Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG CỦA NGUYÊN LÍ MAC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.03 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

CHƢƠNG1. CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƢỢNG….....………..1
1.1.CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT VÀ HIỆN TUỢNG …………………1
1.1.1. Phạm trù bản chất và hiện tuợng

…...……………………….1

1.1.2. Sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện t-îng ……………..6
1.2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA BẢN CHẤT VÀ HIỆN
TUỢNG ……………………………………………………………………………..9
1.2.1. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tuợng ……………………..9
1.2.2. Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất của bản chất và
hiện tuợng………………………………………………………………………..11
CHƢƠNG 2. VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT VÀ HIỆN TUỢNG
VỚI VIỆC TÌM HIỂU BỆNH ĐẠO ÔN TRÊN CÂY LÚA Ở ĐỒNG BĂNG
SÔNG CỬU LONG ………………………………………………………………13
2.1. TÌM HIỂU VỀ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG…………………13
2.1.1. Khí hậu…………………………………...……………………….13
2.1.2. Nguồn nƣớc……………………………...………………………..15
2.1.2. Tài nguyên nƣớc ………………………………………………...18
2.2. TÌM HIỂU BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG CỦA BỆNH ĐẠO ÔN TRÊN
CÂY LÚA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ………………………………...
2.2.1. Bệnh đạo ôn là gì?

…………..……………………………..21

2.2.2. Bản chất của bệnh đạo ôn.......…………………………………..22


Nhom 7

Page 1


2.2.3. Biểu hiện của bệnh đạo ôn .....…………….…………………...23
2.2.4. Cách phòng ngừa bệnh đạo ôn ………………………………….
KẾT LUẬN …………………………………………………………….………...24
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nhom 7

…………………….…………………………..25

Page 2


Lêi Më ®Çu
“Con ong khai thác vật liệu từ hoa ngoài vườn và ruộng đồng nhưng sử dụng và
biến đổi nó phù hợp với khả năng và chủ định của mình, công việc của các nhà triết
học cũng không khác gì công việc đó…
(Ph.Beccơn)
Thật vậy, mỗi ngày ta tự đặt ra cho mình thật nhiều câu hỏi về thế giới
xung quanh và về chính bản thân mình. Con người là gì? Nó có quan hệ thế nào với
thế giới xung quanh? Thế giới đó tồn tại thế nào? Và rồi ý nghĩa thật sự của cuộc
sống là ở đâu?
Có lẽ từ trước khi chúng ta tự đặt ra cho mình những câu hỏi ấy thì các
nhà triết học như những chú ong cần mẫn của thời đại đã tích lũy tri thức từ quá khứ
đến hiện tại để gieo vào nhân loại những bài học thật sự có ý nghĩa.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về những quy luật chung nhất của sự

phát triển trong tự nhiên và xã hội, lí luận cách mạng của quần chúng lao động
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, công cuộc xây dựng
khoa học Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản. Nó là những quan điểm triết
học, khoa học và các quan điểm chính trị xã hội
Nhận thức được điều đó, việc đi nghiên cứu tìm hiểu những kiến thức cơ
bản xung quanh “Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” giúp sinh viên
tự trang bị cho mình một vốn kiến thức nhất định và có cái nhìn mới trong thế giới
quan lẫn tư duy. Bản chất và hiện tượng là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của
phép biện chứng duy vật giúp mỗi người chúng ta có cái nhìn vừa tổng quát vừa cụ
thể và sâu sắc hơn về những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh. Qua đó,
mỗi chúng ta có thể vận dụng giá trị phương pháp luận được rút ra để phân tích,
xem xét các vấn đề trong quá trình nhận thức cũng như ứng dụng trong cuộc sống
thực tiễn.

Nhom 7

Page 3


Tuy còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong quá trình tiếp cận với một môn
học đầy những lí luận và nguyên lí khá phức tạp. Tuy nhiên, cùng với những kiến
thức cơ bản có được và quá trình tự nghiên cứu nhóm chúng tôi xin được phép trình
bày những hiểu biết của mình liên quan đến đề tài: “Nội dung cơ bản và ý nghĩa của
cặp phạm trù cái bản chất và hiện tượng”.
1. Lí do chọn đề tài
Cuộc sống càng phát triển con người càng rời xa với cuộc sống hiện tại của
chính mình, những bộn bề của cuộc sống đôi khi khiến chúng ta chưa có được cái
nhìn tổng quát về những sự vật hiện tượng. Phải chăng việc đánh giá một vấn đề chỉ
xét qua hiện tượng đã trở thành thông lệ với con người hiện đại? Thật đáng tiếc nếu
điều đó trở thành hiện thực, nếu chỉ đánh giá vấn đề theo cái nhìn ngây thơ như thế

thì con người hiện đại đang thể hiện tầm nhìn hạn hẹp của mình. Nhận thấy điều đó
những vấn đề xung quanh bản chất và hiện tượng sẽ giúp chúng ta trang bị thêm
một phần kiến thức trong tư duy có cái nhìn tổng quát về sự vật hiện tượng.
Đối với từng vấn đề sẽ có những cái nhìn đa dạng nhiều chiều, đi sâu khám
phá ra bản chất thật sự mới là thành quả của mọi quá trình nghiên cứu. Nhắc đến
nông nghiệp nhất là nghề trồng lúa là loại cây gắn liền với cuộc sống của con người
Việt Nam nói chung và con người Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Từ thuở xa
xưa, con người đã biết gắn bó cuộc sống của mình với ruộng đồng và canh tác lúa
nước đã trở thành nguồn sống của nguời dân. Trở lại với cuộc sống hiẹn đại, Việt
Nam là một trong những nước có nền nông nhgiệp phát triển nhất là lĩnh vực xuất
khẩu lúa gạo. Thế nhưng hiện trạng sâu bệnh, dịch hại đang dần thu hẹp diện tích
trồng lúa của người nông dân. Mà đặc biệt trong những năm gần đây dịch hại đạo
ôn đang ăn mòn nguồn sống của người dân ở khắp mọi nơi không riêng gì Việt
Nam. Uớc tính dịch hại đọ ôn mỗi năm phá hủy một lượng lương thực đủ để nuôi
sống 60 triệu dân. Riêng Việt Nam, bệnh đạo ôn là một bệnh phổ biến của cây trồng.
Vùng trồng lúa ở Hà Tĩnh, vụ đông xuân 2000-2001 toàn tỉnh có tới 3854,6 ha diện
tích bị nhiễm đạo ôn. Điều này gây ra những tổn thất hết sức nặng nề với người dân.
Cảnh trắng tay trong mùa thu hoạch khiến nông dân rơi vào bước đường cùng. Với
Nhom 7

Page 4


kiến thức hạn hẹp chưa được sự hỗ trợ từ các nhà khoa học chưa tìm ra nguồn gốc
của dịch bệnh, người nông dân dường như chỉ biết đổ lỗi cho số trời, do đât, nước,
hoặc điều kiện khí hậu gây nên hay tin vào những lực lượng siêu hình, thần bí. Đây
là lúc cái nhìn duy vật ngây thơ đang lí giải cho những sự vật, hiện tượng đang xảy
ra xung quanh con người. Cứ sau mỗi vụ lúa thất mùa, người nông dân đổ xô
chuyển đổi hình thức canh tác.
Tuy một giọt nước không thể lắp đầy cả bể đại dương tri thức song vẫn hy

vọng mang lại cho bạn đọc một cái nhìn mới trong tư duy và vốn tri thức về một
trong sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Do còn nhiều hạn chế khách quan và chủ quan nên khó tránh khỏi những
điểm cần phải sửa đổi, bổ sung, góp ý. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của quí thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng tôi được hoàn
thiện hơn.
Để hoàn thành bài tiểu luận này chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Th.S Nguyễn Trung Dũng phó trưởng khoa lí luận chính trị với sự hướng dẫn
tận tình đã giúp chúng tôi thực hiện bài tiểu luận này.

Nhom 7

Page 5


CHƢƠNG I: CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT VÁ HIỆN TƢỢNG
1.1. Cặp phạm trù bản chất và hiện tƣợng trong phép duy vật biện chứng:
1.1.1. Phạm trù bản chất và hiện tƣợng:
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối
ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển cuả sự vật đó. Còn
hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài.
Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách quan.
Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những hiện
tượng ấy. còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của hiện
thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.
- Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo
nên bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các sự
vật đó. Tuy nhiên, không phải cái chung nào cũng là cái bản chất vì bản chất chỉ là
cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển sự vật.
- Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Nói đến bản chất của sự

vật là nói đến tổ hợp những quy luật quyết định sự vận động và phát triển của nó. Vì
vậy, bản chất là phạm trù cùng bậc với phạm trù quy luật. V.I.Lenin viết: “Quy luật
và bản chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một bậc), hay nói đúng hơn, là
cùng một trình độ, những khái niệm này biểu hiện con người nhận thức ngày càng
sâu sắc các hiện tượng, thế giới”1.
Ví dụ, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản. Theo quy luật này, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ được tiến hành khi
nó bảo đảm sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản trên cơ sở tăng
cường bóc lột lao động làm thuê dưạ vào việc mở rộng sản xuất và phát triển kỹ
thuật. Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật chi phối toàn bộ quá trình phát
sinh, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Nói cách khác, nó đồng thời nói
Nhom 7

Page 6


lên bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa – một nền sản xuất nhằm sản xuất
giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt.
Tuy bản chất và quy luật là những phạm trù cùng bậc, nhưng chúng không
hoàn toàn đồng nhất với nhau. Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp
lại và ổn định giữa các hiện tượng hay giữa các mặt của chúng. Còn bản chất lại
tổng hợp tất cả các liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, nghĩa là
ngoài những mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, chung cho nhiều hiện tượng, nó còn
bao gồm cả những mối liên hệ tất nhiên, không phổ biến, cá biệt nữa. Như vậy,
phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật.
1.1.2. Sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tƣợng:
Những người duy tâm chủ quan cho rằng, bản chất chỉ là một điều bịa đặt,
một tên gọi trống rỗng. Còn hiện tượng cho dù được thừa nhận là có tồn tại, nhưng
theo họ đó chỉ là tổng hợp các cảm giác, nghĩa là chỉ tồn tại trong chủ quan con
người.

Thí dụ , khi đề cập đến vấn đề bản chất của con người, nhà triết học Anh
B.Russell hỏi: “Ngài Smit là gì?” và trả lời: “Khi chúng tôi nhìn ông ta thì chúng tôi
thấy có vô số màu sắc, khi chúng tôi nghe ông ta thì chúng tôi thấy vô số âm thanh
và chúng tôi cho rằng, cũng giống như chúng tôi, ông ta có tư tưởng và tình cảm.
Rồi B.Russell hỏi tiếp: “Nhưng ngoài những hiện tượng đó thì ngài Smit là gì? Chỉ
là một cái móc tưởng tượng mà theo giả thiết thì trên đó treo những hiện tượng.
Thực ra, những hiện tượng không cần phải treo ở trên cái móc đó”. Như vậy, theo
B.Russell, bản chất chỉ là một cái gì đó do con người tưởng tượng ra, còn hiện
tượng thì tự chúng tồn tại và không biểu hiện một cái gì ẩn giấu đằng sau chúng cả.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại
thực sự của bản chất, nhưng lại xem đó là tinh thần. Ví dụ, Platon cho rằng toàn bộ
thế giới bao gồm những tư tưởng vĩnh cửu và bất biến. Những tư tưởng vĩnh cửu và
bất biến này là bản chất chân chính của mọi tồn tại. Còn những sự vật cảm quan mà
chúng ta thấy chỉ là cái bóng của các tư tưởng đó mà thôi.
Nhom 7

Page 7


Trái với các quan điểm trên đây – những quan điểm không được các tài liệu của
khoa học và thực tiễn xác nhận – chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả bản chất
và hiện tượng đều tồn tại khách quan. Tại sao vậy? Đó là vì bất kỳ sự vật nào cũng
được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên
hệ qua lại đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật. Sự vật tồn tại
khách quan và những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định này ở bên trong sự
vật, nên đương nhiên chúng cũng tồn tại khách quan, tức là bản chất của sự vật
cũng tồn tại khách quan. Kết luận này cũng đúng cho hiện tượng vì hiện tượng chỉ
là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài.
1.2. Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tƣợng

1.2.1. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tƣợng
Bản chất và hiện tượng không những tồn tại khách quan, mà còn ở trong mối
liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Mỗi sự vật
đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. sự thống nhất đó thể hiện trước
hết ở chỗ bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng
là sự biểu hiện của bản chất. không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy,
không cần có hiện tượng. Ngược lại cũng không có hiện tượng nào lại không phải là
sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Nhấn mạnh mối liên hệ không tách rời
giữa bản chất và hiện tượng, Lênin viết: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính
chất bản chất”.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ: Bất kỳ bản
chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện tượng nào
cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó hoặc nhiều hoặc ít.
Nói cách khác, bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với nhau. Ví dụ,
trong các xã hội có giai cấp, bất kỳ nhà nước nào cũng là một bộ máy trấn áp của
giai cấp này đối với giai cấp khác. Bản chất ấy thể hiện ở chỗ bất kỳ nhà nước nào
cũng có quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù, v.v. Tất cả bộ máy này đều nhằm mục
Nhom 7

Page 8


đích trấn áp sự phản kháng của giai cấp khác để bảo vệ quyền lợi kinh tế và chính
trị của giai cấp thống trị.
Như vậy, bản chất bao giờ cũng tự bộc lộ ra thông qua những hiện tượng
nhất định. Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra thành những loại hiện tượng khác nhau.
Khi bản chất thay đồi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất
biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng biến mất. Chính nhờ có sự thống nhất
giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động và phát triển của sự vật
với những biểu hiện muôn hình, nghìn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong

nhiều biểu tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.
1.2.2. Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tƣợng
Bản chất và hiện tượng tuy thống nhất với nhau, nhưng đó là sự thống nhất
biện chứng, nghĩa là trong sự thống nhất ấy đã có bao hàm sự khác biệt. Nói cách
khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau về căn bản phù hợp với nhau,
nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn. Vì sao vậy? Vì bản chất
của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua tương tác của sự vật ấy với các
sự vật xung quanh; các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh
hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.
Kết quả là hiện tượng tuy biểu hiện bản chất nhưng không còn là sự biểu hiện y
nguyên bản chất nữa.
Do không tính đến tình hình này nên có tác giả cho rằng có những trường
hợp hiện tượng phản ánh nguyên vẹn bản chất, trùng khớp hoàn toàn với bản chất.
khẳng định đó dẫn đến một khẳng định sai lầm khác cho rằng vì có những hiện
tượng hoàn toàn trùng khớp với bản chất nên ta có thể nhận thức được bản chất của
một số hiện tượng thuần túy bằng con đường tri giác trực tiếp, nghĩa là thuần túy
bằng các giác quan mà không cần đến tư duy trừu tượng. Các khẳng định trên đây
không phản ánh đúng quan hệ thực sự giữa bản chất và hiện tượng và tính phức tạp
của quá trình nhận thức bản chất của sự vật. Thực ra, hiện tượng không bao giờ
trùng khớp hoàn toàn với bản chất. Sự không hoàn toàn trùng khớp đó khiến cho sự
Nhom 7

Page 9


thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
- Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. vì vậy, cùng một bản chất có
thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của

điều kiện và hoàn cảnh. Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không
những vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện.
chính vì thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất; ngược lại, bản chất lại sâu sắc hơn
hiện tượng.
- Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất, về cơ bản phù hợp với bản chất
nhưng không bao giờ phù hợp hoàn toàn. Chúng biểu hiện bản chất không phải dưới
dạng y nguyên như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã cải biến, nhiều khi xuyên
tạc nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ, hàng bao thế kỷ người ta vẫn tin rằng trái
đất đứng yên, còn mặt trời quay xung quanh trái đất, và vì vậy mà có ngày và đêm,
nhưng sự thực lại hoàn toàn ngược lại: Chính là trái đất quay xung quanh mặt trời.
nhúng một nửa cái thước vào chậu nước, nhìn vào ta thấy cái thước gấp khúc, trong
khi đó sự thực thước vẫn thẳng. giá trị của hàng hóa do lượng lao động xã hội cần
thất đã chi phí để sản xuất ra nó quyết định, trong khi đó , nhìn theo những hiện
tượng bề ngoài thì hình như nó do quan hệ cung – cầu quyết định. Trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân nhìn bề ngoài là một quan hệ
rất sòng phẳng giữa một bên mua sức lao động và trả tiền dưới hình thức trả lương.
Còn bên kia bán sức lao động và nhận tiền dưới hình thức nhận lương, trong khi đó
thực tế là nhà tư bản đã bóc lột công nhân. Quần chúng nhân dân chính là lực lượng
quyết định trong sự sáng tạo ra lịch sự, nhưng nhìn theo những hiện tượng bề ngoài,
hình như lịch sử được tạo nên bởi những vĩ nhân,v.v.

Nhom 7

Page 10


Như vậy, bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của sự vật, còn hiện
tượng là sự biệu hiện của bản chất đó ra bên ngoài, nhưng biểu hiện dưới hình thức

đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất. Mác nhận xét: “Nếu hình thái biểu và bản
chất của sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”. vì
vậy, khi xem xét sự vật, ta không thể dừng lại ở biểu hiện bề ngoài mà phải đi sâu
vào tìm hiểu bản chất của nó.
Nhưng quá trình tìm hiểu bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp, lâu
dài. Đó là quá trình con người đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc
hơn đến bản chất sâu sắc hơn và cứ thế tiếp tục mãi. Khi nhấn mạnh tính chất vô tận
của quá trình này, Lênin viết: “ Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô tận, từ
hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đén bản chất
cấp hai, v.v…, cứ như thế mãi” [2]
- Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn định,
nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Có tình hình đó là do nội
dung của hiện tượng được quyết định bản chất của sự vật, mà còn bởi những điền
kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động quay lại của nó với các sự vật. Các điều
kiện tồn tại bên ngoài cũng như sự tác động quay lại của sự vật này với các sự vật
khác xung quanh lại thừong xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng cũng thường xuyên
biến đổi, trong khi đó bản chất vẫn giữ nguyên. Nên viết: “ Cái thuộc bản chất, cái
bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám chắc”, không “ngồi vững”,
bằng “bản chất”… Sự vận động của một con sông – bọt ở bên trên và nguồn nước
sâu ở dưới. Nhưng bọt cũng là biểu hiện của bản chất![1]
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là từ lúc ra đời cho đến khi mất đi, bản
chất vẫn giữ nguyên như cũ. Bản chất cũng thay đổi Lênin viết: “Không phải chỉ
riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn
chỉ có tính ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế”[2]. Chỉ có điều bản chất
biến đổi chậm hơn hiện tượng.Trong toàn bộ sự thay đổi, phát triển của sự vật các
hiện tượng luôn luôn biến đổi còn bản chất về căn bản vẫn giữ nguyên như cũ. Nó
có thay đổi nhưng thay đổi ít hơn, chậm hơn so với hiện tượng. Thí dụ,khi chủ
Nhom 7

Page 11



nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thì bản chất của chế độ tư
bản chủ nghĩa đã biến đổi ít nhiều .Nếu trong giai đoạn trước độc quyền, tụ do cạnh
tranh và xuất khẩu hàng hóa chiếm địa vị thống trị, thì trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa,tư bản độc quyền đã thay thế cho tự do cạnh tranh ,qui luật lợi nhuận tối đa
thay thế cho qui luật thu nhập bình quân, xuất khẩu hàng hóa bị chèn ép và xuất
khẩu tư bản chiếm địa vị thống trị v.v .Mặc dầu vậy, về căn bản, bản chất của chủ
nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên như cũ, tức là vẫn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ của
hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa.
1.3. Mối quan hệ giữa cặp phạm trù bản chất và hiện tƣợng với “cái chung”,
“cái riêng”:
Việc tìm hiểu cặp phạm trù "sự vật" và "thuộc tính" là cơ sở để tìm hiểu cặp
phạm trù trong "cái riêng” và "cái chung", đến lượt mình, việc tìm hiểu cặp phạm
trù "cái riêng" và "cái chung" lại là cơ sở để tìm hiểu cặp phạm trù "hiện tượng" và
"bản chất".
Để trả lời câu hỏi : "hiện tượng và bản chất là gì?", chúng ta không những cần
phải xác định quan hệ giữa "hiện tượng" với "bản chất", mà còn cần phải xác định
quan hệ giữa "hiện tượng", “bản chất" với các phạm trù khác, trước hết với cặp
phạm trù "cái riêng" và "cái chung".
Quan hệ giữa hiện tượng với cái riêng có thể được xem giống như quan hệ
giữa sự vật với cái riêng: cái riêng là hiện tượng, hiện tượng là cái riêng (một cái
riêng là một hiện tượng, một hiện tượng là một cái riêng).
Về quan hệ giữa cái chung với bản chất đang có những ý kiến khác nhau. Có ý
kiến cho rằng bản chất là cái chung, nhưng không phải mọi cái chung đều là bản
chất. Có ý kiến cho rằng, bàn chất là cái chung, ngược lại mọi cái chung đều là bản
chất. Trong "Bút ký triết học", Lênin có trích dẫn quan niệm của Hêgen về vấn đề
này như sau: “Cái chung là một quy định nghèo nàn biết nó như là bản chất". Khi
dẫn lại quan niệm ấy, Lênin viết: "NB: cái chung" coi như là “bản chất”.


Nhom 7

Page 12


Khi xét quan hệ giữa "cái chung” với "bản chất" cần xét "cái chung” và “bản
chất” với tính cách là những phạm trù của phép biện chứng, chứ không phải với tính
cách là những khái niệm của các bộ môn khoa học khác, hoặc của ngôn ngữ hàng
ngày. Để xác định xem "cái chung” với tính cách một phạm trù của phép biện
chứng có phải là “bản chất” không, chúng ta hãy phân tích mệnh đề “cái cốc này
màu trắng”. Ở đây, như đã biết, cái - cốc - này là một sự vật, là một hiện tượng, là
một cái riêng, còn màu trắng là một thuộc tính, hơn nữa là một thuộc tính chung, là
một cái chung. Ở mệnh đề "cái cốc này màu trắng" thì màu trắng còn phải được
hiểu như một bản chất. Màu trắng là một bàn chất nhưng không phải là bản chất
quan trọng của "cái - cốc - này". Một bản chất nào đó ở hiện tượng này có thể là bản
chất cấp 1, song ở hiện tượng kia lại là bản chất cấp 2, ở hiện tượng này có thể bản
chất quan trọng, song ở hiện tượng kia lại là bản chất không quan trọng. Nếu xem
xét bản chất một cách mềm dẻo như vậy, thì hoàn toàn có thể cho rằng, bất kỳ một
cái chung nào cũng đều là một bản chất, dù bản chất để là quan trọng hay là không
quan trọng.
Mèi liªn hÖ
( vßng trßn quan hÖ)
1.4. Một số kết luận về mặt phƣơng pháp luận
- Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, qui định sự
vận động và phát triển của sự vật, còn hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất ra
bên ngoài, là cái không ổn định và biến đổi nhanh hơn so với bản chất nên trong
nhận thức,để hiểu đầy đủ và đúng đắn về sự vật, không nên dừng lại ở hiện tượng
mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó. Còn trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào
bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng.


Nhom 7

Page 13


- Nếu trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn cần nắm được
bản chất và dựa vào bản chất của sự vật, thì nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của
nhận thức khoa học nói riêng là phải vạch ra được cái bản chất đó.
- Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể
tìm ra bản chất của sự vật ở trong chính sự vật chứ không thể ở ngoài nó, và khi kết
luận về bản chất của sự vật cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
- Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra
ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái bản
chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
- Nhưng vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến
nhiều khi xuyên tạc bản chất, nên trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải
xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng trong
một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định không bao giờ có thể xem xét hết
được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, phải ưu tiên cho việc
xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Dĩ nhiên, kết
quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật, mà
mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình đi vào nắm bắt các cấp độ
tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự vật là một quá trình hết sức
khó khăn, lâu dài, công phu, không có điểm dừng.
Cũng vì lẽ đó, khi kết luận về bản chất của sự vật cần hết sức thận trọng.

Nhom 7

Page 14



Chƣơng 2: tìm hiểu bản chất và hiện tƣợng của bệnh đạo ôn trên cây lúa ở
Đồng bằng sông Cửu Long
2.1. Tìm hiểu về đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là phần cuối cùng của lưu vực sông Mêkông với
tổng diện tích tự nhiên là 3,96 triệu ha bằng 5% diện tích toàn lưu vực, bao gồm 12
tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng,
Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau, chiếm khoảng 12% diện tích
tự nhiên và dân số năm 1995 là 16,18 triệu người chiếm 22% dân số cả nước
Đây là vùng đất màu mỡ, mưa nắng thuận hòa, thích hợp không chỉ với cây
lúa mà còn nhiều loại cây ăn quả nhiệt đới khác. Có mạng lưới giao thông thủy, bộ
thuận tiện, là vùng sản xuất hàng hóa lớn, đồng thời là địa bàn trung chuyển, giao
lưu hàng hóa giữa TP Hồ Chí Minh với các tỉnh khác trong vùng. Hàng trăm nghìn
ha đất phù sa, mặt nước, bãi bồi và hàng trăm km bờ biển được các tỉnh phát triển
toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.
2.1.1.Khí hậu
Đồng bằng sông Cửu Long có một nền nhiệt độ cao và ổn định trong toàn
vùng. Nhiệt độ trung bình 280 C. Chế độ nắng cao, số giờ nắng trung bình cả năm
2.226 - 2.709 giờ. Tổng hoà những đặc điểm khí hậu đã tạo ra ở Đồng bằng sông
Cửu Long những lợi thế mang tính so sánh riêng biệt mà các nơi khác khó có thẻ có
được, đó là một nền nhiệt độ, một chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định
trong vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long cũng là nơi ít xảy ra thiên tai do khí hậu đặc biệt
là bão. Những đặc điểm khí hậu này đã tạo ra một nguồn lực rất thuận lợi cho sinh
trưởng và phát của sinh vật đạt được năng suất sinh học cao, tạo ra một thảm thực
vật và một quần thể động vật phong phú đa dạng, nhưng có tính đồng nhất tương
đối trong toàn vùng. Chính vì vậy đó là những điều kiện thuận lợi để tổ chức sản
Nhom 7

Page 15



xuất và phát triển sản xuất lương thực - thực phẩm, phát triển sản xuất chế biến sản
phẩm nông - thuỷ - hải sản lớn nhất cả nước, và cũng tạo ra các lợi thế so sánh khác
của Vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
2.1.2.Nguồn nƣớc
Đồng bằng sông Cửu Long lấy nước ngọt từ sông Mêkông và nước mưa. Cả
hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước bình quân của
sông Mêkông chảy qua Đồng bằng sông Cửu Long hơn 460 tỷ m3 và vận chuyển
khoảng 150 - 200 triệu tấn phù sa. Chính lượng nước và khối lượng phù sa đó trong
quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên Đồng bằng Châu thổ phì nhiêu ngày nay.
Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông kênh rạch lớn nhỏ chi chít rất
thuận lợi cung cấp nước ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4,
sông Mêkông là nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa mưa, lượng mưa trung bình
hàng năm dao động từ 2.400 mm ở vùng phía Tây Đồng bằng sông Cửu Long đến
1.300 mm ở vùng trung tâm và 1.600 mm ở vùng phía Đông. Về mùa lũ, thường
xảy ra vào tháng 9, nước sông lớn gây ngập lụt.
Chế độ thuỷ văn của Đồng bằng sông Cửu Long có 3 đặc điểm nổi bật :
+ Nước ngọt và lũ lụt vào mùa mưa chuyển tải phù sa, phù du, ấu trùng.
+ Nước mặn vào mùa khô ở vùng ven biển.
+ Nước chua phèn vào mùa mưa ở vùng đất phèn.
Đồng bằng sông Cửu Long có trữ lượng nước ngầm không lớn. Sản phẩm
khai thác được đánh giá ở mức 1 triệu m3/ngày đêm, chủ yếu phục vụ cấp nước
sinh hoạt.
2.1.3. Tài nguyên đất

Nhom 7

Page 16



Tổng diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, không kể hải đảo, khoảng 3,96
triệu ha, trong đó khoảng 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và
nuôi trồng thuỷ sản chiếm 65%. Trong quỹ đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng
năm chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu đất lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại
cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm
trên 320.000 ha, khoảng 8,2% diện tích tự nhiên.
Vùng bãi triều có diện tích khoảng 480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có
khẳ năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ. Theo điều tra năm 1995 có 0,508
triệu ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có rừng 211.800 ha và đất không rừng 296.400
ha. Tỷ lệ che phủ rừng chỉ còn 5%.
Các nhóm đất chính ở Đồng bằng sông Cửu Long gồm:
Đất phù sa sông (1,2 triệu ha): Các loại này tập trung ở vùng trung tâm Đồng
bằng sông Cửu Long. Chúng có độ phì nhiêu tự nhiên cao và không có các yếu tố
hạn chế nghiêm trọng nào. Nhiều loại cây trồng có thể canh tác được trên nền đất
này.
Đất phèn (1,6 triệu ha): Các loại đất này được đặc trưng bởi độ axit cao,
nồng độ độc tố nhôm tiềm tàng cao và thiếu lân. Nhóm đất này cũng bao gồm cả
các loại đất này cũng bao gồm cả các loại đất phèn nhiễm mặn nặng và trung bình.
Các loại đất phèn tập trung tại Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên còn các
loại đất phèn mặn tập trung tại vùng trung tâm bán đảo Cà Mau.
Đất nhiễm mặn ( 0,75 triệu ha): Các loại đất này chịu ảnh hưởng của nước
mặn trong mùa khô. Các vùng đất này khó có thể được cung cấp nước ngọt. Hiện
nay lúa được trồng vào mùa mưa và ở một số khu vực người ta nuôi tôm trong mùa
khô.

Nhom 7

Page 17



Các loại đất khác (0,35 triệu ha): Gồm đất than bùn (vùng rừng U Minh), đất
xám trên phù sa cổ (cực Bắc của Đồng bằng sông Cửu Long) và đất đồi núi (phía
Tây - Bắc Đồng bằng sông Cửu Long).
Nhìn chung, ở Đồng bằng sông Cửu Long rất thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp không có hạn chế lớn. Do nền đất yếu cho nên để xây dựng công nghiệp,
giao thông, bố trí dân cư, cần phải gia cố, bồi đắp nâng nền, do đó cần đòi hỏi chi
phí nhiều.
2.2. Vận dụng cặp phạm trù bản chất và hiện tƣợng vào việc tìm hiểu bệnh đạo
ôn trên cây lúa ở đồng bằng sông Cửu Long:
2.2.1.Bệnh đạo ôn là gì?
Bệnh đạo ôn hay còn gọi là bệnh cháy lá, xuất hiện rất sớm khi lúa vừa mới
hai tuần tuổi. Đạo ôn có thể gây hại nhiều bộ phận phía trên mặt đất của cây lúa từ
lá, đốt thân, cổ bông đến gié lúa, hạt lúa…
Thực tế đã cho thấy, bệnh đạo ôn là một trong những đối tượng dịch hại
nguy hiểm nhất trên cây lúa, hàng năm đã gây thiệt hại rất lớn cho bà con nông dân.
Bởi, ngày nay, bệnh đạo ôn đã xuất hiện ở tất cả các vụ lúa trong năm, hầu hết các
giống lúa đang được canh tác ở ĐBSCL đều không có khả năng kháng loại bệnh
này một cách triệt để.
Sự nguy hiểm của bệnh đạo ôn đối với cây lúa trước hết là do chúng xuất
hiện và tấn công gây hại ở tất cả các giai đọan sinh trưởng và trên nhiều bộ phận
khác nhau, như lá, đốt thân, cổ bông và cả trên hạt. Bệnh phát triển mạnh trong điều
kiện thời tiết có ẩm độ cao, nhiệt độ ban đêm thấp, sáng sớm có nhiều sương mù, và
trên ruộng thiếu nước. Bệnh đạo ôn phát tán rất nhanh trên đồng ruộng, và khi đã
xảy ra thành dịch thì sẽ thiệt hại rất nặng về năng suất cho cây lúa.
Theo ước tính cho thấy mỗi năm bệnh đạo ôn làm thế giới mất một lượng
lúa đủ để nuôi sống 60 triệu người - một ước tính khá khiêm tốn.Còn theo Viện
Nhom 7

Page 18



nghiên cứu lúa quốc tế, mỗi năm Ấn Độ mất hơn 266.000 tấn lúa hay khoảng 0,8%
tổng sản lượng do bệnh đạo ôn. Ở Nhật Bản, bệnh này có thể nhiễm cho 865.000ha
lúa. Còn tại Philippines, hàng nghìn hecta lúa mất hơn 50% sản lượng. Họ hàng của
Magnaporthe grisea cũng tấn công khoảng 50 loại thực vật thân cỏ khác trong đó
có lúa mỳ, lúa mạch và kê.
2.2.2. Bản chất của bệnh đạo ôn
Bệnh đạo ôn do nấm gây ra bằng cách phóng thích bào tử trong không khí.
Bệnh thường tấn công và gây hại nặng ở những ruộng sử dụng giống nhiễm, ruộng
gieo sạ quá dầy và bón thừa phân đạm.
Nhóm giải mã gien nấm gây bệnh đạo ôn do Ralph Dean thuộc ĐH Bắc
Carolina (Mỹ) đứng đầu đã tiến hành giải mã gien của loại nấm trên các đây 7 năm.
Kết quả là họ xác định Magnaporthe grisea có hơn 11.000 gien và tiết ra gần 800
protein để xâm nhập và lây nhiễm sang lúa. Quan trọng hơn cả là bộ gien tiết lộ
nấm sử dụng một loại thụ thể mới để phân biệt lúa với các thực vật khác. Những thụ
thể này nằm trên bào tử của nấm (bào tử được phát tán nhờ gió). Theo nhóm nghiên
cứu, nhận dạng các thụ thể này là một bước tiến lớn trên chặng đường chống bệnh
đạo ôn.
2.2.3. Biểu hiện của bệnh đạo ôn
- Triệu chứng:
Trên mạ: vết bệnh có màu hồng hình thoi sau chuyển màu nâu vàng ,khô héo
chết .

Trên lá lúa :vết bệnh có hình thoi rộng
ở phần giữa, nhọn ở hai đầu, vết bệnh có màu
xám tro, xung quanh nâu đậm tiếp giáp giữa
mô khỏe có màu nâu nhạt.Kích thuớc vết bệnh
Nhom 7


Page 19


biến thiên lớn từ nhỏ như vết kim đến 5-7cm. Khi bệnh nặng các vết bệnh nối liền
nhau tạo thành vết lớn làm cho lá bị cháy

Trên thân và cổ bông: Bắt đầu vết
bệnh là một chấm nhỏ màu đen về sau lớn
dần bao quanh thân, làm cho thân thoắt lại

Khi bệnh nặng, trên ruộng có những lõm hoặc vết lúa có lá bị cháy rụi
thuờng gọi là lúa bị sụp mặt. Khi bệnh phát triển, nếu đứng tren bờ nhìn vào có thể
không thấy những lá bị bệnh nhưng nếu vạch cắt lá lúa ở tầng duới thấy rất nhiều là
bị bệnh.

Cổ lá: vết bệnh gây hại ở cổ lá làm cho cả lá đều bị cháy khô .
Bông lúa: khi lúa trổ, bệnh gây hại ở cổ bông tạo thành các vết nâu xám hoặc
nâu đen và làm cho bông lúa bị lép trắng hoặc các bông lúa bị gãy cổ .
Rễ lúa: Khi bệnh ở mức từ nhẹ đến trung
bình, rệ lúa bình thuờng.Khi bệnh nặng do lá bị
cháy nhiều nên cây lúa không nuôi đuợc rễ nên rễ
sẽ bị thúi và chết dần .

Nhom 7

Page 20


Đặc điểm phát sinh và phát triển của của bệnh phụ thuộc nhiều vào yếu tố
ngoại cảnh như: nhiệt độ, độ ẩm do đó bệnh phát triển thất thuờng, bệnh xuất hiện

từ giai đoạn mạ đến khi trổ chín.
Điều kiện thời tiết:bệnh hại nặng vào lúc trời mát, ẩm có suơng mù, gió
mạnh.
Ảnh huởng của phân bón: bón nhiều N bệnh nặng ,bón P sẽ hạn chế đuợc
bệnh (ở vùng phèn ), bón K tùy vào N
Ảnh huởng của giống: ở ruộng trồng giống nhiễm, điều kiện thời tiết thuận
lợi bệnh phát triển .Ở vùng lúa bị hạn ,nhiệt độ ngày đêm chênh lệch lớn, suơng mù
thì bệnh cũng phát triển và gây bệnh rất nặng .
2.2.3. Cách phòng bệnh đạo ôn
- Sử dụng các giống lúa chống chịu bệnh trong cơ cấu giống, hạn chế sử
dụng các giống lúa mẫn cảm với bệnh như IR1820, BC15.
- Chọn hạt giống sạch bệnh; xử lý hạt giống nhằm tiêu diệt nguồn bệnh bằng
nước nóng 540C (3 sôi 2 lạnh) trong 10 phút.
- Gieo cấy đúng thời vụ, đảm bảo mật độ hợp lý.
- Bón phân cân đối, không bón thừa đạm. Khi bệnh xuất hiện phải ngừng
bón thúc đạm và tiến hành phun thuốc phòng trừ.
- Giữ mực nước đầy đủ thường xuyên trên mặt
ruộng tuỳ theo nhu cầu nước theo từng giai đoạn của cây
lúa, tránh để ruộng khô nước khi bệnh xảy ra.
- Cần thăm đồng thường xuyên, phát hiện kịp
thời khi bệnh chớm xuất hiện.

Nhom 7

Page 21


KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiều về căn bệnh đạo ôn ở cây lúa như trên, chúng ta nhận thấy
rằng việc xác định bản chất từ những hiện tượng là hết sức quan trọng. Khi biết

được bản chất thực sự của căn bệnh, nó giúp con người tìm ra được các giải pháp
hữu hiệu nhất trong cách phòng cũng như cách trị bệnh.
Từ đó, chúng em rút ra rằng dù trong bất kỳ lĩnh vực nào của cuộc sống
chúng ta cũng phải cân nhắc, xem xét mọi sự vật, hiện tượng để hướng đến cái bản
chất chân chính của nó. Bởi vì hiện tượng là vô cùng phong phú, là cái bề ngoài;
trong khi bản chất là cái bên trong, sâu sắc, cố hữu nên luôn là cái mà ta cần hướng
tới.
Sau này khi ra trường, tham gia vào bất kỳ công ty nào, chúng ta luôn phải
đặt vấn đề về bản chất và hiện tượng cùng những cặp phạm trù khác, quy luật cũng
như những nguyên tắc tư duy biện chứng . Có thế mới giúp chúng ta trở nên khách
quan trong tư duy của mình.

Nhom 7

Page 22



×