Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Chiếm đoạt tài sản tiểu luận 2-18

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.26 KB, 27 trang )

Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, đất nước ta có những chuyển biến tích cực vượt qua
mọi khó khăn thách thức để đi đến sự thành công thắng lợi. Nhờ đạt được những
thành tựu và sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước cho đến ngày hôm nay đời
sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, với những thành tựu mà chúng ta
đã cố gắng nỗ lực đạt được thì cũng phải gánh chịu những hậu quả tiêu cực của nền
kinh tế thị trường mang lại. Đó chính là các tệ nạn trong xã hội đang phát sinh làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến lối sống và đạo đức của một con người.
Pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu
của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đồng thời, góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục ý thức tự giác chấp
hành và tuân theo pháp luật của người dân.
Ở nước ta, quyền sở hữu được quy định và bảo hộ trong Hiến pháp và các
văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực: dân sự, hình sự,... Trong Bộ luật
dân sự, thì quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt
tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Tất cả mọi cá nhân, tổ chức khác
đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu. Nếu chủ thể nào xâm phạm đến tài sản
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ, kịp thời, tương ứng
với thiệt hại đã xảy ra.
Việc người phạm tội ngày càng nhiều và tính chất khá nguy hiểm đòi hỏi các
cơ quan có thẩm quyền như cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải thật
thận trọng trong quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là quá trình định tội
danh. Theo Hiến pháp năm 2013 về quyền con người được quy định tại Điều
31: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp


luật”1. Qua đó, cho ta thấy nếu chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
1 Điều 31 – Luật Hiến Pháp năm 2013.

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

1

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

lực pháp luật thì không được coi là tội phạm. Như vậy, định tội danh là quá
trình rất quan trọng trong quyết định áp dụng khung hình phạt cho người
phạm tội. Vì vậy, để có một bản án đúng, chính xác thì việc đầu tiên của các
cơ quan có thẩm quyền phải thận trọng trong từng chi tiết của vụ án hình sự,
từ đó Tòa án có thể định tội và quyết định hình phạt phù hợp với pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Định tội danh là một quá trình quan trọng, là cơ sở để các cơ quan có thẩm
quyền định tội và xác định khung hình phạt chính xác cho người phạm tội. Định tội
danh là một đề tài được nhiều người nghiên cứu để phân tích, đánh giá thực tiễn
việc định tội cho người phạm tội. Về việc định tội danh tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản là một vấn đề được nhiều người quan tâm, cũng có nhiều bài viết về định tội
danh trên các tạp chí pháp lý, về các lý luận định tội danh đề cập đến loại tội phạm
này. Những bài nghiên cứu đó đã khái quát được những vấn đề lý luận chung liên
quan đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội; phân tích, đánh giá, nhận
định một số nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt với
các tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 2015. Để định tội danh đúng, chính xác thì

các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng và cơ quan bảo vệ pháp
luật phải thật sự thận trọng trong định tội một người phạm tội, qua đó sẽ làm cho
nhân dân ủng hộ, tin tưởng cơ quan bảo vệ pháp luật.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn định tội danh nói
chung và định tội danh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản nói riêng và thông qua
những vụ án thực tiễn làm sáng tỏ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải
quyết các vụ án có liên quan đến tội này để góp phần giúp cho việc định tội được
chính xác.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu từ các khái niệm cơ bản đến các dấu hiệu pháp lý,
đặc điểm của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, phân tích cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn của việc định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội công nhiên
GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

2

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

chiếm đoạt tài sản nói riêng được quy định tại Điều 172 trong Bộ luật hình sự năm
2015.

4. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn định tội danh tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản để qua đó làm rõ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ
án hình sự nói chung và định tội danh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Qua việc nghiên cứu để góp phần cho việc xét xử vụ án của các cơ quan có thẩm
quyền có hiệu quả, góp phần giúp cho hoạt động định tội danh chính xác, đúng theo
quy định của pháp luật hình sự. Tránh những trường hợp xét xử sai người, sai tội,
làm cho quá trình định tội danh trở nên khó khăn, gặp nhiều vướng mắc trong giải
quyết vụ án hình sự. Định tội danh đúng góp phần làm tăng hiệu lực của cơ quan tư
pháp và nâng cao được vai trò của cơ quan bảo vệ pháp luật.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích các vấn đề cơ sở lý luận về định tội danh, cơ sở pháp lý, thực tiễn
về ý nghĩa của định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản nói riêng. Thông qua một số vụ án điển hình về tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản đã được giải quyết trong thực tiễn thời gian gần đây để làm rõ
những khó khăn vướng mắc, khó khăn mà các cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải
khi định tội danh đối với trường hợp này, từ đó kiến nghị và đưa ra các giải pháp
khắc phục trong quá trình giải quyết các vụ án trong thời gian sắp tới.

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1 Cơ sở lý luận
Dựa vào cơ sở lý luận của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật để theo đó giúp chúng tôi phân tích được các
khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý và thực tiễn qua việc xét xử các vụ án để
làm rõ vấn đề định tội danh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

6.2 Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận định tội danh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được nghiên
cứu và dựa vào các phương pháp như: phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo


3

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

phân tích và tổng hợp số liệu dự trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê,
báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp để phân tích các vấn đề cần
được nghiên cứu.

7. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận định tội danh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có bố cục gồm 2
chương, để phân tích rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn vấn đề định tội danh tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản chúng ta tìm hiểu sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận định tội danh đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản
Chương 2: Thực tiễn định tội danh đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn Đồng Tháp và một số kiến nghị, giải pháp khắc phục

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

4

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong

bộ luật hình sự năm 2015

CHƯƠNG 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI
CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1 KHÁI NIỆM TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1.1 CÔNG NHIÊN
Nói về khái niệm công nhiên thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ
thể về khái niệm này, nhưng cũng có rất nhiều bài viết nghiên cứu về công nhiên
của các tác giả nổi tiếng và để làm rõ hơn thì khái niệm “công nhiên” được hiểu
theo nghĩa Hán – Việt là “rõ ràng như vậy, ai cũng thấy”; thuật ngữ “công khai”
được hiểu là “mở chung cho mọi người cùng thấy, không dấu diếm”2.
Như vậy, theo từ ngữ Hán – Việt thì chúng tôi đã làm rõ được khái niệm
công nhiên và được hiểu là công nhiên là hành vi lấy tài sản của người khác một
cách ngang nhiên, công khai, chiếm đoạt được tài sản của người khác không cần
giấu giếm, lén lút, mà lợi dụng hoàn cảnh do chủ sở hữu không có khả năng ngăn
cản được hành vi lấy tài sản của người phạm tội.
Tôi đồng ý với quan điểm của tác giả vì công nhiên được hiểu là người phạm
tội lấy tài sản của chủ sở hữu một cách công khai, ngang nhiên lấy đi tài sản của chủ
sở hữu. Sự lấy đi tài sản của người khác một cách công khai, không cần che đậy
hành vi phạm tội của mình. Ở đây người phạm tội còn công khai tài sản lấy được
cho mọi người cùng biết, mà người phạm tội đã lấy từ chủ sở hữu.
Ở hành vi công khai này là một đặc điểm khác biệt với các loại tội phạm
khác trong Chương XVI của Bộ luật hình sự về tội xâm phạm sở hữu. Khác với tội
trộm cắp tài sản ở chỗ người phạm tội không cần lén lút, che đậy mà người phạm
tội ngang nhiên lấy tài sản của chủ sở hữu trước sự chứng kiến của chủ sở hữu, chủ
sở hữu tài sản biết nhưng không có cách nào ngăn cản được hành vi của người
phạm tội3.

2 Từ điển Hán – Việt Nguyễn Quốc Hùng

3 Từ điển Hán – Việt Nguyễn Quốc Hùng

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

5

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Công nhiên là việc một người hiên ngang lấy đi một vật gì đó của người
khác lấy về làm của mình, là lợi dụng sự sơ hở của người khác để lấy tài sản của
người khác về làm của riêng. Đặc điểm ở đây là rất trắng trợn, lấy cho mọi người
thấy, không giấu giếm bất cứ ai, một cách công khai, rõ ràng, không lén lút, vụng
trộm hay không để lộ ra ý gian dối.

1.1.2 TÀI SẢN
Tài sản là một khái niệm rất quen thuộc được sử dụng trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Thực tế trong cuộc sống của con người thì tài sản thường được hiểu
là những đối tượng phải mang lại lợi ích nào đó đối với con người và định giá được
bằng tiền. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì tài sản được
khái niệm gồm: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” 4
Tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt của người phạm tội. Tài sản còn
nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như các quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hay sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản đó. Và
ngược lại, nếu tài sản đó thoát ly khỏi sự quản lý, chiếm hữu, sử dụng, kiểm soát
của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.


1.1.3 CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác đem về làm
của mình bằng quyền lực, sức mạnh mà lấy làm của mình. Làm cho chủ sở hữu tài
sản hoặc người quản lý tài sản mất khả năng thực hiện các quyền chiếm hữu, định
đoạt, sử dụng của mình và người chiếm đoạt có thể thực hiện được các quyền của
chủ sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau tùy
thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt với các tài sản chiếm đoạt
cũng như hình thức chiếm đoạt cụ thể.
Ví du: Như trong trường hợp tài sản bị thất lạc thì không phải là đối tượng
của hành vi chiếm đoạt. Mà chỉ khi tài sản đó do chủ sở hữu hoặc người quản lý tài
sản chiếm hữu thì mới có thể nói là đối tượng của hành vi chiếm đoạt tài sản. Chỉ
khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi chiếm
đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản.

4 Điều 105 – Bộ luật dân sự năm 2015.

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

6

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Như vậy, một hành vi được coi là chiếm đoạt thì hành vi chiếm đoạt của
người phạm tội bắt đầu từ việc chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản
lý tài sản, là người phạm tội làm cho chủ sở hữu tài sản đó mất đi khả năng của
chủ sở hữu như các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Và tạo cho mình có

quyền của chủ sở hữu. Khi người phạm tội đã thực hiện các hành vi chiếm đoạt và
hành vi đó đã hoàn thành thì người phạm tội được coi là chiếm đoạt được tài sản.

1.1.4 CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Nói công nhiên chiếm đoạt tài sản thì có rất nhiều bài viết đã khái niệm được
tội công nhiêm chiếm đoạt tài sản là như thế nào và để nghiên cứu kỹ hơn về tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản thì tôi đưa ra một số quan điểm như theo quan điểm
của TS. Nguyễn Ngọc Chí thì cho rằng: “Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là một
tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm quyền sở
hữu tài sản của người khác bằng hành vi lợi dụng chủ tài sản trong hoàn cảnh đặc
biệt không có điều kiện bảo vệ tài sản hoặc ngăn cản hành vi phạm tội để công khai
chiếm đoạt tài sản của họ”5.
Qua các khái niệm được nêu trên thì cũng có một số khái niệm khác đã đưa
ra như quan điểm của TS. Phạm Văn Beo cho rằng: “Công nhiên chiếm đoạt tài sản
là hành vi lợi dụng sự vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản một cách
công khai”6.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thì người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi trở
lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 của Bộ luật
hình sự năm 20157.
Về hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì đặc điểm nổi bật ở đây
là người phạm tội lợi dụng sự sơ hở, vướng mắc, không để ý đến tài sản của mình
hoặc lơ là trong tài sản của mình mà làm cho người phạm tội lấy đi tài sản. Lấy đi
một cách ngang nhiên, công khai, mặc chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản có

5 Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ, Viện
nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
6 Phạm Văn Beo (2012), “Luật hình sự Việt Nam”, (Quyển 2), tr 221
7 Điều 12 – Bộ luật hình sự năm 2015.


GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

7

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

trông coi tài sản đó hay không. Người phạm tội lấy tài sản công khai, hiên ngang
với tất cả mọi người, không giấu giếm, che đậy hay lén lút.
Người phạm tội còn lợi dụng các yếu tố khách quan bên ngoài để lấy tài sản
của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như lợi dụng thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn,
cháy,v,v…vì những yếu tố này mà người phạm tội lấy tài sản một cách ngang nhiên,
công khai, trước sự chứng kiến của chủ sở hữu, mà chủ sở hữu tài sản không thể
ngăn cản, làm gì được người phạm tội, mà để mặc người phạm tội lấy đi tài sản của
mình. Tính chất ở loại tội phạm này, là không dùng vũ lực hay đe dọa bằng vũ lực.
Nếu mà người phạm tội dùng vũ lực hay đe dọa bằng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần
của người khác thì sẽ cấu thành tội phạm khác mà Bộ luật hình sự quy định. Tuy
nhiên, nếu việc người phạm tội lấy đi tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài
sản một cách công khai rồi, nhưng sau đó bị đuổi bắt về hành vi phạm tội. Trường
hợp người phạm tội có hành vi chống trả lại chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
mà gây thiệt hại đến tính mạng hoặc gây thương tích tổn hại đến sức khỏe của
người khác thì vào mức độ nguy hiểm cho hành vi đã gây ra mà Bộ luật hình sự có
quy định.
Tính chất quá trắng trợn, công khai ngang nhiên với mọi người. Như vậy,
đây cũng là yếu tố đặc trưng để phân biệt với các loại tội phạm khác được quy định
tại Chương XVI Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm sở hữu8.
Qua các yếu tố đã phân tích trên cho chúng ta thấy được loại tội phạm xâm

phạm sở hữu khá nguy hiểm. Đó là người phạm tội lợi dụng sự sơ hở của chủ tài
sản hoặc người quản lý tài sản mà lấy tài sản về làm tài sản của mình. Với các hành
vi đã được làm rõ thì thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm công nhiên chiếm
đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 20159

1.2 ĐỊNH TỘI DANH VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH CỦA TỘI
CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.2.1 Định tội danh
Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự được
hiểu là một quá trình phức tạp được tiến hành qua các giai đoạn nhất định như: giải
8 Chương XVI – Bộ luật hình sự năm 2015.
9 Điều 172 – Bộ luật hình sự năm 2015.

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

8

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực pháp luật về không gian và thời gian, định
tội danh, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt, quyết định
án treo, xoá án tích… Trong các giai đoạn đó, định tội danh là một trong những giai
đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật, một trong
những biện pháp, cách thức đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống,
Định tội danh còn là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật khác
của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Ví dụ: định tội danh làm cơ sở

cho việc áp dụng các quy phạm về thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử… Đối với
việc xét xử thì chỉ sau khi thực hiện xong việc đinh tội danh, Toá án mới có cơ sở để
giải quyết vấn đề áp dụng hình phạt này hay hình phạt khác đối với người phạm tội,
có cho hưởng án treo hay không.
Hiện nay đã có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, các bài báo, các công
trình nghiên cứu về khái niệm định tội danh nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp
luật nào và pháp luật tố tụng hình sự quy định nào cụ thể về định tội danh, cũng có
nhiều quan điểm về định tội danh đồng ý kiến, bên cạnh đó thì cũng có nhiều quan
điểm định tội danh mâu thuẫn nhau. Để có thể có một khái niệm về định tội danh
chúng tôi đã đưa ra một số khái niệm về định tội danh như theo quan điểm của
GS.TSKH Lê Cảm thì: “Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có logic,
đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành bằng cách - trên cơ sở
các chứng cứ các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của các vụ án hình
sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu
của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định, hay nói cách khác là nhằm đưa
ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá
thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ pháp
luật”10.
Theo quan điểm TS. Bùi Quốc Hà thì: “Định tội danh là một dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực
10 Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2005), Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu và 360 bài thực hành, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 12

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

9

SVTH: Nguyễn Thế Hào



Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

hiện bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình
tiết khách quan của vụ án hình sự đối chiếu, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy
định thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật”11.
“Định tội là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội
phạm cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự”12.
Qua các quan điểm đã được nêu trên, cơ sở đánh giá các chứng cứ, tài liệu,
các tình tiết có liên quan của vụ án hình sự được thực hiện bởi các cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng để xác định sự phù hợp với các hành vi cấu
thành tội phạm. Nếu sự phù hợp về mặt pháp lý thì người đó phạm tội gì và được
quy định tại điểm nào, khoản nào, Điều nào của Bộ luật hình sự, là cơ sở để làm
tiền đề cho các vụ án sau, định tội danh đúng đảm bảo được tính công minh, có căn
cứ pháp luật, giúp cho cơ quan có thẩm quyền định tội danh đúng và đưa ra hình
phạt thích đáng cho người phạm tội.
Để đưa một vụ án hình sự ra xét xử một cách công minh đối với người phạm
tội, thì quá trình này phải trải qua các giai đoạn của tố tụng hình sự, để đánh giá
khách quan vụ án, cần thận trọng tìm ra các tài liệu, thu thập các chứng cứ, các dấu
hiệu đặc trưng của vụ án đó. Trên cơ sở nghiên cứu các hành vi mà người phạm tội
đã thực hiện và hậu quả của hành vi đó mà cơ quan có thẩm quyền đưa vụ án ra xét
xử đúng với pháp luật hình sự Việt Nam và đảm bảo công bằng cho người bị hại và
người phạm tội. Quá trình định tội danh là một quá trình rất quan trọng, có tính
quyết định đến khung hình phạt. Như vậy, định tội danh là cơ sở đầu tiên cho việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ngoài ra, còn căn cứ vào mức

độ, đặc điểm, tính chất nguy hiểm của hành vi đó gây ra có phù hợp với các dấu
hiệu pháp lý được quy định trong Bộ luật hình sự hay không. Từ các cơ sở đó, đưa
ra cho người phạm tội đã thực hiện với những lỗi gì, cố ý hay vô ý, trực tiếp hay
gián tiếp. Nếu phạm tội đó thì quy định tại điểm nào, khoản nào, điều nào của Bộ
11 Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam tr 9
12 Giáo trình Luật hình sự Việt Nam: Phần 1 - TS. Phạm Văn Beo , tr 12

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

10

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

luật hình sự. Qua đó, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng sẽ
định tội đúng và đưa ra hình phạt thích đáng cho người phạm tội và lấy lại sự công
bằng cho bị hại.
Thực tiễn, định tội danh là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng, quá trình này được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của tố
tụng hình sự. Từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi bản án hình sự của Tòa án có
hiệu luật pháp luật. Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định: “Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
kết luận người bị buộc tội không có tội.”13.

Khi phát hiện các dấu hiệu và hành vi của người phạm tội, cơ quan có thẩm
quyền trong phạm vi trách nhiệm của mình, trong quyền hạn của mình phải ra quyết
định khởi tố vụ án. Khi đã có đầy đủ căn cứ để xác định một người có hành vi phạm
tội thì ra quyết định khởi tố bị can và phải ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật
hình sự được áp dụng. Sau khi kết thúc hoạt động điều tra, cơ quan điều tra làm bản
án kết luận điều tra chuyển sang cho Viện kiểm sát. Từ các quyết định này, Viện
kiểm sát ra quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng cáo trạng ghi đầy đủ nội
dung và tội danh, điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
Đối với Tòa án, việc kiểm tra, xem xét định tội danh được thực hiện ngay
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Sau khi nhận hồ sơ của Viện kiểm sát, trong quá
trình xét xử sơ thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên Tòa có nhiệm vụ kiểm tra việc truy
tố có căn cứ pháp luật hay không có căn cứ và tùy trường hợp có quyền quyết
định đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
vụ án. Khi ra bản án, vấn đề xác định tội có ý nghĩa rất quan trọng. Trong bản án
cần trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ của vụ án, căn
cứ nào là buộc tội và căn cứ nào là không có tội. Xác định bị cáo có bị phạm tội
hay không phạm tội, nếu như phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của
Bộ luật hình sự. Sử lại foon chữ
Trong quá trình giải quyết các vụ án cũng có một số trường hợp định tội
không đúng tội danh dẫn đến một số hậu quả không tốt như oan, sai, bỏ lọt tội
13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 13

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

11

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong

bộ luật hình sự năm 2015

phạm, làm oan người vô tội. Định tội danh là quá trình rất cần thiết để truy cứu
trách nhiệm người phạm tội, định tội còn áp dụng các quy phạm pháp luật khác của
pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự. Khi đó, đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền thận trọng trong việc phân tích các dấu hiệu, các vấn đề có liên quan đến vụ
án để góp phần cho việc định tội và đưa ra quyết định khung hình phạt đúng người,
đúng tội, phù hợp với pháp luật hình sự. Đảm bảo được tính công minh và chính
xác, làm cho các cơ quan có thẩm quyền được mọi người tin tưởng.
Như vậy, định tội danh là quá trình rất quan trọng, nó diễn ra ở tất cả các
giai đoạn của tố tụng hình sự, giúp cho việc định tội của các cơ quan có thẩm
quyền dễ dàng và đảm bảo được sự công bằng với bị hại và người phạm tội. Định
tội danh đúng góp phần làm cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ngày
càng có hiệu quả.

1.2.2 HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH THEO CẤU THÀNH TỘI CÔNG
NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.2.2.1 Dựa theo hành vi nguy hiểm cho xã hội
1.2.2.1.1 Cấu thành tội phạm cơ bản
Khái niệm cấu thành tội phạm cơ bản được một số nhà nghiên cứu khoa học
thì tác giả thông qua quan điểm của TS. Phạm Văn Beo đã khái niệm cấu thành tội
phạm cơ bản: “Là hành vi cấu thành tội phạm chứa các dấu hiệu đặc trưng, có ở
mọi trường hợp phạm tội của một loại tội. Cấu thành tội phạm cơ bản thể hiện đầy
đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó và cho phép phân biệt với loại
tội phạm khác. Cấu thành tội phạm cơ bản chứa đựng yếu tố định tội nhầm xác
định tội phạm (hành vi đã đến mức là tội phạm) và phân biệt tội phạm này với tội
phạm khác”14.
Khoản 1 Điều 172 của Bộ luật hình sự năm 2015, là cấu thành cơ bản của tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản: “Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của
người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới

2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”15.
14 Phạm Văn Beo (2008), Luật hình sự Việt Nam phần chung, tr 95
15 Bộ luật hình sự năm 2015

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

12

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Người phạm tội ở khoản 1 Điều này là tội ít nghiêm trọng, bởi vì giá trị tài
sản ít. Người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi
phạm. Trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, người phạm tội đã bị xử phạt hành
chính cũng về hành vi chiếm đoạt tài sản. Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi
chiếm đoạt, người phạm tội đã bị kết án về một tội trong các tội có tính chất chiếm
đoạt nhưng chưa được xóa án tích theo quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự; nếu
người phạm tội bi kết án về tội phạm khác thì không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 172 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 là tội phạm ít nghiêm trọng vì
có mức cao nhất của khung hình phạt là 03 năm tù, đối với người phạm tội dưới 16
tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 172 thì không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được
áp dụng dưới 06 tháng tù (nhưng không được dưới 03 tháng tù) hoặc được chuyển

sang hình phạt khác nhẹ hơn; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 Bộ luật hình
sự 2015 thì được hưởng án treo.

1.2.2.1.2 Cấu thành tội phạm tăng nặng
Khái niệm cấu thành tội phạm tăng nặng được một số tác giả đưa ra quan
điểm của mình để làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm tăng nặng như theo quan
điểm của theo quan điểm của TS. Phạm Văn Beo đã khái niệm cấu thành tội phạm
tăng nặng: “Là cấu thành tội phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cơ bản cùng với những yếu tố khác khiến cho tội phạm tăng tính
nguy hiểm cho xã hội”16.
Cấu thành tội phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định ở các
khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015.
Cấu thành tội phạm tại khoản 2 Điều 172 Bộ luật này:
Thứ nhất, hành hung để tẩu thoát: ở trường hợp này người phạm tội sau khi
đã thực hiên hành vi chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu mà người phạm tội bị đuổi
bắt hoặc đã bị bắt, nên người phạm tội có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu
16 Phạm Văn Beo (2008), Luật hình sự Việt Nam phần chung, tr 96

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

13

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

hoặc những người khác. Hành vi chóng trả đó mà gây thương tích mà tùy vào tỷ lệ
thương tật mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe theo quy định tại khoản 1, khoản 2 hoặc
khoản 4 Điều 134 của Bộ luật này.
Thứ hai, chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm
triệu đồng. Người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi
triệu đến dưới hai trăm triệu đồng thì việc xác định giá trị tài sản đó là ngây lúc
người phạm tội thực hiện, nếu việc xác định giá trị đó không được thì cơ quan có
thẩm quyền sẽ trưng cầu giám định phần tài sản đó.
Thứ ba, tái phạm nguy hiểm là người phạm tội đã có hành vi phạm tội trước
đó và lại phạm tội thêm lần nữa. Trong trường hợp này, chỉ cần người phạm tội có
đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015.
Thứ tư, gây hậu quả nghiêm trọng: người phạm tội thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà gây ra hậu quả nghiêm trọng về vật chất, tinh thần cho bị hại và
cho xã hội. Người phạm tội đã gây ra hậu quả gì thì tuy vào mức độ nguy hiểm mà
Bộ luật hình sự có quy định. Người phạm tội thuộc khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình
sự thì sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Nếu có các tình tiết giảm nhẹ của vụ án
mà Tòa án xem xét và quyết định khung hình phạt có thể dưới mức khung nhưng
không được dưới sáu tháng tù.
Cấu thành tội phạm tại khoản 3 Điều 172 Bộ luật này:
Thứ nhất, chiếm đoạt tài sản từ 200.000.000 triệu đến dưới 500.000.000 triệu
đồng, trường hợp này cũng giống như trường hợp tại điểm a khoản 2 Điều này chỉ
khác ở chỗ là giá trị tài sản.
Thứ hai, gây hậu quả rất nghiêm trọng: Người phạm tội thực hiện hành vi
gây nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại cho người bị hại và những người khác mà
gây tổn hại đến vật chất, tinh thần hay sức khỏe mà tùy vào mức độ người phạm tội
còn truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng.
Như vậy, người phạm tội rơi vào khoản 3 Điều này thì áp dụng khung hình
phạt từ 07 năm đến 15 năm17. Nhưng xét thấy các tình tiết giảm nhẹ của vụ án mà
Tòa án có thể áp dụng với mức thấp nhất nhưng không được dưới hai năm tù.
17 Bộ luật hình sự năm 2015


GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

14

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Cấu thành tội phạm tại khoản 4 Điều 172 Bộ luật này:
Thứ nhất, chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000.000 triệu đồng trở lên.
Tương tự điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 172 của Bộ luật này, chỉ khác với
giá trị tài sản và mức độ gây nguy hiểm cho hành vi phạm tội đó.
Thứ hai, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội thực hiện
với hành vi gây thiệt hại về vật chất, tinh thần của người bị hại hoặc người khác
mức độ cao hơn khoản 2, khoản 3 Điều này thì người phạm tội bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm.

1.2.2.2 Dựa theo cấu trúc của cấu thành tội phạm
1.2.2.2.1 Cấu thành tội phạm hình thức
Theo các nhà nghiên cứu về các loại cấu thành tội phạm thì có không ít các
bài viết nói về cấu thành tội phạm, nhưng bên cạnh đó được các tác giả phân tích
làm rõ hơn về cấu thành tội phạm hình thức, thì qua quan điểm của TS. Phạm Văn
Beo đã nêu lên được khái niệm: “Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội
phạm có dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội” 18. Đối với
những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ
cần được thực hiện, kết hợp với các yếu tố cần và đủ khác là đã đủ yếu tố xác định
tội phạm hoàn thành.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoặc hành

vi tạo ra khả năng gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự
bảo vệ và được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành động
phạm tội là một việc mà pháp luật hình sự cấm không được làm. Ở tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản thì dấu hiệu về mặt khách quan của hành vi nguy hiểm cho xã hội
không phải do người phạm tội gây ra, mà hành vi khách quan này do chủ sở hữu tài
sản tạo ra vì sự vướng bận hoặc do các yếu tố khách quan bên ngoài như thiên tai,
hỏa hoạn, tai nạn hoặc do người khác tạo ra nên người phạm tội mới lấy đi tài sản
của chủ sở hữu. Người phạm tội không có tạo nên hoàn cảnh khách quan mà lấy đi
tài sản của chủ sở hữu. Như vậy, để tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có cấu thành
tội phạm hình thức thì phải có đầy đủ các yếu tố cần và đủ.
18 Phạm Văn Beo (2008), Luật hình sự Việt Nam phần chung, tr 97

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

15

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Còn hành vi phạm tội được thực hiện dưới dạng không hành động là trường
hợp không làm một việc mà pháp luật bắt buộc phải làm như các hành vi được quy
định trong Bộ luật hình sự như điều 132, điều 390. Các tội phạm có cấu thành hình
thức là những tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 108 – 117 của Bộ luật
hình sự 2015 19.

1.2.2.2.2 Cấu thành tội phạm vật chất
Qua các bài viết, các công trình nghiên cứu, các bài báo đã được đưa ra để

làm rõ thì chúng tôi dựa theo quan điểm của TS. Phạm Văn Beo để đưa ra khái
niệm: “Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có dấu hiệu của mặt
khách quan không chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn đòi hỏi phải có hậu
quả xãy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó”20.
Về hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Hành vi của loại tội
phạm này xâm phạm tới tài sản của người khác, được quy định trong Bộ luật hình
sự. Người phạm tội có một hành vi duy nhất là hành vi chiếm đoạt, hành vi được
người phạm tội thực hiện một cách công khai, ngang nhiên trước mặt của chủ quản
lý tài sản. Người phạm tội còn lợi dụng sự sơ hở, sự vướng bận của chủ sở hữu mà
lấy tài sản một cách ngang nhiên. Người phạm tội còn lợi dụng hoàn cảnh khách
quan như thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn mà lấy đi tài sản của chủ sở hữu. Những hoàn
cảnh này không phải do người phạm tội tạo ra mà do người khác gây ra.
Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài
sản hoặc hậu quả phi vật chất. Nhưng ở tội phạm này hành vi phạm tội gây ra cho
chủ sở hữu là thiệt hại về tài sản.
Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài
sản hoặc hậu quả phi vật chất. Căn cứ vào mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra, thì chia hậu quả do hành vi phạm tội gây ra thành 4 mức sau: hậu quả ít nghiêm
trọng, hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng. Hậu quả ít nghiêm trọng là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra ở mức không
lớn cho xã hội. Hậu quả nghiêm trọng là thiệt hại lớn cho xã hội về tính mạng, sức
khỏe, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác. Hậu quả rất nghiêm trọng là thiệt hại rất
19 Bộ luật hình sự năm 2015
20 Phạm Văn Beo (2008), Luật hình sự Việt Nam phần chung, tr 97

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

16

SVTH: Nguyễn Thế Hào



Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

lớn cho xã hội về tính mạng, sức khỏe, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác. Hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng là thiệt hại đặc biệt lớn cho xã hội về tính mạng, sức
khỏe, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác21.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là
dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm có cấu thành vật chất.
Hành vi lấy tài sản của chủ sở hữu một cách công khai, biết rằng hành vi đó
là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội nhưng người phạm tội vẫn mong muốn
hậu quả đó xảy ra. Mặc dù, chủ sở hữu tài sản thấy được hành vi của người phạm
tội gây ra thiệt hại cho mình nhưng không có điều kiện hoặc không thể làm gì được
người phạm tội.
Hậu quả là người phạm tội chiếm đoạt được tài sản của chủ sở hữu, giá trị tài
sản là dấu hiệu để cấu thành tội phạm. Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất
được coi là hoàn thành từ thời điểm có thiệt hại xảy ra.

1.3 Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp luật
rất lớn.
Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt nhà nước của nhân dân ta đối với vấn
đề đấu tranh với tình hình tội phạm. Khi ban hành Đạo luật hình sự, cơ quan quyền
lực tối cao (Quốc hội) của nhà nước ta đã đánh giá một cách toàn diện tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương ứng, cân nhắc hiệu quả có thể
đạt được của việc đấu tranh với các hành vi đó bằng các biện pháp pháp luật hình
sự, quy định chế tài cần thiết và giải quyết những vấn đề khác nảy sinh từ việc ban
hành đạo luật mới. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh đạo luật hình sự trong khi định tội

danh là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách của Nhà
nước nhằm khắc phục tình hình tội phạm ở nước ta. Và theo Lênin: “Một đạo luật là
một biện pháp chính trị, là chính trị” +++++ footnot 22 (V.I. lenin)
Do vậy, định tội danh đúng là một biểu hiện của việc thực hiện đúng biện
pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân dân đã được thể

21 Bộ luật hình sự năm 2015

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

17

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của nhà nước và của con
người, của công dân.
Định tội danh là sự thể hiện đánh giá chính trị - xã hội và pháp lý đối với
những hành vi nhất định. Định tội danh đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những
người có hành vi không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo
tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm
tội.
Hậu quả của việc định tội danh là rất đa dạng. Nhưng hậu quả cơ bản nhất
trong số đó là việc áp dụng hình phạt hoặc những biện pháp tác động pháp lý hình
sự khác do luật quy định.
Việc nhận thức được tính công bằng trong định tội danh là một yếu tố cấu
thành trong niềm tin nội tâm của người điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và

Hội thẩm nhân dân trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Việc nhận
thức đó làm cho họ hiểu được ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức của các quy phạm
pháp luật, đánh giá đúng đắn hành vi phạm tội của những người cụ thể, lựa chọn
được phương án tối ưu về mặt đạo đức trong khi quyết định biện pháp xử lý. Còn
đối với người bị kết án trên cơ sở nhận thức tính công bằng của việc định tội danh,
của các biện pháp được quyết định đối với mình, họ hình thành cho bản thân các
nghĩa vụ đạo đức và pháp lý để chấp hành biện pháp đó.
Áp dụng đúng đạo luật Hình sự đòi hỏi phải có những điều kiện và tiền đề
nhất định. Áp dụng pháp luật không phải là quá trình tự động mà là một hoạt động
sang tạo. Mác viết: “Muốn áp dụng luật pháp còn cần phải có quan toà. Nếu như
luật pháp tự nó vận dụng được, thì Toà án sẽ là thừa” ++++ footnot 23 (c.mac va ăng
ghen)

Để định tội danh đúng, công bằng cần phải có những Điều tra viên, Kiểm sát
viên và Thẩm phán có văn hoá có trình độ ý thức pháp luật cao và hiểu biết một
cách đúng đắn, sâu sắc các quy định của luật pháp đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước, lợi ích của nhân dân. Ngoài ra cũng cần phải có những điều kiện
chính trị- xã hội cần thiết nhất định bảo đảm tính độc lập của Toà án, của các cơ
quan điều tra và truy tố khỏi những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài, bảo đảm việc
chỉ tuân theo pháp luật.
GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

18

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015


Đòi hỏi của nguyên tắc công bằng đối với việc định tội danh là việc định tội
danh phải đúng, chính xác, đầy đủ.
Định tội danh đúng có nghĩa là từ quan điểm của Đạo luật hình sự đánh giá
đúng bản chất chính trị- xã hội và pháp lý của tội phạm đã thực hiện, xác định được
sự phù hợp của hành vi phạm tội đã thực hiện với các dấu hiệu được chỉ ra trong
luật ở dạng khái quát về hành vi đó. Định tội danh đúng có nghĩa là tuân thủ chính
xác các quy định của đạo luật hình sự, áp dụng điều luật, khoản và điểm của điều
luật hoặc tổng hợp các điều luật bao quát được hành vi phạm tội đã thực hiện. Việc
định tội danh đúng hành vi nguy hiểm cho xã hội còn có ý nghĩa là áp dụng chính
xác và đầy đủ Đạo luật hình sự phản ánh được sự đánh giá pháp lý của Nhà nước
đối với tội phạm đã thực hiện.
Định tội danh chính xác đòi hỏi phải có việc viện dẫn đến điều luật cụ thể ở
phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, còn điều luật bao gồm nhiều khoản, nhiều
điểm thì phải chỉ rõ các khoản, điểm tương ứng của điều luật đó. Trong trường hợp
phạm tội do đồng phạm, phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội, ngoài việc viện
dẫn điều luật ( khoản, điểm) quy định tội phạm tương ứng ở phần các tội phạm, còn
phải viện dẫn cả các điều luật về đồng phạm, phạm tôi chưa đạt, chuẩn bị phạm tội
ở phần chung của Bộ luật hình sự. Và nếu tội phạm được thực hiện trước khi ban
hành Đạo luật hình sự mới, thì trong khi định tội danh phải tuân thủ các quy định có
tính nguyên tắc ở Điều 7 Bộ luật hình sự.
Một trong những đòi hỏi của nguyên tắc công bằng là định tội danh phải đầy
đủ những hành vi phạm tội đã thực hiện. Tính đầy đủ của định tội danh thể hiện ở
chỗ trong thực tiễn có bao nhiêu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện do các
điều luật của Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì phải được định bấy nhiêu tội
danh, dù cho trong đó có hành vi nào đó theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của
mình khác biệt rất lớn với hành vi khác. Đòi hỏi này không cho phép áp dụng
nguyên tắc thu hút hành vi phạm tội này vào hành vi phạm tội khác trong việc định
tội danh. Việc định tội danh đầy đủ có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết một
loạt vấn đề tố tụng hình sự: thẩm quyền điều tra, thẩm quyền xét xử, trả lại vụ án để
điều tra bổ sung….

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

19

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Định tội danh có ý nghĩa quyết định trong vụ án hình sự, bời vì, nó là cơ sở
cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Trên cơ sở
xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều nào,
khoản nào của Bộ luật hình sự, người áp dụng sẽ quyết định một hình phạt phù hợp
đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định tội danh được xem là tiền đề, điều kiện
cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu quả phòng chống
tội phạm.

1.4 PHÂN BIỆT TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SÁN VỚI TỘI
CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản cũng có khá
nhiều bài viết đã nêu lên được định nghĩa của hai loại tội phạm này, thì có mốt số
quan điểm cùng ý kiến với nhau. Thì qua đó dựa vào quan điểm của TS. Phạm Văn
Beo đã đưa ra định nghĩa: “Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng
vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản một cách công khai. Còn cưỡng
đoạt tài sản là hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần
người khác nhằm chiếm đoạt tài sản”22. Như vậy, hai định nghĩa cho thấy sự khác
biệt giữa hành vi phạm tội của hai loại tội phạm này.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là người phạm tội không có hành vi dùng
vũ lực hoặc đe dọa sẽ dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản mà lợi dụng tình trạng của

chủ sở hữu ở vào điều kiện, hoàn cảnh không thể ngăn cản được để thực hiện hành
vi công khai chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi phạm tội không làm cho
chủ tài sản lo sợ mà phải giao nộp tài sản.
Về hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc cấu
thành tội phạm. Còn tội cưỡng đoạt tài sản không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra,
hành vi khách quan đã phản ánh đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Về mặt khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là tội phạm xâm
phạm quan hệ sở hữu về tài sản. Đối tượng là tài sản. Còn đối với tội cưỡng đoạt
tài sản thì tội phạm này xâm phạm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Nếu có
xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không phải là thiệt hại về tính mạng, thương
tật mà chỉ có thể là thiệt hại về tinh thần. Đối tượng của tội phạm này là chủ sở
22 Phạm Văn Beo (2008), Luật hình sự Việt Nam phần chung

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

20

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

hữu hoặc người quản lý tài sản và tài sản. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ
xâm hại đến một khách thể là quan hệ sở hữu, không quan hệ đến khách thể là
quan hệ nhân thân.
Về mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội
có hành vi chiếm lấy tài sản của người khác một cách công khai mà không cần chạy
thoát khỏi sự đuổi bắt của người quản lý tài sản. Sau khi lấy được tài sản mà người
phạm tội còn công khai với mọi người. Người phạm tội lấy tài sản trước mặt người

quản lý nhưng người quản lý tài sản không làm gì được người phạm tội. Người
phạm tội còn lợi dụng sự vướng bận của chủ sở hữu, vì sự vướng bận đó làm cho
người phạm tội lấy đi tài sản một cách ngang nhiên, và người quản lý không có điều
kiện hoặc không đuổi bắt kịp. Ngoài ra, người phạm tội còn lợi dụng các yếu tố
khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, cháy để lấy tài sản, nhưng các yếu tố
khách quan này không phải do người phạm tội gây ra mà do yếu tố khách quan và
người khác gây ra. Đây cũng là đặc điểm khác biệt với tội cưỡng đoạt tài sản ở chỗ
hành vi phạm tội. Hành vi cưỡng đoạt tài sản là đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ
đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác. Ở đây, người bị hại có thể không giao nộp
tài sản nếu như không muốn, người bị hại có thể đi báo cơ quan Nhà nước. Nhưng
vì, người bị hại lo sợ đến tính mạng của mình và những người thân của họ, nên họ
phải giao nộp tài sản cho người phạm tội. Ở loại tội phạm này là tội phạm có cấu
thành tội phạm hình thức nên tội phạm hoàn thành khi người phạm tội có hành vi đe
dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác nhằm để
chiếm đoạt được tài sản.
Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì giá trị chiếm đoạt có giá trị
từ hai triệu đồng trở lên. Nếu tài sản có giá trị thấp hơn thì phải kèm theo hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm hay đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm thì cũng cấu thành tội phạm. Đây là cũng là điểm khác biệt so với tội cưỡng
đoạt tài sản.
Về mặt chủ quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cưỡng đoạt tài
sản đều gây ra với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích đều là vụ lợi và nhằm chiếm đoạt tài
GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

21

SVTH: Nguyễn Thế Hào



Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

sản, là yếu tố bắt buộc của hai loại tội phạm này. Mục đích có thể hình thành trước
hành vi phạm tội.
Về mặt chủ thể của hai loại tội phạm này là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chỉ chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 và khoản 4 Điều 172 Bộ luật hình sự.
Còn ở Điều 170 thì người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của Điều này.

1.5 ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN DỰA TRÊN CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
1.2.1 Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Về khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản cũng có tính chất chiếm
đoạt tương tự như các loại tội chiếm đoạt khác mà Bộ luật hình sự có quy định.
Theo quan điểm của TS. Phạm Văn Beo thì ông cho rằng: “Tội phạm này
xâm phạm quan hệ sở hữu về tài sản. Ngoài ra, nó còn tác động xấu đến trật tự an
toàn xã hội. Đối tượng của tội phạm này là tài sản”23.
Quyền sở hữu tài sản được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và được một số
nhà nghiên cứu khoa học đưa ra các khái niệm, thì qua đó trong Bộ luật dân sự năm
2015 cũng đã có quy định cụ thể về quyền sở hữu: “Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản” 24. Như vậy, cho ta thấy quyền
sở hữu mà chủ sở hữu có được một cách hợp pháp phải có đầy đủ ba quyền chiếm
hữu, sử dụng và quyền định đoạt tài sản.
Qua đó quyền tài sản cũng được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015:
“Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” 25. Do đó, tài sản là
đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm là còn nằm

trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản. Nếu tài sản thoát ly khỏi
sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản thì không còn là hành vi chiếm
23 Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam, Quyển 2, Nxb Chính trị Quốc gia, tr 163
24 Điều 158 Bộ luật dân sự năm 2015
25 Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

22

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành
vi chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản.
Khách thể của loại tội phạm này là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho các quan hệ sở hữu đó là tài sản. Quan hệ sở hữu là các quan hệ xã hội
trong đó có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt được pháp luật bảo vệ. Các
hành vi mà người phạm tội gây ra, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan
hệ sở hữu là các hành vi xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của
chủ sở hữu.
Nếu sau khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị
đuổi bắt mà người phạm tội có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác thì tùy vào mức độ
nguy hiểm mà người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà mình
đã gây ra.


1.2.2 Mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Người phạm tội thực hiện với hành vi phạm lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích của
tội phạm này là mong muốn chiếm đoạt được tài sản, cũng như các tội xâm phạm sở
hữu được quy định tại Chương XVI về các tội xâm phạm sở hữu được quy định
trong Bộ luật hình sự. Như vậy, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao
giờ cũng có trước hành vi phạm tội, là dấu hiệu để cấu thành tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản.
Về mặt lý trí của người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là họ nhận
thức rõ hành vi phạm tội của mình, biết rằng hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội.
Người phạm tội thấy được hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Người phạm tội biết rằng tài sản mà mình chiếm đoạt đang có người quản lý,
không phải là tài sản của mình nhưng vẫn biến tài sản đó về trở thành tài sản của
mình. Người phạm tội cố tình thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu
tài sản mà biết rằng lấy tài sản của người khác là hành vi xâm phạm đến quyền tài
sản của người khác. Nhưng vẫn biến tài sản đó về làm của mình, là hành vi trái
pháp luật.

GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

23

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện qua hành vi
công nhiên chiếm đoạt tài sản. Hành vi này thuộc hình thức hành động phạm tội,
nghĩa là người phạm tội thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho khách thể và hành

vi này bị pháp luật hình sự ngăn cấm.
Hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là cố ý chuyển
dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài
sản của mình, hành vi này được thực hiện một cách công khai, người phạm tội
không cần che giấu hành vi của mình với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý
tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như thiên tai, hỏa hoạn, tai
nạn, chiến tranh.
Đặc điểm nổi bật của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là người phạm tội
ngang nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản mà họ không làm gì được.
Không có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt của người phạm tội
hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người
phạm tội lấy đi một cách công khai.
Hậu quả của tội phạm này là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ
xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Theo khoản 1 Điều 172 Bộ luật hình sự
năm 2015 quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng trở lên mới cấu
thành tội phạm, còn nếu giá trị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải kèm theo
điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

1.2.3 Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường 26. Nếu bất kỳ
ai thỏa mãn đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi được Bộ luật hình
sự quy định đều là chủ thể của tội phạm này 27. Về chủ thể cũng tương tự đối với các
chủ thể được quy định tại Chương XVI về tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình
sự năm 2015

26 Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam, Quyển 2, Nxb Chính trị Quốc gia, tr 163
27 Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam, Quyển 2, Nxb Chính trị Quốc gia, tr 164


GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

24

SVTH: Nguyễn Thế Hào


Những vấn đề lý luận chung về định danh tội của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong
bộ luật hình sự năm 2015

Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì chủ thể của tội phạm này phải
là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì người phạm tội ở khoản 1, khoản 2 Điều
này là tội ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Nếu trong trường hợp này
người phạm tội thực hiện với tội nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà người phạm tội đã
gây ra. Còn đối với người phạm tội phạm tội ở khoản 3 và khoản 4 Điều 172 Bộ
luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là phải chịu trách nhiệm
hình sự. Do vậy, trong các quá trình xét xử các vụ án cần chú ý đến chủ thể của
người phạm tội để qua đó các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành
tố tụng đưa ra hình phạt phù hợp đối với người phạm tội.

1.2.4 Mặt chủ quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thể hiện thông
qua hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi của tội này thuộc loại hành vi hành động,
nghĩa là người phạm tội thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho khách thể và hành
vi này được pháp luật hình sự ngăn cấm.
Người nào có hành vi chiếm lấy tài sản của người khác một cách công khai
mà không cần chạy trốn khỏi sự đuổi bắt của người quản lý tài sản. Đặc điểm nổi

bật ở đây là người phạm tội lấy tài sản trước mắt chủ sở hữu, mà người phạm tội
không cần nhanh chóng tẩu thoát, không dùng thủ đoạn gian dối hay đe dọa dùng
vũ lực gì cả, mà người phạm tội lấy tài sản đi một cách ngang nhiên. Làm cho chủ
sở hữu không làm gì được người phạm tội và tài sản của mình, người phạm tội
trước hết là công nhiên với chủ sở hữu và người quản lý tài sản, sau đó là công khai
với mọi người xung quanh.
Người phạm tội lợi dụng sự vướng bận của người quản lý tài sản, không thể
đuổi bắt hoặc không làm gì được người phạm tội. Ngoài ra, người phạm tội còn lợi
dụng các yếu tố khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, cháy,... những hoàn
cảnh khách quan này làm cho người phạm tội dễ dàng lấy đi tài sản của chủ sở hữu.
Hay là sự vướng bận của chủ sở hữu như ở chỗ đông người, tắm sông mà người
GVHD: Ts. Diệp Huyền Thảo

25

SVTH: Nguyễn Thế Hào


×