Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đường lối Cách mạng_ Toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 30 trang )

I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TOÀN CẦU HÓA

I.1. Khái niệm
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, có tác động mạnh mẽ đến mỗi quốc gia,
dân tộc và mỗi cá nhân con người. Sự tác động của nó có tính hai mặt: tích cực và tiêu
cực. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa dẫn đến nhiều nguy cơ mà trong bài viết này,
chúng tôi muốn làm rõ, do nhiều nguyên nhân, dẫn đến nguy cơ suy thoái đạo đức, lối
sống của con người Việt Nam hiện nay.
Ngày nay, toàn cầu hóa không còn là hiện tượng mới mẻ, nó là một xu thế khách
quan mà mọi dân tộc, dù muốn hay không, cũng đều chịu sự tác động của nó. Việt Nam là
nước đang phát triển, quá trình toàn cầu hóa tạo cho chúng ta những thời cơ thuận lợi, có
thể "đi tắt đón đầu” để phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đó là thách thức
trong việc giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc... Những
thách thức đó bao gồm cả nguy cơ suy thóai, đặc biệt là nguy cơ suy thóai về đạo đức, lối
sống của con người Việt Nam hiện nay.
Toàn cầu hóa là quá trình biến các vùng, miền, các quốc gia dân tộc, những họat
động khác nhau của các cộng đồng người từ chỗ tách rời nhau, độc lập với nhau đến chỗ
gắn bó, liên kết lại với nhau thành một chỉnh thể thống nhất, hữu cơ trên quy mô toàn thế
giới.
Toàn cầu hóa đã bắt đầu từ khá sớm chứ không phải chỉ ở vài thập niên gần đây.
Cách đây 158 năm, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã
viết: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thị trường mà việc tìm ra châu Mỹ đã
chuẩn bị sẵn. Thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương
tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ thường...". Đó chính là quá trình quốc tế
hóa - giai đoạn trước của toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là sự phát triển mới về chất của quá
trình quốc tế hóa. Toàn cầu hóa chỉ xuất hiện vào những năm 60 của thế kỷ XX, với sự ra
đời của các Công ty liên quốc gia, xuyên quốc gia mang tính chất toàn cầu.

I.2. Các quan điểm khác nhau vè toàn cầu hóa


I.2.1 Theo quan điểm George Modelski
Khái niệm “toàn cầu hóa” (globalization) được George Modelski lần đầu tiên đưa
ra vào năm 1792 trong tác phẩm “Principle of the World politics” khi nói tới vấn đề Liên
minh châu Âu lôi kéo các nước khác vào một hệ thống thương mại toàn cầu. Đến năm


1962, thuật ngữ này mới được đưa vào từ điển tiếng Anh của Webster và phải đến năm
1980 mới được sử dụng một cách thông dụng.
I.2.2. Theo quan điểm của Mac – Anghen
Trước Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Các Mác đã bàn tới quốc tế hóa bằng việc
chỉ ra có một vấn đề mang bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản đang lan tràn trên diện
rộng, đang thâm nhập, tác động ngày càng nhiều đến thế giới và mang tính quốc tế mà
“với những mâu thuẫn ghê gớm nhất của chúng sẽ tác động trên một phạm vi rộng lớn
hơn, trên một vùng mênh mông hơn, toàn thế giới” [1, tr.376]. Đó là vấn đề mậu dịch tự
do, vấn đề đang mang tính quốc tế.
Đến Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, nhiều nội dung lý luận của quốc tế hóa theo
quan điểm duy vật lịch sử đã được Mác, Ăngghen lí giải thấu đáo và sâu sắc hơn. Thứ
nhất: Mác, Ăngghen chỉ ra nguyên nhân gây nên quốc tế hóa kinh tế, chính trị, văn hóa
của giai cấp tư sản chính là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thứ hai: Mác,
Ăngghen chỉ ra thực chất của quốc tế hóa, không gì khác, chính là quốc tế hóa tư bản,
thực hành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở khắp mọi nơi trên thế giới. Thứ ba:
Mác, Ăngghen bằng việc nghiên cứu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với và qui luật
đấu tranh giai cấp đã vạch ra xu thế cuối cùng của sự phát triển quốc tế hóa.
Hạn chế trong quan điểm của Mác và Ăngghen là chưa đề cập tới lý luận về toàn
cầu hóa – bước phát triển cao của quốc tế hóa. Song những quan điểm dự báo này vẫn có
ý nghĩa chỉ đạo quan trọng trong việc nhận thức và tiếp cận đúng đắn vấn đề tác động của
toàn cầu hóa hiện nay.

I.2.3. Theo quan điểm của Lenin



Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác trong bối cảnh lịch sử mới, Lênin mặc dầu
chưa có những ý kiến bàn trực tiếp đến toàn cầu hóa song đã tiếp tục kế thừa quan điểm
của Mác, Ăngghen đồng thời phân tích, giải quyết không ít nội dung lý luận mới xoay
quanh vấn đề đó.
- Thứ nhất: thay tấm áo cũ “tự do cạnh tranh” để khoác tấm áo mới “độc quyền”,
“đế quốc chủ nghĩa” cũng đồng thời với việc chủ nghĩa tư bản bước sang một thời kì mới,
thời kì mà Lênin cho rằng có sự tác động lẫn nhau đang diễn ra mạnh mẽ của hai xu
hướng thế giới: Một mặt là xu hướng quốc tế hóa, hội nhập kinh tế và toàn bộ đời sống
kinh tế – xã hội. Một mặt là xu hướng biệt lập, xây dựng các Nhà nước độc lập.
- Thứ hai: Lênin có những quan điểm rất khoa học về một dạng của hội nhập (rất
gần với vấn đề toàn cầu hóa), đó là “đồng hóa”. Điều này được minh chứng trong cuộc
tranh luận với Lipman về “đồng hóa”, Lênin và những người mác xít chân chính cho
rằng: vấn đề không phải ở chỗ xóa bỏ xu hướng đó mà là chống các phương tiện, các thủ
đoạn cưỡng bức, áp bức, bất bình đẳng mà chủ nghĩa tư bản sử dụng để đưa xu hướng đó
vào đời sống hiện thực.

I.2.4. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng hễ còn một kẻ thù xâm lược thì ta phải tiếp tục chiến đấu
quét sạch nó đi. Nhưng ta sẵn sàng hoan nghênh, mở cửa cho những người Pháp, người
Mỹ và tư bản các nước khác đến giúp đỡ Việt Nam với tư cách là những chuyên gia kỹ
thuật, nhà kinh doanh. Nghĩa là, từ khá sớm, trong quan điểm của Hồ Chí Minh, mở cửa


hội nhập, phát triển đất nước là điều cần thiết và phải dựa trên cơ sở độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ.
Những nội dung về hợp tác, hội nhập trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể coi là sự
vận dụng và kế thừa sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử cụ thể
của Việt Nam; trở thành một trong những lý luận nền tảng của Đảng Cộng sản Việt Nam
xoay quanh việc nhận thức về toàn cầu hóa và các vấn đề liên quan hiện nay.


I.2.5. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) nhận định:
“Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá
trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”.
Đại hội XII (1/2016) nhận định: “Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp
tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các
nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng”.
Như vậy, có thể thấy trong bối cảnh còn nhiều tranh cãi về toàn cầu hóa, còn nhiều
biến động phức tạp của thời đại ngày nay, những quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin, tư
tưởng của Hồ Chí Minh vẫn là cơ sở phương pháp luận khoa học cho việc nhận thức toàn
cầu hóa và các vấn đề liên quan ở Việt Nam.

I.3. Tác động tích cực của Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc,
đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng người.
Cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hoá là hết sức khác nhau. Trong khi một số
nước đang phát triển tiếp nhận toàn cầu hoá một cách hồ hởi thì ở nhiều nước phát triển,


phong trào chống toàn cầu hoá lại diễn ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người
tham gia. Song, bất chấp thái độ khác nhau, ủng hộ hay phản đối, toàn cầu hoá vẫn là một
xu thế tất yếu và ngày càng được mở rộng mà mỗi quốc gia dân tộc phải đối mặt với nó.
Vậy tính tất yếu của toàn cầu hoá được biểu hiện như thế nào?
Tính tất yếu của toàn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tất yếu kinh tế.Kinh tế,
như mọi người đều biết, là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của văn
minh nhân loại.Thực ra, thuật ngữ văn minh nhân loại vừa mang ý nghĩa vật chất, vừa
mang ý nghĩa tinh thần.Ưu thế của một nền văn minh được thể hiện trong sự hoà quyện
và kết hợp giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần.Với ý nghĩa đó, lịch sử của nhân loại là
lịch sử của sự giải phóng mang tính chất tiến bộ khỏi sự tước đoạt về vật chất, đồng thời

là lịch sử phát triển của tự do thuộc về vương quốc của tinh thần.
Tại Đại hội Đại biểu lần thứ XI, Đảng ta đã nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế, tiếp
tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tiêu cực, hạn
chế, cơ hội, thách thức đan xen của toàn cầu hóa tới phát triển kinh tế”.
I.3.1. Kinh tế
- Thông qua tự do hóa thương mại, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ, tạo cơ
hội để các nguồn lực phát triển kinh tế, mở rộng thông tin, trao đổi hàng hóa mạnh mẽ,
thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam luôn ở mức cao, bình quân 5 năm 2007 – 2011 đạt 7%/năm.
Năm 2014, tăng trưởng kinh tế đạt 5,98%.
6 tháng đầu năm 2015, tốc độ tăng trưởng đạt 6,28% cao hơn nhiều so với cùng kỳ
5 năm trước.
- Thúc đẩy cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trong nước và các hàng hóa dịch vụ
nước ngoài, buộc các nên kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, mở rộng nền
kinh tế tri thức, cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động, thúc đẩy Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.


Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 48.6 tỷ USD, tăng 21.9% so với năm 2007.
Tuy nhiên do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu kim ngạch xuất khẩu năm
2009 ước đạt 57,1 tỉ USD giảm 8,9% so với năm 2008.
Trong năm 2010 xuất khẩu vẫn đạt 72,2 tỷ USD (tăng 26.4%) và năm 2011 tăng
lên 96.3 tỷ USD (tăng 33%).
Thương mại hàng hóa của Việt Nam trong năm 2012 đã đạt 228.31 tỷ USD cao gấp
hơn 2 lần so với kết quả thực hiện của năm 2007.
Năm 2013 – 2014, kim ngạch xuất khẩu liên tục gia tăng. Cụ thể năm 2013 tăng
15,4% so với 2012, năm 2014 tăng 13.6% so với 2013.
- Tạo môi trường thuận lợi cho việc nắm bắt thông tin, tri thức mới, giao lưu văn hóa
thế giới trên cơ sở đó giúp nầng cao, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, chuẩn hóa tài

chính quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với đầu tư, giao lưu văn hóa, giai đoạn 2007 – 2009 là giai đoạn bùng bổ đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Năm 2007 đã tăng cao kỉ lục với 27%. Năm 2008 và 2009, do


khủng hoảng tài chính, tốc độ đầu tư chậm lại tương ứng còn 7,8% và 11,4%. Từ 2012 2014 tăng ở mức 21,9 tỷ USD.
Công tác duy trì ổn định kinh tế vĩ mô đã tạo điểu kiện cho tăng trưởng cao và ổn
định.Cùng với tiềm năng tăng trưởng cao cùng với việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô đã
khiến nhà đầu tư nước ngoài lạc quan hơn về nền kinh tế Việt Nam.
Chính sự nhìn nhận nghiêm túc về rủi ro và vai trò của ổn định kinh tế vĩ mô đã
dẫn đến những phản ứng chính sách phù hợp hơn.
Trong nội dung ở Đại hội Đảng lần thứ XI Đảng đã rút ra kinh nghiệm “phải thật
sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững”. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế
vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản
xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng
cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
- Tiếp thu các thành tự khoa học kĩ thuật, công nghệ của nhân loại và kinh nghiệm
quản lí.
Trước xu thế toàn, khu vực hóa các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam
nói riêng tùy theo vị thế, điều kiện lịch sử cụ thể và trình độ phát triển của mình đều có
cách thức riêng phát triển theo con đường rút ngắn. Hai trong số nhiều con đường phát
triển là: Thứ nhất, du nhập kỹ thuật - công nghệ trung gian từ các nước phát triển để xây
dựng những ngành công nghiệp của mình như là một bộ phận hợp thành trong tầng công
nghiệp hiện đại. Tuỳ thuộc vào khả năng vốn, trí tuệ... mà lựa chọn một hoặc cùng lúc cả
hai con đường phát triển nói trên. Toàn cầu hóa cho phép Việt Nam có điều kiện tiếp
nhận các dòng kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước phát triển để nâng cao
trình độ kỹ thuật - công nghệ của mình.
Trong quá trình toàn cầu hóa , Việt Nam có điều kiện tiếp cận và thu hút những kỹ

thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, qua đó mà nâng dần trình độ công nghệ
sản xuất . Do vậy, mà ngày càng nâng cao được trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa được đánh giá như một công cụ
đặc hiệu để nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ ở Việt Nam. Bởi lẽ, trong quá trình
tham gia vào liên doanh, liên kết sản xuất quốc tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các dự
án FDI... các nước đang phát triểnnhư VN có điều kiện tiếp cận những công nghệ, kiến
thức và kỹ năng hết sức phong phú, đa dang của các nước đang phát triển.


I.3.2. Chính trị
Đổi mới cơ chế quản lí, mở rộng và thắt chặt quan hệ ngoại giao với các nước,
khẳng định và nâng cao vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế.
Toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các nước trên
thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao.
Xu thế toàn cầu hóa đã đặt Đảng Cộng sản Việt Nam trước yêu cầu phải liên tục
đổi mới tư duy chính trị nhằm hoàn thiện lý luận, định hướng cho việc hoạch định đường
lối chiến lược, sách lược đúng đắn trong thực tiễn. Đó là yêu cầu phải nghiêm túc và khẩn
trương làm công tác lý luận, nhận thức và đánh giá kịp thời, chuẩn xác các vấn đề thời
đại, các khuynh hướng vận động của thế giới, từ đó tích cực đẩy mạnh chủ động hội nhập
quốc tế trên cơ sở độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là yêu cầu nhận thức đúng và đầy đủ về các mối quan hệ lớn cần được giải
quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên CNXH ở nước ta dưới tác động của toàn cầu hóa,
như quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; quan hệ giữa phát triển
lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp; quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; quan hệ giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Toàn cầu hóa cũng thúc đẩy Đảng Cộng sản Việt Nam phải đổi mới tư duy nhận thức

về các động lực cần phát huy trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay,
đó là kết hợp hài hòa các lợi ích; đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam; hoàn thiện nền văn hóa XHCN, phát huy vai trò của nguồn lực con người trong
xây dựng CNXH.
Đảng ta nhận thức được sâu sắc rằng hội nhập là một con đường cơ bản và tất yếu
để phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đồng thời, Đảng ta nhấn mạnh trước
hết và chủ yếu là đổi mới kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống
người dân, tạo lập ổn định tích cực mà tiến hành đổi mới hệ thống chính trị từng bước
vững chắc, thận trọng. Từ đó, Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã chuyển
từ việc phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần và sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp xu thế
phát triển của kinh tế thế giới; đồng thời đem lại diện mạo mới cho nền kinh tế đất nước,
củng cố lòng tin của nhân dân vào chế độ, nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước trên


trường quốc tế. Trên thực tế, rất nhiều luật đã được ban hành như Luật Đầu tư, Luật Đấu
thầu, Luật Doanh nghiệp, Bộ Luật lao động, Luật Hàng không, Luật Hàng hải… được ban
hành, tạo môi trường pháp lý ngày càng đồng bộ, hoàn thiện hơn cho nền kinh tế thị
trường hoạt động, phát triển và hội nhập quốc tế; cho sự ổn định, phát triển, cạnh tranh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại, xuất nhập
khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới ký kết các hiệp định
kinh tế song phương với các nước; tham gia và trở thành thành viên của các tổ chức kinh
tế tg và khu vực như Ngân hàng thế giới WB, Qũy Tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng phát
triển châu Á ADB; tham gia các liên kết khu vực ASEAN, APEC, ASEM và trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO…
I.3.3. Văn hóa – Xã hội
Có cơ hội tiếp xúc và giao lưu với các nền kinh tế khác trên thế giới, nâng cao trình
độ dân trí, được tiếp thu các thành tự KHCN kỹ thuật tiên tiến, tăng nhanh quá trình đô thị
hóa.

Xu thế quốc tế hóa không chỉ diễn ra trong lĩnh vực kinh tế mà nó còn diễn ra
trong tất cả các lĩnh vực như chính trị, pháp luật, văn hóa...
Gắn với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển của khoa học và công nghệ là cuộc
cách mạng trên lĩnh vực thông tin đại chúng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập văn
hóa quốc tế. Sự phát triển trên lĩnh vực thông tin đại chúng một mặt chúng đem lại cho
nhân loại một lượng thông tin khổng lồ và đáp ứng nhu cầu thông tin của của con người
một cách nhanh nhất. Nó lôi kéo các quốc gia dân tộc và toàn nhân loại xích lại gần nhau
về nhận thức, về tư duy, về thế giới tinh thần, đạo đức của con người. Nó phổ cập nhiều
giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, kích thích sự sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng các
giá trị văn hóa. Mặt khác, nó cũng tạo ra những hậu quả khôn lường, đó là xu hướng đồng
nhất hóa lối sống của các quốc gia dân tộc, đặc biệt là xu thế áp đặt văn hóa, áp đặt các
mô hình và giá trị trong văn hóa. Đối với Việt Nam chúng ta, các thế lực thù địch đã và
đang sử dụng hệ thống truyền thông và giao lưu, hội nhập văn hóa để thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình” với mục đích nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn và đang xây dựng. Chống lại xu thế nhất thể hóa lối sống, áp đặt
văn hóa là vấn đề giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc của nhiều quốc gia dân tộc,
đây là xu hướng tích cực.
Toàn cầu hóa có một vai trò không nhỏ trên con đường phát triển Văn hóa, xã hội
của Việt Nam. Như trong nội dung của Đại hội Đảng lần thứ XI, có xác định “ phải coi
trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội”; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,


nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình
kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc
phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

II.


TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN SỰ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC

Toàn cầu hoá, đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế, một mặt, tạo cơ hội cho những tổ chức, cá
nhân có năng lực phát huy được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và cho
cả xã hội. Nhưng mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế cũng đem đến tác động tiêu cực trong
phát triển kinh tế. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận lên trên hết; do đó mà một số
tổ chức, cá nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Điều đó góp phần làm băng hoại
nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ giữa người với người trở nên lạnh lùng, xa lạ,
“không tình, không nghĩa” và đây thực sự là một nguy cơ của sự suy thoái đạo đức, lối
sống con người Việt Nam hiện nay.

II.1. Thực trạng
- Tác động đến kinh tế: Tạo cơ hội cho những tổ chức, cá nhân có năng lực phát
huy được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và cho cả xã hội. Nhưng mặt
khác, toàn cầu hoá kinh tế cũng đem đến tác động tiêu cực trong phát triển kinh tế : nhiều
công ty nhà máy công nghiệp sẵn sang đổ chất thải ra ngoài môi trường để tốn ít kinh phí
(formosa,…) thực phẩm chứa chất độc hại, các công trình xây dựng bị rút lõi dẫn đến chất
lượng kém gây nhiều hậu quả nghiêm trọng…
- Tác động đến văn hóa –xã hội: Toàn cầu hóa đưa lối sống phương tây du nhập
vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép
kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở,
năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, cũng
chính việc tiếp thu lối sống đó một cách thiếu định hướng (tiếp thu cả mặt tiêu cực của
nó) mà dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc: ăn mặc hở hang
phản cảm, tâm lí sùng hang ngoại, các công nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá khắp
thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng
phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Do bị kích động bởi việc tiếp xúc với
những thước phim hành động có tính bạo lực qua mạng internet mà nhiều thanh, thiếu
niên đã có những hành động mang tính bạo lực, hung hãn, gây nên những hậu quả đau
lòng, một số nam nữ thanh niên ở các thành phố lớn muốn có tự do cá nhân cao, không

muốn lập gia đình sớm hoặc chủ trương sống độc thân suốt đời, nhưng lại có quan niệm
khá thoải mái trong quan hệ nam nữ. Từ đó dẫn đến những kiểu sinh hoạt tình dục bừa bãi


giữa nam và nữ, kể cả sinh hoạt tình dục tập thể, làm băng hoại những nguyên tắc luân lý
sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền thống phương Đông và dân tộc.Đặc biệt ảnh
hưởng của lối sống thực dụng đã làm xuất hiện tâm lý “chạy theo đồng tiền”, coi “tiền là
trên hết”, không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh mất nhân cách và nhân tính.
- Tác động đến giáo dục: Bạo lực học đường, không tôn trọng thầy cô bạn bè…
Tình trạng mua quan bán chức, mua bằng đại học, chạy điểm, chạy trường… diễn ra rất
phổ biến.

II.2. Nguyên nhân
- Đối với kinh tế: Toàn cầu hoá, đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế, một mặt, tạo cơ
hội cho những tổ chức, cá nhân có năng lực phát huy được tiềm năng của mình, đem lại
lợi ích cho cá nhân và cho cả xã hội. Nhưng mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế cũng đem đến
tác động tiêu cực trong phát triển kinh tế. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận lên
trên hết; do đó mà một số tổ chức, cá nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Điều
đó góp phần làm băng hoại nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ giữa người với người trở
nên lạnh lùng, xa lạ, “không tình, không nghĩa” và đây thực sự là một nguy cơ của sự suy
thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay.
- Đối với văn hóa: Toàn cầu hoá đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta. Lối
sống ấy, một mặt, tác động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu,
phụ thuộc, ỷ lại vốn có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập,
dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu lối
sống đó một cách thiếu định hướng (tiếp thu cả mặt tiêu cực của nó) mà dẫn đến việc xa
rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin hiện đại đang
truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn
chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực…Có thể nói, toàn cầu hoá
đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống và những giá trị đạo đức của người Việt Nam.

Những sản phẩm văn hoá độc hại từ nước ngoài đưa vào nước ta đã tác động tiêu cực tới
đời sống tinh thần, văn hoá của một bộ phận nhân dân. Ảnh hưởng của lối sống thực dụng
đã làm xuất hiện tâm lý “chạy theo đồng tiền”, coi “tiền là trên hết”, Một trong những tác
động tích cực của toàn cầu hoá “là việc soi chiếu các giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân,
phẩm chất cá nhân”. Nhưng cũng chính mặt tích cực này khi bị con người đẩy lên quá
mức sẽ trở thành tiêu cực. Ý thức đề cao cá nhân, một khi bị tuyệt đối hoá sẽ dẫn đến
việc cái cá nhân lấn át cái cộng đồng. Điều đó dẫn đến việc đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi
ích xã hội, coi lợi ích cá nhân là trên hết; lúc đó, lợi ích tập thể sẽ bị lấn át, thậm chí bị
phế bỏ, từ đó mà tham nhũng, lãng phí ngày càng có cơ hội gia tăng.


II.3. Tác hại
Ngoài những tác động về kinh tế, toàn cầu hoá còn tác động tích cực đến sự phát
triển văn hoá. Do tác động của toàn cầu hoá và chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước
ta, trình độ dân trí được nâng cao rõ rệt. Nhờ tiếp thu những thành tựu công nghệ, thông
tin, chúng ta có thể tiếp cận với nguồn tri thức khổng lồ, cập nhật được nhiều thông tin
mới về tình hình thế giới. Cũng qua đó, ý thức chính trị về các vấn đề trong nước và trên
thế giới cũng được nâng cao. Nhờ quá trình toàn cầu hoá, dân tộc ta hiểu biết hơn các dân
tộc trên thế giới, bổ sung và làm giàu nền văn hoá của dân tộc mình. Cũng thông qua mở
cửa, hội nhập, cạnh tranh quốc tế, con người Việt Nam trở nên năng động hơn. Trong bối
cảnh mới, nhiều người Việt Nam đã thay đổi lối sống của mình, từ cuộc sống có phần
khép kín, thiếu năng động sang cuộc sống cởi mở hơn, năng động hơn và hiện đại hơn.
Những thay đổi trong đời sống kinh tế, văn hoá, tinh thần theo hướng ngày càng
tốt đẹp hơn làm người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng đề
ra là đúng đắn, theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, tạo
ra sự tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, đưa nước ta lên một vị trí xứng
đáng trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá, đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế, một mặt, tạo cơ hội cho
những tổ chức, cá nhân có năng lực phát huy được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích

cho cá nhân và cho cả xã hội. Nhưng mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế cũng đem đến tác
động tiêu cực trong phát triển kinh tế. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận lên trên
hết; do đó mà một số tổ chức, cá nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Điều đó
góp phần làm băng hoại nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ giữa người với người trở
nên lạnh lùng, xa lạ, “không tình, không nghĩa” và đây thực sự là một nguy cơ của sự suy
thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay.
Toàn cầu hoá đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác
động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn có
của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm,
phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu lối sống đó một cách
thiếu định hướng (tiếp thu cả mặt tiêu cực của nó) mà dẫn đến việc xa rời lối sống theo
chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá khắp thế
giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng
phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Lối sống đó đang phần nào tác động đến
một bộ phận nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên sống ở các khu đô thị lớn. Do
bị kích động bởi việc tiếp xúc với những thước phim hành động có tính bạo lực qua mạng


internet mà nhiều thanh, thiếu niên đã có những hành động mang tính bạo lực, hung hãn,
gây nên những hậu quả đau lòng. Cùng với tâm lý sùng hàng ngoại, lối sống tự do kiểu
phương Tây cũng đang xâm nhập khá mạnh vào đời sống người Việt Nam, đặc biệt là
trong thanh niên và cả một bộ phận trong tầng lớp trí thức. Một số nam nữ thanh niên ở
các thành phố lớn muốn có tự do cá nhân cao, không muốn lập gia đình sớm hoặc chủ
trương sống độc thân suốt đời, nhưng lại có quan niệm khá thoải mái trong quan hệ nam
nữ. Từ đó dẫn đến những kiểu sinh hoạt tình dục bừa bãi giữa nam và nữ, kể cả sinh hoạt
tình dục tập thể, làm băng hoại những nguyên tắc luân lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ
với truyền thống phương Đông và dân tộc. Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối
sống của một bộ phận thanh niên Việt Nam, là biểu hiện của quan niệm “lệch chuẩn”, đối
lập với quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. “Toàn cầu hoá các
quan hệ kinh tế sẽ đưa lại sự hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại

với một giá rẻ hơn, tiện nghi phong phú hơn. Song mặt khác, chính sự giao thoa về văn
hoá, sự tràn ngập của hàng hoá đó đã tạo ra khả năng về sự tha hoá nhân cách, đạo đức,
làm rối loạn các giá trị truyền thống của dân tộc”.Như vậy, có thể nói, toàn cầu hoá đã gây
ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống và những giá trị đạo đức của người Việt Nam. Những
sản phẩm văn hoá độc hại từ nước ngoài đưa vào nước ta đã tác động tiêu cực tới đời sống
tinh thần, văn hoá của một bộ phận nhân dân. Ảnh hưởng của lối sống thực dụng đã làm
xuất hiện tâm lý “chạy theo đồng tiền”, coi “tiền là trên hết”, không cần biết đến đạo lý
phải trái, đánh mất nhân cách và nhân tính. Không ít trường hợp vì tiền và danh lợi mà
chà đạp lên tình đồng chí, đồng nghiệp, bạn bè, tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò. Tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy án đã trở nên khá phổ biến.


Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tệ sùng bái
nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân vị kỷ… đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì
đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng
nghiệp”.
Lối sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ với công việc của cộng
đồng và với những người xung quanh. Điều đó làm cho mối dây liên kết giữa cá nhân và
cộng đồng, giữa người và người trở nên “lỏng lẻo”. Đây thực sự là nguy cơ của việc đẩy
xa nhau giữa con người với con người, đi ngược lại với truyền thống “tương thân, tương
ái” của dân tộc. Do đời sống kinh tế còn khó khăn, cộng với sự tác động của kinh tế thị
trường, nhiều lĩnh vực xã hội đã xuất hiện khuynh hướng “thương mại hoá”. Ví như giáo
dục, vốn trước đây thuộc lĩnh vực bao cấp của Nhà nước, đang có khuynh hướng “
thương mại hoá” với những biểu hiện như dạy thêm, học thêm tràn lan; mua bằng, bán
điểm, “đổi tình lấy điểm”; lạm thu, mở tràn lan các lớp đào tạo tại chức, liên kết đào tạo
với nước ngoài…, nhằm mục đích thu lợi, không đảm bảo chất lượng giáo dục. Điều này
góp phần làm môi trường sư phạm xuống cấp; đạo lý thầy trò suy thoái; lối sống thiếu
hoài bão, lý tưởng xuất hiện trong một bộ phận học sinh, sinh viên, giáo viên.



Một trong những tác động tích cực của toàn cầu hoá “là việc soi chiếu các giá trị
đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá nhân”. Nhưng cũng chính mặt tích cực này
khi bị con người đẩy lên quá mức sẽ trở thành tiêu cực. Ý thức đề cao cá nhân, một khi bị
tuyệt đối hoá sẽ dẫn đến việc cái cá nhân lấn át cái cộng đồng. Điều đó dẫn đến việc đặt
lợi ích cá nhân lên trên lợi ích xã hội, coi lợi ích cá nhân là trên hết; lúc đó, lợi ích tập thể
sẽ bị lấn át, thậm chí bị phế bỏ, từ đó mà tham nhũng, lãng phí ngày càng có cơ hội gia
tăng: “Tham nhũng, lãng phí làm tha hoá phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc, làm
cho nhân dân lo lắng, bất bình và nguy hiểm hơn, đó là làm giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”.Như vậy, có thể thấy, những hiện tượng tiêu cực
diễn ra trong đời sống xã hội Việt Nam như phân tích ở trên là biểu hiện của sự xa rời
những chuẩn mực đạo đức truyền thống, những chuẩn mực vẫn còn giá trị trong xã hội
hiện đại. Một khi những chuẩn mực đó không được giữ vững như là định hướng trong
hoạt động của con người thì sự suy thoái là điều không tránh khỏi. Vì vậy, việc giữ vững
định hướng chính trị và định hướng giá trị tinh thần trong thực tiễn xây dựng đất nước,
cũng như trong hoạt động thực tiễn đạo đức là yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự
suy thoái và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hoá hiện nay.




II.4. Giải pháp
II.4.1. Đối với cán bộ
Một là, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Phải khẳng định đây là giải pháp không mới nhưng đó là giải pháp cơ bản luôn được
Đảng ta nhấn mạnh suốt hơn 86 năm qua. Trong tình hình hiện nay, cần phải có những
cách làm mới hơn, thiết thực hơn.
Những vụ việc gần đây, như vụ của Trịnh Xuân Thanh lộ ra nhiều vấn đề trong

giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Tại sao trong một tổ chức Đảng có
người đứng đầu luôn mẫu mực, đi chiếc xe ô tô không thuộc hạng sang và không cần mua
sắm xe mới thì một cán bộ cấp tỉnh lại chạy siêu xe tư nhân gắn biển xanh mà đồng chí,
đồng đội xung quanh không thấy phản cảm, không phê phán, đấu tranh? Ngoài kẽ hở về
quản lý kê khai tài sản thì dường như trong Đảng ta, trực tiếp từ cấp chi bộ lâu nay dường
như đã buông lỏng, xem nhẹ giáo dục, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống. Nếu như những biểu hiện “lệch chuẩn”, những dấu hiệu bất
thường về đạo đức, lối sống sớm được phát hiện, chấn chỉnh ngay từ chi bộ đảng, từ nơi
đảng viên công tác, thì có lẽ sự tha hóa, trượt dài trên những vũng bùn tội lỗi sẽ được
ngăn chặn.


Hai là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các tổ chức đảng và cán
bộ, đảng viên về thực hiện nguyên tắc lãnh đạo của Đảng để vận dụng thực hiện hiệu quả,
không chệch hướng. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII cần gắn với việc đổi
mới phong cách lãnh đạo; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn trong
từng lĩnh vực, nhiệm vụ giữa tập thể với cá nhân; phát huy cao nhất bổn phận trước nhân
dân, trước dân tộc, đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân. Giữ
vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội, nhất là kỷ luật phát ngôn. Tập trung
làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân trong thực hiện các nguyên tắc của Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ và kiểm điểm về đạo đức, lối sống; nói đi đôi với làm của
cán bộ, đảng viên, trước khi kiểm điểm có những hình thức phù hợp để lấy ý kiến góp ý,
gợi ý kiểm điểm, kể cả trong tập thể và cá nhân từng đảng viên. Đồng thời, tổ chức kiểm
tra, giám sát việc thực hiện. Có biện pháp kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, loại bỏ tư tưởng cơ hội, thực dụng, tình trạng thoái hóa biến chất trong Đảng, lối
sống thực dụng trong một bộ phận cán bộ có chức, có quyền, những hình ảnh xấu về
người cán bộ cách mạng trong nhân dân, tác động tiêu cực đến sự đồng thuận về tư tưởng
trong xã hội, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

Ba là, tăng cường phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đấu tranh có hiệu quả
chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và các tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, xây dựng các thiết chế tuyên truyền vận động, tạo điều kiện cho nhân
dân thực hiện quyền và nghĩa vụ trong phát triển sản xuất, tổ chức đời sống, tham gia xây


dựng Đảng, kiểm tra, giám sát cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, phát hiện và đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng. Tăng cường kiểm tra, biểu dương những tổ chức Đảng,
những địa phương, đơn vị có cách làm hay, sáng tạo, mang lại hiệu quả cao; kịp thời chấn
chỉnh những biểu hiện chưa đúng, thiếu hiệu quả, hình thức cũng là điều cần được quan
tâm, coi trọng trong triển khai thực hiện nghị quyết lần này. Giáo dục, quán triệt, tổ chức
thực hiện gắn liền với công tác kiểm tra, giám sát không chỉ là phương châm lãnh đạo của
Đảng, mà còn là bài học giá trị giúp tạo dựng nên những thành công trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không có kiểm tra là không có lãnh đạo.

Chủ động có các phương án ngăn chặn và làm thất bại âm mưu lợi dụng các vấn đề
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để gây rối chính trị, xuyên tạc lịch sử, nói
xấu các cán bộ lãnh đạo Đảng. Củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng với các tổ chức thành viên, thực sự phát huy vai trò là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, là nơi phối hợp hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện
quyền dân chủ, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia
xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, thực hiện giám sát của nhân dân đối với hoạt
động, lối sống của cán bộ, đảng viên và các cơ quan nhà nước; giải quyết những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân.


Bốn là, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên sai phạm; làm trong sạch bộ máy
Đảng và Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Đảng ta chỉ rõ: “Kiên quyết

phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra
tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung
túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham
nhũng, lãng phí”. Cụ thể cần tập trung vào mấy điểm sau:
1. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải coi trọng, tăng cường công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu, đổi mới hình thức giáo dục cho phù hợp. Nội
dung giáo dục phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm gốc.
2. Gắn xây dựng Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch,
lành mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải
gương mẫu, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, có lối sống lành mạnh, đạo đức
trong sáng, nói đi đôi với làm, cũng chính là nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước khó khăn, thử thách, âm mưu,
thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
3. Cán bộ chủ chốt phải nêu gương thực hành đạo đức, thúc đẩy toàn Đảng, toàn
dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn
việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII với việc thực hiện Nghị


quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa".
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, nâng
cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng, làm cho bộ máy Nhà nước trong sạch,
vững mạnh toàn diện thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; nâng cao được
hiệu lực quản lý của Nhà nước, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức
góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo
vệ chế độ. Đó là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
II.4.2. Đối với quần chúng nhân dân

Một là, tăng cường giáo dục ý thức trong nhân dân thông qua hình thức truyền
thông bằng công nghệ thông tin, ti vi… Ra sức ngăn chặn, phát động phong trào phòng
chống thực phẩm bận, xả thải ra môi trường, buôn lậu…Các cơ quan tăng cường điều tra
và xử lí nghiêm ngặt các hành vi vi phạm.


Hai là, giáo dục và nâng cao ý thức giới trẻ phải có chứng kiến, không nên sa đọa
giao du văn hóa quá đà, biết phân biệt phải trái, đúng sai, không để cho kẻ xấu lợi dụng.
Nên sống tình cảm, quan tâm, giúp đỡ người xung quanh thay vì bang quang với xã hội.
Tích cực tổ chức lễ phát động, ngày hội vui chơi, tình nguyện để kéo giới trẻ quay về với
thiên nhiên thay vì sống ảo.


III. TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN LỐI SỐNG CỦA GIỚ TRẺ
HIỆN NAY
Quan niệm hàn lâm về lối sống
Lối sống là những nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách,
thói quen trong đời sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa.
“Lối sống là một hệ thống những hành vi được lặp đi lặp lại và định hình thành
phong cách, thói quen trong đời sống hằng ngày của cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay
một nền văn hóa. Được cấu thành bởi các yếu tố như: Cách thức lao động, các phong tục
tập quán, cách giao tiếp ứng xử, cách thức sinh hoạt....”
“Lối sống của con người là các chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình
hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua họat động sống của con người. Lối sống bao
gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một
bộ phận lớn hoặc toàn thể nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một
khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều
kiện sống hiện hữu và trong các mối liên hệ lịch sử của chúng”.9- Phạm Hồng
Tung, Nghiên cứu về lối sống: một số vấn đề về khái niệm và cách tiếp cận, Tạp chí Khoa
học, Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 23, số 4,

2007, tr. 277.
“Lối sống là tổ hợp toàn bộ các mô tỉ hình, cách thức và phong thái sống của con
người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất, tiêu
dùng, sinh hoạt đến thái độ, hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với con
người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện và mục đích sống.
Trong lối sống tổng hoà những nét cơ bản, khắc hoạ những đặc điểm cuộc sống của các
cá nhân, các nhóm người, của giai cấp, dân tộc trong một xã hội nhất định.”-LỐI SỐNG
NGƯỜI VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY-Nguyễn Văn
Huyên, PGS. TS. Triết học)
Từ những ý kiến trên ta có hiểu đơn giản “Lối sống là những hành vi được lặp đi
lặp lại và đình hình thành phong cách hay thói quen”. Cấp độ nhỏ hơn lối sống là các
chào lưu.

III.1. Thực trạng


Tính trẻ, năng động, ưa thử nghiệm và dễ phạm sai lầm và xung đột với thế hệ đi
trước chính là mẫu số chung, là đặc điểm chung của thanh niên ở mọi thời đại, mọi quốc
gia - dân tộc. Một số lối sống lai căng hiện nay của giới trẻ. (Trong bài viết này lai căng
được hiểu theo nghĩa rộng hơn là thay thế các yếu tố truyền thống tốt đẹp bằng những yếu
tố du nhập tạp nham và không có chọn lọc).
III.1.1. Lối sống chào lưu
Do đặc điểm chung của giới trẻ họ có xu hướng thử nghiệm, thể hiện nên khi một
hiện tượng gì đó khác biệt, nổi chội họ có xu hướng học, thể hiện theo theo. Lối sống theo
chào lưu này hiện được thể hiện rất rõ trong xã hội. Có những chào lưu-lối sống là tốt như
“mặc áo gia đình, đồng phục”; “nhà là nơi…” chào lưu này thể hiện cảm xúc hướng về
gia đình; … nhưng cũng có nhiều chào lưu xấu trong xã hội như “chụp ảnh khoe thân” để
được nổi tiếng; “ảnh con vịt bối rối” gọi là con vịt bối rối vì đi đâu hay làm gì cũng bốt
rối, thể hiện người đăng ảnh đang bối rối làm gì đó; …
III.1.2. Sống ảo – mạng xã hội – điện thoại thông minh

Lối sống ảo là một lối sống mà người ta sử dụng thời gian vào các hành động vào
điều không có thật. Đây là một lối sống lớn, rộng và hiện đang diễn ra rất phổ biến. Lối
sống này có nhiều cái lợi như đưa con người tới gần nhau hơn gắn kết hơn qua mạng xã
hội, hay làm cho cuộc sống tiện lợi hơn qua điện thoại thông minh từ đó nâng cao giá trị
cuộc sống
Nhưng phần còn lại sống ảo lại làm cho người ta mất quá nhiều thời gian, mất đi
cảm nhận những giá trị thực tế đánh rơi mất những điều tốt đẹp. mạng xã hội bị lạm dụng
vào chác chào lưu xấu, phát tán những nội dung độc hại. Điện thoại thông minh bị con
người lạm dụng nhiều trong cuộc sống, thay vì nói chuyện vui đùa những người bạn khi
gặp nhau lại cầm điện thoại. Thay vì ôm vuốt ve yêu thương con cái thì đâu đó có những
ông bố bà mẹ cầm điện thoại chơi game…
III.1.3. Lối giao tiếp -Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là vốn quý giá của một dân tộc. Nhưng trong thời đại toàn cầu hóa trước
nhu cầu thích nghi và phát triển, chúng ta phải học và sử dụng được ngôn ngữ mới.
Nhưng điều đáng buồn là tiếng việt đang mất dần đi sự trong sáng khi có các thanh niên
sử dụng từ mượn vô tội vạ, đan xen ngoại ngữ.
Lối giao tiếp chúng ta cũng thay đổi nhiều, chúng ta giờ có thể giao tiếp qua nhiều
hình thức khác nhau điều đó là sự tiện lợi. Lối giao tiếp hiện nay cho phép con người có
nhiều mối quan hệ cộng đồng từ đó gắn kết hơn. Lối giao tiếp còn được hiểu rộng ra là


×