Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ nữ TRONG THƠ lý BẠCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.59 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

TÔ THỊ LIỄU

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
THƠ LÝ BẠCH

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: ThS. BÙI THỊ THÚY MINH

Cần Thơ, 2011

Trang 1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nói đến văn hóa nhân loại thì không thể bỏ qua nền văn hóa Trung Quốc vì
được coi là “cái nôi của văn minh phương Đông” và là nơi chứa đựng những gì tinh
túy nhất. Trong đó văn học đóng một vai trò hết sức to lớn trong nền văn hóa Trung
Hoa. Niềm tự hào của văn học Trung Quốc cho đến nay vẫn là thơ Đường. Giai đoạn
(618-907) đây là thời kì cực thịnh của văn học với những thành tựu thơ ca tạo nên thời
đại hoàng kim của lịch sử phát triển thơ ca trong xã hội phong kiến.
Giai đoạn xã hội này gắn với tên tuổi của một số nhà thơ lớn: Đỗ Phủ, Bạch Cư
Dị, Vương Xương Linh đặc biệt là “ Thi tiên” Lý Bạch, một ngôi sao sáng trên bầu trời
thi ca đời Đường. Ông đã để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ với thành công về nội dung


lẫn nghệ thuật. Đây là thời kì nhà Đường phát triển cực thịnh, đất nước phát triển về
moiuj mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, nhưng những tư tưởng hủ nho, phong
kiến vẫn tồn tại và đè nặng lên con người. Trong xã hội vẫn còn những bất công, có
những số phận nhỏ bé, bị chèn ép, bị vùi dập, tiêu biểu là người phụ nữ. Xã hội bước
vào thời kì sở hữu tư sản, trong đó người phụ nữ không được coi trọng, mặc dù họ
cũng là một lực lượng quan trọng trong xã hội trong mọi thời đại, ở họ có những nét
đáng quý về hình thức bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong mà nhiều khi đấng mày râu
không thể có được. Lý Bạch đã nhận thấy điều đó và dành cho họ cái nhìn ưu ái, đó là
những con người với lòng chung thủy, sắc son, có sức tưởng tượng phi thường, đó
chính là người phụ nữ trong thơ Lý Bạch. Chính hình ảnh những người phụ nữ trong
thơ ông đã làm cho tôi suy nghĩ về ông cũng như thơ ông. Từ đó người viết đã đi đến
quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình là tìm hiểu “Hình
tượng người phụ nữ trong thơ Lý Bạch”. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài này còn
giúp tôi có những hiểu biết thêm và có những cảm nhận sâu sắc về người phụ nữ trong
xã hội phong kiến. Hơn nữa, đây là vấn đề còn chưa được nghiên cứu một cách toàn
diện, nên chúng tôi hi vọng sẽ mang một số đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu
thơ viết về người phụ nữ nói riêng và những vấn đề khác về Lý Bạch nói chung.

2. Lịch sử vấn đề
Trên thi đàn Trung Quốc thơ Đường chiếm một địa vị rất quan trọng, có thể nói
rằng ở Trung Quốc trước kia chưa từng thấy một thời đại nào có một nền thơ ca rạng
rỡ như đời Đường. Mặc dù bao nhiêu biến cố đã hủy hoại rất nhiều di sản văn học của
Trang 2


nhân dân, mà ngày nay họ vẫn còn có được hơn 48000 bài thơ của 23000 thi sĩ. Chừng
ấy bài thơ còn sót lại, với nội dung phong phú và nghệ thuật tuyệt thế cũng đủ dánh
dấu thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc và làm cho thơ Đường cùng với Kinh
thi, Sở từ, Tống từ và thơ ca Trung Quốc hiện nay được liệt vào hàng thơ ca ưu tú nhất
của nhân loại.

Đặc sắc nhất của thơ Đường là nội dung vô cùng phong phú, phản ánh rộng rãi
các mặt hoạt động của đời sống xã hội, điều này có vẻ tiến bộ hơn thơ ca của Lục
triều, nó phần lớn chỉ viết về đối tượng vua chúa, quan lại, kể lại những cuộc ăn chơi
xa xỉ của giai cấp trên. Chỉ có một vài cá nhân như: Tả Tư, Đào Tiềm, Bảo Chiếu, là
người đã miêu tả khá chân thực những hiện thực đen tối của xã hội, đó là do họ xuất
thân từ tầng lớp nghèo khổ nên thơ họ cũng là tiếng nói chung cho những số phận,
những tầng lớp dưới. Đến đời Đường, ngoài một số ít nhà thơ con nhà thế tộc, phần
đông các nhà thơ là con cái của những người bị áp bức, cho nên lực lượng sáng tác
cũng vô cùng phong phú, tác phẩm cũng đề cập được nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Nhưng cho dù ở thời kì nào, tầng lớp nào các nhà thơ đều lấy nguồn cảm hứng sáng
tác từ hiện thực xã hội. Bên cạnh những chủ đề về thiên nhiên như sông, núi, tuyết,
trăng, hoa …, thì những đề tài về cuộc đời, con người là một mảng không thể bỏ qua.
Thi nhân viết nhiều về con người thời đại, họ luôn có xu hướng đi, phát hiện và ca
ngợi cái đẹp của con người đó là giá trị nhân văn của thơ Đường, điều đó giúp ta hiểu
được tại sao phụ nữ trở thành một trong những nguồn cảm hứng sáng tác chính của thi
nhân đời Đường bởi họ chính là biểu tượng, là hiện thân của cái đẹp, của những gì tinh
túy nhất. Đối với thi nhân không chỉ đơn giản là họ có niềm rung cảm sâu sắc đới với
phụ nữ mà đa số họ muốn mượn hình ảnh người phụ nữ để nói lên tâm sự của chính
bản thân mình, bởi họ còn bị ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, ít coi trọng phụ nữ,
họ thiên về những cái riêng của bản thân hoặc viết về những đề tài có ý nghĩa to lớn,
có tính triết lý cao thể hiện chí khí, tài năng và hoài bảo của bản thân.
Đã có rất nhiều nhà thơ viết về đề tài người phụ nữ như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,
Đỗ Mục…, người nào cũng khai thác gần như triệt để và thể hiện một cách khá toàn
diện các khía cạnh về đề tài này. Trong đó đáng chú ý hơn hết là phải nhắc đến “Thi
tiên” Lý Bạch, ông đã rất thành công với những trang thơ viết về người phụ nữ. Ông là
người có tư tưởng tự do, không chịu gò bó, thích cái đẹp, yêu đất nước, nguyện cống
hiến sức mình để giúp nước. Ông có tình yêu thương vô hạn với những người lao
Trang 3



động, những số phận bi thảm dưới đáy xã hội cho nên khi viết về phụ nữ ông tỏ ra rất
am hiểu và khá thành công trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của mình thông qua
họ.
Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, đối với người dân Trung Quốc
thì có lẽ ai cũng thuộc không nhiều thì ít bài thơ của Lý Bạch. Còn đối với người Việt
Nam chúng ta thì cũng không ít người biết về thơ ông. Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà
trường thì ta cũng đã có được những kiến thức căn bản về ông. Tuy nhiên muốn tìm
hiểu rõ hơn thì còn cần nghiên cứu nhiều tài liệu hơn. Ta có thể dễ dàng tìm thấy một
số tài liệu, bài viết về tác giả ở một số thư viện, nhà sách, thậm chí trên internet cũng
có rất nhiều. Những công trình đề cập rõ nhất như: Nhiều tác giả- Lịch sử văn học
Trung Quốc (Tập I)- NXB Giáo Dục, 1997. Ở quyển sách này thì người viết chỉ cung
cấp một vài thông tin về tiểu sử cũng như cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lý Bạch,
bên cạnh đó cũng có đề cập đến nhũng vấn đề về tư tưởng, thành công về nghệ thuật
của ông và một vài minh chứng cho cảm hứng lãng mạn trong thơ ông. Tài liệu kế tiếp
là: Lưu Đức Niệm- Thơ Đường (chuyên luận), Nguyễn Khắc Phi- Lương Duy ThứDiện mạo thơ Đường, cũng chỉ dừng lại ở việc trích thơ, bình giảng một số bài thơ của
ông …, và có những công trình rải rác phân tích, bình một số bài thơ của ông: Nguyễn
Thị Bích Hải- Bình giảng thơ Đường- NXB Giáo Dục, 2003 cũng chỉ bình giảng một
số bài thường xuất hiện trong chương trình phổ thông cũ như: Vọng lư sơn bộc bố,
Hành lộ nan, Tĩnh dạ tứ, Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên và một số bài viết về
những tác giả khác. Những tác phẩm của ông cũng xuất hiện trong một số sách:
Nguyễn Khắc Phi- Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ- NXB Giáo Dục, tác
giả quyển sách này chỉ dành cho Lý Bạch một dung lượng không lớn. Trần Trọng Kim
tuyển dịch- Đường thi- NXB Văn hóa thông tin, 1995, thì chỉ trích dẫn một số bài thơ
của Lý Bạch, đó là những sáng tác viết về nhiều phương diện, đi vào từng khía cạnh
của cuộc sống. Tuy nhiên về đề tài “ Hình tượng người phụ nữ trong thơ Lý Bạch” đến
giờ cũng chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu đầy đủ. Một số công
trình như: Nhiều tác giả- Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập I)- NXB Giáo Dục, 1997,
Nguyễn Thị Bích Hải- Thi pháp thơ Đường- NXB Thuận Hóa- Huế, 1995, trong
những tài liệu trên thì vấn đề phụ nữ chỉ được đề cặp một phần nhỏ, chưa được khai
thác triệt để, thường chiếm dung lượng vài trang nằm trong phần cảm hứng lãng mạn.


Trang 4


Vấn đề người phụ nữ được miêu tả trong thơ Lý Bạch vừa mang yếu tố lãng mạn có cả
chất hiện thực, và chưa được các nhà nghiên cứu trình bày rõ.
Tóm lại, đề tài “ Hình tượng người phụ nữ trong thơ Lý Bạch” vẫn còn nhiều
chỗ chưa khai thác hết và người viết bước đầu sẽ đề cặp đến. Thơ Lý Bạch đã phần
nào phản ánh được lịch sử Trung Quốc gắn liền với số phận người phụ nữ. Nghiên cứu
về hình tượng người phụ nữ trong thơ Lý Bạch là một hướng mới, nhưng cũng có
những tài liệu trích dẫn một vài bài thơ của Lý Bạch viết về người phụ nữ, đó cũng là
nguồn tài liệu chính.

3. Mục đích nghiên cứu
Có thể nói cả cuộc đời Lý Bạch cống hiến cho cuộc sống, cho sự nghiệp sáng
tác, cho sự phát triển của văn học Trung Quốc nói riêng và văn chương nhân loại nói
chung. Ông đã để lại những bài thơ có thể nói là xuyên thế hệ làm xao động lòng
người. Những sáng tác của ông một phần mang yếu tố lãng mạn nhưng đó cũng là hiện
thực mà Lý Bạch muốn phản ánh. Tìm hiểu đề tài để làm rõ hình tượng người phụ nữ
thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, với những nét đáng quí, những nỗi đau riêng và cũng
giúp ta hiểu thêm về Lý Bạch, về cuộc đời cũng như sáng tác của ông. Đề tài này cũng
là minh chứng cho tài năng thơ ca của Lý Bạch thể hiện qua cách xây dựng hình tượng
người phụ nữ và có cái nhìn toàn diện hơn về người phụ nữ trong xã hội Trung Quốc
đời Đường.
Và một mục đích khác nữa khi người thực hiện đề tài này là muốn hoàn thiện
hơn vốn kiến thức về văn học cũng như về lịch sử Trung Quốc, để phục vụ cho việc
học trong thực tại và tương lai sau này.

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đây là giai đoạn văn học phát triển cao nhất trong lịch sử Trung Quốc. Các tác

giả có nhiều đề tài để lựa chọn: Thiên nhiên, con người, thời thế…, và khi viết về con
người thì có một đối tượng ít được xã hội quan tâm nhưng lại được sự yêu mến và
được lựa chọn để đưa vào thơ ca đó là người phụ nữ. Khi thể hiện đề tài này thì mỗi
người có cách thể hiện sáng tạo riêng, điều đó thể hiện những cái nhìn khác nhau của
các nhà thơ. Đặc biệt là với Lý Bạch, ông luôn có sự ưu ái cho người phụ nữ, minh
chứng là sự xuất hiện khá dày đặc của họ trong sáng tác của ông, và ông đã viết về họ
bằng thái độ trân trọng và sự cảm thông. Lý Bạch đã thể hiện nội dung này trên những

Trang 5


trang thơ thật sinh động và giàu hình ảnh. Khi nghiên cứu đề tài này người viết cũng
chú ý những điểm trên.
Bất kì đề tài nào cũng có phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Đối với đề tài hình
tượng người phụ nữ trong thơ Lý Bạch thì đối tượng nhiên cứu là thơ của Lý Bạch,
phạm vi nghiên cứu là các bài thơ của Lý Bạch đặc biệt là những bài thơ viết về người
phụ nữ. Cho nên phạm vi sẽ tập trung chủ yếu vào quyển Đường thi tuyển dịch của Lê
Nguyễn Lưu. Bên cạnh đó còn có một số tài liệu nghiên cứu về thơ Đường cũng góp
phần giải quyết các vấn đề của đề tài.

5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi áp dụng nhiều phương pháp trong việc nghiên cứu như: Phân
tích, tổng hợp, chứng minh, bình giảng, so sánh đối chiếu…, nhằm làm rõ luận điểm
bằng những lý lẽ đi kèm dẫn chứng cụ thể để giải quyết những yêu cầu của đề tài đặt
ra.

Trang 6


PHẦN NỘI DUNG

Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm “ Hình tượng nghệ thuật”
Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều có hệ thống hình tượng nghệ thuật riêng. Thông
qua hệ thống hình tượng, người đọc dễ dàng nhận ra phong cách tác giả, nhận ra sự
khác biệt giữa tác giả với tác giả, tác giả với thời đại.
Về vấn đề hình tượng nghệ thuật, có những ý kiến khác nhau. Theo GS Hoàng
Ngọc Hiến: “Nghệ thuật nhận thức sự vật bằng hình tượng cụ thể- cảm giác, chúng
không có nhiệm vụ phản ánh bản chất của sự vật, chúng tiếp cận tính cách của sự
vật”.
Theo TS Đỗ Văn Khang: “Hình tượng nghệ thuật rất phong phú, khi thì ước lệ,
khi thì tả thực, khi thì huyền ảo chứ không thể lúc nào cũng cụ thể- cảm giác, nghệ
thuật phải có nhiệm vụ phản ánh bản chất của sự vật”.
Có những ý kiến tiếp theo tranh luận về vấn đề hình tượng nghệ thuật, đa số họ
đồng tình với cách nói của GS Hoàng Ngọc Hiến. Bởi nó mang tính cấp tiến hơn, và
đây cũng là quan niệm về hình tượng nghệ thuật mà các tác giả hiện đại đang vận dụng
và đã được các nhà lý luận nổi tiếng giải thích. Nó khác quan niệm cũ xem hình tượng
nghệ thuật là bức tranh vừa khái quát- cụ thể, vừa lý tính- cảm tính … Quan niệm
đương đại hình tượng nghệ thuật thiên về cái cảm giác, cụ thể, khước từ lý tính, trừu
tượng, tuy nó được thể hiện bằng nhiều hình thức tổng hợp thẩm mĩ từ cụ thể- lịch sử,
tượng trưng- ước lệ, đến huyền ảo- vô thức, sắc thái có khác nhưng đều có tính chất
chung là trực tiếp, cụ thể, đánh mạnh vào cảm giác, vào nhận thức trực tiếp cảm tính,
coi trọng sự biểu hiện ấn tượng, cảm xúc, hơn là sự tái hiện thực tại.
Còn ý kiến của Đỗ Văn Khang cũng từng được chấp nhận một thời, có lúc
người ta cho rằng: Hình tượng nghệ thuật là cái phương tiện mà khi phản ánh thế giới
người nghệ sĩ hư cấu nên, ở nó có sự thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ
quan, giữa cái chung và cái riêng, giữa cảm tính và lý tính. Tuy nhiên các định nghĩa
trên đã có nhiều thay đổi theo thời gian, các yếu tố lý tính, khái quát giảm dần, nhường
cho các yếu tố trực giác, cảm tính và cái nhiệm vụ “phản ánh thế giới” cũng chẳng còn
Trang 7



là một chức năng nổi trội. Trong các công trình ngày nay, định nghĩa về hình tượng
nghệ thuật thường được xem là phương thức phản ánh hiện thực một cách riêng biệt
dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, được nhận thức trực
tiếp bằng cảm tính.
Theo tài liệu Thuật ngữ văn học: “Phương thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực
riêng biệt, vốn có và chỉ có ở nghệ thuật. Bất cứ hiện tượng nào được xây dựng lại một
cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều là hình tượng nghệ thuật; thông thường
và quan trọng nhất là hình tượng con người (hình tượng nhân vật). Ở hình tượng nghệ
thuật có sự hòa trộn nhân tố nhận thức- khách thể và nhân tố sáng tạo chủ thể”
[2;tr.142].
Hình tượng nghệ thuật có thể tồn tại qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó
bao giờ cũng ở phương diện tinh thần. Người đọc không chỉ thưởng thức “cuộc đời
thực” trong tác phẩm mà còn cảm nhận được sự suy tư, lòng trắc ẩn và cả nụ cười ẩn
trong cuộc đời thực ấy. Hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học
và thẩm mỹ của nghệ thuật.
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học lấy ngôn từ làm chất liệu để
xây dựng hình tượng. Hình tượng nghệ thuật là hình tượng ngôn từ. Thông qua hình
tượng ngôn từ, tác phẩm đem đến cho người đọc không phải là bức tranh đời sống
đứng yên mà luôn luôn sống động, lung linh, huyền ảo, vừa vô hình vừa hữu hình, cụ
thể đấy mà mơ hồ đấy như mặt trăng đáy nước, bóng người trong gương, như không
gian vốn ba chiều nay thu lại trong không gian hai chiều của hội hoạ, như một mái
chèo trên hai thước chiếu sân khấu mà tác giả đã vẫy vùng trước đại dương .
Người viết đồng tình với cách định nghĩa trên bởi nó cũng đồng nghĩa với việc
cho rằng hình tượng nghệ thuật là sự kết hợp hữu cơ những đặc điểm của trực quan
sinh động và tư duy trừu tượng. nhưng bản chất của nó lại không hề trùng hợp với đặc
điểm của loại này hoặc loại kia. Hình tượng nghệ thuật như một khách thể tinh thần
đặc thù. Gọi là “khách thể” bởi vì nó là thế giới tinh thần đã được khách thể hóa thành
một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, không phụ thuộc ý muốn chủ quan người

sáng tạo hay người thưởng thức, tuy nhiên ở đây nó cũng không gắn liền với quá trình
tâm lí của tác giả như trong quá trình sáng tạo gọi là “tinh thần” bởi tinh thần là một
cấp phản ánh đặc biệt của ý thức con người.
Trang 8


Nếu cảm giác, tri giác, khái niệm, phán đoán là những hình thức nhận thức phản
ánh từng mặt của khách thể thì cái tinh thần là một hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Tóm lại: Hình tượng nghệ thuật là khách thể tinh thần, mọi phương tiện biểu
hiện chỉ có ý nghĩa khi nào làm sống lại các khách thể đó và người đọc tác phẩm chỉ
khi nào thâm nhập được vào thế giới tinh thần đó mới nảy sinh được sự thưởng thức
đồng cảm. Nó là sự đặc trưng hóa một cách hoàn chỉnh và trọn vẹn những hiện tượng
cuộc sống và nó miêu tả dưới hiện thực cảm tính cụ thể, cá biệt, có ý nghĩa thẩm mỹ
và khái quát hóa, được nhà văn thể hiện bằng ngòi bút của mình.

1.2. Khái quát về thơ Đường
1.2.1 Những đặc điểm cơ bản
“Thơ Đường chính là hoa thơm trái ngọt trong cái cây thi ca Trung Hoa kể từ
sau Kinh Thi” [20; tr.15]. Có thể nói thơ Đường là một hiện tượng thơ ca đặc biệt ảnh
hưởng lớn đến đời sống văn hóa, xã hội Trung Quốc từ xưa đến nay. Mặc dù thể thơ
này chỉ tồn tại trong khoảng thời gian (618-903 sau CN) nhưng số lượng thì vô cùng
đồ sộ với khoảng 2300 bài thơ và xuất hiện một số nhà thơ tài ba như Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị, Lý Bạch… Về đề tài thì rất phong phú, bao gồm tất cả các mặt trong xã hội đời
Đường.
Thơ Đường được kết tinh, chắc lọc những gì hay nhất, đẹp nhất, tinh túy, ý vị
nhất vì thế hầu như thi nhân mọi thời đại đều đánh giá cao thơ Đường, chỉ trong một
thời gian mà thơ Đường đã đạt được những thành tựu đáng kể. Khi nói đến thơ Đường
là nói đến đỉnh cao của thi ca Trung Hoa và là “thời đại hoàng kim của thơ ca phương
Đông” [20; tr.15]. Sự phát triển của thơ ca Đường có thể chia làm bốn giai đoạn theo

các mốc lịch sử:
- Sơ Đường (618-713):
Thơ ở giai đoạn này chủ yếu được làm theo thể tứ tuyệt với những nhà thơ nổi
tiếng của phái Tứ Kiệt (Vương Bột, Dương Quýnh, Lạc Tân Vương, Lư Chiếu Lân),
phái Thẩm Tống (Thẩm Nguyên Kỳ và Tống chi Vấn), phái Ngô trung tứ sĩ (Hạ Chi
Trương, Bao Dung, Tương Húc, Trương Nhược Hư) …, riêng Trần Tử Ngang là người
có công tìm tòi những nét mới xóa dần đi sự duy mỹ, khuôn khổ đặt ra nền móng để
chuẩn hóa thơ, góp phần tạo nên luật thơ cho đời sau. Hai tác phẩm xuất sắc của thơ ca

Trang 9


đời sơ Đường là bài “Xuân giang hoa dạ nguyệt” của Trương Nhược Hư và bài “Đằng
vương cát” của Vương Bột.
- Thịnh Đường (713, -766)
Đây là thời kỳ có nhiều trường phái nhiều tác giả được nghìn đời sau ca tụng và
ngưỡng mộ nhất. Đây là giai đoạn ngắn nhất nhưng sự phát triển của nó lại vượt bậc
chưa từng thấy. Thơ thời kỳ này đa dạng về đề tài, nội dung, chủ đề…, cùng với những
tài năng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Xương Linh, Thôi Hiệu, Mạnh
Hạo Nhiên…, thơ ca chia thành nhiều trường phái:
+ Phái sơn thủy điền viên: với các đại biểu như Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy.
+ Phái lãng mạn: đứng đầu là Lý Bạch.
+ Phái hiện thực: Đỗ Phủ.
Thơ ca đời Đường vượt trội hơn so với các giai đoạn khác chính là ở chổ nhiều
về số lượng, đạt về chất lượng, đây là thời đại hoàng kim của thơ ca thời Đường nói
riêng và thơ ca Trung Hoa nói chung.
Đúng như nhà thơ Việt Nam đã từng nhận xét:
“Khen rằng đáng giá thịnh Đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”
(Nguyễn Du)

- Trung Đường (766- 835)
Lúc này thơ ca không còn phát triển như trước bởi những biến cố lịch sử. Xã
hội trải qua loạn (An- Sử), những mất mác, sự hoảng loạn trong tinh thần vẫn là vết
thương âm ỉ trong lòng mỗi người. Tuy nhiên cũng có một số tác giả và tác phẩm xuất
sắc như Bạch Cư Dị với “Trường hận ca” và “Tỳ bà hành”. Ngoài ra còn phải nhắc
đến Hạn Dũ và Liễu Tông Nguyên.
- Vãn Đường (835-907)
Đây có thể coi là buổi chiều tà của thơ Đường. Càng về sau xã hội càng trở nên
suy thoái. Nhiều nhà thơ vẫn mang nỗi buồn thời thế. Thế nhưng vẫn có một số tài
năng thơ ca xuất hiện như Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục, Ôn Đình Quân, Lý Hạ …, cũng
tạo nên nét mới lạ, đặc sắc riêng cho thời kỳ này.

Trang 10


1.2.2. Chủ đề người phụ nữ trong thơ Đường
Thơ ca Trung quốc phát triển nhất vào đời Đường, trong đó thời kì thịnh Đường
được gọi là thời đại hoàng kim trong lịch sử Trung Quốc. Các nhà thơ Đường đã phản
ánh hiện thực xã hội với nhiều chủ đề khác nhau như thiên nhiên, đất nước, thời thế,
con người…, trong đó các nhà thơ cũng dành một dung lượng không nhỏ để nói về chủ
đề người phụ nữ. Các nhà thơ đã phản ánh hiện thực cuộc sống sinh hoạt của người
phụ nữ trong xã hội một cách sinh động, sáng tạo. Thi nhân không chỉ nhận thức được
vẻ đẹp về ngoại hình bên ngoài mà còn thấy được phẩm chất bên trong của họ, đặc biệt
là nhận thấy được nỗi đau và những nguyên nhân sâu xa đã vùi dập cuộc đời họ. Bên
cạnh đó nhà thơ đã thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ, họ là lực lượng sản
xuất quan trọng trong bất kì xã hội nào, trong lịch sử cách mạng Trung Quốc nếu
không có sự tham gia của phụ nữ thì khó có thể thành công được. Thế nhưng người
phụ nữ lại phải sống trong thảm kịch, bị áp bức về mọi mặt và bằng nhiều hình thức
khác nhau. Ngoài sự áp bức của giai cấp họ còn chịu nỗi đau của những quan niệm
thần quyền, phụ mẫu quyền, nam quyền… Người phụ nữ trong xã hội phong kiến còn

phải chịu bao nỗi thống khổ chồng chất. Khổ vì sưu cao thuế nặng khổ vì tình duyên
dang dở, khổ vì phận mỏng, vì không con …, các nhà thơ đã rất khéo léo đề cập đến
những vấn đề này ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đối tượng được các nhà thơ hướng
đến nhiều nhất là những người phụ nữ trong cung cấm. Miêu tả những việc tranh giành
sủng ái, khoe khoang giàu có, hào hoa lộng lẫy của những ngươi phụ nữ tầng lớp trên
trong cung đình, sự khổ đau, bi thảm của những người phụ nữ ở tầng lớp dưới, những
người cung nữ, những nét đẹp về ngoại hình lẫn tâm hồn của những người phụ nữ bình
thường, số phận bi thảm của cô gái nghèo, những người phụ nữ lao động. Tất cả đã
được các thi nhân phản ánh một cách chân thực trong một mức độ nhất định. Đó như
là một bảng cáo trạng về sự tàn bạo của xã hội phong kiến. Tuy nhiên hầu như đó chỉ
là cách mượn hình ảnh phụ nữ để than thở cho chính bản thân mình, họ cũng khổ đau,
cũng đang bị thất sủng, bị chèn ép và đó cũng là đặc điểm nổi trội của thơ Đường.
Viết về phụ nữ thì có rất nhiều nhưng trước hết phải nhắc đến những vần thơ
của Bạch Cư Dị:

“Nhất sinh mạc tác phụ nhân thân,
Bách niên khổ lạc do tha nhân”
Trang 11


(Người ta sinh ra chớ nên làm con gái
Trăm năm sướng khổ do người khác quyết)
(Thái hành lộ- Bạch Cư Dị)
Với hai câu thơ trên thì tác giả đã vạch ra một tương lai đen tối cho người phụ
nữ. Số phận của họ bị chi phối bởi nhiều thế lực, hạnh phúc sẽ là một thứ ngoài tầm
tay của họ.
Đặc biệt đối với người phụ nữ bị thất sủng trong cung thì việc tìm hạnh phúc
khó như hái sao trên trời. Họ phải chôn chặt cuộc đời nơi cung cấm, chịu sự ghẻ lạnh,
mang một nỗi oán trách đến lúc lìa đời:
“Lệ thấp la cân mộng bất thành

Dạ thâm tiền điện oán ca thanh
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn,
Tà ỷ huân lung tọa đáo minh”.

(Đêm khuya không ngủ lệ thấm đầy
Tiếng đàn đã tắt gió mành bay
Nhan sắc chưa phai mà ghẻ lạnh
Tựa gối đầu nghiên tới rạng ngày)
(Hậu cung từ- Bạch Cư Dị)
Thi nhân đã viết về họ với cả một sự cảm thông. Họ chính là nạn nhân của chế
độ vua chúa. Tuy nhiên họ còn có được chút hạnh phúc là đã từng được vua yêu
thương, bên cạnh những con người đáng thương này còn có những số phận còn bi
thảm hơn, những bản cáo trạng gay gắt hơn đó là tình cảnh của những cô cung nữ bị
đưa vào cung, chôn vùi cả tuổi thanh xuân, cả cuộc đời nơi cung cấm nhưng chưa một
lần được gặp mặt vua. Đây là một hiện trạng có thật trong xã hội phong kiến. Dưới
thời Đường Minh Hoàng có rất nhiều cô gái trẻ, đẹp được đưa vào kinh đô Lạc Dương
và Trường An để làm cung tỳ. Và Bạch Cư Dị đã thể hiện lòng thương tiếc cho phận
hồng nhan, tố cáo chế độ tàn bạo qua bài “ Thượng dương bạch phát nhân”, lúc nàng
mới vào cung thì: “Kiểm tự phù dung hung tụ ngọc” (Mặt tựa phù dung thân tựa ngọc),
nhưng sau bao lần trăng không thâý mặt Hoàng Đế đâu mà chỉ thấy ánh trăng vẫn vô
tình xuất hiện rồi biến mất theo tuần hoàn của tự nhiên, và bây giờ thì : “Hồng nhan
Trang 12


ám lão bạch phát tân” (Má hồng phai nhạt tóc sương nhuốm màu). Tàn nhẫn hơn đó là
việc trói chặt cuộc đời của những cô gái với những cái lăng tẩm, với người chết.
“Vũ lộ chi ân bất cập giả
Do văn bất cập tam thiên nhân
Tam thiên nhân, ngã nhĩ quân ân hà hậu bạc?
Nguyên lệnh luân chuyển trực lăng viên,

Tam tuế nhất lai quân khổ lạc”

( Mưa móc ơn vua không rưới khắp
Vẫn nghe không tới ba ngàn người
Ba ngàn người đây đó ơn vua ai nặng nhẹ?
Theo lệnh chuyển tới trực lăng viên
Ba năm thảy đều cùng sướng khổ)
(Lăng viên thiếp- Bạch Cư Dị)
“Lăng viên thiếp”, đó là nỗi uất nghẹn của người cung nữ giữ lăng được Bạch
Cư Dị thể hiện.
Trong cung cấm, đối lập với những người thất sủng, những người chưa từng
được sủng ái đó là những cung phi với sắc đẹp mê hồn và đang hưởng ân sủng của
Hoàng Đế, đó là thời gian sung sướng cực độ. Trong bài “Ai giang đầu” Đỗ Phủ đã
thuật lại cảnh huy hoàng của bậc dương phi:
“Ức tinh nghê tinh hạ nam uyển
Uyển trung vạn vật sinh nhan sắc
Thiều dương điện lý đệ nhất nhân
Đồng liễn tùy quân thị quân trác
Liễn tiền Tài nhân đới cũng tiễn
Bạch mã tước tước hoàng kim lặc
Phiên than hướng thiên ngưỡng xạ vân
Nhất tiễn chính trị song phi dực”

(Nhớ trước kiệu cờ ghê xuống vườn Nam
Trong vườn muôn vật thêm nhan sắc
Trang 13


Người đẹp bậc nhất điện Chiêu Dương
Cùng kiệu cung vua bao nhan sắc

Trước kiệu cung nhân đeo
Ngựa trắng chuông vàng rung tiếng nhạc
Vươn mình bắn tên lên ngang mây
Một tên hai chim rơi cùng lúc)
(Ai giang đầu- Đỗ Phủ)
Thế nhưng cuối cùng nàng cũng trở thành vật hi sinh cho chế độ hậu cung độc
ác, đó là qui luật, là số phận không tránh khỏi của kiếp hồng nhan. Bên cạnh đó còn có
những cô gái tài sắc vẹn toàn cũng phải cùng chung số kiếp, đã trở thành vật hi sinh
cho những mưu đồ chính trị như Vương Chiêu Quân. Nhà thơ Lý Bạch đã mượn sự
tích về nàng để tố cáo xã hội phong kiến cướp đi hạnh phúc của người phụ nữ, đến
chết vẫn còn ôm nỗi hận lòng:
“ Sinh phạp hoàng kim uổng đồ họa
Tửu lưu thanh trủng sử nhân ta”

(Sống thiếu cân vàng tranh vẽ nhọ
Chết phơi nấm đất cỏ xanh rì)
(Vương Chiêu Quân- Lý Bạch)
Thi nhân còn dùng ngòi bút của mình để miêu tả tài nghệ của những ca nhi, vũ
nữ, họ là những người có tài nhưng lại bị xem thường do định kiến xã hội khắc khe.
Tài nghệ của họ chỉ để mua vui cho người khác và được đổi chác bằng tiền. Họ cũng
là nhũng người có nhan sắc phải chịu kiếp hồng nhan bạc phận, bị lưu lạc, cô đơn giũa
cuộc đời, phải lâm vào cảnh ngộ “Vành rượu bạc gãy tan nhịp gõ; Bức quần hồng
hoen úa rượu ơi” đó là cô gái trong bài “Tỳ bà hành”.
“Thiên hô vạn hóa thủy xuất lai,
Do lão tỳ bà bán gì diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,
Vi hành khúc điệu thiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tư
Tự tố sinh bình bất đắc chí”


Trang 14


(Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nữa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng bay
Nghe não ruột máy dây buồn bực
Dương than niềm tấm tức bấy lâu)
(Tỳ bà hành- Bạch Cư Dị)
Tiếng đàn réo rắc khi trầm lúc bỗng, một mối tơ vò, tâm sự ngổn ngang. Tiếng
đàn não ruột, như tiếng lòng của một cô gái, nàng đã trút hết bầu tâm sự của mình, với
mong muốn tìm được tri âm, nhưng sự thật diễn ra trước mắt thì quá phủ phàng “Dẫu
chưa nên khúc tình đà thoảng bay”.
Bên cạnh những người phụ nữ trong cung cấm, những nàng ca kỉ thì bộ phận
những người phụ nữ đời thường được tự do về không gian sinh sống cũng được các
nhà thơ chú ý đề cập đến. Đó là những người phụ nữ lao động, những cô gái tầm
thường không điểm trang, không son phấn. Họ hiện lên với những vẻ đẹp sống động,
những phẩm chất cao quí, nét đẹp của họ được thể hiện trong lao động đó là một sự
phát hiện đầy sáng tạo của thi nhân. Lý Bạch với bài “Thái liên khúc” đã khái quát lên
điều đó.
Chủ đề về người phụ nữ trong thơ Đường rất đa dạng và phong phú, các thi
nhân đã thể hiện đề tài khá phong phú với nhiều mặt khác nhau. Các thi nhân nhìn
nhận về phụ nữ một cách khá chính xác. Họ không những đẹp mà còn lắm nỗi đau
trong cuộc đời mà họ phải gánh lấy, chỉ với ngòi bút của thi nhân thì họ mới giải tỏa
được những nỗi u uất, sầu hận. Các nhà thơ đã bênh vực họ, đứng về phía họ để chiến
đấu hay đó cũng nhằm mục đích mượn hình ảnh họ để nói lên tâm sự của chính mình
“tài cao nhưng phận bạc”. Và những vần thơ đó chính là bản cáo trạng đối với xã hội
phong kiến.


Trang 15


Chương 2:
LÝ BẠCH VÀ THƠ ÔNG
2. 1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lý Bạch
Lý Bạch (701-762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê quán ở thành Kỷ,
Lũng Tây ( nay ở huyện Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc), tổ tiên vì mắc tội bị đày đến Tây
Vực.
Ông sinh ở Toái Diệp, trưởng thành ở làng Thanh Liên, huyện Chương Minh
thuộc Miên Châu (nay là huện Miên Dương, Tứ Xuyên). Còn trẻ đã thích múa kiếm,
khinh tài trọng nghĩa, thích làm hiệp khách, rất giỏi thơ phú.
Năm 20 tuổi ông đi du lịch khắp nơi như Thành Đô, núi Nga Mi …và lên núi để
đọc sách.
Năm 25 tuổi “đeo kiếm rời nước, tù biệt cha mẹ đi xa”, rời quê hương.
Năm 27 tuổi ông kết hôn cùng cháu gái quan tể tướng Hứa Vũ Sư ở An Lục
(Hồ Bắc) và từ An Lục ông chu du khắp nơi.
Thiên Bảo năm đầu (742), Lý Bạch được Ngô Quân tiến cử lên vua Đường, vua
đòi ông về Trường An và được đường Minh Hoàng phong chức Cung phụng hàn lâm.
Ba năm sống ở kinh đô, ông nhận ra bộ mặt xấu xa thối nát của bọn quyền quý, mộng
trở thành người kinh ban tế thế không còn.
Năm Thiên Bảo thứ ba (744), ông từ quan, rời Trường An đến Lạc Dương tiếp
tục chu du khắp nơi, kết bạn với nhiều người như Đỗ Phủ, Cao Thích …
Trong loạn An Lộc sơn, Đường Huyền Tông chạy vào đất Thục. Lúc này Lý
Bạch ra giúp sức cho Vĩnh Vương Lí Lân ( con trai thứ 16 của Đường Minh Hoàng,
em Đường Túc Tông) để cứu nước. Nhưng Lí Lân bị nghi ngờ và bị quân đội của Túc
Tông đánh tan, Lí Lân bị giết, Lý Bạch bị bắt và bị đày đi Dạ Lang, trên đường đi gặp
kì đại xá nên trở về quê.
Năm 761 ông bị bệnh và mất một năm sau đó, tại nhà của chú họ là Lý Dương
Băng, huyện lệnh huyện Đương Đồ (An Huy).

Ông mất đi để lại trên 1000 bài thơ. Nội dung thơ lý Bạch rất phong phú nhưng
chủ đề chính là thể hiện sự khát khao vươn tới lí tưởng cao cả. Khát vọng giải phóng
cá tính, thái độ bất bình với hiện thực tầm thường và thế giới tình cảm phong phú,
mãnh liệt, phong cách thơ Lý Bạch rất phóng túng, phiêu dật mà rất tự nhiên, tinh tế và
giản dị, thơ ông lại nói về cõi tiên nên mọi người gọi ông là “ Thi tiên”. Cuộc đời của
Trang 16


“Thi tiên” là một cuộc hành trình vươn tới cái cao cả của lí tưởng làm người, cũng là
một cuộc hành trình đi tìm và thể hiện cái đẹp của tự nhiên, của dời sống và của tình
người, đặc trưng mĩ học của thơ Lý Bạch là sự thống nhất giữa cái cao cả và cái đẹp.

2.2. Tư tưởng của Lý Bạch
Lý Bạch là nhà thơ lãng mạn vĩ đại của văn học Trung Quốc. Chính sự giáo dục
của gia đình đến con đường chính trị đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Lý Bạch.
Hoàn cảnh xã hội thịnh suy của nhà Đường cũng tác động đến ông. Nó làm cho tư
tưởng ông rất phức tạp, phong cách thơ ông không thuần nhất (vừa hào phóng bay
bổng, vừa trầm tư u uất), đôi khi có sự kết hợp giữa lãng nạn và hiện thực.
Lý Bạch là người chịu ảnh hưởng mạnh của tưởng Nho gia và Đạo gia nhưng
Đạo gia chiếm ưu thế hơn trong việc hình thành hệ tư tưởng trong thơ ông. Bản chất
ngạo mạn, thích tự do đã ăn sâu và tâm trí ông. Dám đem mình so sánh với những bậc
thánh nhân, đem lời giễu cợt:
“Sở cuồng chính là ta
Hát rong cười ông Khổng”
Hoặc:
“Sự nghiệp Thuấn, Nghêu chi đáng sợ
Lòng ta phơi phới vẫn coi thường”.
Lúc còn trẻ đã đeo kiếm đi chu du khắp nơi. Ông ngưởng mộ thái độ sống
khẳng khái, tinh thần du hiệp của các hiệp sĩ, châm biếm không chút nể nang bọn nho
sinh hủ lậu, bất tài, chính những ý nghĩ đó làm cho những vần thơ của ông vô cùng

bay bổng, phóng khoáng :
“Nho sĩ đâu bằng người hiệp sĩ
Bạc đầu đọc sách có gì hay”.
Ông viết rất nhiều bài thơ ca ngợi thái độ sống, tinh thần của các hiệp sĩ bằng
thái độ ngợi ca, nể phục:
“Tề có ông phóng khoáng,
Lỗ Liên thật tuyệt vời,
Trăng sáng từ đáy biển,
Một sớm chiếu muôn nơi.
Tuyệt Tần nổi danh tiếng,
hậu thế còn sáng soi.
Trang 17


Coi thường nghìn vàng tặng,
Ngó nhìn Bình Nguyên cười.
Ta cũng người phóng đãng,
Phủi áo về mà chơi.”
(Cổ phong bài 10)
Luồng tư tưởng giận đời ghét tục, trở về với thiên nhiên của đạo gia kết hợp
với tinh thần du hiệp, lấy tinh thần phản nghịch đả kích trật tự và lễ giáo xã hội phong
kiến, lấy thái độ ngạo mạn mà kinh thường bọn quyền quý trong tập đoàn thống trị.
Tìm kiếm sự tự do cá nhân và giải phóng cá tính. Do cơ sở tư tưởng đó mà lí tưởng và
nguyện vọng đẹp đẽ thể hiện trong thơ ông thường phù hợp với yêu cầu của tầng lớp
trí thức tiến bộ đương thời và ở một mức độ nào đó nó cũng phù hợp với yêu cầu của
nhân dân nói chung, làm cho phần lớn thơ ông chan chứa một tinh thần lãng mạn tích
cực và sáng ngời như ngọn lửa chưa bao giờ tắt. Ông cũng đã lấy nền tảng tư tưởng đó
làm chuẩn mực cho hoạt động chính trị của mình, theo suy nghĩ “công thành thân
thoái”.
“ Mong được giúp chúa hiền

Công thành về rừng cũ.”
Hay:
“Công thành phủi áo cút
Trở về bến Vũ Lăng.”
Ông cũng nhận ra được sự suy đồi của xã hội, sự khủng hoảng về kinh tế, chính
trị và cuộc sống hoang dâm, xa xỉ của bọn thống trị. Ông đã vạch trần và đả kích
chúng qua hàng loạt bài thơ, điển hình là qua năm mươi chín bài Cổ phong:
“Xe tung bụi mù trời,
Giữ trưa mà tối mịt!
Hoạn quan lắm bạc vàng,
Liền mây nhà cao tít.
Lũ chọi gà trên đường,
Mũ miện lọng tàn hết!
Hơi thở thấu cầu vòng,
Người đi đường chết khiếp.
Đời thiếu kẻ rửa tai,
Trang 18


Nghiêu, Chích nào ai biết!”
(Cổ phong- Bài 24)
Ông còn là người yêu thiên nhiên và chính thiên nhiên đã tạo nên nguồn cảm
hứng vô tận cho thi nhân, dưới đôi mắt thi nhân, thiên nhiên hiện lên với nhiều sắc thái
khác nhau, thể hiện sự giao hòa giữa thi nhân và đất trời. Có khi mang một nét đẹp
tuyệt vời làm mê hồn người
“Chèo thuyền xuống bến Quảng Lăng
Trên đình Chinh Lỗ một vừng trăng treo.
Hoa đồi như dải gấm thêu
Trên sông đốm lửa như chiếu sao sa”.
(Dạ hạ Chinh Lỗ đình)


Đôi khi thiên nhiên hùng vĩ khiến người ta choáng ngợp, bất ngờ như bài:
“Vọng Lư sơn bộc bố, bài 2”.
“Nắng rọi Hương lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây”
Trong bài Tĩnh dạ tư, ông đã kết hợp yếu tố trữ tình và tự sự để miêu tả vẻ đẹp
của thiên nhiên:
“Đầu giường ánh trăng rọi
Mặt đất ngỡ là sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương”.
Những bài thơ miêu tả thiên nhiên của ông, dù trong sáng, siêu phàm hay hào
phóng, mạnh mẽ, đều có thể đưa lại cho chúng ta một sự hưởng thụ cái đẹp, hung đúc
tâm hồn chúng ta và khích lệ lòng yêu nước.
Tinh thần yêu nước của Lý Bạch ngoài cách gởi gắm tâm tình, cách miêu tả đối
với thiên nhiên, còn được thể hiện ở nỗi đau xót khi đất nước gặp nguy, xót thương
cho người dân vô tội phải chụi nhiều mất mát trong cuộc chiến tranh phi nghĩa, mà bản
thân thì không thể xoay chuyển tình thế.

Trang 19


“Tháng ba Lạc Dương bụi Hồ bay,
Trong thành Lạc dương oán hận đầy.
Thiên Tân nước chảy sóng như máu.
Xương trắng ngỗn ngang tũa đống cây”.
(Mãnh hổ hành)
Cho nên lòng ông lúc này:

“Ruột đứt không vì nghe nước Lũng
Lệ rơi nào phải dạo đàn ung.”
(Mãnh hổ hành)
Thế nhưng:
“Bệ rồng nào dám dâng mưu sách,
Đành trốn về Nam lánh giặc Hồ.”
(Mãnh hổ hành)
Bên cạnh đó, ở Lý Bạch luôn chứa đựng tinh thần nhân đạo, thông cảm cho sự
đau khổ của người dân, yêu thương con người, phản ánh một cách khá chính xác hiện
thực cuộc sống. Tuy Lý Bạch chưa trải nghiệm đời sống của nhân dân lao động một
cách đầy đủ nên số lượng tác phẩm viết về đề tài này không nhiều nhưng như vậy
cũng đã thể hiện được sự chân thành của thi nhân đối với người lao động. Ông hiểu:
“Nhà nông mùa màng khó nhọc, cô gái hàng xóm đêm khuya giã gạo lạnh lùng.” Cũng
là tinh thần nhân đạo, ông cũng dành những vần thơ nói về người phụ nữ, một lực
lượng luôn bị xã hội phong kiến xem thường, việc xuất hiện trong thơ ca là rất hạn
chế.
Đó cũng không nằm ngoài mục đích lên án xã hội, xót thương cho bản thân, cho
con người. Trong Lý Bạch ta dễ dàng nhận thấy sự mâu thuẫn đó là ông giận đời, ghét
tục, yêu tự do, tinh thần ẩn dật. Một mặt gắn bó với thiên nhiên đất trời, tuy nhiên khi
có cơ hội thì ông luôn hăm hở lao vào con đường chính trị, khát vọng lập công danh
rất mạnh mẽ trong ông, bởi lòng yêu đất nước yêu quê hương luôn dạt dào trong lòng
thi sĩ. Ông mong muốn “đem tài trí năng lực nguyện giúp đỡ nhà vua, làm cho thiên
hạ yên ổn, bốn bề thanh bình”, “cứu dân đen”, “làm cho dân an cư lạc nghiệp”.
Nhưng chính sự đen tối của xã hội đã khiến ông trở thành người “bất đắc chí” cho nên
mới nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt.

Trang 20


Tóm lại: “Thơ Lý Bạch là thơ lãng nạn, nói chung lành mạnh và tích cực. Nội

dung và phong cách thơ ấy chính là phản ánh lối sống, tính cách và tư tưởng của ông,
cho nên muốn tìm hiểu ở chỗ đó. Lý Bạch là con người cuồn phóng, không chịu sự trói
buộc nào.
Thơ Lý Bạch có một phong cách phóng khoáng, hào hùng rất đặc biệt. Phong
cách gắn liền với nội dung tư tưởng các bài thơ mà cũng gắn liền với nhân cách của
nhà thơ. Lời thơ không sắp đặt, không trau chuốt, đẹp một cách tự nhiên” [10; tr.137] .
2.3. Nghệ thuật thơ Lý Bạch:
Lý Bạch chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực trong Kinh thi, ảnh hưởng sâu
sắc nhất vẫn là những tác phẩm của Khuất Nguyên trong Sở từ. Lý Bạch đã kế thừa và
phát huy truyền thống lãng mạn tích cực của Khuất Nguyên, tuy nhiên có sự phát triển
thêm. Về nội dung có phần rộng hơn, thơ ông luôn chan chứa tình yêu quê hương, đất
nước, thể hiện sự đồng cảm đối với những số phận khổ đau bị áp bức, nỗi phẫn uất
trước xã hội đen tối, tỏ ra căm gét bọn thống trị phong kiến thể hiện qua những vần thơ
có tính phản kháng mãnh liệt. Về bút pháp, ông hấp thụ thủ pháp khoa trương của thơ
ca nhân gian nhưng có sự sáng tạo riêng nhờ vào trí tưởng tượng bay bổng của mình:
“Khách từ Trường an đến,
Lại trở về Trường An.
Lòng ta cơn gió cuốn,
Trèo lên cây Tần quan.
Tình này khôn xiết kể,
Bao giờ lại gặp nhau?
Nhìn xa nào có thấy,
Mây mù khuất núi ngàn.”
(Kim Hương tống Vĩ Bát chi Tây Kinh- Lý Bạch)
Ông đã dùng sức tưởng tượng để nói lên sự quyến luyến của mình với Trường
An. Ông là người yêu thiên nhiên, tất cả những hình ảnh về thiên nhiên hiện lên trong
thơ ông hết sứ kì ảo, khác thường, như một con người đó là do thủ pháp nhân cách
hóa. Khi nói đến ánh trăng thì không phải đơn thuần là ánh trăng bình thường mà ông
còn kết hợp việc sử dụng thủ pháp nhân cách hóa để thể hiện một ánh trăng nó không
chỉ đẹp mà còn là người bạn tri âm của thi nhân:

“Chiều hôm bước xuống chân đèo,
Trang 21


Bóng trăng trên núi cũng theo cùng về.”
Ông có rất nhiều sáng tạo khi sử dụng nghệ thuật phóng đại:
“Tóc trắng ba nghìn trượng,
Vì buồn dài lạ sao?”
Cách khoa trương của Lý Bạch không làm cho người ta thấy hình ảnh trong thơ
trở nên xa xôi, lạ lẫm mà ngược lại nó trở nên đẹp, có sức biểu đạt tâm tư tình cảm lớn
lao làm cho ta tưởng chừng như không khoa trương thì không được.
Trong thơ ông ta bắt gặp một thế giới ảo tưởng bao la với những hình tượng
tráng lệ, nhiều sắc thái, thể hiện thành công tinh thần lãng mạn tích cực và nội dung
cũng đầy đủ hơn đó là nhờ ông kết hợp cách thể hiện như thần thoại, ảo tưởng và khoa
trương lại với nhau trong việc thể hiện. Trong các bài “Thục đạo nan, Mộng du Thiên
Mụ ngâm lưu biệt, Lương phủ ngâm, Bắc phong hành, Viễn biệt ly…”, ông đều kết
hợp những cách thể hiện đó với mức độ khác nhau.
Đứng trên phương diện nghệ thuật với việc học tập thơ ca dân gian thì thành
công rõ rệt nhất của thơ Lý Bạch là sử dụng ngôn ngữ để khác họa hình ảnh, ngôn ngữ
trong thơ ông sinh động, trong sáng, hoa mĩ và tự nhiên. Đặc biệt là ngôn ngữ tự nhiên
thì đời sau khó mà bì kịp. Hình ảnh trong thơ hiện lên giản dị nhưng thoát tục, trong
những bài luận về thơ ông có nói:
“Đẽo gọt mất vẻ tự nhiên”
Hay:
“Nước trong sẽ nở hoa sen,
Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời.”
Những quan niệm đó được thể hiện xuyên suốt trong thơ Lý Bạch qua một số
bài thơ như Việt nữ từ, Thái liên khúc …
Một điểm nữa là việc sử dụng khá thành công thể nhạc phủ. Thể thơ này ông đã
tiếp thu và có sáng tạo thêm để hình thành phong cách thơ cho riêng mình. Trong bài

“Tý dạ ngô ca” và “Trường can hành”, không chỉ ngôn ngữ sinh động, tự nhiên như
dân ca, mà đã đạt được mức độ “tình sâu lời rõ” :
“Trường An trăng một mảnh,
Đập vải rộn muôn nhà.
Gió thu thổi không ngớt,
ải ngọc tình bao la.
Trang 22


Bao giờ dẹp yên giặc,
Cho chàng khỏi xông pha.”
(Tý dạ ngô ca)
“Tóc em mới kín trán,
Trước của bẻ hoa đùa.
Chàng cưỡi ngựa trúc lại,
Quanh ghế tung mơ chua.
Cùng ở xóm Trường Can,
Đôi trẻ vui tha hồ.”
(Trường can hành)
Ngay cả những bài ông tự đặt đề mà làm, những bài ngũ ngôn, thất ngôn tuyệt
cú đều chứa đựng phong cách dân ca:
“Hái sen, gái nhược gia,
Thấy khách lướt thuyền qua.
Cười lẫn trong sen mất,
Giả thẹn chẳng quay ra.”
(Việt nữ từ, bài 3)
Lối sử dụng đề tài này phù hợp với phong cách lãng mạn. Về phương diện ngôn
ngữ, thơ ông có đặc điểm chất phác, tinh luyện và sáng đẹp, ngôn ngữ giàu hình ảnh
âm thanh nhạc điệu. Ông có sử dụng điển cố đã trở thành quen thuộc, ít có điển cố cầu
kì khó hiểu.

Bên cạnh việc học tập thơ ca nhân gian ông còn tiếp thu một cách có phê phán
kĩ xảo ngôn ngữ của các nhà thơ ưu tú từ Ngụy Tấn trở về sau và kế thừa ngôn ngữ của
Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận, Bão chiếu, Tạ Diễu và Dĩu Tín …
Có thể nói nghệ thuật thơ Lý Bạch đã đạt tới mức lý tưởng thẩm mỹ của thời
đại, đọc lên có vị ngọt ngào tươi mát, nhưng cũng có niềm khẳng khái tự hào, bay
bổng. Lý Bạch đã để lại cho đời bấy nhiêu tác phẩm và ông vẫn đứng vững trong xã
hội con người vì thơ ông đã chắp cánh cho con người bay cao.

2.4. Đóng góp của Lý Bạch và thơ ông trong nền thi ca thời Đường
Trong thời thơ ca Đường phát triển cực thịnh, có hai trường phái có ảnh hưởng
sâu rộng nhất và có những thành tựu lớn nhất đó chính là trường phái hiện thực mà đại
biểu là Đỗ Phủ và trường phái lãng mạn với đại diện là Lý Bạch. Chính những tên tuổi
Trang 23


này đã tạo nên một thời đại hoàng kim cho văn học Trung Quốc nói riêng và văn học
thế giới nói chung. Trong giai đoạn từ Khai Nguyên đến Thiên Bảo, thế nước thịnh
vượng, văn hóa phát triển và kinh tế phồn vinh, hiện thực đó đã tạo nên tinh thần phấn
khởi, sôi nổi của thời đại và đưa lại nhiệt tình và lý tưởng lãng mạn cho các nhà thơ,
cho nên chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành dòng thơ chủ đạo của thơ ca thời đó mà Lý
Bạch là đại diện tiêu biểu. Lý Bạch là nhà thơ lớn thời Đường, được mệnh danh là
“người Trung Hoa kim cổ kỳ nhân” ông luôn là một ngôi sao sáng trên thi đàn Trung
Quốc từ thời nhà Đường đến nay, người ta thường gọi ông là Thi tiên (Trích tiên Lý
Bạch). Hơn một ngàn bài thơ của Lý Bạch còn để lại có một ảnh hưởng rất sâu rộng
trong lịch sử văn học Trung Quốc và được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Ở
Trung Quốc cũng như trên thế giới, thơ Lý Bạch như một kho báu vô giá, là đối tượng
thu hút những nhà nghiên cứu bởi họ luôn tìm thấy những vẻ đẹp mới trong thơ ông.
Thơ của Lý Bạch giản dị tự nhiên, không cầu kỳ chải chuốt mà ý thơ sâu sắc, có sức
truyền cảm mạnh mẽ và sức quyến rũ một cách lạ lùng kết hợp với phương hướng
sáng tác đúng đắn là kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân thì Lý Bạch không

những đưa thơ Đường đến chổ phồn vinh mà còn có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát
triển thơ Đường sau này. Một số nhà thơ về sau đã tạo nên những kiệt tác nhờ học theo
lối sáng tác của Lý Bạch cùng với sự sáng tạo của bản thân như Bạch Cư Dị, Trương
Tịch, Vương Kiến …, đó là những nhà thơ nối bước theo thể nhạc phủ của Lý Bạch.
Tài năng của Lý không chỉ ở thể thơ này mà ở những lối sáng tác khác thì ông cũng
khiến người ta ái mộ, đặc biệt phải nói đến tuyệt cú, chính nó đã tạo nên vị trí độc tôn
cho thi nhân. Tuyệt cú của ông có thể nói là xuất quỷ nhập thần. Người viết đã sưu tầm
được một vài nhận định của một số học giả về tuyệt cú của ông. Hồ Chấn Hanh dẫn lời
cổ nhân nhấn mạnh :"Thái Bạch với tuyệt cú ngũ thất ngôn, ba trăm năm đời Đường
thực chỉ có một người" ("Thái Bạch ngũ thất ngôn tuyệt cú thực Đường tam bách niên
nhất nhân"). Bản thân ông cũng ca ngợi: "Ngũ thất ngôn tuyệt cú, Thái Bạch quả là
thần!"… Sau này, các tài liệu hiện đại nghiên cứu thơ Lý Bạch hay thơ tứ tuyệt đời
Đường nếu có nhắc tới Lý Bạch cũng cùng chung nhận xét đó. Giáo sư Dịch Quân Tả
trong cuốn "Văn học sử Trung Quốc" [5; tr.383] cũng cho rằng tuyệt cú của Lý Bạch
"thật cao diệu" và "thơ tuyệt cú của Đỗ lại thua Lý" [5; tr.399]...., những nhận định
trên đều cùng một quan điểm là công nhận địa vị bậc nhất của Lý Bạch về tứ tuyệt
trong thi đàn tứ tuyệt thời Đường.
Trang 24


Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất
cao. Có được thành tựu như vậy ngoài việc người ta khâm phục tính cách phóng
khoáng và tư tưởng tiến bộ của ông bên cạnh đó như ta đã nói, trong những trang thơ
ông thể hiện những lí tưởng và nguyện vọng đẹp đẽ thường phù hợp với yêu cầu của
tầng lớp trí thức tiến bộ đương thời và ở một mức độ nào đó nó cũng phù hợp với yêu
cầu của nhân dân nên thơ Lý được nhiều tầng lớp, giai cấp chấp nhận. Ông đã vận
dụng thiên tài thi ca của bản thân, sự tu dưỡng nghệ thuật rộng lớn và tinh tế của mình,
tình yêu đối với tổ quốc và nhân dân, cũng như sự nhận thức và lí giải sâu sắc của
mình đối với cuộc sông hiện tại cùng sự trải nghiệm của chính bản thân mình trong
suốt cuộc đời đầy thăng trầm, việc vận dụng những phương pháp sáng tác khác nhau,

xây dựng những phong cách nghệ thuật của riêng mình để phản ánh thời đại cùng với
những biến cố xảy ra trong xã hội, tạo nên những kiệt tác làm rung động bao thế hệ
không chỉ trong giới trí thức mà cả những người lao động bình thường cũng biết không
nhiều thì ít về ông cũng như thơ ông. Có thể nói chính Lý Bạch đã đưa thơ ca lãng
mạn đạt đến đỉnh cao về nội dung lẫn nghệ thuật. Có được thành công vượt bậc như
vậy ngoài tài thơ phú bẩm sinh, kinh nghiệm cuộc sống cùng với những biến cố của
thời cuộc thì việc tích cực học tập những người đi trước là một nhân tố rất trọng. Ông
coi trọng Hán Ngụy, học tập cả cái hay của Dĩu Tín lẫn cái dụng công của Âm khanh,
Hà Tốn. Không những vậy Lý Bạch còn không ngừng ca ngợi thơ của những bậc tiền
bối như tứ kiệt thời sơ Đường, khâm phục cả những nhà thơ cùng thời như Vương
Duy, Mạnh Hạo Nhiên…, có thể nói ông đã đạt được thành tựu như Nguyên Chẩn nói:
“Có được tất cả thế mạnh của cổ kim, mà lại kim được cái độc đáo của từng người”
[6;tr.418]. Lý Bạch đã không ngừng nghiên cứu, học hỏi và tiến theo phương châm kế
thừa có phê phán và phục cổ để cách tân, chính phương hướng sáng tác này đã ảnh
hưởng đến người đương thời và người đời sau. Gần đây người viết có truy cập một số
thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng và đã nhận được một bài báo đưa tin
về sự kiện Tháng Di sản châu Á diễn ra ở Vancouver (Canada), nhiều bài thơ của Lý
Bạch được tôn vinh tại đây, các tác phẩm của ông đã được ngâm thành 10 thứ tiếng.
Các bài thơ của ông được trình bày bởi World Poetry Extravagana, một tổ chức
chuyên thúc đẩy sự tôn vinh các nhà thơ vĩ đại trên thế giới. Trong khi đó, câu chuyện
cuộc đời của Lý Bạch trong thời kỳ hoàng kim của thơ Trung Hoa cũng được nêu bật
tại Richmond, thành phố láng giềng của Vancouver. Sau đây người viết sẽ trích một số
Trang 25


×