TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
----------
TRƯƠNG THU NGA
MSSV: 6086192
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CHÙM THƠ
VỊNH SỬ CỦA NGUYỄN KHUYẾN
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: Th.s TẠ ĐỨC TÚ
THÁNG 03/2012
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Mục đích nghiên cứu.
4. Phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thơ “Vịnh sử” bằng chữ Hán
1.2. Tổng quan về tác gia Nguyễn Khuyến
CHƯƠNG II:
NỘI DUNG CHÙM THƠ VỊNH SỬ CỦA
NGUYỄN KHUYẾN.
2.1. Hình ảnh con người.
2.2. Tình cảm, tâm sự của Nguyễn Khuyến.
CHƯƠNG III:
NGHỆ THUẬT CHÙM THƠ VỊNH SỬ CỦA
NGUYỄN KHUYẾN.
3.1. Thể thơ.
3.2. Ngôn ngữ.
3.3. Hình ảnh.
3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật.
3.5. Sử dụng điển cố
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đến với hồn thơ văn học trung đại là đến với nhiều cây đại thụ của nền văn học dân
tộc. Đó là Nguyễn Trãi, bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Tú
Xương, Tản Đà, Nguyễn Đình Chiểu… Họ vẫn tỏa sáng qua hàng thế kỉ. Trong đó còn
có Nguyễn Khuyến. Ông cũng là một ngôi sao sáng trong bầu trời văn học. Nhưng
không phải là ngôi sao tự đốt cháy chính mình, mà ánh sáng của ngôi sao ấy xuất phát
từ trái tim hòa điệu cùng cuộc sống. Nó tuy bền chặt nhưng lại âm thầm, lặng lẽ cùng
thời gian.
Nói đến thơ Nguyễn Khuyến là nói đến một hồn thơ bình dị với những cảm thức
lịch sử sâu lắng, người chứng kiến những bước thăng trầm bi thương vào loại bậc nhất
của lịch sử dân tộc, tận mắt chứng kiến sự thất bại của triều đình nhà Nguyễn và các
phong trào yêu nước, là người nhận thấy một cách đau xót nhất sự sụp đổ của một hệ tư
tưởng đã lỗi thời, cũng như sự bất lực đến hài hước của một loại hình tri thức đại diện
cho hệ tư tưởng ấy trước thực tế lịch sử, là vị đại diện khá tiêu biểu cho lớp người do xã
hội phong kiến đào tạo. Cái trước là cái của một thời, còn cái sau là cái của muôn đời.
Ông không phải là anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, nỗi niềm của ông có điểm gần với
Nguyễn Du: đều phải làm những việc miễn cưỡng, đều có những nỗi dằn vặt có lẽ không
tiện nói ra và đều mong hậu thế hiểu cho lòng mình, cho nỗi khó xử của mình, đồng thời
còn là sự khâm phục những con người anh hùng có thể vì nước hi sinh, là những người
mang ơn sâu nặng của chế độ xã hội đã đào tạo và tôn vinh. Tất cả điều đó được Nguyễn
Khuyến bộc lộ qua chùm thơ vịnh sử của mình.
Nguyễn Khuyến lớn, chính vì ông là một trong rất ít trí thức thời kỳ ấy sớm nhận ra sự
bất lực của giai cấp mình, của vốn học vấn được đào tạo theo kiểu "kinh bang tế thế" (đi
mọi nơi để giúp người, giúp đời), của mình trước thực tế lịch sử, đem ra trào phúng,
châm biếm và bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, qua những năm tháng làm quan soạn sử,
am hiểu về con người lịch sử, ông đã có cái nhìn thấu đáo về con người qua các triều đại
của nước nhà nói chung và của nước ngoài nói riêng. Từ đó Nguyễn Khuyến mang đến
cho người đọc nhiều cách nhìn và góc nhìn mới mẽ về nội dung và nghệ thuật con người
lịch sử trong chum thơ vịnh sử . Đọc thơ ông có thể giúp chúng ta rút ra một bài học về
sự hiểu biết nội dung và nghệ thuật con người lịch sử thể hiện trong chum thơ vịnh sử,
cũng như về cuộc đấu tranh để tự nâng mình.
Vì những lí do trên chúng tôi đã chọn vấn đề “Nội dung và nghệ thuật trong chùm thơ
vịnh sử của Nguyễn Khuyến” làm đề tài luận văn. Qua đề tài này, chúng tôi mong muốn
có thể bài tỏ những suy nghĩ về cách nhìn nhận đánh giá về nội dung và nghệ thuật con
người lịch sử được thể hiện trong chum thơ vịnh sử của Nguyễn Khuyến. Cũng như giúp
cho người viết tự trau dồi thêm vốn kiến thức của mình để hiểu sâu sắc thêm về thơ văn,
về tư tưởng, tình cảm và tài năng của đại thi hào Nguyễn Khuyến.
2. Lịch sử vấn đề
Nền văn học phát triển qua nhiều giai đoạn, mặt dù có những lúc thăng trầm và gặp
không ít khó khăn. Thơ ca Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ nhưng dần về sau cũng
được nhiều người quan tâm, đón nhận và nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau
như: “Những thành tựu về cuộc đời, sự nghiệp về ngòi bút của ông đã đóng góp cho thơ
văn Việt Nam ra sao? Đã được đề cập và ghi nhận” và được đăng tải đầu tiên là trên tạp
chí Nam Phong vào trước những năm hai mươi của thế kỷ (đăng trong mục Thơ ca Yên
Đổ trên Nam Phong) Nhưng cũng phải đợi đến gần hai mươi năm sau thì công tác văn
học sử trên đường hình thành mới tìm đến Nguyễn Khuyến. Với công trình Việt Nam văn
học sử yếu của Dương Quảng Hàm (Nha học chính Đông Pháp xuất bản, Hà Nội, 1943),
ngành nghiên cứu văn học mà trước hết là lịch sử văn học bắt đầu chú ý đến Nguyễn
Khuyến. Dõi theo lịch trình nghiên cứu tác giả có phong cách tài hoa này, có thể thấy
lịch trình ấy diễn ra qua bốn chặng đường.
Chặng đường thứ nhất là trước (1945). Ở chặng đường này Nguyễn Khuyến còn ít được
biết đến và nếu được biết đến cũng chủ yếu qua thơ Nôm của ông. Người có ý kiến về
Nguyễn Khuyến sớm nhất (1918) có lẽ là Phan Kế Bính, trong công trình Việt – Hán văn
khảo (1930), khi “luận riêng về phép làm thơ”.
Từ (1945) đến (1970). Ở chặng đường này, việc giới thiệu, tìm hiểu nghiên cứu về
Nguyễn Khuyến đã có bước phát triển mới. Ngoài Nguyễn Khuyến với tư cách một nhà
thơ trào phúng xuất sắc được tiếp tục khẳng định, thì nhiều tư cách nhà thơ khác của
Nguyễn Khuyến (nhà thơ trữ tình – yêu nước, nhà thơ thiên nhiên) được phát hiện và tìm
hiểu trên nhiều khía cạnh. Tìm hiểu những phương diện ấy trong tư tưởng - thẩm mỹ
Nguyễn Khuyến, các tác giả cũng đã đề cập và phân tích ít nhiều đến bút pháp nghệ thuật
của nhà thơ. Công trình bề thế nhất trong nghiên cứu về Nguyễn Khuyến chặng đường
này là của Văn Tân với tên gọi “Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất”, gồm 204
trang và 5 chương. Nhưng vẫn chưa thấy ai nghiên cứu vấn đề nội dung nghệ thuật trong
chùm thơ vịnh sử của ông.
Từ (1971) đến (1984). Bắt đầu từ năm (1971), NXB. Văn học, Hà Nội cho in cuốn
“Thơ văn Nguyễn Khuyến”, dày 500 trang do Xuân Diệu giới thiệu. Kể từ đây việc nhìn
nhận, đánh giá Nguyễn Khuyến đã mở ra một giai đoạn mới. Năm (1984), Nguyễn
Khuyến tác phẩm, công trình sưu tầm biên dịch, giới thiệu về Nguyễn Khuyến đầy đủ
nhất ra đời do Nguyễn Văn Huyền thực hiện (NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984). Có
thể coi đây như một năm mốc khép lại một chặng đường dài và chuẩn bị mở ra một
chặng đường mới trong tìm hiểu nghiên cứu Nguyễn Khuyến, nhưng Nguyễn Văn Huyền
vẫn chưa đề cặp đến vấn đề nội dung và nghệ thuật chùm thơ vịnh sử của Nguyễn
Khuyến mà ông sưu tầm và biên dịch.
Chặng đường thứ hai, từ năm (1985) đến nay. Đây là chặng đường có thành tựu lớn
nhất trong tìm hiểu nghiên cứu về Nguyễn Khuyến, trước hết được đánh dấu bằng Hội
nghị khoa học lớn kỷ niệm 150 năm sinh nhà thơ (do Viện văn học phối hợp với Sở Văn
hóa thông tin và Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh tổ chức ngày 15.2.1985). Nhiều
phát hiện và ý kiến mới, có giá trị trong khảo cứu, nhận định về Nguyễn Khuyến, từ con
người lịch sử đến con người thơ tác giả được công bố, phần lớn sau này được lựa chọn,
tập hợp trong “Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ” (Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB.
Giáo dục, Hà Nội, 1994). Có thể coi đây là công trình chuyên khảo quy mô nhất về
Nguyễn Khuyến. Đến cuối năm (1998), cuốn sách “Nguyễn Khuyến, về tác gia và tác
phẩm”, do Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1998, “tập hợp
một cách rộng rãi những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Khuyến tử xưa đến nay”
Đặc biệt tìm hiểu về giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến có
công trình nghiên cứu của “Nguyễn Đình Chú (1985), “Nguyễn Khuyến với thời gian”,
Tạp chí Văn học, số 4”, đã khẳng định “Nguyễn Khuyến là nhà thơ nhân bản của Việt
Nam”.“Nguyễn Bá Thành (2006) với Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Đại học
Khoa Học Xã hội và Nhân Văn, NXB. Quốc gia, Hà Nội”, cũng khẳng định ý kiến đó.
Vấn đề tình hình dịch thuật, phiên âm, chú giải thơ vịnh sử. Nhìn chung, từ trước Cách
mạng tháng Tám cho đến những năm cuối cùng của thế kỉ trước, nhiều tập thơ, bài thơ
vịnh sử đã được in ấn trên nhiều sách báo, tạp chí. Việc in ấn thường có lược khảo văn
bản, có phiên dịch, phiên âm, chú giải, khi thì tường tận, chỉn chu, nghiêm túc, khi thì sơ
sài, phiến diện, giản lược. Chỉ kể, sách đã được in ấn, thấy có những tập thơ: Ngự chế
Việt sử tổng vịnh, Nhàn trung vịnh cổ vịnh sử, Cổ tâm bách vịnh, Hồng Đức quốc âm thi
tập…Thơ vịnh sử còn được trích truyền cào dạng sách hợp tuyển: Hợp tuyển thơ văn Việt
Nam, Tinh tuyển thơ văn Hán Nôm…nhièu hơn là trong các tổng tập : Văn đàn bảo giám,
Thơ văn Lý – Trần. Tổng tập văn học Việt Nam (các tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, 14, 15…), cuối
cùng là trong loại sách tuyển thơ văn của riêng từng tác giả hoặc từng địa phương: Thơ
chữ Hán Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến tác phẩm, Thơ văn Tự Đức, Văn học Hán Nôm
Hà Tây…
Còn xét về mặt xã hội, một xã hội “bất nhân phi nghĩa” của những con người đưới triều
đại nhà Nguyễn, con người xấu xa lố bịch “lại thản nhiên trơ tráo chẳng nghĩ gì đến dư
luận “những tên bồi bếp đắc lực được Pháp cất nhắt lên chức tổng đốc, những gái đĩ, me
tây được phong làm quan tỉnh, những tên đau phủ đầm đìa máu nhân dân trở thành trụ
cột của triều đình” (7.tr 8). Hay một tấm lòng yêu thiên nhiên, cảnh vật Việt Nam và con
người lịch sử cũng được thể hiện và nhắt đến còn vấn đề “nội dung và nghệ thuật trong
chùm thơ vịnh sử của Nguyễn Khuyến” thì chưa thấy đề cập.
Trong công trình nghiên cứu “Lịch sử văn học Việt Nam tập 4a” [t.7]. Nhóm tác giả đã
khái quát rõ nét và sâu sắc xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX trong buổi giao thời. Họ gọi
“nó là con đẻ của quân xâm lược nên đặc điểm nổi bật là phi nghĩa đến trắng trợn”. Bởi
lẽ xã hội này không được xây dựng trên những tư tưởng tốt đẹp dành cho con người.
Ngược lại xã hội ấy “nảy sinh trên cơ sở của những tư tưởng cướp nước, đầu hàng và tư
tưởng xu danh trục lợi” (Lịch sử văn học Việt Nam tập 4a) [t.8]. Và khi đi sâu vào từng
tác giả tiêu biểu cho thơ văn cuối thế kỉ XIX. Nhóm tác giả còn phản ánh hình ảnh thê
thảm, bất lực của tầng lớp trí thức cuối mùa “những người “tiếng có” mà “miếng không”
địa vị xã hội vào hàng “chẳng phải quan mà chẳng phải dân” họ sống trong cái vòng
mâu thuẩn…Rõ là họ bức xé, cựa quậy, nhưng dù thế nào đi nữa cái xã hội đã đổi thay
ấy vẫn đẩy họ về với cuộc sống của những con người thất thế, bế tắt” (Lịch sử văn học
Việt Nam tập 4a) [t.8].
Nhạc Hy Nhân, soạn giã công trình Cổ đại vịnh sử thi tuyển điểm bình khi tuyển chọn,
giới thiệu tinh túy thơ vịnh sử Trung Quốc đã khái quát giới thiệu kết quả nghiên cứu thơ
vịnh sử, xu hướng phát triển vận động của thơ vịnh sử từ thời cổ đại đến đời Thanh, phân
loại tác phẩm theo tiêu chí nội dung, tìm hiểu các phương pháp tạo lập ý nghĩa và các thủ
pháp nghệ thuật chủ yếu của thơ vịnh sử, xu hướng vận động và phât triển của thơ vịnh
sử, các đề tài và chủ đề chính, tư tưởng, triết lý, cũng như tiêu chuẩn và ý nghĩa thẩm mỹ
của thơ vịnh sử.
Theo (Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, Viện nghiên cứu Hán Nôm) có viết: Tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm còn lưu trữ 285 cuốn thơ vịnh sử. Cuốn sách tập hợp được nhiều tác phẩm
thơ vịnh sử nhất là Vịnh sử hợp tập (một bản viết tay, 246 trang). Sách này do Dương
Thúc Hiệp đề tựa năm Nhâm Dần, niên hiệu Thành Thái (1902), chép đến 900 bài thơ
vịnh sử Trung Quốc của các tác giả Việt Nam Phạm Vĩ Khiêm (tức Phạm Nguyễn Du),
Nguyễn Đức Đạt, Dương Thúc Hiệp... Xếp sau Vịnh sử hợp tập về số lượng bài thơ là
Vịnh sử thi tập (sáu bản in 212 trang). Bộ sách có 770 bài thơ vịnh 225 nhân vật lịch sử
Trung Quốc.
Các tác giả có nhiều thơ vịnh sử có thể kể đến như Nam Sơn với 570 bài, Đinh Hồng
Phiên với 364 bài, Nhữ Bá Sĩ với 307 bài, Thiệu Trị với 215 bài, Tự Đức với 212 bài,
Cao Bá Quát với 206 bài, Phạm Nguyễn Du với 164 bài, Phan Thanh Giản với 147 bài,
Trần Lãn Phu với 129 bài, Đặng Minh Khiêm với 120 bài, Hồng Quế Hiên với 104 bài,
Lê Thánh Tông với 100 bài.
Các tác giả như Đinh Hồng Phiên, Lê Thánh Tông, Phạm Nguyễn Du...đều làm thơ vịnh
Bắc sử với số lượng lớn. Trong khi đó có các tác giả như Đặng Minh Khiêm (với Thoát
Hiên vịnh sử thi tập), Hà Nhiệm Đại (với Khiếu vịnh thi tập), Tự Đức (với Ngự chế Việt
sử tổng vịnh) lại lấy đề tài từ sử Việt Nam.
Trong số các tác giả viết thơ vịnh sử, có một số vị hoàng đế có nhiều thơ vịnh sử là Lê
Thánh Tông (có 100 bài vịnh sử Trung Quốc tập hợp trong Cổ tâm bách vịnh) và Thiệu
Trị (có đến 218 bài vịnh sử Trung Quốc tập hợp trong Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp
tập), Tự Đức (với Ngự chế Việt sử tổng vịnh).
Còn vấn đề “nội dung và nghệ thuật trong chùm thơ vịnh sử” của Nguyễn Khuyến thông
qua ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ ca cho đến giai đoạn này vẫn chưa ai nghiên cứu, đã
được chúng tôi đặt ra trong bài viết của mình. Trong bài nghiên cứu của mình, chúng tôi
sẽ đi sâu vào nghiên cứu vấn đề“Nội dung và nghệ thuật trong chùm thơ vịnh sử của
Nguyễn Khuyến” một cách toàn diện hơn để người đọc dễ hiểu và dễ tiếp nhận.
3. Mục đích, yêu cầu
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của lịch sử văn học dân tộc nói
chung và văn học cổ điển nói riêng. Thơ văn Nguyễn Khuyến là điểm sáng của văn học
Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX - những năm đầu thế kỷ XX. Cùng với sự xuất
hiện của nhiều ngòi bút cổ điển tên tuổi, Nguyễn Khuyến là người có đóng góp rất lớn
cho sự phát triển của văn học dân tộc. Cho nên đến với đề tài này, chúng tôi muốn tìm
đến một hướng tiếp cận mới đối với thơ Tam Nguyên Yên Đổ. Đây không chỉ là một tác
giả lớn trong nền văn học trung đại mà còn là tác giả được đưa vào học trong chương
trình trung học phổ thông. Cho nên nghiên cứu về đề tài này còn giúp chúng tôi có sự
nhìn nhận đánh giá một cách toàn diện, đúng đắn, khách quan v ề một nhà Nho bất lực
trước thời cuộc.
Qua việc thực hiện đề tài, chúng tôi có dịp tìm tòi, sàng lọc, củng cố lại một số kiến
thức về lịch sử về mặt lí luận văn học. Đồng thời chúng tôi cũng trao dồi hơn nữa cho
mình kỹ năng nghiên cứu một đề tài khoa học, sự nhạy bén khi tiếp cận với tác
phẩm văn chương, đặc biệt là về phương diện nội dung lẫn nghệ thuật.
Vì mục đích trên, thúc đẩy chúng tôi đi đến tìm hiểu “Nội dung và nghệ thuật trong chum
thơ vịnh sử của Nguyễn Khuyến”. Đề tài này được khai thác ở một bình diện mới mà
chúng tôi chỉ dám có vài ý kiến nhỏ góp phần giúp, hiểu rõ và hoàn thiện hơn bức tranh
thế giới nội dung và nghệ thuật, cũng như phong cách thơ, con người thơ của Tam
Nguyên Yên Đổ thông qua chùm thơ vịnh sử bằng chữ Hán của ông.
Ngoài ra còn hướng đến mục đích nắm vững một số kiến thức lí luận văn học từ đó
chúng tôi tìm hiểu và nghiên cứu một số vấn đề về vịnh sử và thơ vịnh sử bằng chữ Hán
trong văn học trung đại cũng như cụ thể hơn về các nhân vật lịch sử được thể hiện trong
“chum thơ vịnh sử của Nguyễn Khuyến”. Sau đó chúng tôi tiếp tục đưa ra những nhận
định, đánh giá về các quan điểm của các nhà nghiên cứu trước đó so với thực tế lịch sử.
Để từ đó, chỉ ra được những giá trị cao đẹp về nội dung và nghệ thuật trong “chùm thơ
vịnh sử của Nguyễn Khuyến” cùng với những quan điểm, cách nhìn về quá khứ của
người xưa.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đến với đề tài này, chúng tôi chỉ khảo sát nội dung nghệ thuật trong chùm thơ vịnh
sử của Nguyễn Khuyến trên mảng thơ chữ Hán. Chúng tôi sẽ sử dụng phần phiên âm,
dịch nghĩa, dịch thơ trên cơ sở có chọn lọc. Có nghĩa là tùy thuộc vào mỗi tác phẩm và
ý đồ nghệ thuật mà chúng tôi sẽ phối hợp ba phần này một cách linh hoạt.
Với đề tài “Nội dung và nghệ thuật trong chùm thơ vịnh sử của Nguyễn Khuyến”. Chúng
tôi khảo sát cách nhìn nhận, miêu tả, lí giải, cắt nghĩa của Nguyễn Khuyến về những biểu
hiện con người lịch sử trong thơ văn. Mà mở rộng ra là các bài thơ vịnh sử của Tự Đức.
5. Phương pháp nghiên cứu
Qua quá trình tập hợp tư liệu từ các bài viết, các công trình nghiên cứu về Nguyễn
Khuyến cùng với việc sắp xếp và trình bài có hệ thống những nhận xét, những ý kiến
dánh giá có liên quan đến đề tài “Nội dung và nghệ thuật trong chùm thơ vịnh sử của
Nguyễn Khuyến”, chúng tôi sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ vấn
đề.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thơ “vịnh sử” bằng chữ Hán
1.1.1. Lượt sử về chữ Hán ở Việt Nam
Nhiều tác giả cho rằng chữ Hán du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ 1 trước
Công nguyên, ngay sau khi Trung Quốc chiếm xong Việt Nam. Trong suốt một nghìn
năm, từ thế kỷ một trước Công nguyên tới năm (938), tiếng Việt bị ảnh hưởng mạnh mẽ
của chữ Hán (hay còn gọi là chữ Nho).
Trong suốt thời gian Bắc thuộc với chính sách Hán hóa của nhà Hán, tiếng Hán đã
được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt Nam đã chấp nhận ngôn ngữ mới đó song
song với tiếng Việt, tiếng nói truyền miệng. Tuy người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và
chữ Hán nhưng cũng đã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán thành từ Hán - Việt. Từ đó đã
có rất nhiều từ Hán - Việt đi vào trong từ vựng của tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng
Hán ở Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc song song với sự phát triển của tiếng Hán ở
chính Trung Quốc thời đó. Tuy nhiên, năm (938), sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô
Quyền, Việt Nam đã độc lập và không còn lệ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn
ngữ vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của tiếng Hán. Sau ngày giành được độc lập, mặc dù
tiếng Hán là ngôn ngữ được sử dụng chính thức nhưng đã phát triển theo hướng khác với
sự phát triển tiếng Hán ở Trung Quốc.
Tiếng Hán vẫn tiếp tục được dùng và phát triển nhưng cách phát âm các chữ Hán lại
theo cách phát âm của người Việt, hay âm Hán-Việt. Do nhu cầu phát triển, người Việt
đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết cho họ, đó là chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm không
phải là bộ chữ hoàn thiện, cũng giống như người Quảng Đông vậy. Họ có thể viết chữ
Hán Quảng Đông trong trò chuyện bình thường, nhưng họ cũng phải sử dụng chữ Hán
chuẩn trong văn thư để tỏ lòng trân trọng, dù đối tượng tiếp nhận văn thư là người Quảng
Đông. Ví dụ như chữ Hán được phát âm là tian, nghĩa Việt là trời, và âm Hán Việt là
thiên. Còn với chữ Hán tượng hình đọc là jia, nghĩa tiếng Việt là nhà, còn âm Hán Việt
đọc là gia. Tương tự thế, chữ Hán đọc là shan, nghĩa tiếng Việt là núi, còn âm Hán Việt
đọc là sơn. Sự khác biệt một cách rõ rệt như vậy đã đem lại một diện mạo mới cho âm
Hán được sử dụng tại Việt Nam. Những học giả người Trung Hoa về sau khi tới Việt
Nam có dịp tiếp xúc với hệ thống âm này đều không hiểu được.
Cũng như các chữ viết khác trên thế giới, chữ Hán được hình thành từ các nét vẽ
miêu tả các sự vật hiện tượng xung quanh con người. Nhưng khác ở đây là chữ Hán đã
chọn một cách phát triển không giống các chữ viết khác trên thế giới. Với các chữ viết
khác trên thế giới, khi xã hội phát triển, con người đã đơn giản các nét vẽ và dùng các nét
đó để thể hiện cho một âm tiết nào đó trong tiếng nói của các dân tộc đó. Còn với chữ
Hán, nó vẫn giữ lại ý nghĩa tượng hình ban đầu của chữ. Và dùng các phép tạo chữ khác
để tạo nên các chữ có ý nghĩa trừu tượng (xem thêm ở dưới). Chính vì thế, chữ tượng
hình mặc dù chiếm một phần không lớn trong chữ Hán, nhưng lại có tầm quan trọng rất
lớn trong hệ thống chữ Hán.
Theo Lịch sử chữ Việt Nam và hanoimoi.com.vn thì trước khi chữ Hán du nhập vào
Việt Nam, chúng ta chưa có chữ viết, mà chúng ta chỉ có tiếng nói, tiếng Việt cổ đại, là
thứ ngôn ngữ thuộc họ Mường-Khmer, khác hẳn họ ngôn ngữ với tiếng Hán. Gần đây
những dấu vết khảo cổ học chúng ta khai quật được có dấu hiệu cho biết có thể tiếng Việt
đã có chữ viết dạng nguyên thủy trước khi chữ Hán du nhập vào Việt Nam. Một số tài
liệu cổ của Trung Quốc có nói về sự tồn tại của một loại ngôn ngữ và chữ viết ở phía
nam Trung Quốc, có thể đó là tiếng Việt. Tuy nhiên giả thiết này chưa đứng vững vì
thiếu cơ sở, hoặc giả nếu tồn tại chữ viết như vậy ở Việt Nam, chữ viết đó đã không có
đều kiện phát triển dưới thời bắc thuộc.
Bên cạnh việc thu nhận từ vùng thực địa chiếm được những giá trị văn hoá bản địa,
chính quyền đô hộ phương Bắc đã tích cực mở rộng sự ảnh hưởng của nền văn hoá
Trung Hoa ra những khu vực ấy. Và chữ viết cũng không nằm ngoài quy luật này, chữ
Hán dần có được chỗ đứng chắc chắn tại Việt Nam. Các cư dân Việt vốn cần cù lao
động, nhưng cũng chính là những người dân hiếu học vào bậc nhất. Với việc học tập
được một hệ thống chữ viết tương đối hoàn thiện, các học sĩ bản địa có thể thực hiện mục
đích tiếp thu tri thức từ một nền văn minh lớn nước láng giềng, việc tiếp nhận những tri
thức đó, người Việt Nam còn sử dụng chính những chữ Hán để ghi chép lại các kinh
nghiệm trong tập quán lao động, sinh hoạt được hình thành từ xa xưa. Và như vậy, những
nhân sĩ người Việt sau giai đoạn tiếp thu chữ Hán một cách thụ động từ phương Bắc đã
biết sử dụng một cách tốt nhất hệ thống văn tự này vào mục đích riêng có lợi cho mình.
Cứ như vậy, chữ Hán vô tình trở thành một người bạn đồng hành với đời sống lao động,
sinh hoạt văn hoá của người dân nước Việt. Thời gian về sau, chữ Hán không chỉ có vai
trò trong những văn bản chính thức, trong những ghi chép thư tịch mà hệ thống văn tự
này đã trở nên gần gũi với đời sống các cư dân hơn, khi nó được dùng để ghi gia phả
dòng họ hay những sự kiện của một khu vực nhỏ.
Do tính chất tiện dụng cũng như được truyền bá rộng rãi, hệ thống văn tự Hán lúc
này là loại chữ viết duy nhất có mặt trong đời sống các cư dân Việt. Tại nhiều ngôi đình
ở Việt Nam, bên cạnh những đền thờ, bức tượng, đồ vật mang tính chất tín ngưỡng thì
những bức hoành phi, đại tự hay những câu đối chữ Hán là không thể thiếu. Và chữ Hán
lúc này đối với cư dân Việt không đơn thuần chỉ là hệ thống văn tự. Những lớp học được
tổ chức trên diện rộng nhằm truyền bá và giáo dục hệ thống Nho học nói chung và dạy
chữ Hán nói riêng.
Xu thế tách rời âm Hán gốc ở Việt Nam thời gian này không chỉ là kết quả của sự
độc lập trong văn hoá người Việt, mà nó còn là tiền đề cho sự ra đời của một hệ thống
chữ viết mới ở Việt Nam, đây cũng là một sáng tạo văn hoá lớn của những học sĩ phong
kiến người Việt. Lúc này, tuy chữ Hán là hệ thống chữ viết duy nhất ở Việt Nam, nhưng
nó vẫn chưa đủ để ghi chép tất cả những âm của tiếng Việt. Đó chính là hạn chế lớn của
chữ Hán, bởi văn hoá truyền thống của người Việt có một quá trình hình thành và phát
triển từ lâu đời với những giá trị không thể phủ nhận. Ví dụ như trong âm Hán chữ huyết
(nghĩa là máu) ghép lại với chữ khẩu, được đọc là hoét, một âm không có trong hệ thống
chữ Hán mà chỉ người Việt mới có.
Cứ như vậy, những chữ Nôm cũng được các học sĩ Việt Nam sáng tạo ra trên cơ sở chữ
Hán, để có thể ghi được những âm mà tiếng Hán không tồn tại. Thành tựu ấy được các
tầng lớp Nho sĩ người Việt sáng tạo từ những chữ Hán gốc. Có thể nói, chữ Nôm không
chỉ là một thành tựu trong học thuật từ xưa của người Việt Nam. Chữ Nôm còn là một
biểu tượng bất diệt cho tinh thần dân tộc được hình thành từ muôn đời, được hun đúc qua
nhiều thế hệ và kết tinh trong tâm hồn của giới trí thức Việt Nam. Nhưng cũng không thể
phủ nhận vai trò của hệ thống chữ Hán trong việc tạo lập ra chữ Nôm. Ngoài việc đóng
vai trò là nguyên liệu cho kết cấu của chữ Nôm. Văn tự Hán còn tạo cho những tầng lớp
Nho sĩ người Việt một nền tảng sơ khai về quan niệm chữ viết, điều kiện quan trọng cho
quá trình hình thành chữ Nôm. Còn chữ Nôm, sau thời gian đầu chập chững với những
quy tắc, kết cấu, dần dần đã đạt được một sự thống nhất nhất định và trở thành phương
tiện ghi chép mới.
Theo Bùi Duy Tân, Vị thế của văn học Hán Việt, Thông báo Hán Nôm học (2001) [t. 528
– 540]. “Ở Việt Nam nói đến văn học viết bằng chữ Hán đọc bằng âm Việt, thường gọi là
âm Hán Việt, thứ âm này do người Việt dùng âm Việt đọc chữ Hán âm Đường Tống, gọi
là âm Hán Việt”. Trong khi đó, trên đất nước Trung Quốc, âm Đường Tống tiếp tục phát
triển trong tiếng Trung Quốc, lâu dần, âm Hán Việt và âm Trung Quốc, ngày càng xa
nhau. Trên đất Việt, loại âm này được cố định như một tử ngữ trong văn ngôn, trên đất
Trung Hoa, nó không ngừng phát triển như một sinh ngữ., hoặc gọi gọn là văn học viết
bằng chữ Hán, là nói đến thơ văn thời trung đại - từ thế kỷ X - khi sáng tác văn học chữ
Hán xuất hiện khởi đầu của dòng văn học viết, đến hết thế kỷ XIX, khi dòng văn học viết
bằng chữ Hán và chữ Nôm cáo chung.
Văn học chữ Hán tồn tại hàng chục thế kỷ, ở địa vị quốc gia văn học, chính thống văn
học, một cách tự nhiên, nghiễm nhiên và tất nhiên. Mãi đến thời cận hiện đại, mới xuất
hiện một số ý kiến: đòi gạt bỏ các tác phẩm văn học viết bằng chữ Hán ra ngoài nền văn
học dân tộc. Và tiếp theo là một cuộc tranh luận trên “Tập san Văn Sử Địa”. Cho đến
nay, cuộc tranh luận đã là chuyện ngày xưa, toàn bộ kiến giải của các học giả đã bị vượt
qua... Tuy nhiên, cũng nên ghi nhận cuộc tranh luận này như một cột mốc trên tiến trình
nhận thức ngày càng khoa học về những vấn đề lớn của văn học dân tộc. Cuộc tranh luận
có một không hai, khẳng định vị thế của văn học chữ Hán qua tiến trình văn học trung
đại Việt Nam. Đó là cuộc tranh luận trên Tập san Văn Sử Địa từ số 6 tháng 3-4/1955 đến
số 23 tháng 12/1956, ông Văn Tân mới tạm kết thúc sau khi đăng tải các bài của nhiều
giáo sư, học giả: Trần Đức Thảo, Minh Tranh, Nguyễn Minh Văn, Lý Trần Quý, Trương
Chính, Lê Tùng Sơn, Nguyễn Lộc, Lê Trọng Khánh. Đề tài của cuộc tranh luận là: “Có
nên liệt kê những bài văn do người Việt Nam viết bằng chữ Hán vào văn học dân tộc
không”.? Còn vấn đề vịnh sử bằng chữ Hán ta cũng không thể không nhắt tới một số bài
trong tám mươi bài thơ vịnh sử mới được phát hiện, để làm cho ai thưởng thức thơ
Nguyễn Khuyến đã công bố trước đây, không khỏi ngỡ ngàng. Về sự khác lạ về đề tài, về
xúc cảm thẩm mỹ, cũng như về ngôn ngữ thi ca. Song không nên quên rằng Nguyễn
Khuyến đã có thâm niên năm, sáu năm, nghĩa là quá nữa cuộc đời làm quan, làm quan
soạn sử. Làm thơ vịnh sử bằng chữ Hán đối với tác giả chỉ như viết bút kí lịch sử bằng
thơ về những nhân vật, những sự kiện lịch sử mà mình tâm đắc. Đối tượng phản ánh
trong thơ vịnh sử của Nguyễn Khuyến không phải là một thực tại khách quan hiện hữu,
là cái tôi trữ tình, mà là một nhân vật, một sự kiện đã được định hình trọn vẹn trong lịch
sử. Nguyễn Nguyễn tái hiện lại trong tác phẩm không được thêm thắt đã đành, mà còn
phải bảo đảm tính chính xác. Xúc cảm thẩm mỹ, lí tưởng thẩm mỹ của tác giả chỉ có thể
được biểu lộ gián tiếp qua sự lựa chọn từng nhân vật, khai thác chi tiết và trực tiếp là thái
độ biểu cảm của tác giả. Và tuy là tái hiện, song bằng những thủ thuật tác phẩm vẫn có ý
ẩn dụ, hoặc ám dụ, tạo nên sự liên tưởng đến thực tại đương thời. Thơ vịnh sử của
Nguyễn Khuyến là như thế.
1.1.2. Khái lượt về “Vịnh sử”
Khác với thơ vịnh sử Việt Nam, thơ vịnh sử Trung Quốc ra đời từ sớm (ít nhất là từ khi
nó được định danh bởi nhà sử học nhà văn Ban Cố thời Đông Hán) “Ban Cố với trước
tác Vịnh sử thi đã trở thành người đầu tiên chính dành cho tiểu loại này”, song quan
niệm về thơ vịnh sử phản ánh ý thức về thể loại thì xuất hiện muộn hơn rất nhiều. Tuy
văn học đã bước vào giai đoạn tự giác từ cuối Đông Hán với sáng tác của văn nhân,
nhưng thơ vịnh sử vẫn được khái quát về mặt lí luận. Phải đến đời Lương (Nam Triều),
sau khi đã phát hiện thơ vịnh sử của Vương Xán, Nguyễn Vũ, Tàu Thực (đời Ngụy), Tả
Tư, Trương Hiệp, Đào Uyên minh (đời Tần)…Mới có những dấu hiệu đầu tiên về “biến
thể”.Trong những công trình lý luận phê bình đó là những nhận định đầu tiên về “biến
thể” trong những công trình lý luận, phê bình. Đó là những nhận định đầu tiên của Chung
Vinh trong Thi phẩm tự có ý chê thơ vịnh sử của Ban Cố “Trong hai trăm năm thời
Đông Hán, chỉ có một bài thơ Vịnh sử của Ban Cố, chất phác mộc mạc, không chút màu
mè” (chất mộc vô văn), hoặc một vài nhận xét tỏ ý khen ngợi về thơ vịnh sử của Tả Tư
“là giai tác trong thơ ngũ ngôn, có thể gọi là quý trong dòng song thi ca, thi phẩm trong
lĩnh vực văn học”. Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp cũng mới chỉ có những lời bàn về
tác phẩm chẳng hạn: “Tả Tư kì tài, thơ hay ý sâu…hơn cả Vịnh sử của Ban Cố”. Văn
Tuyển của Tiêu Thống ra đời sau đó đã tiến một bước trong việc phân biệt văn thể khi
ông xếp vịnh sử thi thành một mục riêng thuộc tiểu loại của “thi”, tuy nhiên, chúng ta
cũng không thấy ông viết một dòng nào định nghĩa khái quát, hoặc phát biểu quan niệm
của mình về thể loại này. Quan sát một số bộ giáo trình Trung Quốc và công trình nghiên
cứu về thơ vịnh sử gần đây, chúng tôi cũng thấy thiếu vắng những tổng quát cần thiết về
quan niệm của các nhà lý luận phê bình Trung Quốc thời cổ trung đại đối với thơ vịnh
sử, Hồ Ứng Lân, nhà phê bình nỗi tiếng thời Minh cũng chỉ đưa ra vài đánh giá về tác
giả, tác phẩm vịnh sử. Theo dẫn liệu của Nhạc Hy Nhân , người biên soạn cuốn sách tinh
tuyển thẩm định thơ vịnh sử “Trong cuốn Nhạc Hy Nhân: Cổ đại vịnh sử thi tinh tuyến
điểm bình”, mãi đến đời thanh, Viên Mai trong Tùy viên thi thoại mới có những lời bàn
xác thiết về nội dung thể loại thơ vịnh sử : “thơ vịnh sử mà không có nghĩa mới thì thành
ra cuốn sách Nhị thập nhất sử đàn từ, dù chú trọng nghị luận, nhưng không có ý vị sâu
xa thì lại giống như sử tán, đó điều không phải là thơ”. Lời bàn đó cho thấy Viên Mai
chú ý tới phương diện nhận thức lịch sử, cũng như mặt tư tưởng mà mặt triết lí của thơ
vịnh sử.
Trong từ điển Bách khoa cũng viết: “Vịnh là làm thơ với cảm hứng hưng phấn nhằm
luận bàn hoặc miêu tả cảnh hoặc người. Ngâm phong vịnh nguyệt, tức làm thơ về gió
trăng lúc nhàn tản. Vịnh còn là một thể loại thơ bàn về nhân vật lịch sử (vịnh sử) hoặc
miêu tả các cảnh hay sự vật…”
Gần đây, thơ vịnh sử mới được định nghĩa và nghiên cứu khá kỉ về mặt thể loại. Chẳng
hạn các tác giả từ điển văn học của Trung Quốc đã viết mục từ về thơ vịnh sử nhằm định
nghĩa cho thể loại này: Trong cuốn Trung Quốc văn học đại từ điển có viết“Thơ vịnh sử
là tên một thể thơ, dùng để chỉ những tác phẩm thơ ca lấy ngâm vịnh lịch sử làm nội
dung chủ yếu…vịnh sử thi cốt yếu ở chổ quán thong kim cổ, có con mắt nhìn nhận riêng,
nhằm gửi gấm ý nghĩa sâu xa tinh tế, biểu đạt những suy tư sâu kính của người xưa, tối
kị nghị luận củ kỉ về sự thực lịch sử, là một trong những chủ đề quan trọng của thi ca cổ
đại”: Bộ Trung Quốc văn học sử do Viện Thành Bái tổng chủ viện, Đệ nhị quyển do
Viên Thành Bái, La Tông Cường chủ biên “Trung Quốc văn học sử, 4 quyển”, tại Đệ nhị
tiết, khi viết về Tả Tư đã mô tả một cách hệ thống nguồn gốc và đặc trưng của thơ vịnh
sử. Chẳng hạn, cho rằng: “lấy vịnh sử làm tên đề bài thơ bắt đầu từ Ban Cố thời Đông
Hán. Thơ vịnh sử của Ban Cố, trực tiếp ghi chép sự thực lịch sử, được Chung Vinh bình
rằng “chất mộc vô văn” (chất phác, mộc mạc, không chút hoa mỹ)” (Thi phẩm tự). Thời
Tào Ngụy, Vương Sáng, Nguyễn Vũ có Vịnh sử thi, Tào Thực có Tam Lương thi, Trương
Hiệp người cùng thời với Tả Tư cũng có thơ Vịnh sử. Thơ vịnh sử của Tả Tư chịu ảnh
hưởng của tiền nhân, song cũng có sáng tạo riêng, Hồ Ứng Lân người đời Minh cho thơ
vịnh sử của Tả Tư ngôn từ kì vĩ, mới mẽ, dật khí ngút trời, là tuyệt xướng xưa nay. Hà
Trác người đời Thanh thì cho thơ vịnh sử là thơ biến thể, bởi “thơ vịnh sử không ca ngợi
quá lời, không tô điểm thêm bằng lời đẹp, đó mới là chính thể”. Xét sự phát triển của thơ
vịnh sử theo trình tự trước sau thì ( 癮 刮 板 傳 )“ẩn quát bản truyện” (khái quát kính đáo
sự thực lịch sử) là chính thể, còn “tự trữ hung ức” (tự bộc lộ nỗi lòng) là biến thể. Nói
như vậy, là không sai, song biến thể, thành tựu quả thực vượt xa chính thể của tiền nhân.
Ngoài ra các tác giả còn đành giá về nội dung thơ vịnh sử của Tả Tư, vị trí thơ vịnh sử
của ông: “Thơ vịnh sử của Tả Tư chủ yếu bộc lộ nỗi bất bình của hàng sĩ và thái độ miệt
thị, đấu tranh chống lại sĩ tộc…ông sáng tác vịnh sử bát thủ để bộc lộ nỗi lòng phẩn nộ,
thái độ miệt thị của mình đối với quyền quý, khẳng định giá trị của bản thân, nói rõ
những khốn đốn mà hạ sĩ gặp phải…Thơ vịnh sử bất hủ của Tả Tư đã khai sáng con
đường mới cho thơ vịnh sử, mượn lịch sử để vịnh hoài, trở thành phép tắc cho thi nhân
đời sau noi theo, đó là cống hiến độc đáo của ông đối với thi ca Trung Quốc.
Những nhận xét, đánh giá trên đây về thơ vịnh sử của Tả Tư về cơ bản là tương đồng với
Chung Vinh trong Thi phẩm. Chung Vinh đã đánh giá cao và xếp tác phẩm của Tả Tư
vào loại “thượng phẩm”, cho thơ Tả Tư “điển” vì dẫn sự thực lịch sử, “oán” vì mượn
xưa phúng nay, có thái độ phê phán đối với đời chính “tinh thế” vì mượn xưa phúng nay
một cách sâu sắc, hợp lý “đắc phúng dụ chi chi” vì có tác dụng phúng dụ.
Tuy nhiên, điều đáng chũ ý là, ở Đệ nhị tiết. Đệ tam chương, Đệ nhị quyển, khi viết về
thơ điền viên của Đào Uyên Minh, các tác giả bộ sách trên cho rằng: “Nội dung của thơ
vịnh sử và thơ vịnh hoài có chổ gần nhau, Vịnh sử cũng là vịnh hoài, chẳng qua là mượn
sự thực lịch sử làm môi giới mà thôi”. Nhất quán với quan niệm nói trên, ở Đệ nhị tiết,
Đệ thập chương, Đệ nhị quyển, các tác giả cũng viết một mục về Đỗ Mục và thơ hoài cổ
vịnh sử thời vãn Đường.
Như vậy là ở đây, phải chăng các nhà văn học sử Trung Quốc đã xóa nhòa ranh giới thể
loại, đem đồng nhất vịnh sử và vịnh hoài? Chúng tôi cho rằng, khái quát bộ sách trên về
sự tương đồng giữa hai thể loại là hợp lí và cũng là hợp lí với một bộ văn học sử khi trình
bày hai thể loại này ở một chương mục (chương tiết), song chúng tôi không nhất trí hoàn
toàn với ý kiến cho rằng “vịnh sử cũng là vịnh hoài, chẳng qua là mượn sự thực lịch sử
làm môi giới mà thôi” Bởi lẽ nhận xét khái quát đó tuy có điểm phù hợp với thơ vịnh sử
của Tả Tư, Đào Uyên Minh…khi thể loại đó đang ở diện mạo, khi nó chưa hoàn toàn
tách khỏi truyền thống thơ ca trữ tình vịnh hoài, hoài cổ, điếu cổ khi nó mới chỉ cơ bản
khác các thể tài kia ở tên gọi tác phẩm, mà chưa bao quát hết được toàn bộ quá trình phát
sinh hình thành, vận động phát triển, đi tới thành thục của thơ vịnh sử. Sau này, chúng ta
sẽ được chứng kiến thơ vịnh sử đã hoàn thiện diện mạo thể loại vào đời Đường, Tống; nó
vẫn có những nét tương đồng, nhưng đã có thêm những đặc điểm riêng khác với “những
người họ hàng thân thích” khi xưa. Đặc biệt là thơ vịnh sử bằng chữ hán của Nguyễn
Khuyến.
Khảo sát thực tế sáng tác, chúng tôi thấy, thơ vịnh hoài, hoài cổ có xu hướng bộc lộ tư
tưởng tình cảm của chủ thể trữ tình dấu ấn chủ quan tương đối rõ so với thơ vịnh sử.
Cùng đề vịnh về lịch sử, song đối tượng đề vịnh của thơ vịnh hoài, hoài cổ thường là có
mối liên hệ trực tiếp và chặt chẽ hơn với chủ thể trữ tình, trong khi đó thơ vịnh sử có xu
hướng khách quan hóa, sau này cực đoan hơn là xu hướng hệ thống hóa, mục đích hóa
đối tượng đề vịnh. Mức độ và tính chất thể hiện của chủ thể trữ tình ở hai tiểu loại này là
khác nhau. Càng về sau, sự thể hiện này càng bộc lộ rõ nét. Chính điều đó giúp các nhà lí
luận phê bình nhận diện ra chúng và có những khái quát về đặc điểm thể lọai. Nếu như
đề tài của thơ vịnh sử trước đời Đường còn có mối dây liên hệ trực tiếp với tác giả, nhiều
bài vịnh sử nhưng thật ra là tự vịnh bản thân mình, thì thơ vịnh sử từ đời Đường, nhất là
Trung Văn Đường trở về sau đã đi theo hướng khách quan hóa, xuất hiện việc chon đề tài
một cách bài bản và có hệ thống, chủ đề tư tưởng cũng có tính xác định hơn. Ngoài thành
phần ngôn chí, trữ tình ra, còn có nghị luận và đòi hỏi sự kết hợp nhuần nhuyển giữa
nghị luận và trữ tình, giữa triết lí và thi ý. Thi nhân vịnh sử ngoài tài năng thi ca ra, còn
đòi hỏi tri thức lịch sử uyên thâm, phương pháp luận sử học sắc bén. Trong thực tế, khi
tuyển chọn thơ vịnh sử, người nghiên cứu thường dễ nhận diện đối với những tác phẩm
vịnh sử nằm trong biệt tập của những tác giả chuyên làm thơ vịnh sử, thì việc nhận diện
chúng xem ra không dễ chút nào, nhiều khi nhà nghiên cứu sẽ bị nhầm lẫn hoặc bỏ sót
nếu chỉ chọn theo tên gọi tác phẩm.
Về phương pháp luận, chúng tôi cho rằng, thực tế sáng tác rất đa dạng và phong phú, do
vậy phải tiến hành khảo sát kĩ càng, để từ đó phát hiện ra những vấn đề bản chất của đối
tượng nghiên cứu, tránh khái quát vội vàng, duy ý chí.
Qua công việc của Nhạc Hy Nhân tiến hành nghiên cứu về thơ vịnh sử đã nói ở trên,
chúng tôi có thể rút ra một số điểm như sau về thơ vịnh sử: Đề tài của thơ vịnh sử là cổ
nhân (nhân vật lịch sử), cổ sự (sự kiện lịch sử) và cổ tích (di tích, danh thắng lịch sử).
Thơ vịnh sử ra đời và hưng thịnh trong những điều kiện chính trị xã hội cũng như kinh
lịch đặc biệt của thi nhân, đó là khi xã hội động loạn, triều đại hưng vong thịnh suy, hoặc
thi nhân “hoài tài bất ngộ” (tiết nuối tài năng của mình không được biết đến và trọng
dụng). Thơ vịnh sử có quan hệ thân thuộc với thơ hoài cổ, nên thừa nhận sự tương đồng
về nhiều mặt giữa chúng, song cần khu biệt và nhận biết sự chuyển hóa giữa chúng. Thơ
vịnh sử trong quá trình vận động và phát triển đi theo hai con đường: Một là coi trọng tự
thuật, sự thực lịch sử, sau đó nghị luận, đánh giá và coi lịch sử là nguyên do hoặc chứng
cứ để bình luận, trữ tình. Trọng điểm của hai loại thơ này khác nhau, loại trước nghiên về
sự thực lịch sử, loại sau nghiên về bộc lộ nỗi lòng. Loại trước là chính thể, loại sau là
biến thể của thơ vịnh sử.
Tiêu chuẩn cũng như hiệu quả, tác dụng thẩm mỹ của thơ vịnh sử dựa vào sự kết hợp hài
hòa thống nhất giữa tinh thần lịch sử và tính hiện thưc, trí tuệ và tình cảm, hình tượng
sinh động và triết lý, tư tưởng sâu xa…
Dựa vào thành quả mà các nhà nghiên cứu Trung Quốc làm được, Bùi Duy Tân cũng đã
tiến hành tổng kết và rút kết ra quan niệm thơ vịnh sử, lấy đó làm tiền đề và cơ sở cho
công việc khảo sát “Thơ vịnh sử là tiểu loại thơ đề vịnh phản ánh hiện thực quá khứ qua
các nguồn dữ liệu, từ đó hoặc trữ tình hoặc nghị luận, hoặc kết hợp trữ tình tình và nghị
luận, nhằm ca ngợi hay phê phán, nhận thức hay bình giá lịch sử theo một quan điểm
chính trị - đạo đức, một tư tưởng thẩm mỹ nào đó. Mặc dù phản ánh hiện thực quá khứ,
song thơ vịnh sử ở mức độ khác nhau đều có tính hiện thực. Nó có quá trình phát sinh,
vận động phát triển, hoàn thiện và biến đổi đa dạng phong phú trong thực tế sang tác,
trong những không gian và thời gian khác nhau, cả ở nơi nó được sinh ra và những nơi
nó được đi thực”.
Tuy là một thể loại nhỏ, thơ vịnh sử cổ trung đại Việt Nam và Trung Quốc vẫn có số
lượng tác phẩm đồ sộ, lực lượng sáng tác hùng hậu, những cống hiến to lớn độc đáo và
những hằng số giá trị cao trong di sản văn chương ở mỗi nước. trong quan hệ giữa hai
dòng thơ vịnh sử, thơ vịnh sử Trung Quốc như một nguồn chnng, thơ vịnh sử Việt Nam
như một dòng riêng, trong cùng một địa đại văn hóa đồng văn của vùng Đông Á.
Sự tương đồng của thơ vịnh sử ở hai quốc gia giống như sự tương đồng của nước ở cội
nguồn và ở chi nhánh, tức là cực lớn, không những về phương diện văn tự, mà còn về
không ít vấn đề như quan niêm văn học, tư tưởng thẩm mỹ, phạm vi đề tài, quy cách thể
loại, nghệ thuật ngôn từ…và đặc biệt là một số vấn đề về nội dung tư tưởng và sắc thái
cảm hứng của hai dòng vịnh sử cũng có mẫu số chung xuất phát từ văn hóa đồng văn.
Sự dị biệt của thơ vịnh sử ở hai quốc gia cũng thể hiện ở các yếu tố kể trên. Ví dụ cảm
hứng chủ đạo của thơ vịnh sử Việt Nam là tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm thông
qua đạo dức trung hiếu tiết nghĩa. Còn ở Trung Quốc là ở tinh thần nhân văn, đặc biệt
nhân văn thông qua số phận con người. Ảnh hưởng của Nho giáo vào thơ vịnh sử cũng
có khác biệt rõ rệt. Thơ vịnh Nam sử chịu ảnh hưởng Nho giáo nặng nề, đến mức có thể
coi là loại hình văn học nhà Nho. Thơ vịnh sử Trung Quốc thì không như vậy, thế của
Nho giáo thấp hơn, vị của Nho giáo nhạt nhòa hơn.
So sánh thơ vịnh sử ở hai nước, không chỉ giới hạn ở chổ tương đồng hay dị biệt từ
những kiêt tác của nhiều thi sĩ tài ba ở hai nước, mà chủ yếu là đi tìm những khác biệt
độc đáo thấm đậm bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia, từ trong quan niệm sáng tác, tư
tưởng thâm mỹ và thi pháp thể loại trong mối quan hệ nguồn dòng của một vùng văn hóa
đa quốc gia và trong mối quan hệ chung riêng của mỗi nền văn hóa dân tộc.
Từ việc khảo sát thơ vịnh sử ở mỗi nước, đến bước đầu so sánh thơ vịnh sử ở hai nước,
có thể rút ra một số kết luận: Thơ Vịnh sử cổ trung đại Việt Nam có một bộ phận lớn là
thơ vịnh Bắc sử, nhưng bộ phận nhỏ thơ vịnh Nam sử mới là tiêu biểu. Thơ ấy có lịch sử
phát triển, số lượng tác phẩm, diện mạo tác giả khiêm tốn, nhưng là một tiểu loại thơ có
đặc trưng thẩm mỹ, đặc trưng thể loại nổi bật. Đặc biệt thơ vịnh Nam sử chịu ảnh hưởng
nặng nề của Khổng Nho, nhưng lại kết hợp với tinh hoa truyền thống Việt, tạo thành hình
thái tư tưởng Việt Nho rất đặc trưng của thơ vịnh sử nói riêng, thơ văn Việt Nam nói
chung. Nét nổi bật trong thơ vịnh Nam sử còn là cảm hứng dân tộc, thông qua đạo đức
trung hiếu tiết nghĩa, tạo nên giá trị bền vững của nhân vật lịch sử nước Nam, và từ đó có
thể coi thơ vịnh Nam sử có những trang xứng đáng là những áng thơ văn suy tôn danh
nhân đất nước chân thực và hấp dẫn nhất suốt từ xưa tới nay.
Thơ vịnh sử có một tiêu chí không thể thiếu, đó là suy nghĩ, bình luận, đánh giá, nêu
gương qua việc đề cao và phê phán nhân vật lịch sử, dựa trên quan điểm đạo đức chính
thống của thơi đại. Thơ vịnh sử là loại thơ sử luận đồng thời cũng là loại thơ nhân cách
luận. Hầu như, bài thơ vịnh sử nào cũng trực tiếp hoặc gián tiếp bình điểm về nhân phẩm
của nhân vật lịch sử. Không có bình luận, suy nghĩ, đánh giá nhân vật lịch sử thì không
trở thành thơ vịnh sử. Thơ vịnh sử không chỉ nghị luận khô khan mà có khi còn trữ tình
đầm thấm. “Nhiều tác giả dùng thơ vịnh sử để khiến hoài, điệu cổ, thượng kim, gởi gấm
tâm sự của mình. Cho nên, một số bài thơ hoài cổ có thể coi là thơ vịnh sử” (Bùi Duy
Tân). Đó là trường hợp của những bài thơ dựa vào truyện cũ người xưa gửi gấm tình cảm
một cách nhẹ nhàng và kín đáo. Tình cảm này không lấn ác tư duy bình luận, đánh giá
nhân vật và cũng không kìm hãm hứng thú của tác giả khi liên hệ cập nhật truyện đời.
Đến loại thơ như thơ Nguyễn Du viết về Bắc sử khi đi sứ đó là bài thơ trữ hoài sâu nặng
tình đời, viết về đề tài lịch sử, chứ không thể coi đó là thơ vịnh sử.
Từ các tiêu chí trên có thể thấy thơ vịnh sử nói chung, thơ chữ Hán vịnh Nam sử nói
riêng có hai loại chính. Thứ nhất là thơ vịnh đích danh các nhân vật lịch sử, thường có
một độ lùi thời gian cần thiết. Thứ hai là thơ vịnh sự kiện, di tích lịch sử có cốt lõi nhân
vật lịch sử.
Thơ vịnh sử là loại thơ bình luận, đánh giá, suy tư mang phong cách chính luận, chứ
không phải thơ trữ tình có dung mạo, nội tâm nhân vật. Tác giả thơ vịnh sử thường đối
chiếu hành vi của nhân vật lịch sử với chuẩn mực, quy phạm đạo đức để bình luận đánh
giá nhân vật. Không có bình luận, đánh giá, không có khen chê lấy bỏ để nêu gương, thì
không thành thơ vịnh sử. Bình luận, đánh giá phải tinh thâm, sắc bén. Thuyết phục. Nhà
thơ phải có tri thức lịch sử, tri thức thơ ca, dựa vào sự thực và thi pháp, sáng tạo nên
những ngôn bản thi ca, kết hợp với sử luận thi pháp giữa tư duy luận lí và tư duy nghệ
thuật. Từ đó bài thơ mới trở thành một đơn vị nghệ thuật thống nhất lí tình, mà việc khen
chê lấy bỏ mới hi vọng đạt được ý sâu như cố nhân thường nói. Đọc bài vịnh Trương
Hồng của Đặng Minh Khiêm chẳng hạn:
“Chúa đến đường cùng gieo bến nước
An hem không nở giúp quân thù.
Đêm thanh cao vọng ngâm song Nguyệt.
Khiến cỏi trời Nam sạch giặc thù”
(Thơ dịch)
Nhà thơ dựa vào tự sát của anh em Trương Hồng, Trương Hát quyết không phản chúa
(Triệu Quan Phục), thờ thù (Lý Phật Tử) để khen công lao tiết tháo “trung thần bất sự nhị
quân” đức hàng đầu của kẻ bề tôi. Ở hai câu thơ sau, tác giả dựa vào hiện tượng Trương
Hồng ngâm thơ Nam quốc sơn hà âm phù Lê Đại Hành chống tống, để ca ngợi thần
thông nước Việt. Ý đồ dựa vào hành vi của nhân vật lịch sử để nghị luận, không khó
kiếm tìm ở hàng trăm bài thơ vịnh sử khác. Ngoài ra thơ vịnh sử bằng chữ Hán của
Nguyễn Khuyến cũng đề cặp đến từng sự kiện, lịch sử của mỗi nhân vật mà từ đó gởi
gấm tâm tư, tình cảm của mình vào mỗi nhân vật không kém gì các nhà thơ vịnh sử trước
đó.
1.1.3. Thơ “Vịnh sử” bằng chữ Hán trong thơ văn trung đại
Trong di sản văn học Hán Nôm thời trung đại, có một loại thơ mang tên là thơ vịnh sử.
Loại thơ này chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu rộng, có hệ thống, tương xứng
với giá trị đích thực vốn có của nó. Từ đó nguồn cảm thi ca từ vùng huyền tích, danh
nhân, nguyên khí quốc gia chưa đến với đông đảo độc giả. Hằng số về nhân phẩm ở cả
hai phía chính - tà, trung - nịnh, ngay - giang…trong tác phẩm chưa được thảo luận minh
bạch, thuyết phục, có thể đem cho công chúng niềm hào hứng giám thưởng tài thơ ca
ngâm vịnh của người xưa.
Thơ vịnh sử có những bài vịnh Bắc sử, vịnh Nam sử tức đề vịnh nhân vật, sự kiện, di tích
lịch sử…Ở Việt Nam thơ vịnh sử hầu hết được viết bằng chử Hán, song cũng có một số
ít bài viết bằng chử Nôm. Bài viết này của chúng tôi chỉ khảo luận mảng thơ chử Hán
vịnh Nam sử của Nguyễn Khuyến và dựa vào tác phẩm của một số danh gia: Đặng Minh
Khiêm, Hà Nhận Đại, Tự Đức, Cao Bá Quát…Đây chính là bộ phận trung tâm mang đặc
trưng, tính chất tiêu biểu nhất, có tiêu chí rõ ràng nhất của thơ vịnh sử, nhiều gắp bội thơ
Nôm vịnh Nam sử. So với thơ vịnh Bắc sử thì ít hơn nhưng lại đặc trưng hơn qua một số
danh tác, và nhất là bảng sắc dân tộc phong phú, đa dạng hơn. Khảo luận thơ chử Hán
vinh Nam sử của Nguyễn Khuyến chính là khảo luận phần thơ tiêu biểu nhất của thơ
vịnh sử trong văn học trung đại.
Thơ vịnh sử, về tính chất trước hết là thơ. Thơ ở đây có thể là cổ thể là Đường thi; lời có
thể là ngũ ngôn, là thất ngôn; câu có thể là bát cú, là tuyệt cú. Là trường thiên. Vịnh là để
cho lời thơ sâu rộng, dồi dào ý nghĩa, hay đẹp, nghiêm cẩn và thường có ngụ ý. Sử là đối
tượng ngâm vịnh bao gồm nhân vật, sự kiện di tích lịch sử…có độ gián cách nhất định
với thời gian sống của tác giả. Thơ vịnh sử, về dạng thức cũng giống như thơ vịnh vật,
thơ vịnh thiên nhiên. Như vậy Thơ vịnh sử là thơ vịnh nhân vật, sự kiện, di tích lịch
sử…để ngôn chí, khiển hoài, với ngụ ý chặt chẽ nhằm nêu gương lịch sử để giáo hóa
người đời. (Đặng Minh Khiêm trong Việt giám vịnh sử tập) từng khẳng định “Làm thơ
vịnh chủ yếu là để gửi gắm cái ý chê khen” (Tựa). (Hà Nhậm Đại khi viết Khiếu vịnh thi
tập) cũng nhấn mạnh “Tôi bình sinh học vấn nông cạn, thấy sự tích triều Lê đáng làm
khuyên răn, vì thế mà sưu tập một số sự kiện chân thực làm thành một quyển thơ…để cho
tiện xem xét duyệt đọc” (Tựa). Vua Tự Đức, qua thi phẩm vịnh sử của mình, muốn nêu
cao tấm gương lịch sử để giáo hóa quân, thần, sĩ, nữ đời sau: “Ta truyền cho bề tôi ở Nội
các chép lại, rồi cho khắc bản, ấn hành hầu làm sang tỏ cái chí của ta, muốn để lại tấm
gương thành bại xưa nay” (Tựa).
Thơ vịnh sử là bộ phận hợp thành của thơ ca trung đại, nên hầu hết những sách tuyển thơ
ca trung đại, đều có thơ vịnh sử. Ngoài ra còn có một số vài tập thơ chuyên vịnh sử được
xuất bản riêng. Qua những sách đã in ấn thơ vịnh sử trên đây có thể thấy hàng ngàn bài
thơ Hán Nôm đã được phiên dịch, phiên âm, chú giải và trước khi làm công việc phiên
dịch, việc khảo sát văn bản cũng được các học giả đề cập tới. Thành tựu đã có là đáng
ghi nhận và hạn chế cũng cần khắc phục. Chẳng hạn, việc dịch thuật thơ vịnh sử chưa
làm được nhiều, việc khảo dị đến bậc câu chữ chưa mấy ai đặt ra, hoặc như dịch thơ chữ
Hán mà không qua khâu dịch nghĩa (Ngự chế Việt sử tổng vịnh, Nhàn trung vịnh cổ vịnh
sử…) cũng dể phát sinh sai sót. Trong số những tác phẩm được phiên dịch, chú giải,
mảng thơ chữ Hán vịnh Nam sử thời trung đại vẩn được chú trọng hàng đầu.
Song, với quá trình giới thiệu nguyên bản thơ vịnh sử là quá trình nghiên cứu về thơ.
Dựa vào tư liệu còn lại, thấy thời Lý - Trần đã có thơ vịnh sử. Và chắc chắn trước khi
làm thơ, người xưa cũng đã học hỏi tìm hiểu tới thơ nhập ngoại này. Nhưng ngay cả sang
thể kỉ XV, có đủ thơ vịnh sử Hán, Nôm, vịnh cả Bắc sử và Nam sử, có danh gia vịnh sử
Lê Thánh Tông và không ít lời phụng bình thơ vịnh sử của triều thần, thế mà vẫn chưa
thấy ai trực tiếp phát biểu cảm nhận. suy tư có tính chất khảo cứu chuyên biệt về thể thơ
này. Phải đến thể kỉ XVI, XVII, cùng với việc xuất hiện một số tập thơ vịnh sử nổi tiếng
và không ít những bài thơ vịnh sử của nhiều tác giả, mới thấy chính tác giả của các tập
thơ vịnh sử đã viết về quan niệm, giá trị và tác dụng của thơ vịnh sử. Đọc bài Tựa của
Đặng Minh Khiêm trong Việt giám vịnh sử tập, phần còn lại trong bài Tựa của Hà Nhậm
Đại trong Khiếu vịnh thi tập đều là tác phẩm thế kỉ XVI…thấy rõ họ là những nhà Nho,
làm văn chương tải đạo, ngôn chí, nêu gương nhân vật lịch sử theo chuẩn mực đạo đức
Việt Nho, để giáo hóa, trợ chính… Đến thế kỉ XVIII, XIX, Lê Quý Đôn trong Nghệ văn
chí sách Đại Việt thông sử, Phan Huy Chú trong Văn tịch chí sách Lịch triều hiến
chương loại chí đã lập thư tịch cho Việt giám vịnh sử tập, Khiếu vịnh thi tập, Vịnh thi
sử…Riêng Lê Quý Đôn đã có nhận xét rất chuyên biệt về bút pháp Đặng Minh Khiêm
“Khen chê lấy bỏ đều có ý sâu, đáng gọi là danh bút”. Còn với Khiếu vịnh thi tập của Hà
Nhậm Đại thì “cũng là thi sử nhưng khí phách âm điệu không bằng Đặng Thoát Hiên
(Kiến văn tiểu lục)”. Tự Đức trong bài thơ tựa Ngự chế Việt sử tổng vịnh, Song Quỳnh
Dưong Tứ Thúc trong bài thơ Nhàn trung vịnh cổ vịnh sử đều đề cao chức năng giáo hóa
và hứng thú khiển hoài, tựu trung không khác với cách hiểu của người xưa. Việc tìm hiểu
thơ vịnh sử thời phong kiến, tuy chỉ qua một số tư liệu còn hạn chế trên đây, vẫn cho
thấy tác giả (chủ yếu của các tập thơ chữ Hán vịnh Nam sử) và học giả ngày xưa nắm
khá vững đặc trưng tính chất thơ vịnh sử.
Đến thời Pháp thuộc, một số học giả quan tâm di sản văn học cổ: Trần Trung Viên,
Nguyễn Văn Tố, Hoa Bằng, Nguyễn Đổng Chi, Dương Quảng Hàm… ngoài việc dịch
phiên giới thiệu văn bản, cũng có một số kiến giải về thơ vịnh sử. Chẳng hạn, Dương
Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu chưa mấy thuyết phục khi coi “Lối thơ vịnh
sử bắt đầu có từ thời Hậu Lê”. Hoặc “Cổ tâm bách vịnh mở đầu cho lối thơ vịnh sử”. lại
rất bài bản khi nhận xét Việc giám vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm “là tập thơ vịnh
Nam sử đầu tiên ở nước ta”. Một vài tập lịch sử văn học miền Nam trước ngày thống
nhất, cũng có đề cập đến lối thơ vịnh sử, song đơn giản và sơ sài, thiếu ý tưởng khoa
học. Tiến sĩ văn chương Thanh Lãng trong Văn học Việt Nam – thể hiện dấn thân yêu đời
(từ 1428 đến 1505) còn trích nguyên văn những dòng viết về Cổ tâm bách vịnh của Phan
Huy Chú vào sách của mình, mà không viết thêm một lời nào.
Thơ vịnh sử được nhiều nhà văn học bàn luận là từ cuối những năm 50 của thể kỉ trước.
Khởi đầu là Văn Tân viết về Việt giám vịnh sử thi tập trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt
Nam, Tập II. Bài viết chỉ ba trang lớn nhưng là một dấu son ghi nhận sự quan tâm của tác
giả đối với đề tài vịnh sử, thông qua một tập thơ chữ Hán Vịnh Nam sử nổi trội nhất. Văn
Tân có những dòng viết khẳng định vị thế cao của Việt giám vịnh sử thi tập so với Cô
tâm bách vịnh (Lê Thánh Tông) ra truớc đó, và Khiếu nại thi tập (Hà Nhậm Đại) ra sau
này. Về nội dung, Văn Tân nhấn mạnh “lòng lo nước, yêu nước…lưu lộ trong tất cả các
bài thơ”. Về nghệ thuật, Văn Tân khen “thơ Đặng Minh Khiêm rất tự nhiên”. “lặp lại
lời của sử thần ngày xưa nhưng vẫn nói được ý của mình”. “chỉ trong hai mươi tám chữ
mà nói được đặc điểm lịch sử nhân vật và cả lời phê phán mình”…Bộ Giáo trình văn học
sử của Đại học Sư phạm Hà Nội in từ đầu thập niên sáu mươi và tái bản có sửa chữa, viết
mới nhiều lần, mà cũng chỉ viết về Việt giám vịnh sử tập như một đầu sách chứ không hề
bình luận, dẫn dụ thơ ca. Bộ Lịch sử văn học Việt Nam. Tập I của Ủy ban Khoa học Xã
hội Việt Nam, phần do Giáo sư Đinh Gia Khánh có đề cập đến một số tập thơ vịnh sử
(Việt giám vịnh sử thi tập, Vịnh thi sử, Khiếu vịnh thi tập và một số bài thơ vịnh sử của
Lê Công Triều, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Bá Lân…) khi viết về tình hình sáng tác;
cũng không trích dẫn, phân tích, khảo cứu một tập thơ, một câu thơ vịnh sử nào. Cho tới
nay, tập Văn học Việt Nam thể kỉ X – Nửa đầu thể kỉ XVII của Đinh Gia Khánh – Bùi
Duy Tân- Mai Cao Chương viết nhiều trang nhất về thơ vịnh sử. Chuyên mục, Thơ vịnh
sử, thơ đi sứ và chủ nghĩa yêu nước do Bùi Duy Tân viết. gần hai mươi trang, đã lần đầu
tiên đề cập đến đề tài vịnh sử về quan niệm, lich sử, diện mạo, giá trị…thơ vịnh sử của
văn học thế kỉ X- XVIII, bao gồm hàng chục tác gỉa, hàng trăm bài thơ vịnh sử, Mảng
thơ vịnh sử đến đây được khảo luận bàn tuy còn giản lược, song đã tương đối toàn diện,
hệ thống. Chẳng hạn, đây là đoạn thơ viết về thơ vịnh sử: “Thơ vịnh sử là loại thơ vịnh
chuyện cũ, người xưa, làm thơ vịnh sử chủ yếu là để gửi gắm cái ý chê khen. Cũng như
các thể tài khác, thơ vịnh sử được sáng tác theo những quan niệm truyền thống, trong đó
nổi bật là tính chất sung cổ và tính chất chính thống theo quan điểm truyền thống”. Hoặc
về nội dung “Nét nổi bật trong thơ vịnh sư là niềm tự hào về lịch sử quang vinh và phẩm
chất cao quý của dân tộc. Tác giả thơ vịnh sử thường ca tụng những nhân vật có công
tích với dân tộc, với nhân dân. Có khi thiên về các anh hùng dân tộc, những tướng lĩnh
có công đuổi giặc cứu nước”, “những nhà yêu nước vĩ đại, những gương cận thần báo
quốc muôn đời bất hủ”…Kết quả nghiên cứu này được một số Tổng tập văn học Việt
Nam gần đây phát huy dành cho thơ vịnh sử, hàng trăm bài tuyển chọn và một số lời bàn
thích đáng. Các tập văn học sử từ cuối thế kỉ XVIII về sau thường ít bàn đến thơ vịnh sử,
có lẽ thơ vịnh sử thời này đã biến chất, đổi dạng, trở thành thơ viết về đề tài lịch sử, đậm
chất trữ tình hoài cổ, như một số bài thơ viết về nhân vật Bắc sử của Nguyễn Du và các
nhà thơ đi sứ khác. Tập Ngư chế Việt sử tống vịnh của Tự Đức, tập Nhà chung vịnh cổ
vịnh sử của Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Đức Đạt…vì nhiều lí do, ít được các nhà viết văn
học sử bàn đến.
Dựa vào tư liệu hiện còn và với một quan niệm tương đối xác định về phạm vi thơ vịnh
có thể xem thơ vịnh sử chính thức ra đời vào giữa thời Trần với các tác giả Trần Anh
Tông, tức Trần Thuyên (1289 – 1320) ông vua thứ tư triều Trần, Trần Anh Tông để lại
mười bốn bài thơ, trong đó có sáu bài thơ vịnh các vua Hán, Đường, Tống theo thể thất
ngôn tuyệt cú. Thế là thơ vịnh sử nước ta chính thức mở đầu bằng những bài thơ chữ Hán
vịnh Bắc sử. Mãi đến đầu thế kỉ XV với Pháp Văn cổ tự kí, cũng gọi là Pháp Văn cổ phật
sự tích của Lý Tử Tấn, bài thơ mà Lê Quý Đôn “coi là thơ vịnh sử” (Kiến văn tiểu lục)
mới mở đầu chữ Hán vịnh Nam sử. Vào nữa sau thế kỉ XV thơ vịnh sử có bước phát triển
mới. Tập Cổ tâm bách vịnh gồm một trăm bài thơ chữ Hán vịnh Bắc sử là tập thơ chữ
Hán vịnh Băc sử có hệ thống đầu tiên. Cổ tâm bách vịnh của Lê Thánh Tông họa theo
thơ vịnh sử của Nho gia triều Minh là Tiến Tử Nghĩa, có Nguyên Chú, có Thân Nhân
Trung, có Đổ Nhuận…phụng bình, tất cả được viết theo thể thất ngôn, tuyệt cú, không có
phần viết đặt ở trước bài thơ về sự tích, hành trang nhân vật lịch sử. Cùng thời với Cổ
tâm bách vịnh, Lê Thánh Tông và các tác giả thời ông đã dùng Nôm viết thơ vịnh sử.
Theo Hồng Đức quốc âm thi tập và thơ Nôm Lê Thánh Tông thì thơ Nôm vịnh Bắc sử có
khoảng hai mươi bài, thơ Nôm vịnh Nam sử hiện thấy sáu bài: Xung thiên thần vương,
Chữ Đồng Tử, Lý Ông Trọng, Trưng Vương, Triệu Ấu, Vịnh Mị Ê. Thơ Nôm vịnh sử
khởi đầu từ đây, về sau không phát triển mạnh như thơ vịnh sử chữ Hán.
Thế kỉ XVI là thời hoàng kim của thơ ca vịnh sử, chũ yếu là thơ chữ Hán vịnh Nam sử
Vịnh giám vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm là tập thơ đầu tiên vịnh Nam sử có hệ
thống. Tác phẩm gồm 125 bài thơ thất ngôn tuyệt cú vịnh các nhân vật lịch sử từ Kinh
Dương Vương đến thời Hậu Trần. Tác phẩm được nhiều học giả ngày xưa coi là thiên
danh búc, có giá trị mẫu mực về đề tài vịnh sử. Sau Việt giám vịnh sử tập đáng chú ý là
Khiếu vịnh thi tập của Hà Nhâm Đại, tác giả thời nhà Mạc. Bài tựa của tác giả viết vào
năm (1590), có lẽ cũng là năm hoàn thành tác phẩm, Hà Nhâm Đại nối tiếp việt làm của
Đặng Minh Khiêm, vịnh các nhân vật thời Lê sơ, từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Đế. Tác
phẩm gồm hàng trăm bài, nhưng bản sau chép nhiều lần còn lại 88 bài. Phan Huy Chú
cho rằng “Khiếu vịnh thi tập là theo “Thoát Hiên mà làm”, còn Lê Quý Đôn thì nhận xét
“khí phách, âm điệu thơ Khiếu vịnh thi tập không bằng thơ Đăng Thoát Hiên”. Thơ vịnh
sử trong thế kỉ XVI và về sau các thế kỉ XVII – XVIII, ngoài hai tác giả có thi tập chữ
Hán vịnh Nam sử được suy tôn trên đây, còn có nhiều tác giả khác làm thơ vịnh sử của
cả văn học Đàng Ngoài và văn học Đàng Trong. Ngoài Lê Quang Bí, Nguyễn Đăng
Thịnh, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Trác Luân, Ngô Tuấn Cảnh, Nguyễn Quỳnh, Trần
Hiền, Phạm Nguyễn Du…thì Phùng Khắc Khoan, Giáp Hải, Dương phúc Tư, Lê Công
Triếu, Nguyễn Cư Trinh, Phạm Lam Anh…cũng có thơ vịnh sử để lại. Trong số các tác
giả trên đây, về thơ chữ Hán vịnh Nam sử thì đáng chú ý nữa là tập Tư hương vận lục
của Lê Quang Bí và Vũ Công Đạo. Hai tác giả này đều quê làng Mộ Trạch (Tân Hồng,
Bình Giang, Hải Dương) là làng khoa hoan nổi tiếng thiên hạ, với hai dòng họ Lê và Vũ.
Ông họ Lê đi sứ cho nhà Mạc, bị giữ lại ở Nam Ninh Trung Quốc mười chin năm, nhân
đó ông soạn ra tập thơ xưng tụng các tiên sinh đã được liệt phả hệ thờ cúng ở xã mình.
Sau đó khoảng một thế kỉ, ông họ Vũ đề vịnh tiếp một số nhân vật lang Mộ Trạch cũng
lấy tên tác phẩm là Tư hương vận lục. Hàng trăm bài thơ của hai tác giả họ Lê và họ Vũ,
đã bổ sung cho thơ chữ Hán vịnh Nam sử nguồn mạch và cách nhìn mới lạ. Thơ chữ Hán
vịnh Bắc sử thì đáng chú ý là Độc sử thi tưởng của Phạm Nguyễn Du vịnh 150 nhân vật
vua chúa, công khanh, trung thần, gian nịnh…thời cổ Trung Quốc. Sau đến tập Vịnh sử
thi tuyển gồm khoảng 300 bài thơ của các danh sĩ Trường An tứ hổ thế kỉ XVIII: Nguyễn