chức nào. Phán quyết có hiệu lực thi hành ngay nếu không bị hủy trƣớc
Tòa án. Nếu không tự nguyện thi hành thì bên đƣợc thi hành có thể yêu cầu Cơ
quan thi hành án có thẩm quyền cƣỡng chế thi hành.
1.2.4. Phân loại phán quyết trọng tài
22
Nguyễn Thị Hoài Phƣơng, Thủ tục khởi kiện và tranh chấp tại Tòa án, Trọng tài, cơ chế hiện hữu bảo vệ
quyền dân sự, NXB Lao Động, 2011, tr. 347
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 22
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
Có hai loại phán quyết là phán quyết trọng tài thƣơng mại Việt Nam và phán
quyết trọng tài thƣơng mại nƣớc ngoài. Theo khoản 12 Điều 3 Luật trọng tài
thƣơng mại 2010 “Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài
nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn”. Trọng tài nƣớc ngoài là Trọng
tài đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nƣớc ngoài do các bên thỏa
thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc
trong lãnh thổ Việt Nam.23 Phán quyết của trọng tài thƣơng mại Việt Nam có giá trị
chung thẩm và có hiệu lực thi hành ngay, còn phán quyết trọng tài nƣớc ngoài muốn
đƣợc thi hành tại Việt Nam phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về cơ cấu, phán quyết của trọng tài thƣơng mại thƣờng gồm có ba phần:
phần mở đầu, phần nội dung và phần cuối cùng.
Phần mở đầu của phán quyết thƣờng là phần giới thiệu một cách ngắn gọn,
liệt kê các sự kiện liên quan đến vụ kiện. Chẳng hạn nhƣ thông tin về nguyên đơn,
bị đơn, trọng tài viên, các vấn đề đƣợc đề cập, tóm tắt nội dung vụ việc.
Phần nội dung là phần căn cứ ra phán quyết (trừ khi các bên có thỏa thuận
không cần nêu căn cứ trong phán quyết), kết quả giải quyết tranh chấp, quyền và
nghĩa vụ của các bên, thời hạn thi hành phán quyết, chi phí trọng tài, thời hạn thi
hành phán quyết và các vấn đề khác có liên quan.
Phần cuối cùng là chữ ký của Trọng tài viên.
Qua những nội dung đã trình bày nhƣ trên cho thấy những quy định của pháp
luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thƣơng mại 2010 ở nƣớc ta từng
bƣớc đƣợc hoàn thiện. Sự ra đời của Trọng tài thƣơng mại đáp ứng yêu cầu thực tế
giải quyết tranh chấp ở nƣớc ta đặc biệt là thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ hiện
nay. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trọng tài
thƣơng mại 2003, kế thừa và phát triển các quy định phù hợp đã đi vào cuộc sống
đồng thời học hỏi từ Luật mẫu trọng tài UNICITRAL, Luật trọng tài thƣơng mại
2010 có hiệu lực ngày 01/01/2011 đã tạo nên cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc lựa
chọn Trọng tài để giải quyết các tranh chấp. Kết quả của việc giải quyết tranh chấp
bằng hình thức Trọng tài thƣơng mại đƣợc thể hiện bằng một phán quyết. Điều mà
các bên trông đợi khi đƣa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài là một phán quyết
đúng và nhanh chóng có hiệu lực thi hành bởi trong kinh doanh thời gian là tiền
bạc, là cơ hội. Để hiểu một cách rõ ràng những vấn đề liên quan đến phán quyết
23
Khoản 11 Điều 3 Luật Trọng tài thƣơng mại 2010, đƣợc Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Khóa XII, kỳ họp thứ 7 ngày 17/6/2010 thông qua, có hiệu lực ngày 01/01/2011
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 23
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
trọng tài, về sự nỗ lực hoàn thiện các quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài
của các nhà lập pháp Việt Nam, ngƣời viết sẽ đi vào trình bày, phân tích, so sánh,
đánh giá và kiến nghị hƣớng hoàn thiện ở chƣơng tiếp theo.
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 24
SVTH: Tô Huyền Trang
Đánh giá những quy định của pháp luật về phán quyết trọng tài theo Luật trọng tài thương
mại 2010 và hướng hoàn thiện
CHƢƠNG 2
ĐÁNH GIÁ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
THEO LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 2010
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
2.1. Hình thức, nội dung, hiệu lực và lƣu trữ phán quyết trọng tài
thƣơng mại
2.1.1. Hình thức và nội dung của phán quyết trọng tài
Về nguyên tắc chung, hình thức và nội dung của phán quyết trọng tài đƣợc
quy định bởi thỏa thuận trọng tài và luật điều chỉnh tố tụng trọng tài. Để xác định
đƣợc hình thức, nội dung phán quyết trọng tài theo thỏa thuận trọng tài sẽ dựa vào
bộ quy tắc tố tụng trọng tài mà các bên đã áp dụng. 24 Ví dụ : Điều 32 quy tắc
UNICITRAL quy định “quyết định trọng tài phải được lập thành văn bản. Các lý
do mà căn cứ vào đó để ra quyết định trọng tài phải được ghi rõ; quyết định trọng
tài phải được ký bởi các Trọng tài viên và phải ghi ngày và địa điểm ra quyết định
trọng tài; nếu có ba Trọng tài viên và một trong số họ không ký, quyết định trọng
tài phải nêu lý do của việc không ký”.
Tuy nhiên, các quy định về hình thức và nội dung của phán quyết trọng tài
trong các hệ thống pháp luật quốc gia rất khác nhau, có hệ thống quy định chi tiết
nhƣng cũng có những hệ thống không quy định:25
Pháp luật Thụy Sỹ quy định chi tiết cho hình thức và nội dung của phán
quyết trọng tài cho các vụ kiện trong nƣớc (Điều 33 thỏa ƣớc Thụy Sỹ), nhƣng với
các vụ kiện quốc tế thì chỉ yêu cầu bốn tiêu chí là phán quyết trọng tài phải lập
thành văn bản, có giải thích, đề ngày tháng và đƣợc ký (Điều 189 thỏa ƣớc Thụy
Sỹ)
Điều 52 Luật trọng tài Anh năm 1966 quy định các bên tự do thỏa thuận về
hình thức của phán quyết trọng tài, nếu hoặc trong phạm vi không có thỏa thuận
nhƣ vậy, các quy định sau đƣợc áp dụng: Phán quyết trọng tài phải lập thành văn
bản và đƣợc ký bởi tất cả các Trọng tài viên hoặc tất cả những ngƣời tán thành phán
quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài phải nêu lý do đề ra phán quyết trọng tài trừ khi
đó là một phán quyết trọng tài trên cơ sở thỏa thuận hoặc các bên đã thỏa thuận
24
Nguyễn Thị Hoài Phƣơng, Thủ tục khởi kiện và tranh chấp tại Tòa án, Trọng tài, cơ chế hiện hữu bảo vệ
quyền dân sự, NXB Lao Động, 2011, tr. 348
25
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam: Hỏi đáp về Luật trọng tài thương mại, xuất bản năm 2010, trang
133
GVHD: Nguyễn Thị Hoa Cúc
Trang 25
SVTH: Tô Huyền Trang