BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ CỦA TỈNH KIÊN GIANG
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ HỌC THỂ CHẾ
Giảng viên hướng dẫn:
TS. PHẠM HỒNG MẠNH
Học viên: Nguyễn Duy Đăng
Mã học viên: 59CH243
Lớp: Quản lý kinh tế
KIÊN GIANG - 2017
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC ............................................................................................................ 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, TỪ VIÊT TẮT ............................................ 2
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU ....................................................................................... 3
1.1 Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài ........................................................................... 4
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................... 4
1.4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 4
1.5 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
1.6. Ý nghĩa nghiên cứu ....................................................................................... 5
1.7. Kết cấu luận văn ........................................................................................... 5
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................. 6
2.1. Lý thuyết tăng trưởng .................................................................................... 6
2.2. Một số mô hình về tăng trưởng ..................................................................... 8
2.3. Các lý thuyết về môi trường thể chế ............................................................. 11
2.4. Mối quan hệ giữa môi trường thể chế và tăng trưởng kinh tế ...................... 13
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG TẠI KIÊN GIANG ...................................................................... 16
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng ....................................................... 16
3.2. Kết luận ....................................................................................................... 20
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ ............................................................ 21
4.1. Kết luận ............................................................................................................. 21
4.2. Kiến nghị .......................................................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 23
Trang 1
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Bảng 3.1. Bảng so sánh chỉ số thiết chế pháp lý năm 2015 giữa một số tỉnh ở Khu vực
Đồng Bằng Sông Cửu Long
Bảng 3.2. Bảng so sánh chỉ số thiết chế pháp lý năm 2016 giữa một số tỉnh ở Khu vực
Đồng Bằng Sông Cửu Long
Biểu đồ 3.3. Chỉ số thiết chế pháp lý của một số tỉnh ở khu vực ĐBSCL từ năm 2007 2016
Biểu đồ 3.4. Chỉ số thiết chế pháp lý của tỉnh Kiên Giang từ năm 2012 – 2016
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
GDP: Thu nhập quốc nội (Gross Domestic Product)
PCI: Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial Competitiveness Index)
Trang 2
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Thể chế kiến tạo nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Năm 2010, một
công trình nghiên cứu được tiến hành ở một loạt quốc gia châu Á, dưới sự bảo trợ của
ABD đã chứng minh một cách thuyết phục rằng chất lượng thể chế, được đo lường bởi
hiệu quả của hoạt động của chính quyền, chất lượng của chính sách và pháp luật cũng
như mức độ thực thi chế độ pháp quyền đã liên quan trực tiếp đến phát triển quốc gia nói
chung, phát triển kinh tế nói riêng, tạo công bằng và chống tham nhũng. Kế thừa những
kết quả nghiên cứu trên, một số tổ chức quốc tế đã đưa ra giải pháp tư vấn và hỗ trợ các
nước nghèo như: ưu tiên hàng đầu không phải là cải cách dân chủ ngay tức thì, mà là phải
cải cách thể chế hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành cải cách chính trị theo
hướng dân chủ đồng thời với chính sách kinh tế.
Trong sự phát triển của nền kinh tế sự can thiệp của chính phủ là một điều tất yếu,
trong đó việc xây dựng một thể chế phù hợp là tiền đề cho sự phát triển kinh tế (Phạm
Duy Nghĩa 2007). Theo Zouhaier (2012) thể chế là một yếu tố quan trọng để đạt được kết
quả tốt trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong mối quan hệ thể chế và
tăng trưởng kinh tế thì môi trường thể chế tạo ra môi trường kinh doanh tích cực tạo điều
kiện cho các tác nhân kinh tế trong và ngoài nước đầu tư nhiều hơn, hoạt động tích cực
hơn tạo tiền đề cho quá trình tăng trưởng của quốc gia.
Hiện nay ĐBSCL có mức đóng góp 40,7% trong giá trị sản xuất nông lâm ngư
nghiệp, 56,7% sản lượng thóc, 70% sản lượng trái cây, 72,1% sản lượng thủy sản, 80 đến
90% sản lượng gạo xuất khẩu và chiếm gần 70% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.
Nông nghiệp và thủy sản chiếm 33% giá trị sản xuất của cả nước. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế trong vùng bình quân đạt 7,7%/năm giai đoạn 2001-2005 và 7,5%/năm giai đoạn
2006-2010 (Bùi Duy Hoàng 2013). Vì vậy, kinh tế khu vực ĐBSCL đã và đang được
Đảng và Nhà nước quan tâm và là một trong những khu vực phát triển chiến lược trong
tương lai.
Tuy nhiên sự phát triển ĐBSCL những năm qua vẫn dựa vào nguồn lực tự nhiên
(đất đai, khí hậu, nước, lao động…), vốn đầu tư vào khu vực chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với cả
nước, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao khoảng 52%. Với những thành
quả mà vùng ĐBSCL có được và những khó khăn mà khu vực này đang gặp phải, đảng
và nhà nước ta không ngừng tạo điều kiện thuận lợi giúp cho nơi đây ngày càng phát
Trang 3
triển góp phần vào sự phát triển của cả đất nước như:
Quyết định số 11/2012/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển GTVT vùng kinh
tế trọng điểm vùng ĐBSCL đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Quyết định số 245/QĐ-TTg quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng
kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
Kiên Giang là 1 trong những vùng kinh tế trọng điểm ở Đồng bằng sông Cửu
Long (gồm thành phố Cần Thơ, tỉnh Cà Mau, tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang) được
xác định là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thủy sản, hoa quả, góp phần quan trọng
vào đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông, thủy sản
của cả nước. Nhận thấy được sự quan trọng của thể chế đối với sự phát triển kinh tế xã
hội thời gian qua Kiên Giang đã thực hiện được nhiều chính sách, biện pháp để cải thiện
thể chế nổi bật là cải cách hành chính và đã đạt được một số thành quả nhất định.
Từ thực tế trên ta thấy rằng Kiên Giang là 1 trong những tỉnh cần phải nhanh
chóng cải thiện môi trường thể chế để từ đó góp phần vào sự phát triển chung của khu
vực. Với sự cần thiết đó Tôi quyết định lựa chọn đề tài “Tác động của môi trường thể
chế đến sự tăng trưởng kinh tế tại tỉnh Kiên Giang”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đánh giá tác động của môi trường thể chế đến tăng trưởng kinh tế tại Kiên Giang
thông qua việc thu thập, phân tích, xử lí dữ liệu do cục thống kê các tỉnh trong trong khu
vực, Bộ Tài chính và Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cung cấp hàng năm, từ
qua kết quả phân tích số liệu gợi ý chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế các tỉnh
tại Kiên Giang thông qua cải cách môi trường thể chế.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu:
- Các yếu tố nào của môi trường thể chế tác động đến tăng trưởng kinh tế tại Kiên
Giang ?
- Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến tăng trưởng kinh tế đó như thế nào ?
1.4. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tại tập trung phân tích ảnh hưởng của phân cấp tài khóa đến tăng trưởng kinh
tế tại Kiên Giang. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra những kết luận, khuyến nghị có
liên quan.
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp nghiên cứu định lượng, thông qua mô
Trang 4
hình kinh tế lượng, xác định các thành phần môi trường thể chế tác động đến tăng trưởng
kinh tế tại Kiên Giang. Với gốc độ là tiểu luận nên dữ liệu được sử dụng chủ yếu là dữ
liệu thứ cấp từ các văn bản, sách báo, tài liệu, internet,…. Tác giả làm rõ mục tiêu, câu
hỏi nghiên cứu được đặt ra.
1.6. Ý nghĩa nghiên cứu:
Trong quá trình phát triển của kinh tế cả nước, đóng góp kinh tế của khu vực
đồng bằng sông Cửu Long nói chung và của tỉnh Kiên Giang nói riêng có ý nghĩa rất to
lớn. Thông qua các môi trường thể chế của mỗi địa phương các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư đang hoạt động tại địa phương có cơ hội thuận lợi phát huy nội lực của chính
mình và thu hút, tạo sự chú ý đối với các nhà đầu tư có tiềm năng đến với địa phương
mình từ đó thúc đẩy tăng trưởng của các địa phương và đồng thời cũng thúc đẩy tăng
trưởng của cả nước. Do đó, môi trường thể chế có vai trò rất quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế của các địa phương, vì vậy đề tài này có ý nghĩa khá lớn trong việc phân
tích vai trò của môi trường thể chế đối với tăng trưởng kinh tế tại các địa phương cụ thể
tiểu luận này đánh giá tại tỉnh Kiên Giang.
1.7. Kết cấu luận văn:
Gồm 5 chương chủ yếu như sau:
Chương 1: Mở đầu: Trình bày tóm lược vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu,
đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, mô hình nghiên cứu, những điểm nổi
bật của luận văn và kết cấu luận văn.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết: Trình bày khái niệm về tăng trưởng kinh tế , khái niệm
về thể chế và mối quan hệ `của thể chế đối với tăng trưởng kinh tế, các lý thuyết liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu: Phân tích và giải thích kết quả nghiên
cứu, căn cứ vào các số liệu thứ cấp; xác định mức độ ảnh hưởng môi trường đối với tăng
trưởng kinh tế tình hình chung tại khu vực Đồng bằng sông cửu long và tại Kiên Giang.
Chương 4: Kết luận và kiến nghị: Trình bày tóm tắt kết quả nghiên cứu được tìm
ra gợi ý một số chính sách.
Trang 5
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Lý thuyết tăng trưởng:
Định nghĩa tăng trưởng:
Theo ngân hàng thế giới (1991) “tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng về lượng của
những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là tổng sản phẩm
xã hội, có tính đến mối liên quan đến dân số ”.
Theo Nafziger (1998) “tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng hoặc sự tăng lên
về thu nhập bình quân đầu người của một nước ”.
Begg (1991) “tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng phần trăm hàng năm của GDP thực
tế hay GDP thực tế trên đầu người trong dài hạn ”.
Theo Blanchard (2000) có hai cách để định nghĩa về GDP : GDP là giá trị hàng hóa
và dịch vụ cuối cùng (được tính bởi phần tiêu dùng cuối cùng) được sản xuất ra trong
nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định hay GDP là tổng giá trị tăng thêm trong
nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Nguyễn Đình Cử (2012) tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) hay là sự gia tăng GDP bình quân đầu người. Sự gia tăng này thể hiện ở quy
mô và tốc độ. Quy mô thể hiện sự tăng nhiều hay tăng ít, tốc độ thể hiện sự tăng nhanh
hay chậm.
Ngoài ra có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tăng trưởng kinh tế tuy nhiên ta có
thể định nghĩa một cách khái quát tăng trưởng kinh tế như sau:
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc thu
nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định ”.
Cách tính tăng trưởng kinh tế:
Hầu hết các nhà kinh tế học đều sử dụng sự gia tăng của đại lượng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) làm thước đo tăng trưởng kinh tế
GDP thường được tính bằng ba cách:
Thứ nhất, phương pháp giá trị gia tăng (phương pháp sản xuất):
Trang 6
GDP = AVA + IVA + SVA
với: AVA, IVA, SVA là giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ. Thứ hai, phương pháp chi tiêu:
GDP bằng tổng tất cả các khoản chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. GDP = C +
I + G + NX
Với C là tiêu dùng hộ gia đình, I là đầu tư gồm đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư
vào tài sản lưu động, G là chi tiêu hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ, NX là giá trị của
hàng hoá và dịch vụ được xuất khẩu sang các nước khác trừ giá trị hàng hoá và nhập
khẩu từ nước ngoài.
Thứ ba, phương pháp thu nhập:
GDP bằng thu nhập gộp của các yếu tố sản xuất trong nền kinh tế được huy động
cho quá trình sản xuất. Nếu tính theo giá thị trường, GDP cũng bao gồm thuế gián thu:
GDP = w + i + r + Pr + De + Ti
Với w là tiền lương và các khoản tiền thưởng của người lao động, i là thu nhập của
người cho vay, r là thu nhập của chủ đất, chủ nhà và chủ các tài sản cho thuê khác, Pr là
lợi nhuận của chủ doanh nghiệp, Ti là thuế gián thu và De là khấu hao. Có thể sử dụng
mức giá hiện hành (GDP danh nghĩa) hoặc giá cố định (GDP thực) để đo lường GDP,
mối quan hệ giữa GDP danh nghĩa và GDP thực thông qua chỉ số giá điều chỉnh GDP.
Theo đó: GDP danh nghĩa = chỉ số điều chỉnh GDP * GDPthực
Để đo lường tốc độ tăng trưởng của GDP thực hoặc danh nghĩa người ta thường sử
dụng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng (gi), phản ánh % thay đổi của GDP năm sau so với năm
trước.
Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm được tính theo công thức:
Trong đó:
GDPt là GDP năm thứ t của thời kỳ nghiên cứu. GDPt-1 là GDP năm trước đó của
Trang 7
thời kỳ nghiên cứu.
2.2. Một số mô hình về tăng trưởng kinh tế:
Trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới có nhiều mô hình lý thuyết tăng trưởng
ra đời nhằm giải thích cho sự biến động của kinh tế thế giới ở giai đoạn tương ứng, tuy
nhiên mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Hầu hết các lý thuyết tăng trưởng kinh tế đều cho rằng tăng trưởng kinh tế là do ảnh
hưởng tổng hợp của các yếu tố đầu vào đến đầu ra của nền kinh tế và chính phủ luôn có
vai trò nhất định của mình trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Mô hình tăng trưởng cổ điển:
Tiêu biểu cho lý thuyết tăng trưởng giai đoạn này là mô hình tăng trưởng của Adam
Smith và Ricacdo
Adam Smith cho rằng chính lao động được sử dụng một cách hiệu quả và có ích là
nguồn gốc tạo ra giá trị của xã hội, năng suất lao động phụ thuộc vào lượng tư bản tích
lũy. Ông coi trọng sự gia tăng tư bản và xem đó là yếu tố quyết định đến tăng trưởng
kinh tế. Hai học thuyết cơ bản của Adam là:
Học thuyết “giá trị lao động” theo ông lao động là nguồn gốc cơ bản tạo ra mọi của
cải của đất nước.
Học thuyết “bàn tay vô hình” theo người lao động bị lợi nhuận thúc đẩy để sản xuất
hàng hóa và dịch vụ cần thiết và thông qua thị trường tự do này lợi ích cá nhân gắn với
lợi ích xã hội. Ông phủ nhận vai trò của chính phủ trong điều tiết và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Ricacdo kế thừa tư tưởng của Adam Smith và T.H Malthus để củng cố cho học
thuyết của riêng mình. Ricacdo cho rằng ngoài yếu tố lao động là nguồn gốc tạo ra của
cải thì vốn là yếu tố trực tiếp tăng sản lượng, nông nghiệp là yếu tố chi phối nền kinh tế,
yếu tố công nghệ gần như không tác động.
Hàm sản xuất theo mô hình Ricacdo: Y = f(L, K, R)
Trong đó:
L: lao động.
K: vốn.
Trang 8
R: đất đai.
Theo ông đất đai giữ vai trò quan trọng nhất và là yếu tố giới hạn của tăng trưởng.
Như vậy theo Ricacdo tăng trưởng là hàm của tích lũy, tích lũy là hàm của lợi nhuận, lợi
nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí sản xuất lương thực lại phụ
thuộc và đất đai. Do đó, đất đai là giới hạn đối với sự tăng trưởng.
Mô hình tăng trưởng tân cổ điển:
Ra đời vào những năm cuối thế kỷ XIX khi mà khoa học kỹ thuật và công nghệ phát
triển. Theo mô hình tân cổ điển thì các yếu tố tác động đến tăng trưởng bao gồm: lao
động (L), vốn (K), tài nguyên thiên nhiên (R), và khoa học công nghệ (T). Hàm sản xuất
của mô hình:
Y = f(K, L, R, T)
Cũng theo mô hình này thì nguồn lực được chia làm 2 nhóm: K, L, R: nhóm các yếu
tố tăng trưởng theo chiều rộng.
T : nhóm yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu.
Các nhà kinh tế học trường phái tân cổ điển cho rằng yếu tố công nghệ có vai trò
quan trọng nhất tới tăng trưởng kinh tế.
Như vậy ta thấy rằng trường phái tân cổ điển đã kế thừa mô hình tăng trưởng của
trường phái cổ điển và phát triển lên bậc cao hơn. Cũng giống như mô hình tăng trưởng
cổ điển, mô hình tân cổ điển cũng đề cập đến vai trò của các yếu tố là lao động, vốn, đất
đai đối với tăng trưởng kinh tế và không ngừng ở đó mô hình tăng trưởng tân cổ điển chỉ
ra vai trò của yếu tố công nghệ đối với tăng trưởng và coi nó là yếu tố quan trọng nhất.
Mô hình tăng trưởng của trường phái Keynes:
Cũng như 2 mô hình tăng trưởng trước đó mô hình tăng trưởng theo trường phái
Keynes ở đây là mô hình tăng trưởng Harrob – Domar cũng chỉ ra rằng yếu tố chính tác
động đến tăng trưởng kinh tế là lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên.
Y = f(L, K, R)
Và theo mô hình tăng trưởng này thì 2 yếu tố quyết định tăng trưởng đó là tiết kiệm
(S) và đầu tư (I). Mô hình cũng đưa ra hệ số ICOR
Trang 9
g: tốc độ tăng trưởng s: tỷ lệ tiết kiệm
i: tỷ lệ đầu tư
k: hệ số ICOR: hệ số gia tăng vốn - đầu ra
Hệ số ICOR phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất
của đầu tư (để tăng 1 đồng tổng sản phẩm cần k đồng vốn). Hệ số này nói lên rằng : vốn
được tạo ra từ đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của người dân và của
công ty là nguồn gốc của đầu tư.
Khác với những mô hình trước đó mô hình tăng trưởng Harrob – Domar chỉ ra vai
trò của chính phủ trong việc điều tiết tiết kiệm, tích lũy và đầu tư. Từ đó, mô hình cho
rằng chính phủ có vai trò quan trọng của chính phủ trong việc điều tiết, ổn định và tăng
trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng ngoại sinh:
Kế thừa mô hình tăng trưởng tân cổ điển và mô hình tăng trưởng Harrob – Domar,
mô hình tăng trưởng Robert Solow xây dựng bao gồm các yếu tố như: lao động (L), vốn
(K), yếu tố tài nguyên thiên nhiên (R), công nghệ (T). Ông cho rằng các yếu tố tác động
đến tăng trưởng là yếu tố ngoại sinh nên mô hình còn được gọi là mô hình tăng trưởng
ngoại sinh. Solow cho thấy yếu tố công nghệ (T) là yếu tố quyết định đến tăng trưởng
của các quốc gia.
Hàm sản xuất của mô hình Solow: Y = f(L, K, R,T)
Ngoài ra mô hình tăng trưởng của Solow còn chỉ ra các nước nghèo thường tăng
trưởng nhanh hơn các quốc gia phát triển, tiếp thu công nghệ mới là yếu tố quyết định để
duy trì tăng trưởng. Tuy nhiên mô hình Solow chưa giải thích được sự tác động của các
yếu tố khác lên tăng trưởng, giả định của solow là các yếu tố tăng trưởng lao động, tiến
bộ công nghệ là các yếu tố ngoại sinh có sẵn.
Mô hình tăng trưởng hiện đại:
Ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XX mô hình tăng trưởng hiện đại ra đời là sự
kết hợp của 2 mô hình tăng trưởng tân cổ điển và mô hình tăng trưởng theo trường phái
Trang 10
Keynes, tiêu biểu là mô hình tăng trưởng của P.A.Samuelson, theo ông ngày nay nền
kinh tế đều vận động theo cơ chế hỗn hợp, tăng trưởng kinh tế chịu tác động của nhiều
yếu tố bao gồm cả sự tác động của chính phủ.
Hàm sản xuất của mô hình tăng trưởng hiện đại: Y = f(L, K, R,T)
Mô hình tăng trưởng hiện đại kế thừa mô hình tăng trưởng tân cổ điển cho rằng các
yếu tố như: lao động (L), vốn (K), tài nguyên thiên nhiên (R), công nghệ (T) là nguồn
gốc của tăng trưởng. Theo P.A.Samuelson (1948) kỹ thuật tiên tiến hiện đại dựa vào việc
sử dụng vốn lớn, do đó theo ông vốn là yếu tố quan trọng để phát huy tầm quan trọng
của các yếu tố khác.
Tóm lại, ngay từ thế kỷ 17 và thế kỷ 19, các nhà kinh tế học như Adam Smith, David
Ricardo,… đều hướng sự chú ý vào tăng trưởng kinh tế và vai trò của tăng trưởng kinh tế
đối với phúc lợi xã hội. Trong khi đó, từ cuối thập niên của thế kỷ 19 đến đầu thập niên
của thế kỷ 20, hầu như các mô hình kinh tế đều dựa vào khung phân tích tĩnh, với giả
định “các yếu tố khác không đổi”, tập trung phân tích hiệu quả kinh tế và sự phân bổ tối
ưu các nguồn lực khan hiếm cho trước. Các nghiên cứu về khả năng gia tăng các nguồn
lực khan hiếm và cải tiến công nghệ (liên quan đến các phân tích động) nhằm tăng sản
lượng và vấn đề phúc lợi gần như bị bỏ qua.
Cho đến cuộc đại khủng hoảng kinh tế những năm 1929 - 1933, J.M.Keynes (1936)
với mô hình kinh tế vĩ mô nhằm vào ổn định hoá kinh tế, giải quyết tình trạng năng lực
sản xuất thừa, vấn đề toàn dụng nhân công và sản lượng, chú trọng tới những xử lý nền
kinh tế trong “ngắn hạn” chứ không phải là khái niệm “dài hạn”.
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại có nhiều mô hình nghiên cứu khác nhau liên
quan đến tăng trưởng kinh tế. Để phù hợp với điều kiện nền kinh tế đang chuyển đổi ở
Việt Nam, luận án sử dụng hàm sản xuất tân cổ điển để xây dựng mô hình nghiên cứu
gồm các biến như tăng trưởng kinh tế, tính minh bạch, chi phí không chính thức, chi phí
thời gian, thể chế pháp lý, lực lượng lao động đất nông nghiệp, vốn của doanh nghiệp….
2.3. Các lý thuyết về môi trường thể chế :
Theo North (1990), thể chế được định nghĩa là “các ràng buộc do con người tạo ra
nhằm để cấu trúc các tương tác giữa người với người”.Thể chế bao gồm các thể chế
chính thức và phi chính thức.
Trang 11
Thể chế chính thức là những ràng buộc được chế tài bởi Nhà nước như hiến pháp,
luật, các qui định.
Thể chế phi chính thức là những ràng buộc không thuộc phạm vi chế tài của nhà
nước như tập quán, qui tắc hành xử, văn hóa,…
Theo North việc phát triển kinh tế học thể chế dựa trên các hạn chế của kinh tế học
tân cổ điển về giả định thông tin hoàn hảo, thể chế hoàn hảo và chi phí thị trường cho các
giao dịch kinh tế bằng không. Như chúng ta biết, nền tảng của nền kinh tế thị trường là
dựa trên trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các cá nhân và nhóm người với nhau. Nếu
không có thể chế thì các hoạt động này không thể diễn ra bởi vì người này không thể
tương tác với người khác mà không có sự mặc định chung về cách người kia sẽ đáp lại
và một sự chế tài nào đó nếu người kia hành động tuỳ tiện và ngược lại với thỏa thuận.
cũng theo North nội dung và chất lượng của các hệ thống như (luật, qui định và thủ tục)
và các thể chế phi chính thức (như các quy ước, chỉ tiêu) là cơ chế để xác định sức mạnh
của môi trường thể chế.
Nếu không có thể chế thì tương tác giữa người với người trở nên đầy bất trắc, rủi ro
và là mảnh đất màu mỡ cho các hành vi lừa đảo, cơ hội, thoái thác trách nhiệm,… Khi
đó, chi phí của các giao dịch kinh tế trở nên rất cao và rất rủi ro làm cho các hoạt động
này khó xảy ra và không hiệu quả. Vai trò của thể chế là làm giảm tính bất định và rủi ro
của các giao dịch kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua trao đổi, tăng kinh tế quy
mô và tăng cường phân công lao động.
Davis & North (1971) môi trường thể chế là “tập hợp các mặt cơ bản về chính trị, xã
hội, pháp lý, các quy tắc thiết lập cho việc sản xuất, trao đổi và phân phối”, cũng theo
North nội dung và chất lượng của các hệ thống như (luật, qui định và thủ tục) và các thể
chế phi chính thức (như các quy ước, chỉ tiêu) là cơ chế để xác định sức mạnh của môi
trường thể chế.
Chiles (2007) môi trường thể chế của quốc gia bao gồm các chỉ tiêu chính thức và
không chính thức, quy tắc, và các giá trị chi phối trao đổi kinh tế và xã hội, có ảnh hưởng
lớn tới tốc độ và tính chất của hoạt động kinh doanh trong xã hội.
M. Hodgson (2006) cho rằng thể chế là một cấu trúc quan trọng trong lĩnh vực xã
hội, nó tạo nên thành phần trong đời sống xã hội. Ngày nay, vai trò của thể chế ngày
càng được nâng cao vì nó tác động rất lớn đến hoạt động và sự tương tác của con người
Trang 12
với nhau qua các điều khoản, quy định công khai hay quy định ngầm.
Kasper (1993) Thể chế được định nghĩa ở đây là quy tắc do con người lập nên, ràng
buộc cách ứng xử khả dĩ tuỳ ý và cơ hội chủ nghĩa trong hoạt động tương tác của con
người. Các thể chế được chia sẻ trong cộng đồng và được áp đặt bằng một loại chế tài
nào đó. Những thể chế nào thiếu chế tài kèm theo thì đều vô dụng. Chỉ khi chế tài được
áp dụng thì thể chế mới khiến cho hành vi của cá nhân trở nên dễ tiên đoán hơn. Các quy
tắc cùng với các chế tài hướng hành vi con người theo những lộ trình tương đối dễ tiên
đoán, qua đó tạo ra một mức độ trật tự. Nếu các quy tắc đa dạng liên quan tỏ ra nhất
quán với nhau, điều này sẽ tạo điều kiện cho sự hợp tác tin tưởng giữa mọi người với
nhau, qua đó họ có thể khai thác tốt sự phân công lao động và khả năng sáng tạo của con
người. Chẳng hạn, các quy tắc giao thông một tập hợp thể chế áp đặt những hạn chế đối
với từng người điều khiển nhưng lại cho phép đa số người đi lại nhanh hơn và an toàn
hơn; và những thể chế giúp xác lập các quyền tài sản đảm bảo sẽ cho phép mọi người
mua bán hay cấp tín dụng cho người khác.
Giả thuyết chung ở đây là :
(1) Các thể chế tạo ra ảnh hưởng to lớn đến mức độ hoàn thành mục tiêu kinh tế
cùng các mục tiêu khác của mọi người
(2) Mọi người thường lựa chọn những thể chế nào giúp nâng cao quyền tự do lựa
chọn và sự phồn vinh kinh tế của mình.
(3) Song các thể chế không phải lúc nào cũng phụng sự những mục đích này. Một số
loại quy tắc nhất định có thể lại tạo ra những hệ lụy tai hại cho sự phồn vinh vật chất, tự
do và các giá trị con người khác, và sự xuống cấp của hệ thống quy tắc có thể dẫn tới
hiện tượng suy thoái kinh tế xã hội. Vì vậy, cần phải phân tích nội dung và ảnh hưởng
của các thể chế đến quyền lựa chọn và thịnh vượng như một phần của kinh tế học thể
chế.
2.4. Mối quan hệ giữa môi trường thể chế và tăng trưởng kinh tế :
Phạm Duy Nghĩa (2007) xây dựng thể chế phù hợp là tiền đề cho phát triển kinh tế.
Chất lượng thể chế, được đo lường bởi hiệu quả của hoạt động của chính quyền, chất
lượng của chính sách và pháp luật cũng như mức độ thực thi chế độ pháp quyền đã liên
Trang 13
quan trực tiếp đến phát triển kinh tế, tạo công bằng và chống tham nhũng (Zhuang 2010)
North (1990) ảnh hưởng thể chế lên tăng trưởng kinh tế là một cấu trúc thể chế sẽ tạo
ra một cấu trúc khuyến khích nhất định, ảnh hưởng quyết định đến việc phân bổ tài
nguyên theo hướng tốt hay xấu cho tăng trưởng kinh tế. Baumol (1990, 1993) cho rằng
khi cơ cấu thể chế không khuyến khích tài năng kinh doanh sáng tạo mà chỉ khuyến
khích tái phân phối, tìm kiếm đặc lợi thì tăng trưởng kinh tế sẽ thấp đi.
Phạm Thị Túy (2014) cho thấy vai trò của thể chế đối với phát triển kinh tế:
Thể chế đóng vai trò định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức, vận
hành xã hội.
Thể chế kiến tạo nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia.
Thể chế đóng vai trò chủ thể quản lý xã hội và xác lập các công cụ quản lý xã hội
hữu hiệu.
Thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một chính quyền tốt, hạn chế
tham nhũng.
Thể chế góp phần tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế những khuyết tật của
tiến trình phát triển xã hội.
Thể chế có vai trò kiểm soát các nguồn lực trong xã hội
Thể chế đảm bảo các chủ thể xã hội thực hiện được các quyền và nghĩa vụ.
Theo Nguyễn Văn Phúc (2013) thể chế tác động lên tăng trưởng trên nhiều khía
cạnh. Các tác động quan trọng là i) giảm chi phí giao dịch; ii) giảm sự không chắc chắn
trong hoạt động kinh tế; iii) ảnh hưởng lên cấu trúc khuyến khích của nền kinh tế. Qua
các tác động đó, thể chế ảnh hưởng lên tăng trưởng kinh tế. Theo Nguyễn Văn Phúc cho
rằng thể chế bao gồm:
- Tham nhũng: tham nhũng thường được định nghĩa là sự lạm dụng quyền lực và
tài sản công cho lợi ích riêng. Tác hại của tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế có thể
được tóm tắt như sau: Tham nhũng là một loại thuế tùy tiện, không biết trước, làm gia
tăng chi phí và sự bất định của hoạt động doanh nghiệp, tham nhũng còn làm sai lệch
phân bổ tài năng trong xã hội, theo đó những người tài năng nhất có thể theo đuổi những
nghề dễ tham nhũng nhất như làm quan chức hơn là những ngành tạo ra của cải vật chất
Trang 14
thật sự cho xã hội. Tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài; làm chậm
quá trình chuyển giao kỹ thuật và vốn từ bên ngoài vì đủ thứ các loại thủ tục, giấy phép.
Quá trình này sẽ dẫn tới giảm đầu tư và tăng trưởng.
- Chất lượng bộ máy hành chính: Chất lượng bộ máy hành chính có liên hệ chặt chẽ
với mức độ tham nhũng. Tuy nhiên, chất lượng bộ máy hành chính bao gồm các phạm vi
khác rộng hơn. Nó bao hàm cả chất lượng dịch vụ công cộng. Có thể có một bộ máy
hành chính khá trong sạch, nhưng chất lượng cung cấp dịch vụ công cộng lại kém. Chất
lượng dịch vụ công cộng ở đây bao gồm hạ tầng kỹ thuật công cộng như đường sá, điện,
nước đến các dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ hành chính công như giấy tờ, thủ
tục,… Một bộ máy mặc dù không tham nhũng như cung cấp các dịch vụ trên kém thì
cũng sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế chung.
- Tuân thủ luật pháp: Mức độ tuân thủ luật pháp thấp đồng nghĩa với việc người
dân thường dựa vào cách hành xử ngoài luật pháp, thường sử dụng vũ lực và các hành
động phi pháp để giải quyết các tranh chấp với nhau. Khi mức độ tuân thủ luật pháp thấp
thì quyền về tài sản của người dân cũng không được bảo vệ tốt. Tất cả các yếu tố này
làm gia tăng chi phí và bất ổn của hoạt động kinh tế, do đó làm giảm tốc độ tang trưởng
kinh tế.
- Bảo vệ quyền về tài sản: quyền về tài sản được cho là quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế trên một số khía cạnh sau: bất kỳ giao dịch kinh tế nào thực chất là giao
dịch về dịch chuyển các quyền về tài sản. Do đó, nếu các quyền về tài sản không được
xác định rõ ràng và không được bảo vệ thì chi phí phát sinh sẽ lớn và như vậy sẽ không
khuyến khích các giao dịch kinh tế xảy ra. Khi quyền về tài sản không được bảo vệ tốt
thì người chủ tài sản phải chi phí nhiều hơn cho việc bảo vệ tài sản của mình, do đó làm
hạ thấp giá trị của tài sản trên thị trường, làm cho đầu tư ít đi để phát triển tài sản đó, bởi
vì lợi ích người ta thu được từ đầu tư bị chia sẻ. Cấu trúc về quyền tài sản có thể dẫn đến
phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Trong một xã hội mà quyền về tài sản không được
đảm bảo, thì những người sở hữu tài sản có khuynh hướng liên kết với các quan chức
nhà nước để tìm kiếm sự bảo hộ. Do đó, việc đầu tư vào các dự án hiệu quả nhất chưa
chắc được chọn.
Trang 15
CHƯƠNG 3:
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG TẠI KIÊN GIANG
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng
Để Việt Nam phát triển toàn diện, bền vững trong bối cảnh hiện nay thì cải cách
thể chế là vô cùng cần thiết, đó là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để tăng cường
nội lực, thực hiện đoàn kết, bảo vệ đất nước, và phát triển bền vững.
Những khái lược trên cho thấy sự ghi nhận một cách rõ ràng vai trò quyết định của
thể chế đối với phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng của một quốc gia, vùng
lãnh thổ. Đồng thời, trên thực tế, mọi quốc gia đều tồn tại và vận hành trên cơ sở một nền
tảng thể chế nhất định, song không phải quốc gia nào cũng có được thể chế hữu hiệu. Do
vậy, hướng đến một thể chế hữu hiệu là kỳ vọng và mục tiêu của mọi quốc gia. Tuy
nhiên, những nhận thức một cách rõ ràng, đầy đủ về thể chế dường như là vấn đề “mơ
hồ” trên phương diện nhận thức xã hội phổ biến ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia
đang phát triển và lý luận về thể chế nói chung và các thể chế khác (thể chế kinh tế, thể
chế chính trị, thể chế hành chính…) rất phong phú và được phát triển dựa trên nhiều tư
tưởng, nhiều học thuyết, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, nhưng cho đến nay vẫn
đang được hoàn thiện.
Cho đến nay đã có những cách thức khác nhau ghi nhận vai trò của thể chế đối với
phát triển, chẳng hạn ghi nhận vai trò của từng loại thể chế (thể chế hành chính, thể chế
chính trị, thể chế kinh tế …) đối với phát triển hoặc ghi nhận vai trò của thể chế đối với
từng lĩnh vực phát triển cụ thể (tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội...) và cũng có những
ghi nhận về vai trò của thể chế đối với sự thịnh vượng của một quốc gia, nhưng chưa có
những ghi nhận ở mức độ tổng quát nhất về thể chế đối với phát triển của một chỉnh thể
quốc gia.
Sự ra đời của chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) qua đó để thấy rõ hơn và dễ dàng
phân tích về sự ảnh hưởng của thế chế đến sự tăng trưởng kinh tế tại 1 địa phương.
Từ năm 2006 trở đi, tất cả các tỉnh thành của Việt Nam đều được đưa vào bảng
xếp hạng, đồng thời các chỉ số thành phần cũng được tăng cường thêm. Năm 2009,
phương pháp luận PCI được điều chỉnh để phản ánh kịp thời sự phát triển năng động của
Trang 16
nền kinh tế và các thay đổi trong môi trường pháp lý tại Việt Nam. Sau khi loại bỏ chỉ số
Ưu đãi doanh nghiệp nhà nước, hiện nay, PCI còn 9 chỉ số thành phần.
Năm 2013, PCI đánh dấu bước thay đổi mới khi chỉ số Cạnh tranh bình đẳng được đưa
vào bộ chỉ số là một thước đo đánh giá, theo đó, một tỉnh được đánh giá là thực hiện tốt
tất cả 10 chỉ số thành phần này cần có:
1) Chi phí gia nhập thị trường thấp;
2) Doanh nghiệp dễ dàng Tiếp cận đất đai và có mặt bằng kinh doanh ổn định;
3) Môi trường kinh doanh công khai minh bạch, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận công
bằng các thông tin cần cho kinh doanh và các văn bản pháp luật cần thiết;
4) Thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính và thanh tra
kiểm tra hạn chế nhất.
5) Chi phí không chính thức ở mức tối thiểu;
6) Cạnh tranh bình đẳng - chỉ số thành phần mới;
7) Lãnh đạo tỉnh năng động và tiên phong;
8) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, do khu vực nhà nước và tư nhân cung cấp;
9) Có chính sách đào tạo lao động tốt;
10) Hệ thống pháp luật và tư pháp để giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả.
Bảng 3.1. Bảng so sánh chỉ số thiết chế pháp lý năm 2015 giữa một số tỉnh ở Khu
vực Đồng Bằng Sông Cửu Long
Thứ tự
Địa phương
Thiết chế pháp lý
Xếp hạng PCI
Nhóm xếp hạng
1
Kiên Giang
7.62
11
Tốt
2
Cần Thơ
6.62
14
Khá
3
Hậu Giang
6.4
36
Khá
4
An Giang
6.18
39
Khá
5
Cà Mau
5.35
59
Tương đối thấp
Bảng 3.2. Bảng so sánh chỉ số thiết chế pháp lý năm 2016 giữa một số tỉnh ở Khu
vực Đồng Bằng Sông Cửu Long
Thứ tự
Địa phương
Thiết chế pháp lý
Xếp hạng PCI
Nhóm xếp hạng
1
Cần Thơ
6.56
11
Tốt
2
Hậu Giang
6.53
37
Khá
3
Kiên Giang
6.2
13
Tốt
4
Cà Mau
5.75
54
Trung bình
5
An Giang
5.63
38
Khá
Trang 17
Biểu đồ 3.3. Chỉ số thiết chế pháp lý của một số tỉnh ở khu vực ĐBSCL từ
năm 2007 - 2016
So sánh với các tỉnh lân cận về chỉ số thiết chế pháp lý năm 2014, 2015 Kiên
Giang dẫn đầu với lần lượt là 7.33 và 7.62 điểm so với Cần Thơ là 6.38; 6.62, Cà Mau
lần lượt là 5.4 và 5.35. Và đồng thời với các hệ số cao Kiên Giang đạt xếp hạng PCI của
tỉnh năm 2015 là 11/63 tỉnh thành. Tuy nhiên đến năm 2016 hệ số pháp lý so với các tỉnh
lân cận Kiên Giang giảm còn 6.2 trong khi đó Cần Thơ là 6.56 và Hậu Giang là 6.53.
Biểu đồ 3.4. Chỉ số thiết chế pháp lý của tỉnh Kiên Giang từ năm 2012 - 2016
* Sơ lược về các tiêu chí ảnh hưởng đến PCI (trong đó có thể chế pháp lý): (1)
Nội dung phân tích tham khảo trong luận văn thạc sĩ kinh tế học, Lương Hoàng Minh, “Tác động của
môi trường thể chế tăng trưởng kinh tế các tỉnh khu vực ĐBSCL, trường Đại học mở Tp. HCM
(1)
Trang 18
Yếu tố tính minh bạch được xem là một trong các yếu tố quan trọng trong việc
đánh giá một môi trường thể chế. Kết quả nghiên cứu cho thấy tính minh bạch có tác
động trái chiều với tăng trưởng kinh tế của địa phương (mức ý nghĩa 1%) cụ thể 1 điểm
tăng của chỉ số tính minh bạch làm cho tăng trưởng của địa phương - 5% điều này cho
thấy rằng tính minh bạch có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các địa
phương, việc hạn chế công khai thông tin ảnh hưởng lớn đến khả năng hoạt động của
doanh nghiệp do không tận dụng được các chính sách cũng như các hỗ trợ mà địa
phương đưa ra và một số nhà đầu tư lợi dụng sự thiếu thốn thông tin để trục lợi cho mình
tức doanh nghiệp dễ dàng sử dụng các khoảng phí bôi trơn nhằm giúp cho doanh nghiệp
hoạt động tốt hơn nhờ thông tin mà chính quyền mang lại.
Yếu tố chi phí không chính thức có mức ý nghĩa thống kê ở mức 5% (nếu chỉ số
chi phí không chính thức tăng 1 điểm (các yếu tố khác không đổi) thì nó tác động lên
tăng trưởng địa phương là - 2.3. Điều này cho thấy chi phí bôi trơn hay các khoảng phí
không chính thức có tác động xấu đến tăng trưởng, khi doanh nghiệp phải chi trả quá
nhiều cho các khoản phí không rõ ràng sẽ làm mất lòng tin của doanh nghiệp vào cơ quan
quản lý, tăng gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng
kinh tế.
Tính năng động và tiên phong của chính quyền địa phương có tác động đến
tăng trưởng của địa phương với mức ý nghĩa 5% nếu chỉ số điểm về tính năng động tăng
1 điểm thì nó ảnh hưởng đến tăng trưởng là -1.2% (các yếu tố khác không đổi). Việc tăng
tính năng động sáng tạo của lãnh đạo địa phương trong quá trình giải quyết các vấn đề sẽ
cản trở tăng trưởng của địa phương, theo đánh giá của VCCI các chính sách của chính
phủ và các văn bản của địa phương ban hành đôi lúc không thống nhất dẫn tới khó khăn
cho doanh nghiệp, khi chính quyền giải quyết các vụ việc họ lợi dụng sự thiếu chặt chẽ,
thiếu rõ ràng của các văn bản qui định để gây khó khăn cho các doanh nghiệp mới, những
doanh nghiệp có nguy cơ tạo sự cạnh tranh với các doanh nghiệp tại địa phương.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng có tác động đến tăng trưởng của địa
phương, tuy nhiên mức độ tác động chưa cao cụ thể nếu chỉ số điểm hỗ trợ doanh nghiệp
tăng 1 điểm thì nó tác động đến tăng trưởng của địa phương là 1.4%. Các chính sách hỗ
trợ cho doanh nghiệp ở các địa phương có ý nghĩa rất lớn, tạo động lực, điều kiện cho
Trang 19
doanh nghiệp trong địa bàn phát huy các thế mạnh của mình từ đó doanh nghiệp có thể
thúc đẩy sản xuất tăng doanh thu, tăng sản lượng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của địa phương.
Thiết chế pháp lý có ý nghĩa thống kê ở mức 5%, (nếu các yếu tố khác không
đổi) nếu điểm chỉ số yếu tố thiết chế pháp lý tăng 1 điểm thì nó tác động đến tăng trưởng
là 1,8%. Chứng tỏ, việc tăng cường nền thiết chế pháp lý ở địa phương cụ thể là khả năng
giải quyết tranh chấp, chính sách thực thi pháp luật tốt ... sẽ thúc đẩy tăng trưởng của địa
phương.
Một số biến khác như tiếp cận đất đai, chi phí thời gian, không có ý nghĩa
thống kê cho thấy các yếu tố này tác động không đáng kể đến tăng trưởng của các địa
phương. Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng số liệu PCI chủ yếu đánh giá môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp tại địa phương do đó có thể các doanh nghiệp tại các khu vực
này chủ yếu doanh nghiệp tư nhân không phụ thuộc vào các hỗ trợ của chính quyền để có
thể tiếp cận mặt bằng kinh doanh, thứ hai các địa phương trong khu vực chủ yếu là hoạt
động nông nghiệp do đó phần lớn hoạt động sản xuất trên chính đất sở hữu của doanh
nghiệp ít phụ thuộc vào chính quyền.
3.2. Kết luận:
Tăng trưởng kinh tế của các địa phương trong khu vực ĐBSCL nói chung và
của địa bàn tỉnh Kiên Giang phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản như vốn, lao động, đất đai
(đất nông nghiệp) và môi trường thể chế (chi phí gia nhập thị trường, tính minh bạch, chi
phí không chính thức, tính năng động của chính quyền, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp,
thiết chế pháp lý). Điều đáng chú ý ở đây chính là yếu tố môi trường thể chế là 1 trong 2
chỉ tiêu ảnh hưởng lớn nhất đến tăng trưởng kinh tế vì thế chiến lược phát triển kinh tế
của các địa phương đòi hỏi các cấp ban, ngành phải thật quan tâm và đặt lên hàng đầu về
việc cải thiện môi trường thể chế tại địa phương.
Thể chế kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế – xã hội.
Đặc biệt chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên
cứu thể chế kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng tới thể chế kinh tế, nhất là kinh tế thị
trường định hướng XHCN chúng ta sẽ có được các chủ trương, chính sách hợp lý để xây
dựng và phát triển nó./.
Trang 20
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận:
Từ mục tiêu nghiên cứu ban đầu đã đặt ra là “Môt trường thể chế tốt có thúc đẩy
tăng tưởng kinh tế tại tỉnh Kiên Giang hay không ?”.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy rằng môi trường thể chế có tác động đến tăng
trưởng kinh tế tại Kiên Giang tuy nhiên mức độ tác động đến sự tăng trưởng kinh tế của
các yếu tố là không giống nhau, thậm chí là rất cách biệt tùy theo mức độ phát triển của
nền kinh tế và thời điểm đánh giá.
Các tỉnh trong khu vực ĐBSCL đang trong giai đoạn phát triển do đó việc cải
thiện môi trường thể chế có ý nghĩa đối với tăng trưởng của các địa phương trong khu
vực. Tăng trưởng kinh tế của Kiên Giang chủ yếu còn dựa trên nguồn lực tự nhiên và
nguồn lực lao động trình độ thấp là chủ yếu, chính sách đào tạo lao động của địa phương
vẫn chưa phát huy một cách hiệu quả. Việc xây dựng và ban hành văn bản dưới luật và
giải quyết các vấn đề doanh nghiệp gặp phải còn nhiều hạn chế.
Các doanh nghiệp trong trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thường ít quan tâm đến môi
trường thể chế thực thi mà chỉ quan tâm đến nguồn lực và thể chế hỗ trợ (chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp) của địa phương đó mang lại. Điều này trong ngắn hạn sẽ có ý nghĩa đối với
tăng trưởng kinh tế của địa phương, tuy nhiên trong lâu dài khi mà các nguồn lực không
còn sức hút đối với doanh nghiệp thì nó sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng của địa phương.
4.2. Kiến nghị và chính sách:
Đối với các yếu tố môi trường thể chế có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
như chi phí gia nhập thị trường, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thiết chế pháp lý thì cần
thực hiện tốt hơn nữa. Chính quyền địa phương cần tiết giảm các khoản thủ tục cho các
doanh nghiệp muốn gia nhập thị trường cũng như các thủ tục hành chính cho các doanh
nghiệp đang hoạt động, giảm thời gian xử lý thủ tục (Quyết định 19/2000/QĐ-TTg), tăng
cường giám sát các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện các thủ tục hành chính ,
nhất là những chứng nhận còn dùng cảm quang để đánh giá nhằm tránh tình trạng gây
khó dễ cho các doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như
ưu đãi thuế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, … cũng cố hệ
thống pháp luật tạo niềm tin cho doanh nghiệp khi gặp phải các vấn đề pháp lý.
Trang 21
Đối với các yếu tố môi trường thể chế như: tính minh bạch, tính năng động của
lãnh đạo, chi phí không chính thức. Cần tăng cường tính minh bạch của chính quyền tạo
điều kiện tối đa cho doanh nghiệp tiếp cận với chính sách mới, thông tin chính quyền.
Thông tin minh bạch sẽ hạn chế việc đặc lợi rơi vào một nhóm nhà đầu tư trục lợi từ sự
thiếu thông tin, tính cạnh tranh bình đẳng trên thị trường được cải thiện, những khoản bôi
trơn sẽ dần mất tác dụng. Doanh nghiệp cũng sẽ không sẵn sàng hối lộ để có được những
thông tin lẽ ra đã được công khai. Lãnh đạo địa phương phải nắm vững các chính sách,
các quy định về thủ tục hiện hành để kịp thời giải quyết những vấn đề mà doanh nghiệp
gặp phải, khi đề xuất hay ban hành các văn bản cần thống nhất tránh tình trạng ban hành
chồng chéo gây khó khăn khi giải quyết. Xây dựng chế tài đối với các trường hợp gây
khó khăn, chèn ép buộc doanh nghiệp phải chi bôi trơn thủ tục.
Trên địa bàn có 5 trường cao đẳng và 1 trường đại học, các cấp ban ngành xác
định nhiệm vụ cụ thể của từng Trường, phát triển các ngành nghề phù hợp với địa
phương và vùng lân cận và xây dựng hệ thống đào tạo lao động có chất lượng nhằm đảm
bảo cho địa phương nguồn lao động có trình độ có kỹ năng tốt tạo cho địa phương một
yếu tố cơ bản vững mạnh thúc đẩy tăng trưởng của địa phương và cần có chính sách ưu
đãi cho người lao động trong khu vực được học nghề nhằm nâng cao trình độ tay nghề
của người lao động và các cơ sở đào tạo cần tăng thêm số giờ thực hành để người học sau
khi ra trường có thể vào làm ngay không phải đào tạo lại.
Trang 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Đại Lược (20-12-2012), Định hình thương hiệu một quốc gia của Việt Nam,
Tạp chí tia sáng.
2. Đặng Ngọc Thanh (2014), Cải cách thủ tục hành chính ở UBND xã, thị trấn tại
huyện Quảng Xương, Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
2. Lương Hoàng Minh (2016), Tác động của môi trường thể chế đến tăng trưởng
kinh tế các tỉnh khu vực khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, Luận văn thạc sĩ kinh tế
học, trường Đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Tiểu luận Tình trạng đói nghèo và chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
hiện nay. Đọc từ: />4. Đỗ Thế Hạnh (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo
ở vùng định canh định cư tỉnh Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
5.
Vai
trò
của
thể
chế
trong
phát
triển,
Đọc
/>
Trang 23
từ: