Nhóm thuyết trình 2
1.Trần Thị Bạch Khuyên (nhóm trưởng)
2.Đinh Thị Thuỳ Linh
3.Lê Thuỳ Dương
4.Hoàng Khánh Huyền
5.Lê Huỳnh Đạt
6.Trần Ngọc Thanh
7.Vũ Ngọc Hương
Chủ đề :Quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam và
nguy cơ vỡ quỹ:những nguyên nhân chính.
1.Lịch sử quỹ Bảo hiểm xã hội
1.1.1 Bảo hiểm xã hội là gì?
-Bảo hiểm xã hội : Là hệ thống mạng lưới an sinh xã hội
bao gồm Bảo hiểm xã hội và Cứu trợ xã hội. Thông qua
việc hình thành quỹ tài chính tập trung từ sự đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động và có cả sự hỗ trợ
của nhà nước.
-BHXH bù đắp phần thu nhập bị giảm hoặc mất, hoặc chi
phí cuộc sống gia tăng của người lao động do “rủi ro xã
hội” gây ra như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh
nghề nghiệp, tuổi già, thấp nghiệp.
-BHXH là loại hình dịch vụ công trong nền kinh tế thị
trường, hoạt động không nhằm mục đích kiếm lời.
a.Vai trò: BHXH có vai trog kinh tế-xã hội hết sức quan
trọng vì nó hướng tới việc diện bảo vệ là người lao độnglực lượng quan trọng đang trực tiếp tạo ra của cải vật chất
cho xã hội.
b.Tính chất: BHXH có tính cộng đồng, tính nhân đạo, tính
nhân văn sâu sắc và là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã
hội của mỗi nước.
=> QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI: Là quỹ tài chính độc lập,
tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có mục đích
và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ là để chi trả cho
người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến
cố và rủi ro. Chủ thể của quỹ Bảo hiểm xã hội chính là
những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do
đó có thể bao gồm cả người lao động, người sử dụng lao
động và Nhà nước.
1.1.2.Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội:
a.Người sử dụng lao động:
Sự đóng góp này không những thể hiện trách nhiệm của
NSDLĐ với NLĐ, mà còn thể hiện lợi ích của NSDLĐ bởi
đã đóng góp một phần BHXH cho NLĐ. NSDLĐ sẽ tránh
được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền
lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ của mình, đồng thời
cũng giảm bớt được những tranh chấp. Thông thường phần
đóng góp này được xác định dựa trên quỹ lương của đơn vị,
doanh nghiệp.
b.Người lao động:
Người lao động tham gia đóng góp để đảm bảo cho chính
bản thân mình. Thông qua hoạt động này, người lao động
đã dàn trải rủi ro theo thời gian, khoản đóng góp vào quỹ
bảo hiểm xã hội chính là khoản để dành dụm, tiết kiệm cho
về sau bằng cách là hưởng lương hưu hoặc được hưởng trợ
cấp khi gặp rủi ro xảy ra.
c.Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm:
Quỹ BHXH được nhà nước bảo hộ và đóng góp khi quỹ bị
thâm hụt, không đủ khả năng để chi trả cho các chế độ xã
hội. Nhằm mục đích đảm bảo cho các hoạt động xã hội
diễn ra được đều đặn, ổn định. Nguồn thu từ sự hỗ trợ ngân
sách nhà ngước đôi khi là khác lớn, sự hỗ trợ này là rất cần
thiết và quan trọng.
d.Các nguồn khác:
Sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện, lãi do đầu tư phần quỹ
nhàn rỗi, khoản tiền thu nộp phạt từ những đơn vị chậm
đóng BHXH,… Đây là những phần thu tăng thêm do bộ
phận quỹ nhàn rỗi, được cơ quan BHXH đưa vào hoạt động
sinh lời.
Việt nam quy định:
+Người lao động đóng 5% lương tháng cho bảo hiểm xã
hội và 1% lương tháng cho bảo hiểm y tế.
+Người sử dụng lao động đóng 15% quỹ lương hàng tháng
cho bảo hiểm xã hội và 2% quỹ lương tháng cho bảo hiểm
y tế.
1.1.3 Hệ thống quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
- Các chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tình
hình thu và chi quỹ; lợi ích của người tham gia hệ
thống bảo hiểm xã hội:
+ Chính phủ ra luật bảo hiểm xã hội (2014) nhằm
điều chỉnh, quản lý các đối tượng liên quan đến
quỹ bảo hiểm xã hội và nhằm bảo đảm an sinh xã
hội, nâng cao đời sống cho người lao động.
+ Chính phủ và các bộ chức năng đã sớm ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện một số quy định
còn chưa rõ và còn nhiều vướng mắc trong việc
thực hiện BHXH tư nguyện và BHXH bắt buộc.
+ Cụ thể hóa và quy định rõ trách nhiệm đối với
các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành có liên
quan trong việc phối hợp, kiểm tra, giám sát, phát
hiện và xử lý các vi phạm về thực hiện chính sách
BHXH, đồng thời cải cách thủ tục, trình tự xử phạt
sao cho đơn giản, thuận tiện và hiệu quả.
+ Nâng mức phạt và bổ sung hình thức truy tố
trước pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về đóng BHXH.
+ Việc quản lý Nhà nước về Bảo hiểm xã hội do Bộ
Lao Động-Thương binh và xã hội, cơ quan của
chính phủ đảm nhận, Việc quản lý sự nghiệp Bảo
hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đơn vị
sự nghiệp, thuộc chính phủ, quản lý và thực hiện
các chế độ bảo hiểm xã hội;
- Lợi ích: BHXH bù đắp phần thu nhập bị giảm
hoặc mất, hoặc chi phí cuộc sống gia tăng của
người lao động do “rủi ro xã hội” gây ra như ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp,
tuổi già, tử tuất, thấp nghiệp. NSDLĐ sẽ tránh
được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ của
mình, đồng thời cũng giảm bớt được tranh chấp
sau rủi ro.
- Việt nam quy định: Người lao động đóng 8% cho
BHXH (cho quỹ hưu trí và tử tuất).
Người sử dụng lao động đóng 18% cho BHXH (3%
cho quỹ ốm đau, thai sản; 1% vào quỹ tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; 14% vào quỹ hưu trí và
tử tuất).
ĐỨC: Vào năm 2004, cải cách hưu trí lại được tiến
hành ở Đức với phương châm mang lại sự ổn định
về tài chính cho hệ thống BHXH với việc tăng độ
tuổi nghỉ hưu chính thức từ 65 tuổi lên 67 tuổi vào
năm 2035 và tiếp tục khẳng định tỷ lệ đóng góp vào
hệ thống hưu trí công cộng ở mức 20% vào năm
2020 và 22% vào năm 2030.
Do đặc điểm lịch sử mà hiện nay ở Đức có rất nhiều
quỹ đang hoạt động, theo các mục đích khác nhau.
Thùy theo tính chất của quỹ mà nguồn hình thành quỹ
và mức đóng góp của người lao động cũng rất khác
nhau, nhưng phổ biến là người lao động và người sử
dụng lao động có mức đóng ngang nhau, mức đóng
này còn tùy theo từng quỹ cụ thể.
Tài trợ của Nhà nước sau hàng loạt các cải cách thì
nay trở nên không còn phổ biến vì quan điển chung
là hệ thóng BHXH phát huy tối đa năng lực của
công dân trong việc đảm bảo khả năng tài chính
của quỹ BHXH.
1.1.4.T trở nên không còển của Quỹ trong 10 năm trở
lại đây từ năm 2005-2016
Giai đoạn từ năm 2005 đến nay, lĩnh vực bảo hiểm ý
tế tiếp tục là một lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa chiến
lược, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường nước ta trong việc thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, với định hướng phát triển là tiếp
tục cải cách bảo hiểm xã hội.
Với nhiệm vụ được tập trung vào các nội dung:
Triển khai nghị quyết số 35/2004/QH11 về chương
trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2005 của Quốc hội,
phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành có liên quan xây
dựng Luật về bảo hiểm xã hội để chính Chính phủ,
trình quốc hội và ngày 29/6/2006 Luật về bảo hiểm xã
hội đã được Quốc khóa VI kì họp thứ 9 thông qua.
Xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn thực
hiện các quy định của Luật bảo hiểm xã hội. Đó là nghị
định hướng dẫn một số điều Luật bảo hiểm xã hội về
bảo hiểm xã hội bắt buộc với công nhân, viên chức; bảo
hiểm bắt buộc với lực lượng vũ trang; bảo hiểm tự
nguyện; bảo hiểm thất nghiệp; xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội; Nghị định về quy
định tổ chức về bảo hiểm xã hội.
Tăng cường công tác nhà nước trong lĩnh vực quản
lý bảo hiểm xã hội, cụ thể:
.
Xúc tiến mạnh mẽ công tác phổ biến, tuyên truyền
sâu rộng đến người lao động, người sử dụng lao động về
pháp luật bảo hiểm xã hội nhằm nâng cao nhận thức
quyền lợi và trách nhiệm thực hiên đóng bảo hiểm xã
hội, góp phần làm mạnh quan hệ lao động, tăng thu hút
đầu tư và tạo việc làm.
.
Kiện toàn hệ thống thanh tra, trước hết là hệ thống
thanh tra lao động. Coi trọng công tác thanh tra, kiểm
tra tại cơ sở với sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan lao
động, liên đoàn lao động và bảo hiểm xã hội tỉnh, thành
phố về việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, đồng
thời kiên quyết xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội.
.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu
các thủ tục giấy tờ nhằm tạo điều kiện cho các đối
tượng tham gia và thụ hưởng, nâng cao hơn nữa trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần tận tâm, tận tụy
đối với đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội,
bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người lao động.
.
Thực hiện việc điều chỉnh lương hưu và trợ cấp
bảo hiểm xã hội cho người nghỉ hưu theo Luật của bảo
hiểm xã hội nhằm cải thiện tốt hơn đời sống người nghỉ
hưu trong quá trinh hội nhập và phát triển kinh tế.
THU CHI:
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được giao chỉ tiêu dự toán
tổng số thu là 269.294 tỷ đồng;
Thu bảo hiểm xã hội
158.443
tỷ đồng
Thu bảo hiểm y tế
66.288
tỷ đồng;
Thu bảo hiểm thất nghiệp
10.363
tỷ đồng;
Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư tài chính
34.200 tỷ đồng.
+Chỉ tiêu dự toán chi năm 2016 được giao là 200.047 tỷ
đồng;
+Chi chế độ bảo hiểm xã hội từ quỹ bảo hiểm xã hội
110.121 tỷ đồng;
+Chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp
7.371 tỷ đồng;
+Chi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế
72.700 tỷ đồng;
+Chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp 9.855 tỷ đồng.
Như vậy, so với năm 2015, dự toán thu, chi năm 2016
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam tăng hơn.
Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ giao Bảo hiểm xã hội
Việt Nam tổng số dự toán thu là 233.665 tỷ đồng;
tổng số dự toán chi là 171.587 tỷ đồng.
2.Vấn đề vỡ quỹ BHXH
Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), với các
chính sách hiện hành, đến năm 2021, quỹ BHXH của Việt
Nam sẽ mất cân đối thu chi, buộc phải lấy từ nguồn kết dư
để chi trả. Tuy nhiên, đến năm 2034, phần kết dư này cũng
không còn, dẫn đến khả năng vỡ quỹ và khi đó, người lao
động sẽ không nhận được lương hưu. Tuy nhiên, thực tế
khả năng vỡ quỹ bảo hiểm xã hội có thể xảy ra sớm hơn.
Chỉ đủ trả lương hưu trong 8,5 năm/người.
Cảnh báo trên của Tổ chức lao động quốc tế ILO hồi năm
2012 đã cho thấy, vỡ quỹ có thể sẽ gây ra một cuộc khủng
hoảng an sinh xã hội khó lường. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn
đề này cần phân tích những nguyên nhân gây ra vỡ quỹ
BHXH.
2.1. Nguyên nhân vỡ quỹ
a.Từ phía nhà nước
+ Cơ chế đóng bảo hiểm chưa hợp lí: đóng ít, hưởng
nhiều và số người tham gia đóng ngày càng ít.
Theo thống kê của Bộ Lao động thương binh và xã hội, số
người đóng bảo hiểm xã hội cho một người được hưởng
lương hưu đang ngày càng giảm. Năm 1996, khi toàn dân
bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, ước cứ 217
người đóng bảo hiểm xã hội, có 1 người già được hưởng
lương hưu. Nhưng năm 2000, số người đóng giảm xuống
còn 34 người, năm 2009 còn 11 người và hiện nay cứ 9
người đóng BHXH thì có một người hưởng lương hưu.
Thêm vào đó, thời gian đóng bảo hiểm xã hội thì ngắn
nhưng thời gian hưởng lương hưu lại dài. Nam giới hiện
nghỉ hưu từ 60 tuổi, đối với nữ tuổi nghỉ hưu là 55. Sau
tuổi nghỉ hưu, nam giới có thời gian hưởng lương hưu
trung bình là 18,1 năm và nữ giới là 24,5 năm. Tuy
nhiên trên thực tế độ tuổi nghỉ hưu trung bình thấp hơn
nhiều so với con số quy định tuổi thọ bình quân ngày
càng tăng lên tức là thời gian hưởng lương hưu sẽ dài
hơn tạo gánh nặng cho quỹ BHXH.
Với thách thức của sự thay đổi cơ cấu dân số, đặc biệt là
quá trình già hóa như hiện nay đòi hỏi cần có sự cải
thiện trong luật BHXH.
+ Chưa chú trọng công tác tuyên truyền bảo hiểm xã hội:
Quỹ BHXH ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục
đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và
gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoăc
mất thu nhập từ lao động. Tuy nhiên chưa nhiều người
được tiếp cận đầy đủ những lợi ích BHXH mang lại. đội
ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền vừa thiếu về tổ
chức và biên chế, một số nơi còn bị hạn chế về chuyên
môn; BHXH một số tỉnh, thành phố chưa có cán bộ làm
công tác tuyên truyền chuyên trách, hoặc có tỉnh đã bố
trí nhưng thường xuyên thay đổi, luân chuyển nên gặp
nhiều khó khăn. Một số cán bộ lãnh đạo còn xem nhẹ
công tác tuyên truyền; Một số địa phương, do có sự
thay đổi về kinh phí tuyên truyền, nên việc triển khai đã
có những lúng túng nhất định
+ Chế tài xử phạt chưa đủ răn đe:
Trốn đóng BHXH đã trở thành vấn nạn đối với người lao
động ở các doanh nghiệp tư nhân và đang diễn ra ở hầu hết
các tỉnh, thành phố trên cả nước. Theo thống kê của BHXH
Việt Nam, hiện số tiền nợ BHXH bắt buộc trên cả nước lên
đến hàng nghìn tỷ đồng do chế tài xử phạt chưa đủ mạnh
khiến doanh nghiệp “chây ỳ”
việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH đối
với hành vi chậm đóng BHXH bắt buộc của cá nhân, tổ
chức có thẩm quyền chưa được thực hiện nghiêm theo
quy định của pháp luật. Hiện nay, chịu trách nhiệm
thanh tra, kiểm tra bảo hiểm xã hội là ngành LĐ-TBXH nhưng do lực lượng mỏng nên chỉ thanh tra được
khoảng 0,5% DN đang tham gia bảo hiểm xã hội. Bên
cạnh đó, cán bộ thanh tra lại không được quyền xử
phạt, chỉ được lập biên bản kiến nghị lên cấp có thẩm
quyền nên việc xử lý chậm và không có tính răn đe
+ Nhà nước chưa giải quyết được bài toán minh bạch
trong chi bảo hiểm xã hội:
Quỹ BHXH được coi là “của để dành” của người lao
động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già…. Và
người tham gia bảo hiểm cần được biết đến mọi thông
tin liên quan. Nhưng vẫn còn đó những vụ bê bối làm
thất thoát hàng nghìn tỷ, thông tin về quỹ BHXH đang
chịu nhiều sức ép dẫn đến vỡ quỹ khiến người dân
không khỏi lo ngại. Khi chưa tạo được niềm tin rằng hệ
thống đang hoạt động một cách công bằng, sẽ khó để
thuyết phục người đóng BHXH việc họ phải chi thêm
tiền là xác đáng.
b.Từ phía người dân
+ Người tham gia bảo hiểm tìm cách lách luật, trốn tránh
trách nhiệm:
Hành vi trục lợi diễn ra ngày càng phổ biến và phức
tạp . Các hành vi trục lợi bảo hiểm xã hội Đó là những
hành vi giả mạo hồ sơ, giấy tờ; không cung cấp thông
tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật. Người lao động
làm giả hoặc xin khống giấy tờ như giấy ốm, giấy chứng
sinh, điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại… để hưởng
các chế độ ngắn hạn. Đặc biệt, gian lận này xảy ra nhiều
ở chế độ hưu trí, do việc bảo quản hồ sơ cá nhân thời
gian trước đây không tốt nên nhiều người đã khai tăng
tuổi, khai tăng thời gian công tác để đủ điều kiện hưởng
chế độ hưu trí hoặc được hưởng ở mức cao hơn. Nhiều
người đã xin giấy chứng nhận suy giảm khả năng lao
động để được nghỉ hưu sớm…
+ Thiếu hiểu biết về bảo hiểm xã hội
Do công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội chưa triệt
để nên người lao động chưa nắm bắt đầy đủ về chính
sách BHXH, những lợi ích từ BHXH và từ chối tham
gia.
Trên thực tế, hiện nay không ít người lao động nhất là
đối với lao động phổ thông, làm việc theo mùa vụ, gần
như không mấy hiểu biết về chính sách BHXH hoặc vì
lợi ích trước mắt mà họ đã không ký kết hợp đồng lao
động. Nhiều người vẫn cho rằng, việc ký kết hợp đồng
lao động sẽ buộc họ trích nộp các loại quỹ BHXH làm
giảm mức thu nhập hàng tháng, trong khi bản thân họ
chưa chắc đã gắn bó lâu dài với doanh nghiệp mà liên
tục thay đổi chỗ làm khi nơi khác có mức thu nhập cao
hơn.
+ Người dân thiếu niềm tin vào lợi ích của bảo hiểm
Ngoài việc mập mờ về mặt tài chính như phân tích ở
trên, với việc nền kinh tế còn chưa ổn định và tiền sử
siêu lạm phát như ở Việt Nam, nhiều người sẵn sàng
chấp nhận tự tích cóp dự phòng hơn là đi mua.. Mua
bảo hiểm là hình thức dự phòng rủi ro ở tương lai, với
việc người mua có niềm tin lâu dài cho bên bán bảo
hiểm rằng họ có đủ khả năng để chi trả cho rủi ro, bệnh
tật, tuổi già,…về sau. Vì lý do đó, không ai mua bảo
hiểm ở những nơi mà họ không tin tưởng, hoặc với mức
đền bù mà họ cho rằng không tương thích với chi phí bỏ
ra.
Sự can thiệp của Nhà nước
Đứng trước nguy cơ vỡ quỹ BHXH, Nhà nước đã có
những thay đổi tích cực như bổ sung những chính sách
mới có lợi cho người lao động, tăng cường tuyên
truyền về BHXH, sử dụng BHXH điện tử,… Tuy
nhiên để quản lí hiệu quả quỹ BHXH tránh rủi ro cần
có những bước đi cụ thể và ổn định hơn nữa.
2.2.Một số vụ bê bối nhằm trục lợi từ quỹ
Báo cáo của Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam cho thấy,
trong sáu tháng đầu năm 2016 đã có 37 tỉnh, thành phố có
số chi vượt quỹ khám, chữa bệnh (KCB) được giao, với số
tiền gần 3.404 tỷ đồng
a,Làm giả hồ sơ thai sản để trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội
Lợi dụng quy định của BHXH trong trường hợp người
lao động (NLĐ) có ít nhất 6 tháng tham gia đóng BHXH
sẽ được hưởng chế độ ốm đau, thai sản và dưỡng sức
phục hồi sức khỏe, vợ chồng Lê Thành Thắng, Phạm
Thị Ngọc Hằng (ngụ phường Hiệp Phú, quận 9,
TPHCM) đã lập 10 Cty “ma”, đóng BHXH, BHYT cho
nhiều nhân viên “ảo” rồi chờ đủ 6 tháng trở lên, đến cơ
quan BHXH lãnh tiền thai sản. Nhận thấy nhiều bất
thường trong các hồ sơ này, BHXH một số quận, huyện
trên địa bàn TPHCM đã báo cáo lên lãnh đạo BHXH
TP. Sau quá trình điều tra, xác minh phát hiện nhiều
gian dối, cơ quan BHXH TP đã lập tức báo cáo và phối
hợp với Phòng An ninh nội bộ (PA 83) cùng vào cuộc.
Ngày 20.5.2015, khi Hằng đến BHXH quận 9 với tên
nhân viên Lê Thị Thu Thảo để làm thủ tục ứng tiền chế
độ cho nhân viên Cty, các mũi trinh sát đã ập vào và
mời Hằng về làm việc. Tại đây, cơ quan công an tiếp tục
mời chồng Hằng là Lê Thành Thắng đến xác minh.Theo
khai nhận và hồ sơ xác minh ban đầu, Thắng và Hằng
đã thực hiện 25 lần lãnh tiền “thai sản đơn vị”
(961.500.000 đồng), 5 lần lãnh tiền “dưỡng sức”
(7.762.500 đồng) và 10 lần lãnh tiền “thai sản cá nhân”
(335.778.000 đồng). Tổng số tiền chiếm đoạt được từ các
cơ quan BH là 1.305.040.500 đồng.
b,Làm đám tang giả
Khoảng năm 2005 - 2006, một vụ trục lợi bảo hiểm khác
mà địa bàn ở miền Bắc cũng được dàn dựng công phu.
Một gia đình nọ có người bị mất tích nhưng người nhà
vẫn làm nấm mồ giả, làm một đám ma nhỏ, câu kết với
chính quyền xã cung cấp giấy chứng tử. Nhân viên công
ty bảo hiểm đi điều tra phải đòi giấy tờ bệnh viện, xin
gặp bác sĩ đối chứng hồ sơ, vạch trần và từ chối bồi
thường.
Vụ công ty bảo hiểm nghi ngờ có dấu hiệu trục lợi ồn ào
nhất là vụ ông V.Q.U, một thầy giáo về hưu ở Hải
Dương. Vào năm 2002, ông U. bị tai nạn, bị cắt cụt 1/3
cẳng chân trái. Trước đó, ông đã mua bảo hiểm của 3
công ty; trong đó, ông đã mua 4 hợp đồng bảo hiểm của
Prudential, nơi con trai ông làm đại lý bảo hiểm. Tổng
cộng ông đã mua 6 hợp đồng bảo hiểm với tổng mức
đóng phí cả ba công ty khoảng 15 triệu đồng/tháng.
Trong đó, nếu được chấp nhận chi trả quyền lợi bảo
hiểm, ông sẽ nhận được từ Prudential là 750 triệu đồng.
Nhưng Prudential đã từ chối chi trả cho vụ tai nạn này.
Theo thống kê, bảo hiểm nhân thọ giai đoạn 2007 - 2013
đã xảy ra khoảng 62.860 vụ trục lợi với tổng số tiền 530
tỉ đồng chủ yếu ở các bảo hiểm bổ trợ, sức khỏe chiếm
đến 93%.
Theo đó, có cơ quan hoặc thôn xóm có đến một nửa số
người được điều trị trong cùng một thời gian, cùng một
bệnh lý tại cùng một cơ sở chữa bệnh. Thậm chí họ vẫn
được chấm công đi làm để hưởng lương.