TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ - DU LỊCH
___________________
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
MSSV: 6075803
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH SÓC TRĂNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH DU LỊCH
Cần Thơ, tháng 04/2011
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ - DU LỊCH
___________________
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
MSSV: 6075803
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH SÓC TRĂNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH DU LỊCH
Giáo viên hướng dẫn: HUỲNH TƯƠNG ÁI
Cần Thơ, tháng 04/2011
LỜI CẢM ƠN
********
Luận văn tốt nghiệp có thể được xem là một công trình nghiên cứu đầu tiên của
cá nhân tôi, đối với tôi đó là một công việc khá mới mẻ. Do đó, trong quá trình thực
hiện tôi đã không tránh khỏi những khó khăn và lo lắng. Tuy nhiên, nhờ sự giúp đỡ,
động viên của gia đình, thầy cô, bạn bè và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy
Huỳnh Tương Ái đã giúp tôi hoàn thành đề tài luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn mọi người trong gia đình, thầy cô và bạn bè đã nhiệt
tình ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn đúng thời hạn quy định.
Do kiến thức còn hạn hẹp nên luận văn sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất
định. Rất mong nhận được sự cảm thông, cũng như những ý kiến đóng góp của quý
thầy cô cùng các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu “Tiềm năng chùa Phật giáo Nam
Tông Khmer trong phát triển du lịch tỉnh Sóc Trăng” của tôi được hoàn thiện hơn.
Thái Võ Bảo Quyên
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 3
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI .............................................................................................. 3
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU...................................................................................... 3
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .................................................................................. 3
4. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................................. 3
5. QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU .................................................................................. 4
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 4
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN........................................................................................ 6
1.1. TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN (TNDLNV)............................................. 6
1.1.1. Quan niệm ......................................................................................................... 6
1.1.2. Các loại tài nguyên du lịch nhân văn ................................................................ 7
1.1.2.1. Các di tích lịch sử văn hóa .......................................................................... 7
1.1.2.2. Các lễ hội..................................................................................................... 7
1.1.2.3. Các đối tượng du lịch gắn liền với dân tộc học ......................................... 8
1.1.2.4. Các hoạt động văn hóa thể thao và hoạt động nhận thức khác ................... 8
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO TIỂU THỪA ...................................... 9
1.2.1. Khái niệm Phật giáo Tiểu thừa và tên gọi......................................................... 9
1.2.1.1. Khái niệm .................................................................................................... 9
1.2.1.2. Phật giáo Nam Tông và những tên gọi khác nhau ...................................... 9
1.2.2. Giáo lý cơ bản của Phật giáo Tiểu thừa ....................................................... 10
1.2.3. Sự khác nhau giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa....................................... 11
Chương 2: NGƯỜI KHMER VÀ CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER
Ở SÓC TRĂNG ............................................................................................................ 13
2.1. KHÁI QUÁT VỀ SÓC TRĂNG........................................................................... 13
2.1.1. Vị trí địa lý ...................................................................................................... 13
2.1.2. Điều kiện tự nhiên và dân cư .......................................................................... 15
2.1.2.1. Địa hình ..................................................................................................... 15
2.1.2.2. Sông ngòi .................................................................................................. 15
2.1.2.3. Khí hậu ..................................................................................................... 15
2.1.2.4. Dân cư ....................................................................................................... 15
2.1.3. Tên gọi Sóc Trăng........................................................................................... 15
2.1.4. Kinh tế............................................................................................................. 16
2.2. NGƯỜI KHMER Ở SÓC TRĂNG...................................................................... 16
2.2.1. Qúa trình hình thành cộng đồng người Khmer ở Sóc Trăng .......................... 16
2.2.2. Đặc điểm về văn hóa....................................................................................... 18
2.2.2.1. Trang phục................................................................................................. 18
2.2.2.2. Nhà ở ......................................................................................................... 19
2.2.2.3. Ẩm thực..................................................................................................... 19
2.2.2.4. Lễ hội......................................................................................................... 20
2.2.2.5. Nghệ thuật ................................................................................................ 23
2.2.3. Đặc điểm về kinh tế ........................................................................................ 24
2.3. ĐẶC ĐIỂM CHÙA NAM TÔNG KHMER........................................................ 24
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
2.3.1. Khái quát ......................................................................................................... 24
2.3.2. Đặc trưng về kiến trúc và nghệ thuật trang trí chùa Nam Tông Khmer ....... 25
2.3.2.1. Kiến trúc.................................................................................................... 25
2.3.2.2. Trang trí..................................................................................................... 29
2.3.3. Chức năng và ý nghĩa của chùa Phật giáo Nam Tông trong đời sống của
người Khmer................................................................................................................... 32
2.3.3.1. Tôn giáo.................................................................................................... 33
2.3.3.2. Văn hóa .................................................................................................... 34
2.3.3.3. Giáo dục .................................................................................................. 35
2.4. CHÙA NAM TÔNG KHMER Ở SÓC TRĂNG................................................ 35
2.4.1. Hệ thống tổ chức ............................................................................................ 35
2.4.2. Các ngôi chùa Nam Tông Khmer tiêu biểu ở Sóc Trăng............................... 36
2.4.2.1. Chùa Khleang........................................................................................... 36
2.4.2.2. Chùa Dơi .................................................................................................. 39
2.4.2.3. Chùa Chén Kiểu ....................................................................................... 41
Chương 3: KHAI THÁC TIỀM NĂNG DU LỊCH CHÙA NAM TÔNG
KHMER Ở SÓC TRĂNG............................................................................................ 43
3.1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN TOÀN TỈNH SÓC TRĂNG... 43
3.2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH THAM QUAN
CHÙA NAM TÔNG KHMER Ở SÓC TRĂNG........................................................ 47
3.2.1. Đánh giá tiềm năng của tỉnh Sóc Trăng trong phát triển du lịch tham
quan chùa Nam Tông Khmer ........................................................................................ 47
3.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động du lịch tham quan chùa Nam Tông
Khmer ở Sóc Trăng ........................................................................................................ 48
3.2.3. Thực trạng hoạt động du lịch tham quan chùa Nam Tông Khmer tại Sóc
Trăng............................................................................................................................... 50
3.3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH THAM QUAN CHÙA NAM TÔNG KHMER Ở SÓC TRĂNG .................. 56
3.3.1. Định hướng .................................................................................................... 56
3.3.2. Giải pháp ......................................................................................................... 58
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................................... 60
1. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC ........................................................................................... 60
2. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ................................................................................................... 61
3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 63
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 64
Phụ lục 1: Thông tin về các chùa Phật giáo Nam Tông Khmer ở Sóc Trăng........... 64
Phụ lục 2: Hình ảnh .................................................................................................. 66
Phụ lục 3: Bảng câu hỏi khảo sát và mô tả hình thức khảo sát................................. 77
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sóc Trăng, quê hương tôi, là nơi có sự gắn bó của ba dân tộc anh em Kinh - Hoa Khmer. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc sắc, đặc trưng riêng. Trong đó, đối
với tôi, nghệ thuật kiến trúc, văn hóa “chùa chiềng” của người Khmer là nổi bật và
đáng chú ý hơn cả. Chính điều đó đã thôi thúc tôi tìm hiểu về vai trò và sự ảnh hưởng
của các ngôi chùa của người Khmer - chùa “Phật giáo Nam Tông” (một tên gọi khác
của Phật giáo Tiểu thừa) trong đời sống cộng đồng dân tộc, cũng như trong du lịch tại
Sóc Trăng.
Việc tìm hiểu các ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer Sóc Trăng giúp tôi hiểu
sâu hơn về bản sắc văn hóa dân tộc Khmer, đồng thời để bổ sung vào nguồn tri thức hỗ
trợ nghề nghiệp hướng dẫn của mình trong tương lai.
Đồng thời, tôi nhận thấy rằng du lịch Sóc Trăng vẫn còn chưa thật sự phát triển
đúng với những gì đang có, đặc biệt là loại hình du lịch tham quan các ngôi chùa Phật
giáo Nam Tông Khmer. Do đó, tôi hy vọng có thể góp một phần công sức nhỏ bé của
mình cho sự phát triển du lịch trên mảnh đất mà tôi đã được sinh ra và lớn lên.
Đó là tất cả những lý do mà tôi đã chọn “Tiềm năng chùa Phật giáo Nam Tông
Khmer trong phát triển du lịch tỉnh Sóc Trăng” để làm đề tài luận văn của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu của tôi đối với đề tài này là tìm hiểu những đặc trưng của
ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer ở Sóc Trăng về văn hóa, tôn giáo và nghệ thuật
kiến trúc, những đóng góp của ngôi chùa trong đời sống của người dân địa phương
cũng như trong lĩnh vực hoạt động du lịch của tỉnh nhà. Từ đó có được cái nhìn tổng
quát về vai trò, tiềm năng của các ngôi chùa Phật giáo Nam Tông đối với sự phát triển
du lịch tỉnh Sóc Trăng, nhằm đạt được kết quả cuối cùng đó là đề ra được những định
hướng phát triển đúng mức và những giải pháp tối ưu cho hoạt động du lịch tham quan
chùa Phật giáo Nam Tông Khmer ở Sóc Trăng được diễn ra một cách mạnh mẽ, trọn
vẹn hơn.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối với đề tài này, đối tượng nghiên cứu của tôi đó là những nét đặc trưng, giá trị
của ngôi chùa Phật giáo Nam Tông trong đời sống người dân Khmer. Các tiềm năng
du lịch gắn liền với ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng. Song, bên cạnh đó, tôi còn tìm hiểu thêm về thực trạng hoạt động du lịch nói
chung và tình hình khai thác du lịch chùa Phật giáo Nam Tông Khmer nói riêng trên
địa bàn tỉnh.
4. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chùa Phật giáo Nam Tông Khmer là một đề tài không mới. Từ trước đến nay đã
có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này. Chủ yếu người ta nghiên cứu về nghệ thuật
kiến trúc của ngôi chùa và những ý nghĩa của nó trong đời sống của người dân Khmer.
Chẳng hạn như trong “Văn hóa của người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long” của nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc có đề cập đến mảng đề tài kiến trúc và nghệ thuật trang trí
của chùa Phật giáo Nam Tông Khmer; trong “Nam Bộ Đất và Người” của nhà xuất
bản trẻ đã có nói về Phật giáo của người Khmer, nội dung chủ yếu là khái quát về
những kiến trúc đặc trưng của chùa Phật giáo Nam Tông Khmer, các tượng thờ và việc
khất thực của các nhà sư; hay trong quyển “Tôn giáo – tín ngưỡng của các dân cư
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
3
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
vùng Đồng bằng sông Cửu Long” đã đề cập đến vấn đề vai trò của Phật giáo trong đời
sống tâm linh người Khmer và đời sống tu tập của các sư sãi trong chùa....
Lượng sách viết về chùa Phật giáo Nam Tông Khmer là rất lớn, tài liệu tham
khảo khá phong phú nhưng do hoạt động du lịch tại các chùa Phật giáo Nam Tông
Khmer ở Sóc Trăng vẫn chưa thật sự được quan tâm và phát triển vì vậy trong quá
trình nghiên cứu thực hiện đề tài “Tiềm năng chùa Phật giáo Nam Tông Khmer trong
phát triển du lịch tỉnh Sóc Trăng” tôi đã gặp không ít khó khăn trong vấn đề tìm tài
liệu, số liệu có liên quan đến hoạt động du lịch tại các ngôi chùa Phật giáo Nam Tông
Khmer ở Sóc Trăng. Cho đến nay, tôi chỉ mới tham khảo được hai tài liệu có liên quan
đến việc phát triển du lịch chùa của Sóc Trăng, đó là: Tiểu luận của anh Trương Minh
Tuấn với đề tài “Tìm hiểu về chùa Phật giáo Nam Tông Khmer Sóc Trăng” và Luận
văn của anh Lâm Minh Thiện với đề tài nghiên cứu về “Du lịch tôn giáo Sóc Trăng”.
Phần lớn nội dung tôi có được là từ việc khảo sát thực tế, lấy thông tin từ khách du lịch
và người dân địa phương.
5. QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU
5.1. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Bất cứ một sự vật hiện tượng nào từ lúc sinh ra, phát triển rồi lụi tàn đều có một
nguồn gốc và quá khứ cụ thể. Các sự vật hiện tượng luôn biến đổi không ngừng, vì vậy
ta cần hoạch định một phạm vi và dự báo tương lai cho việc nó bị biến đổi hay bị thay
thế bằng một hình thức khác. Quan điểm này giúp tôi có cái nhìn chính xác và gần hơn
với hiện tại của vấn đề đặt ra để làm nền tảng cho phát triển tương lai, góp phần đưa ra
hướng sử dụng hợp lý tiềm năng du lịch tham quan chùa Phật giáo Nam Tông Khmer
một cách có hiệu quả và bền vững cho mai sau.
5.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Vận dụng quan điểm này trong quá trình nghiên cứu để thấy được rằng, trên cùng
một lãnh thổ, các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch và các thành phần tự nhiên xã hội
có sự liên kết chặt chẽ, bổ trợ cho nhau.
Hơn thế nữa, quan điểm này còn giúp ta có được cái nhìn tổng thể về đối tượng
nghiên cứu để đưa ra những giải pháp cho việc quy hoạch và sử dụng tiềm năng của
loại hình du lịch trên một cách có hiệu quả.
5.3. Quan điểm thực tiễn
Khi nghiên cứu một vấn đề, bất kỳ ai cũng mong muốn tính chính xác và đạt
được hiệu quả của vấn đề, vì thế tôi tìm thấy lợi ích từ quan điểm thực tiễn cho đề tài
đang nghiên cứu. Lấy thực tiễn làm tính chuẩn xác và tin cậy cho việc nghiên cứu.
Thực tiễn thông qua khảo sát, chọn lọc, tổng hợp và đánh giá nhìn nhận khách quan
thực tế của sự vật đang diễn ra để so sánh, làm nền tảng và mang tính khoa học.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp tổng hợp tài liệu
Đây là việc tổng hợp tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau nhằm làm phong phú và
sâu sắc hơn cho bài viết. Các nguồn tài liệu được tổng hợp chủ yếu từ: sách, báo, tài
liệu trên Internet,...để lựa chọn và khái quát hóa thông tin cần thiết để phục vụ cho việc
nghiên cứu.
6.2. Phương pháp thống kê
Sau khi thu thập đầy đủ các tài liệu, số liệu thì việc tiếp theo là thống kê chính
xác các kênh số và dữ liệu để phân tích khi nghiên cứu, khi đó ta sẽ thấy rõ được tổng
quan của vấn đề và có thể thâu tóm vấn đề một cách nhanh gọn và linh động.
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
4
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
6.3. Phương pháp khảo sát thực tế
Đây là phương pháp đòi hỏi người làm nghiên cứu phải đến trực tiếp địa bàn
nghiên cứu để thu thập thông tin chính xác nhất, sinh động nhất và tổng quan thực
trạng vấn đề thông qua cái nhìn cụ thể bao quát.
6.4. Phương pháp xã hội học:
Có ý nghĩa không kém phần quan trọng, đây là phương pháp sử dụng phương
pháp hỏi ý kiến (trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua phiếu điều tra), phương pháp quan
sát cá nhân, nghiên cứu tài liệu (sổ thống kê số liệu, sổ điều chỉnh, bổ sung quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch,...)
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
5
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN (TNDLNV)
1.1.1. Quan niệm
TNDLNV là do con người tạo ra, hay nói cách khác nó là đối tượng và hiện
tượng được tạo ra một cách nhân tạo. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho tài nguyên
du lịch nhân tạo có những đặc điểm rất khác biệt so với nguồn tài nguyên du lịch tự
nhiên.
Tài nguyên du lịch nhân tạo có tác dụng nhận thức nhiều hơn. Tác dụng giải trí
không điển hình hoặc có ý nghĩa thứ yếu.
Việc tìm hiểu các đối tượng nhân tạo diễn ra trong thời gian rất ngắn. Nó thường
kéo dài một vài giờ, cũng có thể một vài phút. Do vậy trong khuôn khổ một chuyến du
lịch người ta có thể hiểu rõ nhiều đối tượng nhân tạo. Tài nguyên du lịch nhân tạo
thích hợp nhất đối với loại hình du lịch nhận thức theo lộ trình.
Số người quan tâm tới tài nguyên du lịch nhân tạo thường có văn hóa cao hơn,
thu nhập và yêu cầu cao hơn.
Tài nguyên du lịch nhân tạo thường tập trung ở các điểm quần cư và các thành
phố lớn. Chúng ta đều biết các thành phố lớn lại là đầu mối giao thông nên rõ ràng
việc tiếp cận với nguồn tài nguyên này dễ dàng hơn nhiều. Khi đến thăm nguồn tài
nguyên nhân tạo có thể sử dụng cơ sở vật chất của du lịch đã được xây dựng trong các
điểm quần cư mà không cần xây thêm cơ sở riêng.
Ưu thế to lớn của tài nguyên du lịch nhân tạo là đại bộ phận không có tính mùa,
không bị phụ thuộc vào các điều kiện khí tượng và các điều kiện tự nhiên khác. Vì thế
tạo nên khả năng sử dụng tài nguyên du lịch nhân tạo ngoài giới hạn các mùa chính do
các tài nguyên tự nhiên gây ra và giảm nhẹ tính mùa nói chung của các dòng du lịch.
Trong mùa hoạt động du lịch tự nhiên cũng có những thời kỳ, có những ngày không
thích hợp cho giải trí ngoài trời. Ở những trường hợp như thế, việc đi thăm tài nguyên
du lịch nhân tạo là một giải pháp lý tưởng.
Sở thích của những người tìm đến tài nguyên du lịch nhân tạo rất phức tạp và rất
khác nhau. Nó gây nhiều khó khăn trong việc đánh giá tài nguyên du lịch nhân tạo.
Khác với tài nguyên tự nhiên có một số phương pháp đánh giá định lượng tài nguyên.
Tiêu chuẩn đánh giá tài nguyên du lịch nhân tạo chủ yếu dựa vào cơ sở định tính xúc
cảm và trực cảm. Việc tìm tòi tài nguyên du lịch nhân tạo chịu ảnh hưởng mạnh của
các nhân tố như độ tuổi, trình độ văn hóa, hứng thú, nghề nghiệp, thành phần dân tộc,
thế giới quan, vốn tri thức… Ví dụ như đối với người có quan tâm đặc biệt tới toàn thế
giới thì các kim tự tháp Ai Cập là đối tượng mong muốn đầu tiên; nhưng những người
dân địa phương thì lại ưu tiên các đối tượng khác.
Tài nguyên du lịch nhân tạo tác động theo từng giai đoạn. Các giai đoạn được
phân chia như sau: a) Thông tin, ở giai đoạn này khách du lịch nhận được những tin
tức chung nhất, thậm chí có thể nói là mờ nhạt về đối tượng nhân tạo, và thường thông
qua thông tin miệng hay các phương tiện thông tin đại chúng; b) Tiếp xúc, là giai đoạn
khách du lịch có nhu cầu tiếp xúc bằng mắt thường với đối tượng, tuy chỉ là lướt qua
nhưng là quan sát bằng mắt thực; c) Nhận thức, trong giai đoạn này khách du lịch làm
quen với đối tượng một cách cơ bản hơn, đi sâu vào nội dung của nó, thời gian tiếp
xúc lâu hơn; d) Đánh giá nhận xét, ở giai đoạn này, bằng kinh nghiệm sống của bản
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
6
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
thân về mặt nhận thức, khách du lịch so sánh đối tượng này với đối tượng khác gần với
nó. Thường thì việc làm quen với tài nguyên du lịch nhân tạo dừng lại ở hai giai đoạn
đầu, còn giai đoạn nhận thức và đánh giá nhận xét dành cho khách du lịch có trình độ
văn hóa nói chung và chuyên môn cao.
Nói tóm lại, tài nguyên du lịch nhân văn đã góp phần làm phong phú đời sống
tinh thần của con người, nó có tác dụng hướng con người trở về với những cội nguồn
của dân tộc. Nó thu hút con người bởi những tinh tế của cái đẹp, mức chính xác của
chân thiện mỹ, cũng như khối kiến trúc đồ sộ mà con người có được từ việc tiếp cận
những giá trị văn hóa do chính con người tạo ra.
1.1.2. Các loại tài nguyên du lịch nhân văn
1.1.2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa
Di tích lịch sử - văn hóa là tài sản văn hóa quí giá của địa phương, mỗi dân tộc,
mỗi đất nước và của cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể nhất
về đặc điểm văn hóa của mỗi nước. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền
thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa nghệ thuật của mỗi quốc
gia. Di tích lịch sử - văn hóa có khả năng rất lớn, góp phần vào việc phát triển trí tuệ,
tài năng của con người, góp phần vào việc phát triển khoa học nhân văn, khoa học lịch
sử. Đó chính là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi đất nước.
Di tích lịch sử - văn hóa chứa đựng nhiều nội dung lịch sử khác nhau. Mỗi di tích
có nội dung, giá trị văn hóa, lượng thông tin riêng biệt khác nhau. Di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia được phân chia thành các loại:
- Di tích văn hóa khảo cổ
- Di tích lịch sử
- Di tích văn hóa nghệ thuật: là các di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá
trị do đó còn được gọi là di tích kiến trúc nghệ thuật.
- Các loại danh lam thắng cảnh
Chùa Phật giáo Nam Tông Khmer ở Sóc Trăng được xếp vào loại hình di tích lịch
sử văn hóa nghệ thuật vì những di tích này không chỉ chứa đựng những giá trị kiến
trúc mà còn chứa đựng cả những giá trị văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần
1.1.2.2. Các lễ hội
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú, là
một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc là một
dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại: ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại
truyền thống, hoặc là để giải quyết những nỗi lo âu, những khao khát, ước mơ mà cuộc
sống thực tại chưa giải quyết được.
Các lễ hội đã tạo nên một môi trường mới, huyền diệu, giúp cho người tham dự
có điều kiện tiếp xúc với bí ẩn của nguồn khởi mọi sinh vật sống. Lễ hội dân tộc trở
thành dịp cho con người hành hương về với cội rễ, bản thể của mình. Trong kho báu
các di sản của quá khứ để lại cho hôm nay, các lễ hội dân tộc có lẽ là một trong những
thứ quý giá nhất. Và vì thế các lễ hội dân tộc lành mạnh không bị mất đi mà ngày càng
được nhân rộng, phát triển cả về hình thức lẫn nội dung. Các lễ hội có sức hấp dẫn du
khách không kém gì các di tích lịch sử - văn hóa.
Lễ hội gồm hai phần: phần nghi lễ và phần hội
- Phần nghi lễ: các lễ hội dù lớn hay nhỏ, đều có phần nghi lễ với những nghi
thức nghiêm túc, trọng thể mở đầu ngày hội theo thời gian và không gian.
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
7
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
- Phần hội: diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâm lý cộng đồng,
văn hóa dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với thực tế lịch sử, xã hội
và thiên nhiên. Trong hội thường có những trò vui, những đêm thi nghề, thi hát tượng
trưng cho sự nhớ ơn và ghi công của người xưa. Tất cả những gì tiêu biểu cho một
vùng đất, một làng xã được mang ra phô diễn, mang lại niềm vui cho mọi người.
Các lễ hội thường được tổ chức tại những di tích lịch sử - văn hóa. Điều đó cho
phép khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ hội vào mục đích du lịch. Di tích và lễ hội là hai
loại hình hoạt động văn hóa sóng đôi và đan xen ở nước ta. Lễ hội gắn với di tích, lễ
hội không tách rời di tích. Có thể nói, di tích là dấu hiệu truyền thống được đọng lại,
kết tinh lại ở dạng cứng, còn lễ hội là cái hồn và nó chuyển tải truyền thống đến cuộc
đời ở dạng mềm, phần mềm.
Ở người Việt, từ rất lâu, những ngôi đình đã dựng mốc cho chuẩn mực văn hóa
và định hình cho đời sống tâm linh, đạo đức cho từng thành viên trong làng. Còn đối
với người Khmer, ngôi chùa chính là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa lễ hội của tôn
giáo và của cả dân tộc. Như lễ hội Ok-oom-bok của người Khmer cũng có hai phần lễ
và hội, phần lễ nhằm bày tỏ lòng tôn kính với vị thần Mặt Trăng, cầu mong được sức
khỏe, hạnh phúc và mùa màng bội thu; phần hội gồm có các hoạt động sân khấu truyền
thống Khmer như đoàn Dù kê, Rô băm, và hội đua ghe ngo.
1.1.2.3. Các đối tượng du lịch gắn liền với dân tộc học
Mỗi một dân tộc có những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hóa, phong
tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những sắc thái riêng của mình và có địa bàn cư
trú nhất định. Những đặc thù của từng dân tộc có sức hấp dẫn riêng đối với khách du
lịch.
Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học có ý nghĩa với du lịch là các tập tục lạ
về cư trú, về tổ chức xã hội, về thói quen ăn uống sinh hoạt, về kiến trúc cổ, các nét
truyền thống trong qui hoạch cư trú và xây dựng, trang phục dân tộc…
Việt Nam với 54 dân tộc còn giữ gìn nguyên vẹn những phong tục tập quán, hoạt
động văn hóa - văn nghệ đặc sắc, nhiều kỹ năng độc đáo. Ở Việt Nam còn có hàng
trăm làng nghề truyền thống với những sản phẩm nổi tiếng mang tính nghệ thuật cao,
đặc biệt các nghề chạm khắc, đúc đồng, dệt tơ lụa, sơn mài, gốm sứ,... Các món ăn dân
tộc độc đáo với nghệ thuật chế biến và nấu nướng cao.
Ngoài ra, nước ta còn có một nền kiến trúc có giá trị và được bố cục theo thuyết
phong thủy của triết học phương Đông, nhiều kiến trúc tôn giáo có giá trị hấp dẫn
khách du lịch như: tháp Chăm, chùa Phật giáo Nam Tông Khmer...
1.1.2.4. Các đối tượng văn hóa thể thao
Các đối tượng văn hóa cũng thu hút khách du lịch với mục đích tham quan,
nghiên cứu. Đó là các trung tâm của các viện khoa học, các trường đại học, các thư
viện lớn và nổi tiếng, các thành phố có triển lãm nghệ thuật, các trung tâm tổ chức liên
hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu quốc tế...
Các đối tượng văn hóa thường tập trung ở các thủ đô và thành phố lớn. Các đối
tượng văn hóa – thể thao thu hút không chỉ khách du lịch với mục đích tham quan,
nghiên cứu, mà còn thu hút đa số khách du lịch với mục đích khác nhau, ở các lĩnh vực
và đến từ các nơi khác nhau. Tất cả các khách du lịch có trình độ văn hóa trung bình
trở lên đều có thể thưởng thức các giá trị văn hóa của đất nước mà họ đến thăm. Do
vậy, tất cả các thành phố có các đối tượng văn hóa hoặc tổ chức những hoạt động văn
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
8
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
hóa – thể thao đều được nhiều khách tới thăm và đều trở thành những trung tâm du
lịch văn hóa.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO TIỂU THỪA
1.2.1. Khái niệm Phật giáo Tiểu thừa và tên gọi
1.2.1.1. Khái niệm
“Tiểu thừa” (Hinayana; hina: tiểu, yana là thặng thừa) phạm trù Phật giáo chỉ
rằng, người ta có thể thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử nếu người ta thi hành những
chân lý mà Phật dạy. Là một tông phái được hợp thành do các vị sư đã giữ gìn, bảo tồn
trật tự và truyền ra bên ngoài những giáo lý của Phật dạy và những điều luật mà Phật
ban hành. Tiểu – là nhỏ, thừa – là cổ xe, Tiểu thừa là cổ xe nhỏ, nên mỗi lúc chỉ có thể
chở vài người.
Tiểu thừa trong Phật giáo có nghĩa là cổ xe nhỏ, nguyên danh từ của một số đại
biểu bên phái Đại thừa thường dùng để chỉ những người theo Phật giáo Tiểu thừa.
Thuật ngữ, hàm ý lăng mạ chỉ trích. Ngày nay, ý nghĩa chê bai của danh từ đó không
còn nữa, nhưng nó vẫn tồn tại tên gọi của một tông phái Phật giáo. Nhiều nhà nghiên
cứu Phật giáo có ý định thay thế danh từ nhưng không đạt kết quả vì danh từ này đã
khắc sâu trong tư tưởng của Phật giáo.
1.2.1.2. Phật giáo Tiểu thừa và các tên gọi khác
Phật giáo Tiểu thừa có nhiều tên gọi khác nhau theo khuynh hướng, sự hình
thành và danh từ địa lý. Phật giáo Tiểu thừa có những tên gọi như sau: Phật giáo
Nguyên thủy, Thượng tọa bộ (Theravada) và Phật giáo Nam Tông.
- Phật giáo Nguyên thủy
Là tên gọi của vị lãnh đạo Phật giáo thay thế danh từ Tiểu thừa, trong thời kì hội
nghị Phật giáo Thế giới họp tại That Mandu (Nepal) năm 1956 để tránh ngộ nhận danh
từ “Tiểu” làm cho nhiều người hiểu lầm hàm ý chê bai không đúng.
Đại biểu phái này cho rằng mình theo sát những lời dạy nguyên thủy của đức
Phật nói ra. Và đây là tên được hiểu theo nghĩa của từ nguyên thủy; đó là các nhà sư,
tăng đồ bên Tiểu thừa vẫn hành đạo theo lối cổ, cố gắng giữ lấy và làm theo những gì
Phật truyền dạy, không thay đổi hay đổi mới vẫn luôn tồn tại trật tự cũ, chủ trương bảo
thủ Kinh – Luật – Luận như mới ra đời.
- Thượng Tọa bộ
Là hệ phái thứ 15 trong tổng số 18 hệ phái của Phật giáo Tiểu thừa. Song vì hiện
nay, Tiểu thừa chỉ còn duy nhất 1 hệ phái đó là Thượng tọa bộ hay còn gọi là
Theravada, nên từ một nghĩa nào đó Theravada cũng chính là Phật giáo Tiểu thừa.
Là phái được hình thành từ 100 năm sau khi Phật viên tịch, tăng chúng họp lại
với nhau để đọc kinh điển Phật giáo. Nhưng vì có sự bất đồng ý kiến với nhau sâu sắc
nên hàng ngũ Phật giáo chia ra làm hai phái: Thượng tọa và Đại chúng. Thượng tọa
(Theravada) chủ trương nghiêm túc là phải chính thống phái bảo thủ. Phái bảo thủ
Thượng tọa tự cho mình là chính thống và chỉ nhận cho vào tăng già những vị Tỳ kheo
mà thôi (nghĩa là chỉ nhận Nam chứ không nhận Nữ vào chùa tu).
- Phật giáo Nam Tông
Danh từ Nam Tông là danh từ địa lý, Tiểu thừa được gọi là Nam Tông Phật giáo
vì được hình thành ở các nước Nam Á và Đông Nam Á như: Srilanca, Thái Lan,
Mianma, Campuchia, Lào… và Nam Bộ Việt Nam. Danh từ Nam Tông được hình
thành từ khi Phật giáo chia thành hai phái Đại thừa, Tiểu thừa, phân chia nhau vùng
truyền giáo, mỗi bên thịnh hành ở một hướng. Đại thừa theo hướng Bắc, phát triển ở
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
9
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
các nước Trung Quốc, Nhật Bản,… nên còn được gọi là Bắc Tông. Tiểu thừa phát
triển ở phía Nam và truyền giáo qua các nước Lào, Thái Lan, Campuchia… nên còn
gọi là Phật giáo Nam Tông. Phật giáo Nam Tông truyền qua phương Nam bằng hệ
thống chữ Pali.
1.2.2. Giáo lý cơ bản của Phật giáo Tiểu thừa
Đại biểu của phái Tiểu thừa cho rằng mình theo sát những lời dạy nguyên thủy
của Đức Phật, do chính Đức Phật nói ra và do đó có những giáo lý, giáo luật còn được
giữ nguyên như ban đầu, ít có sự thay đổi.
Giới luật của Tiểu thừa hoàn toàn dựa vào Luật Tạng. Trong A – tỳ - đạt – ma,
Tiểu thừa dựa trên Kinh Tạng để phân tích và hệ thống hóa giáo lý Phật giáo.
Tiểu thừa tập trung tuyệt đối vào con đường đi đến sự tự giải thoát. Các lý luận
triết học không đóng vai trò quan trọng, chúng thậm chí còn được xem là trở ngại trên
con đường giải thoát. Tiểu thừa phân tích rõ trạng thái của đời sống con người, bản
chất sự vật, cơ cấu chấp ngã và chỉ ra phương pháp giải thoát khỏi sự khổ.
Tất cả các trường phái của Tiểu thừa đều có một quan điểm chung về sự vật, về
dòng hiện hữu, khổ có thật, phải giải thoát khỏi cái khổ. Giải thoát khỏi luân hồi, thoát
khỏi sự tái sinh và đạt Niết bàn, đó chính là mục đích cao nhất của Tiểu thừa. Muốn
đạt được mục đích này, người tu hành phải tự dựa vào sức mình, xa lánh thế gian. Vì
vậy, Tiểu thừa quan niệm phải sống viễn ly, sống cuộc đời của kẻ tu hành. Đối với
Tiểu thừa, cuộc sống tại gia không thể nào đưa đến sự giải thoát. Hình ảnh tiêu biểu
của Tiểu thừa là A – la – hán, là người dựa vào tự lực để giải thoát. Do đó, phái Tiểu
thừa chỉ quan tâm đến sự giác ngộ của chính bản thân.
Tiểu thừa tránh không đưa lý thuyết gì về Niết bàn, mục đích cuối cùng là kinh
nghiệm của sự tự giác ngộ, trong đó người tu hành chứng được vô ngã và từ bỏ tham
ái. Đối với Tiểu thừa, Phật là một nhân vật lịch sử, được xem là một con người và
không phải là hóa thân của một nhân vật siêu phàm nào cả.
Những đại ý trong giáo lý của Tiểu thừa:
Phải thoát khỏi cảnh trần, vì ở đó người ta bị khổ não, nguy hại và chết đi sống
lại mãi. Người ta chết đi và sinh ra trở lại là do Bốn chân lý (hay còn gọi là Tứ Diệu
đế): Khổ đế - nguyên nhân tạo ra cái khổ là do con người rơi vào tám cái khổ ở đời;
Tập đế - nguyên nhân tạo ra cái khổ là do con người tham, sân, si; Diệt đế - sự khẳng
định tiêu diệt cái khổ; Đạo đế - con đường tiêu diệt cái khổ mà cũng do nơi Thập nhị
nhân duyên ((pratity - Samutpanda) – mười hai mối liên hệ nguyên nhân). Hiểu được
Tứ Diệu đế và diệt được những điều trong Thập nhị nhân duyên thì con người không
còn luân hồi nữa.
Trong các kinh sách, Tiểu thừa thường khuyên dạy con người nên cắt bỏ những
dây luyến ái; nó làm cho con người liên hệ với trần gian chẳng những ở đời này mà
qua các đời sau nữa. Tiểu thừa cũng dạy rằng nên làm nhiều công đức mở mang những
đức hạnh của mình, nhất là phải bố thí và không được lấy của người khác, trừ của ấy
do chính tay người ta cho mình. Tiểu thừa lại dạy rằng, muốn giải thoát trọn vẹn,
muốn giác ngộ phải tham thiền nhất định, tức là làm phước, bố đức không phải là sức
mạnh cho mình tỉnh ngộ, sự suy nghĩ chính chắn trong tâm mới thật sự làm cho mình
tự giác ngộ.
1.2.3. Sự khác nhau giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa
Danh từ Tiểu thừa và Đại thừa là danh từ chỉ phần tư tưởng và giáo lý dị biệt giữa
các môn phái Phật giáo. Trước đây, sau khi Phật nhập niết bàn 100 năm. Phật giáo
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
10
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
được chia làm hai bổn phái Thượng tọa và Đại chúng. Nhưng dần dần cả Thượng tọa
lẫn Đại chúng đều chia ra làm nhiều bộ phái khác nhau nữa. Tuy nhiên, dù cho phân
phái ra nhiều nhưng cũng không ngoài hai khuynh hướng Bảo thủ (là Tiểu thừa) và
Cấp tiến (Đại thừa).
Tiểu thừa là cổ xe nhỏ (tiểu thăng). Đại thừa là cổ xe lớn (đại thăng). Hai danh từ
này khi Phật sinh thời chưa có, chỉ đến khi Phật viên tịch Phật giáo mới được truyền
bá ra ngoài theo hai con đường Bắc tông – Nam tông thì danh từ Đại thừa và Tiểu thừa
mới xuất hiện. Vào 500 năm sau khi Phật viên tịch, Mã minh (Asvaghoha) ra đời, viết
ra bộ “Đại thừa khởi tính luận”. Từ đây, Phật giáo mới có sự phân chia Đại thừa và
Tiểu thừa.
Nhưng phải đến 100 năm sau, Long Thọ (Nagarivna) ra đời, viết ra bộ “Trung
quan luận”, thì Đại thừa Phật giáo mới hưng thịnh hoàn toàn, lập thành hệ thống. Đại
thừa càng mạnh mẽ thì sự phân chia Đại và Tiểu lại càng thêm rõ ràng. Phái Tiểu thừa
vì thế cho rằng những phái Đại thừa là những “đứa con hoang” (mà “đứa con hoang”
nhất là Thiền Tông) của Phật giáo vì họ đã quên mất và vượt quá xa lời Phật thuyết
pháp. Đại thừa lại cho rằng Tiểu thừa bảo thủ và không biểu thị được cả tinh hoa của
Phật giáo.
Đại thừa và Tiểu thừa về cơ bản có những nét khác nhau như sau:
- Tư tưởng: Tiểu thừa chủ trương bảo thủ, Đại thừa chủ trương cấp tiến.
- Về giới, luật: phái bảo thủ (Tiểu thừa) chủ trương giữ gìn nghiêm ngặt giáo
điều, còn phái cấp tiến (Đại thừa) thì chủ trương tự do và khoan đại. Mỗi khi giải thích
kinh điển thì phái bảo thủ giữ theo giáo điều; còn phái cấp tiến theo về phương diện
Triết học và khảo cứu tự do, không câu chấp và phụ thuộc giáo điều.
- Kinh điển Phật giáo:
+ Tiểu thừa: thường viết bằng tiếng Pali , là tiếng bình luận và Đại chúng thường
dùng, nó là thứ tiếng thiếu văn phạm, hệ thống kinh điển Tiểu thừa không hệ thống có
lẫn lộn kinh điển Đại thừa. Bởi vậy, kinh điển (Bắc tông) Tiểu thừa chỉ có bộ A Hàm,
trong đó gồm có Trường A Hàm (Digha Nikaya), Trung A Hàm (Majjhima Nikaya),
tăng I A Hàm (Anguttara Nikaya), Tạp A Hàm (Samyutta) và Tiểu A Hàm (Khuddhka
Nikaya).
+ Đại thừa: hệ thống kinh điển Đại thừa lại viết bằng chữ Sanscrit là thứ tiếng có
văn phạm, rất tế nhị và có giá trị về mặt văn học, nên được giới trí thức và các học giả
hâm mộ. Hệ thống kinh điển Đại thừa rất dồi dào và phong phú hơn hệ thống Tiểu
thừa cả về kinh và luận. Trong kinh điển Đại thừa có rất nhiều kinh điển Tiểu thừa, do
ngoại bộ A Hàm của Y Tông, còn có các kinh khác như Hoa Nghiêm, Diệu Pháp Liên
Hoa kinh, Bát Nhã Ba La Mật Đa, Lăng Nghiêm, Duy Ma La Cật, Viên Giáp, Kim
Cang, Di Đà… mà Tiểu thừa không chấp nhận.
- Giáo lý cơ bản: khác nhau giữa Đại thừa và Tiểu thừa có thể quy vào các điểm
chính sau:
+ Tiểu thừa thì lo tự độ (độ lấy chính mình ra khỏi luân hồi sinh tử): tâm lượng
khiêm tốn chỉ lo về tự giác mà thôi, chỉ tu cho mình mà không tu cho người khác. Đại
thừa: chẳng những lo tự độ mà còn phổ độ chúng sinh (giác tha); tâm lượng quảng đại,
thể hiện trong câu “tự giác nhi giác tha”, tu cho mình và cho người khác.
+ Tiểu thừa: giải thoát bằng cách thoát ly thế gian tướng, thể hiện đi tu tại chùa
tách ly khỏi gia đình. Đại thừa thì giải thoát nhưng không thoát ly thế gian tướng nên
những người đi tu bên Đại thừa có thể tu tại gia và có thể sử dụng nhà làm chùa.
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
11
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
- Quan niệm về Niết bàn: Tiểu thừa thì phủ nhận hiện hữu, còn Đại thừa không
phủ nhận hiện hữu, tìm lối giải thoát trong hiện hữu.
- Thờ cúng trong chùa:
+ Ngoài việc thờ Phật Thích Ca là chủ đạo thì những ngôi chùa bên Đại thừa còn
có thờ nhiều Phật và các vị Bồ Tát khác nhau.
+ Phật giáo Tiểu thừa chỉ thờ duy nhất một Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
- Tu tập:
+ Đại thừa: Chùa của Đại thừa có Nữ tu, không phân biệt lớn nhỏ. Trong Đại
thừa khi đã qui y Phật giới, nhà sư thường tu luyện suốt đời. Người đi tu ăn ba buổi
trong ngày như người bình thường, tuy nhiên chỉ được ăn chay, không được ăn mặn.
Thức ăn họ tự mua hoặc tự làm ra, không phải đi khất thực.
+ Tiểu thừa: chỉ có Nam tu, tùy theo độ tuổi mà có tên gọi khác nhau (từ 20 tuổi
trở xuống gọi là Sadi, trên 20 tuổi gọi là Tỳ Kheo). Tiểu thừa, đi tu mang ý nghĩa trả
hiếu cho cha mẹ, sau một thời gian sư sãi có thể trở về gia đình sống cuộc sống bình
thường, người đi tu ở Phật giáo Tiểu thừa ăn mặn, chỉ kiêng ăn mười thứ thịt: chó, rắn,
voi, ngựa, thỏ, người, rùa, hổ, báo, sư tử. Các thứ thịt cá khác đều dùng được, những
phải do người khác giết và các tín đồ bố thí, tín đồ bố thí thức ăn gì thì dùng vậy. Và
chỉ được ăn một buổi trong ngày vào giờ ngọ. Thức ăn hàng ngày là do các sư đi khất
thực.
- Sự khác nhau thể hiện qua y phục:
+ Đại thừa: có nhiều loại, tùy vào cấp bậc, chức sắc, trang phục cho ngày thường
hay đại lễ mà khác biệt về cách may và màu sắc. Đề cập đến trang phục gồm các loại:
Y (cà sa), áo hậu,… và một số vật dụng tùy thân như: bát, đồ lược nước, tạo cụ, đồ
đội, đồ đeo.
+ Tiểu thừa: trang phục không may thành quần áo, mà chỉ dùng vải vàng nghệ
hoặc nâu quấn, vắt lên người với các kiểu khác nhau.
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
12
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
Chương 2
NGƯỜI KHMER VÀ CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER Ở
SÓC TRĂNG
2.1. KHÁI QUÁT VỀ SÓC TRĂNG
Sóc Trăng là tỉnh ven biển ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, nằm ở hạ
nguồn của Sông Hậu – nơi sông Hậu đổ ra biển Đông tại hai cửa Định An và Trần Đề.
Tỉnh có diện tích đứng thứ 6 và dân số đứng thứ 7 trong khu vực. Sóc Trăng là một
vùng đất mới, được các cư dân người Việt đến khai khẩn trong khoảng hơn 200 năm
nay. Vào thế kỷ XVII, Sóc Trăng thuộc vùng Ba Thắc của Chân Lạp. Năm 1757, vua
Chân Lạp là Nặc Thuận cắt đất Ba Thắc dâng cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn đặt Ba
Thắc thuộc dinh Long Hồ và vận động người Việt vào khai hoang, lập làng. Năm
1900, Pháp lập tỉnh Sóc Trăng. Năm 1956, tỉnh Sóc Trăng hợp nhất với tỉnh Bạc Liêu
thành tỉnh Ba Xuyên. Sau 30-04-1975, tỉnh Ba Xuyên giải thể, địa bàn Sóc Trăng
thuộc tỉnh Hậu Giang. Tỉnh Sóc Trăng được tái lập từ Nghị quyết tách tỉnh Hậu Giang
ở kỳ họp Quốc hội lần X, khóa VII, ngày 10-12-1991, và chính thức được phân vạch
địa giới hành chính vào năm 1992.
Sóc Trăng là địa bàn cư trú của các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer cùng với nguời
Chăm bản địa. Trong quá trình cộng cư, cộng đồng các dân tộc ở đây đã hình thành
nên một nền văn hóa đặc sắc và khá riêng biệt có thể gọi là “văn hóa xứ giồng”. Đặc
trưng “văn hóa xứ giồng” được thể hiện qua các mặt trong đời sống hằng ngày của
người Sóc Trăng, từ ngôn ngữ, mối quan hệ xã hội, tên đất, tên làng đến tín ngưỡng
tôn giáo, ẩm thực và lễ hội. Nói đến Sóc Trăng, nhiều người thường nghĩ ngay đến
chùa Chén Kiểu, chùa Dơi, chùa Đất Sét, Công viên văn hóa Hồ Nước Ngọt, lễ hội
đua ghe ngo, bún nước lèo, bánh pía…
2.1.1. Vị trí địa lý
Tỉnh Sóc Trăng thuộc hạ lưu đồng bằng Sông Cửu Long, nằm ở đoạn cuối cùng
của hạ lưu sông Hậu. Sóc Trăng có phần đất liền nằm ở 9014’-9056’ vĩ độ Bắc và
105034’-106018’ kinh độ Đông. Phía Bắc và Tây Bắc giáp Hậu Giang; Nam và Tây
Nam giáp Bạc Liêu; Đông Bắc giáp Vĩnh Long và Trà Vinh; Đông và Đông Nam giáp
biển.
Sóc Trăng nằm trên quốc lộ 1A nối liền Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang và thành
phố Cần Thơ. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng với các tỉnh: Trà Vinh, Bến Tre và Tiền
Giang.
Tỉnh lỵ hiện nay của Sóc Trăng là thành phố Sóc Trăng, cách thành phố Hồ Chí
Minh 231 km, cách thành phố Cần Thơ 62 km theo quốc lộ 1A.
Đơn vị hành chính Sóc Trăng gồm có 10 huyện, đó là: Mỹ Xuyên, Kế Sách, Mỹ
Tú, Long Phú, Thạnh Trị, Ngã Năm, Cù Lao Dung, Vĩnh Châu, Trần Đề và Châu
Thành.
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
13
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản đồ hành chính tỉnh Sóc Trăng
(nguồn: . Ngày 19 – 04 - 2011)
2.1.2. Điều kiện tự nhiên và dân cư
2.1.2.1. Địa hình
Sóc Trăng có địa hình thấp và tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 0,5 –
1m so với mực nước biển. Phần lớn lãnh thổ của tỉnh thuộc vùng đất liền. Phần còn lại
là các dải cù lao nằm kẹp giữa hai nhánh sông Hậu. Nhìn chung, địa hình của tỉnh có
dạng lòng chảo, cao ở phía sông Hậu và biển Đông, thấp dần vào nội địa, vùng thấp
nhất là phía Tây và Tây Bắc. Bề mặt địa hình có dạng gợn sóng không đều, xen kẽ là
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
14
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
những giồng cát tương đối cao và những vùng trũng nhiễm mặn, phèn. Đó là những
dấu vết trầm tích của thời kỳ vận động biển tiến và lùi tạo nên các giồng cát và các
bưng trũng ở các huyện Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Vĩnh Châu và thành phố Sóc
Trăng.
2.1.2.2. Sông ngòi
Trên địa bàn Sóc Trăng có hai sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh, đổ ra
biển qua cửa Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh.
2.1.2.3. Khí hậu
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu Sóc Trăng chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 26,70C, cao nhất là vào tháng 4 khoảng
28,20C, thấp nhất vào tháng 1 khoảng 25,20C.
Lượng mưa trung bình năm là 1.799,5 mm, tháng mưa nhiều có thể lên tới 5.489
mm.
Tổng số giờ nắng bình quân trong năm khoảng 2.372 giờ; tổng lượng bức xạ
trung bình năm đạt 140 – 150 kcal/cm2; độ ẩm trung bình là 86%.
Do nằm ở vị trí gần bờ biển Đông và Vịnh Thái Lan nên tốc độ gió trên địa bàn
tỉnh khá mạnh, khoảng 2,2 m/s.
Mưa bão tập trung từ tháng 7 đến tháng 9. Lũ thường xảy ra vào tháng 8, các hiện
tượng gió lốc thường xảy ra vào tháng 7. Sương muối có thể xảy ra vào tháng 12 và
tháng 1 hàng năm.
2.1.2.4. Dân cư
Sóc Trăng có diện tích tự nhiên 3.223,3 km2, dân số là 1.289,441 người (theo kết
quả điều tra ngày 01/04/2009). Trên địa bàn tỉnh có 26 dân tộc, nhưng chủ yếu là
người Kinh, Hoa và Khmer. Sóc Trăng có khoảng 350.000 người Khmer, đông nhất
trong số các địa phương có người Khmer sinh sống, chiếm 28,9% dân số toàn tỉnh và
chiếm 32,1% tổng số người Khmer của cả nước. Người Khmer tập trung ở các huyện
Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Mỹ Tú và Long Phú.
2.1.3. Tên gọi Sóc Trăng
Hiện chưa có tài liệu nào cho biết cụ thể tên gọi Sóc Trăng có từ khi nào. Theo
một số sách sử như: Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Địa Bạ Nam Kỳ Lục Tỉnh
hay những quyển sách khảo cứu của Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Hứa Hoành,… trước
khi có tên Sóc Trăng thì “xứ Sóc Trăng” ngày xưa có tên là xứ Ba Thắc tức ông
“Bassac” (tên của một vị thần người Khmer). Người ta cũng dùng tên này để nói về
nhiều địa danh, thổ sản khác của Đồng bằng Sông Cửu Long như cửa Ba Thắc, gạo Ba
Thắc… Sau đó, Sóc Trăng còn có tên là Ba Xuyên do vua Minh Mạng đặt, nhưng lúc
đó người địa phương vẫn gọi là Sóc Trăng.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi Sóc Trăng:
Học giả Lê Hương giải thích tên gọi Sóc Trăng theo 3 kiểu:
- Sóc Trăng là do tiếng Khmer đọc trại ra từ chữ “Srok Tréang” có nghĩa là “Bãi
Sậy”, vì Sóc Trăng ngày xưa có nhiều bãi sậy hoang vu.
- Sóc Trăng do từ “Srok Kh’leang” tiếng Khmer mà ra. Srok tức là “xứ”, “cõi”,
Kh’leang là “kho’, “vựa”, “chỗ chứa bạc”. Srok Kh’leang là xứ có kho chứa bạc của
nhà vua. Tiếng Việt phiên âm là “Sóc-Kha-Lang” rồi sau đó thành Sóc Trăng.
- Sóc Trăng là kho chứa bạc nhưng không phải là kho bạc của vua mà là kho bạc,
kho chứa vũ khí, kho chứa lương thực của giặc Xà Na Téa và Xà Na Tua, đóng quân ở
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
15
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
Sóc Trăng dưới triều Nguyễn, tại ấp “Sóc Vồ” ngày nay. Do đó, Sóc Trăng là do chữ
“Srok Kh’leang” đọc trại mà ra.
Theo quyển Petit Cours de Gesographie de la Basse Cochinchine par Trương
Vĩnh Ký thì “Sốc Trăng” (Sóc Trăng) là tên dân gian của một tỉnh hạt ở Nam Việt gọi
là Nguyệt Giang (Sông Trăng). Tên này có nguồn gốc Khmer là Péam Prêk Sròk
Khlẵn (di cảo Trương Vĩnh Ký trong le Cisbassac). Vương Hồng Sển giải thích:
“Péam” là vàm, “prêk” là sông, “sròk” là sốc, “khlẵn” (kh’leang) là kho bạc. Nguyên
đời vua Khmer có đặt một kho chứa bạc nơi đây. Đến đời vua Minh Mạng, đổi tên chữ
ra Nguyệt Giang tỉnh vì triều đình đã ép chữ “sốc” biến ra chữ “sông”, chữ “kh’leang”
ra “trăng” và đổi thành “nguyệt”.
2.1.4. Kinh tế
Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển Đông, vùng có nhiều trữ
lượng tôm cá, Sóc Trăng có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển tổng hợp.
Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa
nước, cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu nành, bắp, các loại rau màu như hành,
tỏi và các loại cây ăn trái như bưởi, xoài, sầu riêng... Mặc dù còn một số hạn chế về
điều kiện tự nhiên như thiếu nước ngọt và bị xâm nhập mặn trong mùa khô, một số
khu vực bị nhiễm phèn, nhưng việc sử dụng đất ở Sóc Trăng lại có nhiều thuận lợi cơ
bản để phát triển nông, ngư nghiệp đa dạng và trên cơ sở đó hình thành những khu du
lịch sinh thái phong phú.
Ngoài ra, Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng với diện tích 12.172 ha với
các loại cây chính : tràm, bần, giá, vẹt, dừa nước phân bố ở 2 huyện Vĩnh Châu và
Long Phú. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu
vực đất nhiễm phèn.
Những kết quả thăm dò bước đầu cho thấy có triển vọng về khai thác dầu và khí
đốt tại vùng thềm lục địa ngoài khơi gần Sóc Trăng.
Với vị trí địa lý khá thuận lợi và phong cảnh thiên nhiên mang nét đặc trưng của
vùng sông nước; Sóc Trăng có điều kiện để phát triển một nền kinh tế tổng hợp nhiều
thành phần, trong đó du lịch là một trong những ngành kinh tế có khả năng phát triển
và góp phần cải thiện cơ cấu GDP của tỉnh.
2.2. NGƯỜI KHMER Ở SÓC TRĂNG
2.2.1. Quá trình hình thành cộng đồng người Khmer ở Sóc Trăng
Sóc Trăng có khoảng 350.000 người Khmer sinh sống (với trên 68.000 hộ),
chiếm 28,9% dân số toàn tỉnh (theo thống kê năm 2009). Bà con Khmer sống chủ yếu
ở nông thôn vùng sâu, vùng đất giồng, ven biển, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp và đánh bắt thủy sản ven biển.
Người Khmer là dân tộc có mặt rất sớm ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long nói
chung và ở Sóc Trăng nói riêng, nhưng người Khmer có mặt ở Sóc Trăng chính xác
vào thời gian nào thì vẫn chưa thể xác định được một cách chắc chắn. Theo nhiều nhà
nghiên cứu thì người Khmer có lẽ đã xuất hiện ở Sóc Trăng và Đồng Bằng Sông Cửu
Long từ khoảng đầu thế kỉ XII – XIII, XIV thậm chí còn muộn hơn nữa. Căn cứ vào
những ghi chép trên bia kí viết bằng chữ Khmer cổ thì người Khmer với hình thức cư
trú với tên gọi là phum, sóc đến Đồng Bằng Sông Cửu Long khá muộn khoảng từ cuối
thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV. Điều này có thể sẽ phù hợp với việc giám định niên đại của
các ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer ở Sóc Trăng có niên đại khoảng từ thế kỉ
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
16
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
XIV – XV trở lại đây. Hơn nữa Phật giáo Theravada (Phật giáo Nam Tông) cũng chỉ
mới được du nhập vào người Khmer từ thế kỉ XIII.
Nhìn lại lịch sử, cách đây trên mười thế kỷ vùng Sóc Trăng và các tỉnh khác
thuộc châu thổ sông Cửu Long vẫn còn là một vùng đất sình lầy, hoang vu và ngập
mặn. Sau thế kỷ thứ X trở đi do mực nước biển rút dần, những vùng đất lớn tại Sóc
Trăng và phụ cận dần dần nổi lên, tuy hoang vu nhưng lại rất màu mở bởi được phù sa
bồi đắp trong nhiều thập niên, nhiều thế kỷ. Chính vì thế vùng đất này có sức thu hút
đối với người dân nghèo, người Việt, người Khmer, người Hoa cùng đến đây khai phá,
tạo lập một vùng đất phục vụ cho đời sống của mình. Đối với những người nông dân
nghèo người Khmer là những người chống nạn lao dịch nặng nề và sự bốc lột thậm tệ
của giai cấp phong kiến Khmer (thời đế chế Ăngkor và thời gian tiếp theo), đã làm nẩy
sinh một làn sóng di dân tự do, chậm rải của người Khmer nghèo khổ từ Campuchia
tới những giồng đất hoang vu nhưng màu mỡ ở Sóc Trăng và các tỉnh khác để sinh cơ
lập nghiệp. Nhất là từ thế kỷ XV trở đi khi đế chế Ăngkor bị sụp đổ dưới sự tấn công
của các thế lực thống trị phong kiến Xiêm La (Thái Lan). Những người Khmer càng bị
đẩy vào nghèo đói và cùng cực bởi bọn phong kiến ngoại tộc. Do vậy, từ đấy trở đi,
làn sóng di cư của những người nông dân Khmer chống phong kiến ngoại tộc, đã xuôi
theo dòng Cửu Long về Sóc Trăng và các tỉnh khác thuộc ĐBSCL ngày càng đông đúc
hơn. Cho đến thế kỷ thứ XVI trên địa bàn Sóc Trăng và các vùng phụ cận đã bắt đầu
có người dân Khmer sinh sống. Họ là những người lưu dân đến đây khai phá đất hoang
và sống tự do chưa chịu sự quản lý của Quốc gia nào. Ngày nay, người Khmer ở Sóc
Trăng vẫn còn lưu giữ nhiều câu chuyện truyền miệng liên quan đến sự kiện di dân
này. Ví dụ ở xã Tham Đôn huyện Mỹ Xuyên có ngôi chùa Phật giáo Nam Tông
Khmer gọi là chùa “Tắc Giồng”, tiếng Khmer gọi là “Pra Xa Thkong” được xây dựng
cách nay 976 năm ( theo lời kể của đại đức Thạch Sách, sư cả trụ trì chùa ). Người
Khmer trong vùng gọi là chùa Vua. Theo lời kể của các cụ già và sư cả trụ trì chùa,
một ông vua Khmer nào đó đã từng chạy loạn và dừng chân ở đây. Vùng đất nơi vua ở
gọi là “ đất vua ”, sau đó người Khmer chọn đây làm đất dựng chùa nên bà con gọi là:
“ chùa vua ”. Hay ở xã Phú Tân huyện Mỹ Tú có Sóc (Sok) người Khmer gọi là “Som
pu thlây” nghĩa là “thuyền vỡ”. Người dân cho biết rằng theo lời ông bà kể lại, xa xưa
khi ấy sông nước còn mênh mông, có một chiếc thuyền lớn của một hoàng thân hay
hoàng tử Khmer nào đó chở hàng trăm người chạy loạn về vùng này, chẳng may chiếc
thuyền bị thủng và chìm dần. Những người trên thuyền phải vứt dần đồ đạc đi kể cả
những vật quí báo như chuông vàng, lu bằng đồng đen dùng để đựng “nước dược”.
Khi đến vùng giữa xã An Hiệp và Phú Tân ngày nay chiếc thuyền bị vỡ và chìm hẳn.
Sau đó nơi này nổi lên thành giồng cát người Khmer gọi là giồng Som pu thlây và sóc
trên giồng gọi là “Sóc Som pu thlây”.
Trên địa bàn Sóc Trăng, người Khmer xây dựng phum, sóc của mình quanh các
giồng đất thành từng lớp như hình “vành khăn” từ các giồng, tiến dần theo hướng ra
ruộng đồng và những con mương xunh quanh. Tại đây, từ trên ba thế kỷ qua, đã cùng
với người Việt, người Hoa chung sống hòa thuận bên nhau. Qua quá trình giao lưu tiếp
biến văn hóa với nhau tạo nên một sắc thái văn hóa đặc trưng cho vùng Sóc Trăng.
2.2.2. Đặc điểm về văn hóa
2.2.2.1. Trang phục
Đối với người Khmer, trang phục không chỉ để mặc mà còn phải thỏa mãn cả về
mỹ thuật, tín ngưỡng và tâm linh. Tùy theo từng hoàn cảnh khác nhau mà người
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
17
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
Khmer lựa chọn cho mình những bộ trang phục truyền thống khác nhau. Cũng giống
như nhiều dân tộc thiểu số khác, trang phục truyền thống của người Khmer, đặc biệt là
người phụ nữ khá cầu kỳ và màu sắc rực rỡ.
Trang phục truyền thống ngày thường của người phụ nữ Khmer là áo dài (Tầmvông, hay còn gọi là áo Cổ Bồng) và vận Xà-rông. Xà-rông là một mảnh vải thổ cẩm
rực rỡ, được trang trí bằng nhiều hoa văn họa tiết, nhưng chủ đạo vẫn là hình trái
chám, kích thước rộng khoảng 1 mét, dài 3,5 mét, khi mặc thì cuộn lại che nửa người
phía dưới.
Vào mỗi dịp lễ tết, hay lên chùa lễ Phật, vẻ đẹp của trang phục (lễ phục) càng
thêm phần rực rỡ hơn vì có sự kết hợp với đồ trang sức. Trong dịp này, họ mặc những
chiếc Xà-rông có đính chuỗi hạt cườm ở cạp. Áo Tầm-vông dệt bằng tơ tằm, sợi bông,
hay chỉ kim tuyến với các loại hoa văn khác nhau. Ngoài ra, trong bộ lễ phục của
người Khmer không thể thiếu “Sbay”, một loại khăn lụa mềm màu xanh, cuốn chéo từ
vai trái xuống bên sườn phải, để tôn lên nét đẹp dịu dàng uyển chuyển của người phụ
nữ.
Trong đám cưới, trang phục cô dâu Khmer rất đẹp. Cô dâu thường mặc váy, gọi
là “Săm-pool-hoil” màu tím sẫm; áo dài tăm ong màu đỏ thẩm hoặc vàng thêu kim
tuyến, đính hạt cườm, kim sa rực rỡ ở phía trước. Độc đáo hơn, trên đầu còn đội chiếc
mão “Kha-ba-lòn-cốt” như một chiếc vương miện nhỏ xinh xắn được làm từ hạt cườm
và hàng trăm chiếc cánh cứng màu xanh biếc của loài bọ cánh cam (người Khmer gọi
là con Chil-vít). Nếu khăn “Sbay” trong bộ lễ phục màu xanh thì “Sbay” của cô dâu
được làm bằng vải dệt kim màu vàng và được đính hàng ngàn hạt kim sa nhỏ lấp lánh
tạo nên nhiều họa tiết hoa văn vui mắt hình cánh. Đồ trang sức cổ truyền của phụ nữ
Khmer chủ yếu làm bằng hạt cườm, đồng,… Những đồ trang sức này không thể tách
rời khỏi trang phục mà nó luôn hài hòa với trang phục.
Trang phục truyền thống của người Nam có phần đơn giản hơn. Hàng ngày, họ
mặc chiếc áo bà ba đen, quấn khăn rằn. Vào dịp lễ tết, họ mặc áo bà ba trắng, quần
đen, quàng khăn trắng vắt chéo lên vai trái.
Trang phục chú rễ trong ngày cưới là chiếc Xà-rông, áo ngắn màu đỏ, quàng khăn
trắng vắt qua vai trái và mang theo con dao tượng trưng, ngụ ý để bảo vệ cô dâu.
Cùng với sự phát triển của xã hội ngày nay, trang phục truyền thống của người
Khmer đã được cách tân, biến tấu theo nhiều kiểu mới lạ, đẹp mắt với nhiều màu sắc
khác nhau theo hướng phù hợp với thời đại nhưng hầu hết vẫn giữ được nét đặc trưng,
mức độ dung hòa giữa hiện đại và truyền thống.
Những trang phục mang tính truyền thống thường được dùng trong những dịp lễ
tết, những ngày quan trọng của cộng đồng người Khmer. Còn hàng ngày, để thuận tiện
cho việc sinh hoạt và lao động, người Khmer cũng ăn mặc như người Kinh.
2.2.2.2. Nhà ở
Nhà ở của người Khmer gọi là Peteah, mỗi người khi làm nhà phải tìm đến
Kruteay (thầy bói, thầy địa lý) nhờ định ngày, giờ tốt, xem đất và hướng nhà, tránh
ngày xấu, giờ xấu và tránh động tới thần linh. Vì người chết quay đầu theo hướng Tây
và tất cả những vật như: vải liệm, áo quan, cờ phướn, khăn xô,… dùng cho tang ma
đều lấy số chẵn, cho nên khi làm nhà tất cả sẽ ngược lại. Cửa ngôi nhà sẽ quay ra
hướng Đông hoặc nếu không được thì cũng tránh của chính quay ra hướng Tây. Cột
nhà dùng số lẻ và cột cao đến đâu thì cũng phải đúng vào số lẻ (Ví dụ: cột cao 2,5 mét,
3 mét hay 5 mét…), nén hương thắp, lá trầu cúng lễ nhà mới cũng phải là số lẻ.
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
18
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
Phum, Sóc là điểm định cư truyền thống của người Khmer. Những nơi đó, dưới
tán dừa và thốt nốt, chúng ta thấy từ vài ba, đến vài chục ngôi nhà quần tụ quanh mái
chùa. Cũng giống như người Việt láng giềng, nhà người Khmer là nền đất, mái lá, tầm
cỡ nhỏ, sơ sài. Những gia đình khá giả thì làm nhà lớn hơn, ngoài hai mái chính còn
kéo thêm hai mái phụ. Ven các thị trấn, thị xã, người Khmer đã xây cất nhà gạch theo
kiểu mới, giống như nhà người Việt trong vùng.
2.2.2.3. Ẩm thực
Bữa ăn hàng ngày của người Khmer thường đơn giản, họ ưa dùng các loại gia vị
để nấu như: cari, dừa, nước cốt dừa, thốt nốt…
Ngoài việc chế biến thức ăn tươi, họ còn luộc chín, phơi khô hoặc làm mắm để
dự trữ lâu ngày. Đặc biệt, với người Khmer, mắm vừa là thức ăn vừa là gia vị chính
trong chế biến món ăn. Việc làm mắm cũng có nhiều loại, mỗi loại đều có kỹ thuật rất
công phu. Nổi tiếng nhất có thể kể đến mắm "prôchôc", một loại mắm được người
Khmer ưa dùng và gần như được dùng hằng ngày trong bữa ăn.
Cách làm loại mắm này là cá lóc tươi, sau khi đánh vẩy, mổ bụng lấy ruột ra, rửa
sạch nhớt, nhưng phải đem ngâm nước lạnh một đêm cho cá sình lên, biến chất không
có máu, rồi vớt ra, đem phơi nắng cho ráo nước; lúc bấy giờ mới ướp muối, trộn với
cơm nguội, cho vào hũ, khạp, đổ nước muối nấu để nguội cho ngập cá rồi dằn mo cau
lên trên và lấy thanh tre xiềng thật chặt đừng cho cá nổi lên và đem phơi nắng khoảng
nửa tháng. Sau 6 tháng thì dùng được, nhưng để càng lâu càng ngon. Trước khi đem ra
dùng, người ta mang thính trộn vào. Mắm màu tái, mùi khẳng, vị mặn gấp.... Mắm
prôhôc để lâu (một năm trở lên) ăn sống, kèm với khế, chuối chát, rau sống; hoặc bầm
với xả ớt, ăn với cơm nguội; rất ngon. Loại mắm này, nếu được làm bằng cá trê vàng,
gọi là "Prôchôc ôp", đây được xem là món ăn nổi tiếng của Sóc Trăng. Ngoài ra, người
Khmer còn chế biến một loại mắm chua gọi "prôot", làm bằng tép mồng, một loại tép
rất dễ kiếm ở đồng ruộng, khi trộn với đu đủ, riềng hoặc gừng non sau vài ngày thì ăn
được.
Bên cạnh đó, người Khmer còn có các loại bánh được làm từ gạo nếp như: bánh
tét, bánh ít, bánh tổ chim…đặc biệt là loại bánh mang tính đặc thù của văn hóa dân tộc
như bánh gừng, cốm dẹp.
Bánh gừng là loại bánh được chế biến từ bột nếp với hột gà, có hình dáng giống
như củ gừng, nên người ta gọi đó là bánh gừng (num kh’nhây). Sau khi được chiên với
mỡ đã chín, người ta rắc thêm lên bánh một lớp đường cát trắng lấp lánh, trông rất đẹp.
Bánh này là lễ vật không thể thiếu trong các lễ cưới truyền thống Khmer, biểu trưng
cho hạnh phúc lứa đôi.
Cốm đẹp được làm từ nếp rang, đâm dẹp, nhưng phải là nếp mới nghĩa là nếp
mới chín đỏ đuôi, mới cắt từ cánh đồng mang về. Dụng cụ chính là một nồi đất to,
miệng rộng, một chiếc cối bồng. Cối này có dáng thon đứng, được khoét lồng từ một
khúc gỗ, chiều cao khoảng 1m và đâm bằng chày đứng. Khi nếp được rang chín đều,
có tiếng nổ lách tách, tức là ruột nếp đã chín, nổ tung vỏ ra, người ta bưng nguyên mẻ
đổ vào cối để giã, thường là giã đôi: một người, một tay cầm chảy, một tay cầm cây
gạt, trộn cho nếp nổi lên đều. Do nếp còn tươi nên thoạt đầu bị giã, hạt nếp bẹp ra dính
từng đề. Và cứ như thế, người ta giã cho đến khi hạt nếp khô lên, rời rã; họ sẽ đổ ra
nia, dùng sàng sẩy bỏ trấu trắng đục, điểm lác đác những hạt màu xanh. Cốm dẹp trộn
với đường, dừa ăn thơm ngon, hoặc ăn với chuối chín muồi. Nó là lễ vật không thể
thiếu trên mâm cỗ cúng trăng, trong lễ hội Ok-oom-bok.
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
19
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TIỀM NĂNG CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH SÓC TRĂNG
Đặc biệt khi đến với Sóc Trăng, mọi người còn có dịp thưởng thức những món ăn
đặc sản của người dân Khmer sinh sống tại nơi đây như: bún nước lèo, bánh cống…
Thức uống của người Khmer Sóc Trăng phổ biến là nước mưa chứa vào lu, tích
lại trong mùa mưa, dùng để uống cả năm; hoặc nước trà dùng cho người già và để tiếp
khách. Trong các dịp lễ tết, tiệc tùng, đãi khách, người Khmer thường dùng rựu trắng
hoặc rượu ngâm thuốc, được nấu từ gạo; nhưng rượu không được dùng trong chùa, vì
đây là điều giới cấm.
2.2.2.4. Lễ hội
Người Khmer có rất nhiều lễ hội, hầu như diễn ra quanh năm, nhưng quan trọng
nhất đó là: lễ hội vào năm mới (Chol-Chnam-Thmay), lễ hội chào mặt trăng (Ok-oombok) và lễ cúng tổ tiên (Donta). Hầu hết các lễ hội của người Khmer đều được tổ chức
tại chùa.
- Lễ Chol-Chnam-Thmay
Lễ hội Chol-Chnam-Thmay (lễ vào năm mới hay còn gọi là lễ chịu tuổi) là lễ hội
trọng thể nhất trong năm của người Khmer, diễn ra vào ba ngày 13, 14, 15 tháng
“Chet” (theo lịch riêng của người Khmer, vào khoảng đầu hoặc giữa tháng 4 Dương
lịch, nếu vào năm nhuần thì kéo dài bốn ngày). Đây là thời gian đã hoàn thành việc gặt
hái, mùa khô đã qua và mùa mưa sắp đến, giai đoạn trời đất giao hòa, cỏ cây trở nên
tươi tốt đầy sức sống. Sự đâm chồi nảy lộc của cỏ cây được người Khmer quan niệm
như sự khởi đầu của một năm mới, gọi là Chol-Chnam-Thmay.
Từ xa xưa, Chol-Chnam-Thmay đã trở thành ngày hội truyền thống của người
Khmer. Trong ba ngày lễ Chol-Thnam-Thmay, bà con Khmer còn đi thăm hỏi, mừng
tuổi nhau, chúc nhau năm mới sức khỏe, cuộc sống yên vui, phát đạt.
Vào đêm giao thừa, nhà nào cũng làm cỗ, dâng lên bàn thờ tổ tiên và đây cũng là
dịp cúng đưa tiễn vị Têvôđa cũ, đón rước vị Têvôđa mới, họ mong và tin rằng vị thần
này sẽ ban phước lành đến cho bản thân và gia đình của mình.
Ngày thứ nhất của lễ gọi là Thngay Chol Chnam Thmay (ngày vào năm mới, lễ
rước “Mâh Sangkran mới”). Lễ này có thể tổ chức sớm hay muộn trong ngày, miễn là
chọn đúng giờ tốt, theo quan niệm của người Khmer. Mọi người được tắm gội, mặc
quần áo đẹp, mang nhang đèn, lễ vật đến chùa dâng lên các vị sư và được nghe các vị
chúc tụng năm mới. Dưới sự điều hành của ông Acha, mọi người xếp hàng đi vòng
quanh chánh điện 3 lần để làm lễ chào mừng năm mới. Đêm lại, nghe các vị sư tụng
kinh cầu an năm mới, cầu cho “Quốc thái dân an” và hưởng được bốn pháp của đức
Phật (sống lâu, sắc đẹp, an vui và sức mạnh), rồi được nghe các vị thuyết pháp về ý
nghĩa của lễ Chol-Chnam-Thmay và sau đó nam nữ thanh niên cùng nhau múa hát
trước sân chùa.
Ngày thứ hai gọi là Thngay Von-boch, vào ngày này mỗi gia đình làm lễ dâng
cơm buổi sớm và buổi trưa cho các vị sư sãi. Buổi chiều, người ta làm lễ “đắp núi cát”
(Puôn phnôm khsach) ngay tại khuôn viên chùa, để mong gặp được điều lành.
Ngày thứ ba gọi là Thngay Lơn-săk (ngày thêm tuổi), đây mới là ngày chánh và
cũng là ngày cuối tết. Tương tự như hai ngày đầu, sau khi đã dâng cơm sáng cho các vị
sư ở chùa, người ta làm lễ tắm tượng Phật bằng nước có ướp hương thơm, rồi sau đó
tắm cho các vị sư cao niên ở chùa, nhằm rửa sạch hết cái cũ, những bụi bặm của trần
thế trong năm cũ, để bước sang năm mới với một thân thể sạch sẽ và hoàn toàn mới.
Tiếp theo đó là lễ cầu siêu (Băng Skôl), các vị sư được mời đến tháp lưu giữ hài cốt
của những người quá cố để cầu kinh, mong vong linh của họ sớm được siêu thoát. Đến
THÁI VÕ BẢO QUYÊN
20
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP