BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ CHÍ PHƢƠNG
RÀ SOÁT VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC
VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
GS TS LÊ MINH TÂM
Hà Nội 2011
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt
tình của các thầy, cô Trường Đại học Luật Hà
Nội, đặc biệt là thầy hướng dẫn GS. TS. Lê Minh
Tâm. Tác giả xin chân thành gửi đến quý thầy, cô
lời biết ơn sâu sắc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê CHÍ Phƣơng
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, để đáp ứng yêu cầu của hoạt động quản lý nhà nước
và xu thế hội nhập quốc tế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành
một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản này đã tạo lên
một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá hoàn thiện và hết sức đồ sộ,
điều này đã góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan khác nhau, hệ thống pháp luật nước ta hiện vẫn còn nhiều hạn
chế, tồn tại nhất định, điều này thể hiện ở sự mâu thuẫn, chồng chéo trong
nhiều quy định pháp luật, nhiều văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp
với thực tế yêu cầu quản lý xã hội thậm chí lạc hậu so với tình hình phát triển
của đất nước. Những hạn chế này đã tạo ra những “lỗi” nhất định ảnh hưởng
không nhỏ đến sự tồn tại và hoạt động của cả hệ thống pháp luật. Chính vì
vậy, một yêu cầu hết sức cấp thiết được đặt ra là phải tiến hành các hoạt động
rà soát đối với cả hệ thống pháp luật để tìm ra những “lỗi” mang tính hệ thống
và kịp thời khắc phục nó nhằm đảm bảo cho hệ thống pháp luật vận động và
hoạt động hiệu quả.
Với vai trò là một hoạt động tìm ra “lỗi” trong hệ thống pháp luật, rà soát
văn bản quy phạm pháp luật đã được đề cập đến từ khá lâu và hiện đang được
các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện. Mặc dù vậy, cho đến thời
điểm hiện nay, việc nghiên cứu về rà soát văn bản quy phạm pháp luật vẫn
chưa thực sự đi vào chiều sâu dưới góc độ là một hoạt động khoa học pháp lý
độc lập, đa phần các nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ xem xét nó như là một
hoạt động nghiệp vụ pháp lý đơn thuần và gắn nó với công tác hệ thống hóa
pháp luật. Do vậy, xét về mặt khoa học, rà soát văn bản quy phạm pháp luật
2
trên thực tế thiếu cả cơ sở lý luận lẫn cơ sở thực tiễn. Để hoạt động rà soát
văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian tới phát huy hết hiệu quả và được
xem xét đánh giá một cách đúng đắn thì việc nghiên cứu hoạt động này một
cách nghiêm túc, đầy đủ và khoa học là điều hết sức cần thiết.
Với mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ về rà
soát văn bản quy phạm pháp luật, qua đó đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn cho
hoạt động này, tác giả đã chọn “Rà soát văn bản quy phạm pháp luật qua
thực tiễn tại tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật
học chuyên ngành Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, hy vọng thông
qua luận văn này có thể góp phần làm sáng tỏ hoạt động rà soát văn bản quy
phạm pháp luật dưới góc độ lý luận của khoa học pháp lý.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật được đặt ra và thực
hiện khá lâu, nhưng cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về hoạt động này. Các nghiên cứu về
rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện tập trung chủ yếu trong các bài viết
đăng trên các tạp chí nghiên cứu pháp luật. Gần đây nhất, Cục Kiểm tra văn
bản - Bộ Tư pháp có ấn bản cuốn Nghiệp vụ rà soát, hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật, nhưng nội dung cuốn sách cũng chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn
nghiệp vụ rà soát văn bản quy phạm pháp luật cho các cơ quan, đơn vị cá nhân
khi thực hiện hoạt động này. Trong bối cảnh hiện nay, trước yêu cầu phải có
một hệ thống pháp luật hoàn thiện và hoạt động hiệu quả thì việc nghiên cứu về
rà soát văn bản quy phạm pháp luật một cách toàn diện sẽ góp phần đảm bảo
tính khoa học cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn cho hoạt động này.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong các nghiên cứu trước đây về rà soát văn bản quy phạm pháp luật,
các nhà nghiên cứu thường gắn liền hoạt động rà soát văn bản với hệ thống
3
hoá và coi đây là hai hoạt động song trùng. Nhưng xuất phát từ quan điểm
cho rằng đây là một hoạt động mang tính độc lập cao nó không chỉ gắn liền
với hệ thống hóa pháp luật mà nó còn là một trong những biện pháp bảo đảm
sự hoàn thiện hệ thống pháp luật, đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu đối với
hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật dưới góc độ là một hoạt động
khoa học pháp lý.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này, để đạt được các
mục đích đề ra, tác giả đã sử dụng những phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lê nin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau: nghiên cứu một cách
đầy đủ và toàn diện về rà soát văn bản quy phạm pháp luật dưới góc độ lý
luận xuất phát từ thực tiễn hoạt động này; xác định vị trí, vai trò và ý nghĩa
của rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động khoa học pháp lý nói
chung và hoạt động hệ thống hóa pháp luật nói riêng. Đồng thời đưa ra những
nhận định, đánh giá về thực tế rà soát văn bản quy phạm pháp luật và đề xuất
kiến nghị để hoạt động này ngày càng được hoàn thiện và phát huy hết hiệu
quả mà nó mang lại.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả nhận thấy những kết quả
thu như sau: Nêu ra quan điểm lý luận về hoạt động rà soát văn bản quy phạm
pháp luật với tư cách là một hoạt động khoa học pháp lý độc lập; đưa ra một
số nhận định về vai trò, ý nghĩa của hoạt động này đối với hoạt động xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; đề xuất, kiến nghị những biện pháp
4
nhằm hoàn thiện và đảm bảo cho hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp
luật trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn này được trình bày thành ba chương. Chương đầu đề cập đến
những vấn đề mang tính chung nhất về rà soát văn bản quy phạm pháp luật
như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, hình thức, nội dung của rà soát văn bản
quy phạm pháp luật. Chương hai đề cập đến quá trình rà soát văn bản quy
phạm pháp luật ở Việt Nam và thực tiễn hoạt động rà soát văn bản quy phạm
pháp luật tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Chương cuối cùng xác định rà soát văn
bản quy phạm pháp luật trong việc hệ thống hóa, pháp điển hóa và đưa ra một
số kiến nghị để hoàn thiện công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong
thời gian tới.
5
Chƣơng 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÀ SOÁT VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm rà soát văn bản quy phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm
Trong khoa học pháp lý hiện nay, khái niệm “rà soát văn bản quy phạm
pháp luật” không tồn tại một cách độc lập mà nó gắn liền với thuật ngữ “hệ
thống hóa pháp luật” và được coi là một phần trong nội dung của hoạt động hệ
thống hóa pháp luật. Thuật ngữ “rà soát văn bản quy phạm pháp luật” chỉ xuất
hiện trong một số văn bản pháp luật thực định dưới góc độ là một hoạt động
chuyên môn của cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp của
văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ, tại Điều 93 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008 quy định: Cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thường xuyên rà soát, định kỳ hệ thống
hóa các văn bản quy phạm pháp luật; nếu phát hiện có quy định trái pháp luật,
mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của
đất nước thì tự mình, hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp
thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.
Khái niệm “Rà soát” theo nghĩa thông thường thì đó là việc kiểm tra,
soát xét một nội dung, một vấn đề để tìm ra những sai sót hạn chế và đưa ra
những biện pháp khắc phục sửa chữa kịp thời. Với nội hàm như vậy, khái
niệm rà soát thường được sử dụng trong những ngành, những lĩnh vực liên
quan đến hệ thống, tổ chức hoặc những vấn đề mang tính tập hợp và đòi hỏi
sự chặt chẽ, hoàn thiện ở mức cao. Ví dụ: rà soát lại danh mục, danh sách; rà
soát hệ tiêu chuẩn quản lý…
6
“Văn bản quy phạm pháp luật” là một khái niệm phổ biến trong khoa
học pháp lý, ở một nghĩa đơn giản nhất nó được hiểu là văn bản có chứa đựng
những quy tắc xử sự chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hiện nay, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 đều có quy định cụ thể về “văn
bản quy phạm pháp luật”. Theo đó thì: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn
bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm
quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà
nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.”. (Khoản 1, Điều
1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Tuy nhiên, nếu các văn bản quy phạm pháp luật chỉ tồn tại một cách
đơn lẻ và ở một số lượng hạn chế thì người ta không đặt vấn đề rà soát đối với
chúng, mà chỉ cần thực hiện công tác kiểm tra là đủ. Nhưng thực tế lại không
phải như vậy, khi các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và có hiệu
lực chúng tạo thành một hệ thống hết sức chặt chẽ, giữa các văn bản quy
phạm pháp luật có sự ràng buộc, liên quan, tác động với nhau theo hai chiều
ngang, dọc. Chiều ngang là sự ràng buộc, liên quan giữa các lĩnh vực điều
chỉnh, cơ quan nhà nước cùng cấp ban hành; chiều dọc là mối liên hệ giữa cấp
trên với cấp dưới, giữa văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, phạm vi điều
chỉnh rộng hơn với văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn và phạm vi điều
chỉnh hẹp hơn. Khi ban hành một văn bản quy phạm pháp luật người ta
thường sử dụng những quy định của một văn bản quy phạm pháp luật khác có
hiệu lực pháp lý cao hơn để làm căn cứ ban hành về nội dung, hình thức và
thẩm quyền. Sau khi được ban hành, nó cũng có thể trở thành căn cứ để ban
hành một văn bản quy phạm pháp luật khác có giá trị pháp lý thấp hơn. Sự tác
7
động giữa các văn bản quy phạm pháp luật còn thể hiện ở chỗ, nếu một văn
bản có “vấn đề”, ví dụ như: Văn bản được ban hành trái pháp luật, không phù
hợp với tình hình thực tế… thì nó cũng sẽ tác động đến các văn bản quy phạm
pháp luật khác và đôi khi chỉ vì những “vấn đề” của một văn bản mà nhiều
văn bản phải bị bãi bỏ, sửa đổi, thay thế. Chính những “vấn đề” như vậy sẽ
làm cho nhiều văn bản liên quan bị ảnh hưởng, thậm trí nó còn tạo nguy cơ
phá hỏng cả hệ thống. Sự liên hệ chặt chẽ và tương tác qua lại này giữa các
văn bản quy phạm pháp luật trở thành một “mạng lưới” mà khi thực hiện
chức năng điều chỉnh của mình làm cho cả một hệ thống văn bản vận hành,
đó chính là sự vận hành của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Khi văn bản quy phạm pháp luật được bố trí, vận hành theo một hệ
thống thì một yêu cầu tất yếu phải đặt ra là làm cách nào để cho hệ thống này
hoạt động một cách liên tục, hiệu quả, đặc biệt là phải kịp thời phát hiện và loại
bỏ những “lỗi”, những “lỗ hổng”, những vấn đề ảnh hưởng đến sự vận hành
của cả hệ thống đó. Điều này có nghĩa là, trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật nếu còn tồn tại những văn bản trái pháp luật, văn bản không còn phù
hợp hoặc văn bản đã hết hiệu lực nhưng chưa được loại bỏ thì phải có biện
pháp để tìm và loại bỏ những văn bản này ra khỏi hệ thống pháp luật để tránh
sự ảnh hưởng, tác động đến các văn bản khác và cả hệ thống pháp luật. Chính
vì lẽ đó rà soát văn bản quy phạm pháp luật được đặt ra như một yêu cầu tất
yếu khi văn bản quy phạm pháp luật được tập hợp và trở thành một hệ thống.
Trong thời gian qua, hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật đã
được nhiều cơ quan nhà nước triển khai thực hiện, nhưng nghiên cứu về vấn
đề này một cách độc lập và dưới góc độ khoa học pháp lý thì vẫn chưa phổ
biến. Mặc dù rà soát văn bản quy phạm pháp luật được quy định như một
trách nhiệm trong hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhưng “rà soát văn bản quy phạm
8
pháp luật” là gì thì chưa có bất cứ văn bản pháp lý nào chỉ ra. Hiện nay, khái
niệm “rà soát văn bản quy phạm pháp luật” được một số cơ quan và người
làm công tác pháp luật đưa ra để phục vụ cho việc triển khai hoạt động này
trên thực tế, ví dụ: Trong tài liệu Hướng dẫn nghiệp vụ về rà soát văn bản quy
phạm pháp luật của Cục Kiểm tra văn bản – Bộ Tư pháp xuất bản năm 2007
đưa ra khái niệm như sau: “Rà soát văn bản quy phạm pháp luật là một quá
trình thường xuyên bao gồm các bước: tập hợp văn bản quy phạm pháp luật,
quy định quy phạm pháp luật theo những phạm vi nhất định, đối chiếu, so
sánh những văn bản, quy định này theo các tiêu chí, nguyên tắc cụ thể nhằm
tìm ra những quy định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không còn phù hợp với
tình hình phát triển của đất nước để xử lý bằng các hình thức thích hợp như
sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành, hoặc ban hành văn bản mới”.
Trong khái niệm này ta thấy sự liệt kê các thao tác phải thực hiện trong quá
trình rà soát văn bản quy phạm pháp luật, như vậy đây không phải là một khái
niệm mang tính bao quát nhất mà nó chỉ đơn thuần là một khái niệm mang
tính chỉ dẫn, các cơ quan thực hiện hoạt động này khi tiến hành rà soát chỉ
thực hiện theo từng bước mà khái niệm đã nêu ra. Ngoài ra, cũng có một số
quan điểm cho rằng, rà soát văn bản quy phạm pháp luật không phải là một
hoạt động độc lập nó chỉ là một thao tác mang tính kỹ thuật nằm trong hoạt
động hệ thống hóa pháp luật, do vậy chỉ cần nghiên cứu về hệ thống hóa pháp
luật mà không cần nghiên cứu về rà soát văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên nếu cho rằng rà soát văn bản quy phạm pháp luật chỉ là một
thao tác kỹ thuật thì chưa đánh giá đúng bản chất của hoạt dộng này, bởi vì
khi thực hiện việc rà soát thì ngoài các thao tác mang tính nghiệp vụ phổ
thông như tập hợp, sắp xếp văn bản thì người làm công tác rà soát còn phải
thực hiện các hoạt động mang tính nghiên cứu khác như đọc, nghiên cứu văn
bản, đối chiếu, so sánh các văn bản và phân tích từng nội dung, quy định cụ
thể để tìm ra những quy định trái pháp luật, những điểm còn mâu thuẫn,
9
chồng chéo, thậm trí còn phải đánh giá tính khả thi, tính phù hợp với thực tế.
Đây là những vấn đề mà chỉ bằng thao tác kỹ thuật thông thường thì không
thể phát hiện ra được. Còn nếu cho rằng, đây là một thao tác nằm trong hoạt
động hệ thống hóa pháp luật thì cũng chưa thật sự chính xác. Bởi vì, bản thân
hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật vẫn có thể được thực hiện được
một cách độc lập, không nhất thiết phụ thuộc vào hoạt động hệ thống hóa
pháp luật, và với tư cách là một biện pháp để “làm sạch” hệ thống pháp luật
thì đây là một hoạt động phải mang tính thường xuyên, độc lập và không phụ
thuộc vào các yếu tố khác. Trên thực tế, có nhiều cơ quan chỉ triển khai thực
hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật mà không tiến hành hệ thống hóa,
bởi lẽ khi loại bỏ những văn bản “lỗi” ra khỏi hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật thì hệ thống đó tự nhiên sẽ sắp xếp lại theo trật tự phù hợp.
Với cách nhìn khái quát và ở khía cạnh khoa học ta có thể thấy rà soát
văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động độc lập với mục đích là tìm ra
những văn bản trái pháp luật, văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo, văn bản
hết hiệu lực hoặc những văn bản không còn phù hợp với thực tiễn đời sống xã
hội trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và đưa nó ra khỏi hệ thống.
Do đây là một hoạt động chứa đựng yếu tố của hoạt động quản lý nhà nước
nên nó chỉ có thể do cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền thực hiện,
điều này khác biệt so với các hoạt động mang tính khoa học khác.
Từ những yếu tố nêu trên, dưới góc độ nghiên cứu của luận văn này,
khái niệm rà soát văn bản quy phạm pháp luật được hiểu như sau: Rà soát văn
bản quy phạm pháp luật là sự tác động vào hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thông qua việc xem xét, đánh giá
một cách tỷ mỷ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tìm và phát hiện những
văn bản, những quy phạm trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực
10
hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tế để loại bỏ chúng khỏi hệ thống
pháp luật hoặc đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của rà soát văn bản quy phạm pháp luật
Không giống như các hoạt động khoa học pháp lý khác, rà soát văn bản
quy phạm pháp luật là một hoạt động vừa mang tính chuyên môn nghiệp vụ
thông thường lại vừa mang tính nghiên cứu chuyên sâu, điều này khiến cho
hoạt động này có một số đặc điểm riêng biệt như sau:
- Đây là một hoạt động độc lập và không thể thiếu của cơ quan nhà
nước, tác động vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tìm và loại bỏ
những văn bản quy phạm pháp luật hoặc những quy phạm pháp luật có sự
mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật, lỗi thời, không còn phù hợp hoặc đã
hết hiệu lực ra khỏi hệ thống pháp luật nhằm góp phần vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật và phục vụ công tác hệ thống hóa pháp luật.
- Đây là một hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động này nằm trong nội dung
quản lý nhà nước về hành chính tư pháp. Theo đó, khi cơ quan nhà nước được
giao thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh
những ngành, lĩnh vực, quan hệ xã hội thuộc sự quản lý của mình thì đi kèm
với nó là trách nhiệm kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu quả của những văn
bản quy phạm pháp luật đã được ban hành. Trách nhiệm này đã được quy
định cụ thể trong luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hàng năm hoặc
theo định kỳ thì trong một khoảng thời gian nhất định, cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải tiến hành
việc rà soát lại những văn bản do mình ban hành để qua đó xác định những
văn bản còn hiệu lực, hết hiệu lực, văn bản phù hợp với quy định của pháp
luật hiện hành để từ đó có biện pháp bãi bỏ, thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp.
11
- Đây là một hoạt động mang tính chất khoa học, bởi vì ngoài các thao
tác mang tính nghiệp vụ phổ thông thì quá trình rà soát văn bản quy phạm
pháp luật cũng đòi hỏi sự đầu tư nghiên cứu ở một trình độ cao, đặc biệt là
trong vấn đề đánh giá tính khả thi của một văn bản cũng như cách nhìn bao
quát của cả một hệ thống. Bên cạnh đó, khi thực hiện rà soát, nhiều biện pháp
nghiên cứu khoa học cũng được sử dụng như phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, đồng thời nó cũng đòi hỏi người làm công tác rà soát phải là những
cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực
nghiên cứu pháp luật.
- Đây là một hoạt động hậu kiểm bởi vì rà soát được tiến hành sau khi
văn bản đã được ban hành, có hiệu lực thi hành và được triển khai trong thực
tế nhằm một lần nữa xem xét tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và tính
khả thi của văn bản trong tình hình mới.
1.1.3. Vị trí, vai trò của rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong hệ
thống pháp luật.
Hệ thống pháp luật pháp luật trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này
được sử dụng để chỉ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Với ý nghĩa như vậy, rà soát văn bản quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật vừa là một quy định trong văn bản
quy phạm pháp luật, có nghĩa là nó chỉ đơn giản là một quy phạm, là một bộ
phận rất nhỏ, mang tính chất cơ bản trong cả một hệ thống pháp luật đồ sộ. Ví
dụ: tại Điều 93 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật có quy định
về trách nhiệm rà soát văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, đây thực chất chỉ là một quy phạm trong một văn bản Luật.
Nhưng ở một khía cạnh khác, dưới một cái nhìn tổng thể bao quát cả hệ
thống, thì ta sẽ thấy: rà soát văn bản quy phạm pháp luật không còn là một
quy phạm pháp luật đơn giản nữa mà nó trở thành một hoạt động mang tính
12
khoa học pháp lý. Cũng như bất cứ vấn đề gì mang tính hệ thống khác, hệ
thống pháp luật trong quá trình hoạt động luôn phải đối mặt với những vấn đề
phát sinh từ bên trong nó, những yếu tố cản trở sự vận hành của cả hệ thống
hoặc nghiêm trọng hơn đó là những vấn đề có thể phá vỡ cả một hệ thống, ví
dụ: một văn bản có giá trị pháp lý cao được ban hành trái pháp luật hoặc
không phù hợp với đời sống xã hội sẽ dẫn đến sự sai phạm mang tính hệ
thông bởi có nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác sử dụng những quy định
trái pháp luật hoặc không phù hợp đó để làm cơ sở ban hành. Chính vì vậy, rà
soát văn bản quy phạm pháp luật được đặt ra và trở thành một công cụ hữu
hiệu, giúp cho cơ quan có thẩm quyền tìm, phát hiện những vấn đề trong hệ
thống pháp luật và kịp thời khắc phục nhằm làm cho hệ thống pháp luật được
vận hành một cách thông suốt không bị đình trệ. Đây thực chất là một trong
những biện pháp để “làm sạch” những lỗi mang tính hệ thống (Ví dụ như: tìm
và phát hiện những văn bản hết hiệu lực, những văn bản trái pháp luật đang
tồn tại trong hệ thống pháp luật). Như vậy, dưới góc độ này thì rà soát văn
bản quy phạm pháp luật không phải là một quy phạm nằm trong hệ thống
pháp luật mà nó trở thành một hoạt động khoa học mang tính pháp lý, nằm
ngoài và gắn liền với hệ thống pháp luật với vai trò là biện pháp để đảm bảo
cho sự vận hành một cách hiệu quả, thông suốt của hệ thống pháp luật.
1.1.4. Những nguyên tắc trong rà soát văn bản quy phạm pháp luật
Việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật phải được thực hiện theo
những nguyên tắc nhất định, từ thực tiễn hoạt động rà soát, ta có thể đưa ra
một số nguyên tắc cơ bản sau:
- Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản
quy phạm pháp luật:
Đây là một trong tắc chủ đạo xuyên suốt trong hoạt động rà soát văn
bản quy phạm pháp luật. Bởi vì, một trong những mục tiêu mà hoạt động rà
13
soát hướng tới đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật mà cụ thể là tính trật tự của
chính hệ thống pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình rà soát văn
bản quy phạm pháp luật luôn phải bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp với tư
cách là đạo luật cơ bản của Nhà nước và có hiệu lực pháp lý cao nhất, các quy
định trong mọi văn bản Luật và dưới luật đều không thể trái với những quy
định cụ thể trong Hiến pháp và tinh thần của Hiến pháp, tính hợp pháp còn
thể hiện là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải
phù hợp với quy định của văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên.
Khi rà soát văn bản quy phạm pháp luật thì tính hợp Hiến, hợp pháp trở thành
tiêu chí xác định một văn bản có trái pháp luật hay không.
- Không bỏ lọt văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình rà soát:
Nguyên tắc này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật là đối tượng
của hoạt động rà soát phải được thu thập một cách đầy đủ, không bỏ sót một
văn bản nào. Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng, bởi lẽ việc bỏ sót văn
bản trong quá trình rà soát sẽ làm giảm kết quả của hoạt động rà soát, thậm
chí còn làm cho hoạt động này mất tác dụng nếu văn bản bị bỏ lọt chính là
những văn bản bị “lỗi” trong hệ thống pháp luật. Sự đầy đủ văn bản trong quá
trình thu thập được thể hiện thông qua việc tìm kiếm và sắp xếp văn bản theo
từng lĩnh vực, từng cơ quan ban hành, phân loại văn bản thuộc đối tượng rà
soát, văn bản dùng làm căn cứ pháp lý để rà soát, văn bản sử dụng để đối
chiếu so sánh. Ngoài ra, để đảm bảo không bỏ lọt văn bản trong quá trình rà
soát, người làm công tác thu thập không chỉ thu nhập những văn bản đang còn
hiệu lực pháp luật mà còn phải thu thập cả những văn bản đã hết hiệu lực
nhưng chưa được bất cứ văn bản, quy định nào bãi bỏ.
- Phối hợp rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo chuyên đề, lĩnh
vực điều chỉnh của pháp luật với rà soát theo trình tự thời gian và thẩm
quyền ban hành:
14
Nguyên tắc này đảm bảo cho hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp
luật mang lại hiệu quả cao nhất. Theo nội dung nguyên tắc này thì khi tiến
hành rà soát văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan thực hiện việc rà soát phải
xác định rõ đối tượng rà soát là những văn bản điều chỉnh lĩnh vực gì, do cơ
quan hay cấp nào ban hành và ban hành từ thời điểm nào đến thời điểm nào.
Điều này là hết sức khoa học bởi nó sẽ giúp việc rà soát trở nên dễ dàng hơn
khi xác định được một cách cụ thể đối tượng được rà soát.
Trên thực tế, khi tiến hành rà soát văn bản quy phạm pháp luật các cơ
quan có thẩm quyền đều thực hiện theo nguyên tắc này, bởi vì một lĩnh vực,
chuyên đề pháp luật có thể do nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban
hành và theo một trình tự thời gian nhất định, ví dụ: Khi rà soát lĩnh văn bản
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp, Bộ Tư pháp đã triển khai thực
hiện rà soát toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này
được ban hành bởi các cơ quan nhà nước ban hành từ Trung ương xuống địa
phương. Trong quá trình rà soát nếu có sự kết hợp giữa việc rà soát văn bản
theo chuyên đề, lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật với rà soát theo trình tự thời
gian và thẩm quyền ban hành sẽ đảm bảo văn bản quy phạm pháp luật được rà
soát một cách toàn bộ, hạn chế được việc bỏ sót văn bản, đồng thời tiết kiệm
được thời gian, nhân lực, vật lực phục vụ cho hoạt động này.
- Bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc rà soát
văn bản quy phạm pháp luật:
Với đặc thù của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là sự liên hệ chặt
chẽ giữa các văn bản trong cùng hệ thống theo lĩnh vực, thẩm quyền và thời
gian ban hành, nên khi thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật nguyên
tắc này sẽ đảm bảo phát huy được hết các nguồn lực phục vụ cho công tác rà
soát. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành còn đảm bảo nâng
cao chất lượng kết quả rà soát, tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện hoạt
15
động này, đồng thời nó cũng làm cho việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật
trở lên dễ dàng hơn. Ví dụ: Khi rà soát văn bản quy phạm pháp luật phải có sự
phối hợp giữa cơ quan thực hiện rà soát với cơ quan làm công tác lưu trữ văn
bản để có thể thu thập văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho rà soát.
1.1.5. Mục đích và ý nghĩa của rà soát văn bản quy phạm pháp luật
1.1.5.1. Mục đích của việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật
Với đặc thù là một hoạt động mang tính nghiệp vụ bảo đảm cho sự hoạt
động thông suốt và hiệu quả của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thì
mục đích chính của việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật là tìm ra những
văn bản không còn phù hợp với quy định của pháp luật, tình hình thực tế khi
các quan hệ xã hội đã thay đổi và những văn bản hết hiệu lực nhưng vẫn còn
tồn tại trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, qua đó trực tiếp “làm
sạch” hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật.
Ngoài ra, dưới góc độ là một biện pháp quản lý nhà nước, rà soát văn
bản quy phạm pháp luật còn nhằm mục đích đảm bảo trật tự kỷ cương trong
công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hay nói cách khác, đó là một
trong những biện pháp quản lý hoạt động ban hành văn bản của cơ quan có
thẩm quyền, đồng thời cũng góp phần nâng cao chất lượng của văn bản quy
phạm pháp luật và của cả hệ thống nhằm đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong tương lai.
1.1.5.2. Ý nghĩa của việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật
Với tư cách là một hoạt động đảm bảo cho sự hoàn thiện của hệ thống
pháp luật, hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật có một số ý nghĩa sau:
- Thứ nhất: Đối với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, rà soát văn
bản quy phạm pháp luật là một hoạt động phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng
16
và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Với mục đích như đã nêu ở phần trên, rà
soát văn bản có tác dụng tạo sơ sở cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng của
văn bản quy phạm pháp luật và của từng văn bản quy phạm pháp luật cụ thể,
loại bỏ những văn bản, những quy phạm bị trái pháp luật, lỗi thời, mâu thuần,
chồng chéo và những yếu tố khác làm ảnh hưởng đến chất lượng của cả hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, làm cho chất lượng của các văn bản trong
hệ thống ngày càng được cải thiện và dần đi vào hoàn thiện, từ đó tạo ra sự
thống nhất hài hoà, chặt chẽ và phù hợp giữa các văn bản quy phạm pháp luật
trong cùng hệ thống.
- Thứ hai: Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý, rà soát văn
bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện cho khoa học pháp lý đánh giá, nhìn
nhận được hiệu quả thực tế của hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật,
đồng thời tạo cơ sở cho việc đầu tư nghiên cứu khoa học pháp lý ở tầm
chuyên sâu hơn, đặc biệt là làm cho hoạt động nghiên cứu lập pháp, lập quy
ngày càng chất lượng hơn.
- Thứ ba: Đối với hoạt động hệ thống hóa pháp luật và pháp điển hóa,
rà soát văn bản quy phạm pháp luật là yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự thành
công của các hoạt động này và là tiêu chí để xác định hệ thống hóa và pháp
điển hóa là những hoạt động khoa học pháp lý ở tầm cao chứ không phải là
những thao tác nghiệp vụ đơn giản như là tập hợp văn bản quy phạm pháp
luật. Từ thực tiễn hoạt động rà soát và hệ thống hóa cho thấy, việc hệ thống
hóa chỉ thực hiện được khi có kết quả của rà soát văn bản quy phạm pháp
luật, nếu không thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật trước khi tiến
hành hệ thống hóa thì việc hệ thống hóa pháp luật sẽ trở lên vô nghĩa. Điều
này cũng có ý nghĩa tương tự đối với hoạt động pháp điển hóa.
- Thứ tư: Đối với hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý
hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói riêng, hoạt
17
động rà soát văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp để đánh giá chất lượng
và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, đánh giá sự tác động của văn
bản quy phạm pháp luật tới các quan hệ xã hội mà các văn bản đó điều chỉnh,
đồng thời nó cũng là biện pháp để cơ quan nhà nước kiểm tra, xem xét đánh
giá việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của mình.
1.2. Nội dung hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật
1.2.1. Nội dung của việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật
1.2.1.1. Chủ thể thực hiện việc rà sóat
Chủ thể thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật là những cơ
quan, tổ chức cá nhân được giao nhiệm vụ rà soát văn bản quy phạm pháp
luật. Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về rà soát văn bản quy phạm
pháp luật nên việc xác định chủ thể thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp
luật còn gặp nhiều khó khăn. Có nhiều ý kiến cho rằng chủ thể của rà soát văn
bản chỉ bao gồm các cơ quan có thẩm quyền mà không phải là cá nhân. Bởi
vì, theo quan điểm này thì văn bản quy phạm pháp luật chỉ được ban hành bởi
các cơ quan nhà nước và chính những cơ quan này mới có thẩm quyền trong
việc tiến hành rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu cho rằng
chủ thể thực hiện rà soát chỉ là các cơ quan nhà nước thì vô tình sẽ bỏ qua
một loại chủ thể hết sức quan trọng đó là các cá nhân được giao nhiệm vụ rà
soát văn bản. Bởi vì trên thực tế, việc rà soát văn bản do các cơ quan nhà
nước triển khai thực hiện nhưng trên thực tế việc rà soát được tiến hành bởi
những cá nhân và nhóm cá nhân nhất định. Và nếu nhìn hoạt động rà soát từ
khía cạnh của một hoạt động nghiệp vụ pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật thì chủ thể của hoạt động này phải là cá nhân.
Hiện nay, chủ thể thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật được
phân loại theo cấp ban hành văn bản như sau:
18
- Ở trung ương: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
trách nhiệm rà soát văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban thường
vụ quốc hội, chủ tịch nước, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành có liên quan đến chức năng quản lý ngành,
lĩnh vực của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Tổ chức pháp
chế Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì phối hợp với các
đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ rà soát văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực của
mình. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là
người chịu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện việc rà soát văn bản
quy phạm pháp luật.
- Ở địa phương: Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm trong việc
triển khai rà soát văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân cùng cấp ban hành. Sở tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành. Phòng Tư
pháp cấp huyện chủ trì, phối hợp với các phòng ban chuyên môn thuộc
UBND cấp huyện rà soát văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND
cùng cấp ban hành. Công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã giúp Chủ tịch UBND
cấp xã rà soát văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND cùng cấp
(Điều 10 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân năm 2004).
Như vậy, chủ thể thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật là các cơ
quan có thẩm quyền trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các cá
nhân được giao nhiệm vụ thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.1.2. Đối tượng được rà soát
19
Đối tượng của rà soát văn bản quy phạm pháp luật chính là các loại văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống văn bản bản quy phạm pháp luật của
Việt Nam, đó là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004. Các loại văn bản quy phạm pháp
luật hiện nay gồm:
- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
- Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
- Nghị định của Chính phủ;
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông
tư của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
- Quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước;
- Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa
Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội;
- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp;
- Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp.
20
Những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành dưới những hình
thức nêu trên đều là đối tượng của hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp
luật, riêng những văn bản mặc dù nội dung có chứa quy phạm pháp luật
nhưng không được ban hành dưới những hình thức nêu trên thì không thuộc
đối tượng của rà soát văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.1.3. Những nội dung được rà soát
Nội dung được rà soát của văn bản quy phạm pháp luật gồm: Tính hợp
hiến, hợp pháp; tính thống nhất và tính phù hợp của văn bản quy phạm pháp
luật với tình hình thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội.
- Tính hợp hiến hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật: Nội dung
này đòi hỏi văn bản được ban hành không được trái với các quy định cụ thể
Hiến pháp, tinh thần của Hiến pháp và các quy định cụ thể của pháp luật. Để
xác định tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật, khi rà soát
cần phải xem xét một cách đồng bộ các nội dung: căn cứ pháp lý ban hành
văn bản, thẩm quyền ban hành văn bản, nội dung văn bản và trình tự, thủ tục
thông qua văn bản, cụ thể là:
Thứ nhất: Văn bản được ban hành phải đúng căn cứ pháp lý, tức là phải
có căn cứ pháp lý về thẩm quyền ban hành văn bản và quy định về nội dung
văn bản. Căn cứ ban hành phải là những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn
và phải đang còn hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản được rà soát. Nếu
một văn bản sử dụng căn cứ pháp lý là văn bản đã hết hiệu lực thì sẽ dẫn tới
vi phạm pháp luật về một số nội dung như: thẩm quyền ban hành văn bản;
hình thức, thể thức ban hành văn bản; nội dung văn bản.
Thứ hai: Văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền. Thẩm quyền
ban hành bao gồm thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Chỉ
những cơ quan, người được giao thẩm quyền mới có quyền ban hành văn bản
với hình thức luật định và nội dung tương ứng với hình thức văn bản. Ví dụ:
21
Hội đồng nhân dân tỉnh có thẩm quyền ban hành Nghị quyết (thẩm quyền về
hình thức) quy định về một số loại phí trên địa bàn tỉnh mình (thẩm quyền về
nội dung).
Thứ ba: Nội dung văn bản phải phù hợp với quy định của pháp luật
được thể hiện ở chỗ: Phù hợp với nội dung, mục đích của pháp luật; phù hợp
với những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam; phù hợp với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập
hoặc ký kết. Để kết luận nội dung của văn bản có trái pháp luật hay không,
khi thực hiện rà soát phải có sự nghiên cứu, đối chiếu, so sánh nội dung của
văn bản quy phạm pháp luật được rà soát với nội dung của văn bản quy phạm
pháp luật, điều ước quốc tế dùng làm căn cứ pháp lý hoặc nội dung các văn
bản quy phạm pháp luật khác có quy định cùng vấn đề.
Thứ tư: Văn bản phải được ban hành đúng thể thức, kỹ thuật trình bày
và theo một trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy định. Thể thức, kỹ thuật
trình bày ở đây là cách thức sử dụng từ ngữ, thuật ngữ trong văn bản, cách bố
trí, sắp xếp các phần của văn bản như: Quốc hiệu, tiêu ngữ, số ký hiệu, cách
ghi địa danh, tên, trích yếu văn bản, cách bố trí chương, điều, khoản,
mục…Còn trình tự, thủ tục thông qua văn bản là các bước cần thiết để một
văn bản được ban hành từ khâu soạn thảo, lấy ý kiến góp ý đến thẩm định và
trình cơ quan, người có thẩm quyền ban hành. Trình tự, thủ tục để ban hành
một văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định một cách cụ thể trong Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Tóm lại, tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật là
nội dung đặc biệt quan trọng, nó giữ vai trò chủ yếu trong việc rà soát, quyết
định toàn bộ nội dung, mục đích của việc rà soát.