Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Kiện đòi lại tài sản một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.15 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH THỊ TÂM

KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là
công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào
khác./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Thị Tâm




DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTDS 2004

Bộ luật Tố tụng Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2004

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

Nxb


Nhà xuất bản

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao


MỤC LỤC


1.1
1.2

2.1
2.2
2.3
2.4
2.5

3.1

3.2
3.3

MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỆN
ĐÒI LẠI TÀI SẢN
Khái quát chung về kiện đòi lại tài sản
Khái lược các quy định về kiện đòi lại tài sản theo pháp
luật Việt Nam
Chương 2: KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH
Chủ thể tham gia quan hệ kiện đòi lại tài sản
Đối tượng của kiện đòi lại tài sản
Các trường hợp kiện đòi lại tài sản.
Các trường hợp không được kiện đòi lại tài sản
Thời hiệu kiện đòi lại tài sản
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỆN

ĐÒI LẠI TÀI SẢN
Thực tiễn áp dụng pháp luật và những vướng mắc trong
quá trình giải quyết các tranh chấp về kiện đòi lại tài
sản
Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng pháp luật về kiện đòi lại tài sản
Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
về kiện đòi lại tài sản
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
5
5
13
23

23
29
33
41
50
54

54

64
65
72

73


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền sở hữu là một trong các quyền dân sự cơ bản của công dân và được
pháp luật bảo hộ. Bằng các phương thức khác nhau pháp luật cho phép các chủ thể
tự bảo vệ quyền sở hữu của mình hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
bảo vệ quyền sở hữu của mình khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu. Xuất phát từ
vai trò quan trọng của vấn đề sở hữu trong đời sống kinh tế xã hội cũng như tính
chất đa dạng, phức tạp của các quan hệ về sở hữu mà các tranh chấp liên quan đến
vấn đề sở hữu luôn là vấn đề phức tạp trong đời sống xã hội cũng như trong công
tác xét xử của Toà án. Hàng năm, Toà án các cấp đã phải giải quyết hàng ngàn vụ
việc liên quan đến các tranh chấp về sở hữu mà trong đó phải kể đến số lượng
không nhỏ các vụ kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản
không có căn cứ pháp luật.
BLDS 1995 ghi nhận các quy định về kiện đòi lại tài sản với những quy định
cụ thể và đây được coi là căn cứ pháp lý quan trọng để các cấp Toà án áp dụng giải
quyết các tranh chấp về quyền sở hữu nói chung, kiện đòi lại tài sản nói riêng. Qua
quá trình áp dụng vào thực tiễn, BLDS 1995 đã bộc lộ một số khiếm khuyết cần sửa
đổi, bổ sung và đây là lý do để BLDS 2005 ra đời. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực
thì quy định của BLDS 2005 về kiện đòi lại tài sản vẫn còn những khiếm khuyết,
bất cập dẫn tới nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, gây ra khiếu kiện kéo dài,
đặc biệt là đối với các vụ kiện liên quan đến quyền sử dụng đất.
Để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiện đòi lại tài sản,
nâng cao hiệu quả trong thực tiễn áp dụng thì việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật
liên quan đến vấn đề kiện đòi lại tài sản là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Pháp luật về sở hữu nói chung và bảo vệ quyền sở hữu nói riêng đã được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn. Các công
trình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố tương đối phong phú và đa dạng.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu cụ thể như:
Bài viết: “Bàn về quyền sở hữu trong luật dân sự” của Tiến sỹ Trần Đình


2

Hảo đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1995; Luận án PTS Khoa
học Luật học của tác giả Hà Thị Mai Hiên với đề tài: “Quyền sở hữu của công dân
ở Việt Nam”, đã bảo vệ thành công năm 1996; Luận án Thạc sỹ luật học của tác giả
Nguyễn Văn Cường với đề tài: “Một số vấn đề về quyền sở hữu trong Bộ Luật dân
sự Việt Nam”, đã bảo vệ thành công năm 2000; Luận án Tiến sỹ Luật học của tác
giả Hoàng Ngọc Thỉnh với đề tài: “Quyền sở hữu của cá nhân và phương thức bảo
vệ”, đã bảo vệ thành công năm 2001; Bài viết của Tiến sỹ Bùi Đăng Hiếu về: “Quá
trình phát triển của khái niệm quyền sở hữu”, đăng trên Tạp chí Luật học, số 5 năm
2003; Sách tham khảo của PGS.TS. Nguyễn Văn Thạo và TS. Nguyễn Hữu Đạt:
“Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay” (Nxb Chính trị Quốc gia, năm
2004)…
Sau khi BLDS 2005 ra đời, cũng đã có không ít các công trình nghiên cứu về
chế định sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu, góp phần làm phong phú, sáng tỏ hơn cả
về mặt về lý luận và thực tiễn về vấn đề này. Đáng chú ý là các công trình nghiên
cứu như: Bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Điện :“Cần xây dựng lại khái niệm
“quyền tài sản” trong Luật dân sự Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 3 năm 2005; Bài viết của Tiến sỹ Trần Văn Trung: “ Một số quy định mới
về tài sản và quyền sở hữu trong BLDS 2005”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 2 năm
2006; Bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Hữu Huyên: “Bảo vệ quyền sở hữu dưới góc độ
luật so sánh”; Bài viết của tác giả Tưởng Duy Lượng: “Bảo vệ quyền sở hữu trong
Bộ luật Dân sự năm 2005”, đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số 6 năm 2007; Bài

viết của tác giả Đỗ Văn Đại: “Về thời hiệu kiện đòi lại tài sản trong pháp luật dân
sự Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 13 năm 2011…
Ngoài ra phải kể đến các hội thảo khoa học về quyền sở hữu đã được tổ chức
thu hút sự quan tâm, tham gia của nhiều nhà khoa học. Tại Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2007 đã tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về vấn đề:
“Tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” và
hội thảo khoa học cấp trường với đề tài: “Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong
pháp luật dân sự Việt Nam”, trong cuộc hội thảo này một số nhà nghiên cứu đã trình
bày các tham luận về các phương thức bảo vệ quyền sở hữu, theo đó có đề cập đến


3

kiện đòi lại tài sản.
Có thể thấy rằng, vấn đề sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có bất cứ công trình nào viết
dưới góc độ nghiên cứu chuyên sâu về phương thức kiện đòi lại tài sản dưới một đề
tài cụ thể. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Kiện đòi lại tài sản - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” với mong muốn có được cái nhìn tương đối toàn diện, hệ thống
về phương thức kiện đòi lại tài sản.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên
cứu một số vấn đề mang tính lý luận chung về kiện đòi lại tài sản, từ đó đi sâu vào
phân tích các quy định của pháp luật về kiện đòi lại tài sản và việc áp dụng pháp
luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giải quyết các tranh chấp về
kiện đòi lại tài sản. Qua đó, chỉ ra những khuyếm khuyết, chưa đồng bộ của các quy
định pháp luật và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
về kiện đòi lại tài sản.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận mà đề tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài

là phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Ngoài ra, đề tài còn
được sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp suy diễn logic…
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích, đánh giá những vấn đề còn
bất cập trong quy định của BLDS 2005 về kiện đòi lại tài sản. Thông qua đó, có
những đánh giá, kết luận, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hơn nữa các quy định
pháp luật hiện hành về kiện đòi lại tài sản.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra như sau:
- Phân tích khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định về kiện đòi
lại tài sản;
- Phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về kiện đòi lại tài sản qua các
thời kỳ, từ đó làm nổi bật tính kế thừa truyền thống và những bước phát triển của
các quy định về kiện đòi lại tài sản;


4

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết các tranh
chấp về kiện đòi lại tài sản của Toà án;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Những nghiên cứu mới của luận văn.
Qua quá trình tìm hiểu các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
về kiện đòi lại tài sản, luận văn có được một số điểm mới sau:
- Luận văn trình bày một cách khoa học và có hệ thống những vấn đề cơ bản
về kiện đòi lại tài sản với tư cách là một phương thức kiện dân sự nhằm bảo vệ
quyền sở hữu.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về kiện đòi
lại tài sản hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật này trong việc giải
quyết các tranh chấp.

- Luận văn đề xuất một số phương hướng hoàn thiện hơn nữa các quy định
pháp luật về kiện đòi lại tài sản nhằm góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi chính đáng
của các chủ thể và ổn định giao lưu dân sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu bởi các nội dung sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kiện đòi lại tài sản.
Chương 2. Kiện đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam
hiện hành.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về kiện
đòi lại tài sản.


5

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN
1.1.Khái quát chung về kiện đòi lại tài sản
1.1.1. Khái niệm kiện đòi lại tài sản
Bảo vệ quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống
kinh tế xã hội. Có thể nói, nhu cầu bảo vệ quyền sở hữu là nhu cầu rất tự nhiên của
xã hội loài người trong quá trình hình thành và phát triển. Ngay từ thời kỳ sơ khai
của xã hội loài người thì người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ các sản vật tự nhiên
để đáp ứng các nhu cầu của mình. Cùng với sự phát triển của xã hội, con người
không chỉ chiếm giữ các sản vật tự nhiên mà còn biết tạo ra nhiều loại của cải vật
chất khác nhau để đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống ngày một phong phú hơn.
Chế độ tư hữu, mà đặc biệt là tư hữu về các tư liệu sản xuất chính trong xã hội càng
phát triển thì con người cũng ngày càng có ý thức hơn trong việc chiếm giữ, sử
dụng và bảo vệ các tài sản của mình.
Ở thời kỳ sơ khai, con người thường phải dùng sức mạnh vũ lực để xác định

và bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu đối với tài sản và các tư liệu sản xuất nói
chung của mình, điều này thường tạo nên sự bất ổn trong xã hội. Trong xã hội có
Nhà nước và pháp luật thì pháp luật đã trở thành công cụ quan trọng và hữu hiệu
trong việc bảo vệ quyền sở hữu, giúp cho chủ sở hữu thực hiện được các quyền
năng sở hữu của mình một cách tốt nhất, cũng như góp phần ổn định trật tự xã hội.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Bảo vệ là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho
luôn được nguyên vẹn” [36, Tr37]. Bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là sự tác động của
pháp luật đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành
vi xâm hại đến quyền sở hữu, giữ cho quyền sở hữu được nguyên vẹn. Nhà nước bảo
vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức điều chỉnh khác nhau. Phương thức điều
chỉnh là cách thức, biện pháp mà Nhà nước sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu khỏi những
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu.
Ở nước ta, Nhà nước điều chỉnh và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công
dân thông qua các quy phạm của nhiều ngành luật khác nhau như ngành luật hành
chính, ngành luật hình sự, ngành luật dân sự… Mỗi ngành luật có cách thức điều


6

chỉnh riêng tuỳ thuộc vào tính chất, chức năng của chúng. Tuy nhiên, trong thực
tiễn thực thi pháp luật thì chúng luôn có sự phối hợp và bổ sung cho nhau bởi trong
nhiều trường hợp phải áp dụng các quy phạm của hai hay nhiều ngành luật cùng
một lúc để bảo vệ quyền sở hữu cho các chủ thể.
Mặc dù vậy, do tính chất mềm dẻo khi áp dụng cũng như hiệu quả đem lại
trong việc ngăn ngừa và khắc phục thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp mà trong các phương thức pháp lý bảo hộ quyền sở hữu,
phương thức dân sự được áp dụng phổ biến nhất. Phương thức dân sự bảo vệ quyền
sở hữu bằng việc quy định những phương thức kiện dân sự trước Tòa án để chủ sở
hữu có thể thông qua đó đòi lại tài sản đang bị người khác chiếm giữ trái pháp luật,
yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu phải bồi thường thiệt hại về tài

sản hoặc yêu cầu ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu.
Pháp luật cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tự mình thực hiện
các hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của
mình. Nghĩa là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể dùng bất kỳ biện pháp
nào mà pháp luật không cấm để bảo vệ tài sản và quyền sở hữu, quyền chiếm hữu
hợp pháp của mình tránh các hành vi xâm hại. Hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu hợp pháp trong thực tế rất đa dạng (có thể là bằng việc tự bảo
quản, giữ gìn tài sản; yêu cầu người chiếm hữu bất hợp pháp trả lại tài sản cho
mình...). Tuy nhiên, hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào chính
khả năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Do vậy, trên thực tế
khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình thì chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp vẫn có thể bị xâm phạm bởi các hành vi của các chủ thể khác.
Trong trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình
bảo vệ được quyền sở hữu trước hành vi xâm phạm của chủ thể khác gây ảnh hưởng
tới việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm của mình thì chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền “yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác
buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài
sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại” [7, Điều 255]. Các hành vi xâm phạm


7

quyền sở hữu, quyền chiếm hữu trên thực tế khá đa dạng và phức tạp. Tuỳ thuộc
vào tính chất, mức độ của các hành vi vi phạm trong từng trường hợp cụ thể mà áp
dụng các phương thức kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu cho phù hợp.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Kiện” được hiểu là: “yêu cầu xét xử việc người
khác đã làm thiệt hại đến mình” [36, Tr 506] còn “đòi” là: “nói cho người khác biết
phải trả hoặc trả lại cái thuộc quyền của mình” [36, tr 319]. Như vậy, có thể hiểu
kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Toà án

xét xử buộc người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đối với tài sản của
mình phải trả lại tài sản đó cho mình.
Kiện đòi lại tài sản (còn được gọi là kiện vật quyền) là một phương thức bảo
vệ quyền sở hữu tồn tại từ rất lâu đời, được áp dụng trong bối cảnh chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp bị mất quyền chiếm hữu tài sản của mình. Kiện đòi lại
tài sản là cách thức giúp chủ sở hữu đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình mà đang
không được chiếm hữu tài sản đó.
Kiện đòi lại tài sản là một phương thức bảo vệ quyền sở hữu, thể hiện ở
quyền khởi kiện dân sự. Theo quy định của pháp luật thì phương thức này được áp
dụng cho cả chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp khi họ bị mất quyền chiếm
hữu đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình.
Chiếm hữu là việc “chiếm giữ, quản lý tài sản hoặc chi phối tài sản theo ý
chí của người có quyền đối với tài sản đó” [51, Tr40]. “Quyền chiếm hữu là quyền
nắm giữ, quản lý tài sản” [7, Điều 182]. Mất quyền chiếm hữu có thể hiểu là việc
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đang không được chiếm giữ và chi phối tài
sản thuộc quyền của mình. Để giành lại quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình
họ phải “nhờ” đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, mà cụ thể là Toà án can thiệp.
Lúc này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải tham gia vào một quá trình tố
tụng theo luật định. Để làm phát sinh quá trình tố tụng thì trước hết chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp phải có đơn khởi kiện, tức là phải nộp đơn yêu cầu Toà
án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình, hay nói một cách khác
là họ phải tiến hành kiện đòi lại tài sản.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm kiện đòi lại tài sản như sau:
Kiện đòi lại tài sản là biện pháp kiện dân sự, theo đó chủ sở hữu, người


8

chiếm hữu hợp pháp yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người chiếm
hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

phải trả lại tài sản cho mình.
1.1.2. Đặc điểm của kiện đòi lại tài sản
Kiện đòi lại tài sản là một phương thức kiện dân sự nhằm bảo vệ quyền sở
hữu. Do vậy, nó cũng mang các đặc điểm chung của phương thức kiện dân sự:
Thứ nhất, phương thức kiện đòi tài sản cũng mang tính thực tế và được áp
dụng rộng rãi. Bởi lẽ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu diễn ra khá phổ biến và
đa dạng, không phải hành vi nào cũng thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm để áp
dụng các quy định trong Bộ luật Hình sự hay đủ điều kiện để áp dụng một chế tài
của Luật Hành chính. Thêm vào đó, để khởi tố một vụ án hình sự hay ban hành ra
một quyết định hành chính lại phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện
và phải thông qua các thủ tục phức tạp, mất thời gian mà nhiều khi lại không đạt
được hiệu quả như mong muốn của người bị thiệt hại.
Thứ hai, phương thức kiện đòi lại tài sản cũng như các phương thức kiện dân
sự nói chung tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp có thể chủ động thực hiện quyền khởi kiện của mình khi có hành vi xâm
phạm theo thủ tục tương đối nhanh gọn.
Thứ ba, phương thức kiện đòi lại tài sản là phương thức mang lại hiệu quả
cao cho người bị thiệt hại, nó tạo điều kiện khắc phục những thiệt hại về vật chất
cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, đây là vấn đề có ý nghĩa thực tế nhất
mà chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp quan tâm.
Ngoài những đặc điểm chung với tư cách là một phương thức kiện dân sự thì
kiện đòi lại tài sản còn có những đặc điểm đặc thù sau đây:
Một là, kiện đòi lại tài sản là biện pháp bảo vệ quyền chiếm hữu. Biện pháp
kiện đòi lại tài sản được áp dụng trong trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp bị mất quyền chiếm hữu tài sản của mình. Nghĩa là, tài sản đang nằm
trong sự chiếm hữu của người khác, chủ sở hữu không còn khả năng kiểm soát đối
với tài sản của mình. Thực tế có một số cách hiểu khác nhau về chiếm hữu: Có cách
hiểu cho rằng, chiếm hữu là một tình trạng chứ không phải một quyền năng, nó là



9

sự biểu hiện ra bên ngoài của quyền sở hữu. Cách hiểu khác, lại cho rằng chiếm hữu
là một quyền. Cách hiểu thứ hai được xem là hợp lý hơn, bởi lẽ chiếm hữu là sự
nắm giữ, chi phối vật nhưng trên thực tế có những vật là của mình nhưng chúng ta
không thể nắm giữ chúng theo nghĩa cơ học được nên cần hiểu chiếm hữu là một
quyền và khi quyền này bị xâm phạm thì nó phải được bảo vệ.
Kiện đòi lại tài sản giúp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp lấy lại được
tài sản thuộc quyền của mình đang bị người khác chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật, tức là có thể khôi phục lại trạng thái tài sản như ban đầu, đây chính là điều mà
chủ sở hữu mong muốn nhất. Để quyền chiếm hữu đối với tài sản được bảo vệ thì
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải tiến hành khởi kiện một vụ án dân sự
để đòi lại tài sản. Trong trường hợp này, chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp
có nghĩa vụ chứng minh quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình đối với
tài sản đang tranh chấp.
Hai là, người bị kiện phải là người đang thực tế chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật đối với tài sản đang tranh chấp. Điều này rất quan trọng vì có nhiều
trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiếm hữu tài
sản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu tài sản đó đã trở thành chủ
sở hữu của tài sản do được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu hoặc xác lập quyền
sở hữu theo các quy định khác của pháp luật. Cũng có khi chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp do sự nhầm lẫn hay thiếu hiểu biết đã “kiện nhầm người” như trường
hợp kiện người trực tiếp xâm phạm tài sản của mình (kiện người đã lấy cắp, lấy
trộm tài sản…) trong khi người này đã dịch chuyển tài sản đó sang chủ thể khác.
Những trường hợp như vậy không thể áp dụng kiện đòi lại tài sản được.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là sự chiếm hữu không dựa trên căn cứ
do pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật có thể
là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình hoặc chiếm hữu không có
căn cứ pháp luật không ngay tình.
Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người

chiếm hữu không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn
cứ pháp luật [7, Điều 189].


10

Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình là người chiếm
hữu không dựa trên căn cứ do pháp luật quy định, người chiếm hữu biết việc chiếm
hữu là bất hợp pháp hoặc không biết việc chiếm hữu là không có căn cứ pháp luật
nhưng được xác định là có thể biết việc chiếm hữu là không có căn cứ pháp luật
(pháp luật buộc phải biết) [33, Tr 191].
Khi bị kiện đòi lại tài sản, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không
ngay tình phải trả lại tài sản cùng với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản trong thời
gian chiếm hữu cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Còn đối với người
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì chỉ phải trả lại tài sản
trong những trường hợp nhất định và không phải hoàn trả hoa lợi, lơi tức thu được
từ tài sản trong thời gian chiếm hữu ngay tình. Do vậy, cần lưu ý rằng không phải
trong mọi trường hợp xác định được người đang thực tế chiếm hữu không có căn cứ
được người đã chuyển giao tài sản cho mình mà điều này lại khôna là, đối tượng
Ba là, đối tượng của kiện đòi lại tài sản phải là vật có thực, đang còn tồn tại
trên thực tế và là vật đặc định. Vật được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất,
nhưng không phải mọi vật đều là tài sản. Vật chỉ trở thành tài sản khi nó đáp ứng
được một nhu cầu vật chất nào đó của con người và nằm trong sự chiếm hữu của
con người, có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự. Vật được
xác định là tài sản không chỉ là những vật đang tồn tại thực mà còn bao gồm cả
những vật chắc chắn hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, vật trong kiện đòi lại tài
sản chỉ bao gồm vật đang tồn tại thực mà thôi. Kiện đòi tài sản gắn với việc bảo vệ
quyền chiếm hữu cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nên không thể xảy ra
việc kiện đòi lại tài sản mà tài sản đó lại chưa có thực, tức là chưa nằm trong sự
chiếm hữu được.

Kiện đòi lại tài sản cũng chỉ được áp dụng khi tài sản hiện còn ( tài sản hiện
còn được xác định là vẫn còn nguyên ở trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn
nhưng đã bị giảm sút giá trị hoặc đã được làm tăng giá trị), nếu tài sản không còn
tồn tại do đã bị mất mà không xác định được người đang thực tế chiếm hữu hoặc bị
tiêu huỷ thì không thể áp dụng biện pháp kiện đòi lại tài sản được. Trong trường
hợp như vây, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chỉ có thể áp dụng biện pháp


11

kiện đòi bồi thường thiệt hại.
Vật là đối tượng của kiện đòi tài sản còn là vật đặc định. Vật đặc định là
những vật có thể phân biệt với các vật khác bằng các dấu hiệu đặc trưng riêng biệt
của vật đó về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Đây là điều
kiện quan trọng đối với phương thức kiện đòi lại tài sản, vì chủ sở hữu người chiếm
hữu hợp pháp khi khởi kiện phải căn cứ vào thực tế, tài sản của họ có tồn tại trong
thực tế, chưa bị hủy hoại, có thể nhận dạng được để biết đó là tài sản của mình.
Trên cơ sở vật có các đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc
tính, tính năng tác dụng của nó nên chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp mới có
thể phát hiện ra nó khi nó đang bị người khác chiếm giữ trái pháp luật. Đây cũng là
bằng chứng xác thực để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chứng minh quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu của mình đối với tài sản, là căn cứ pháp lý quan trọng để
Toà ra phán quyết bảo vệ quyền lợi cho họ.
Bốn là, giữa nguyên đơn và bị đơn trong quan hệ kiện đòi lại tài sản không
có quan hệ hợp đồng. Nghĩa là, tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp ngoài ý chí của họ, hoặc theo ý chí nhưng người thứ ba nhận được tài sản
thông qua hợp đồng với người không có quyền định đoạt tài sản (Ví dụ: A bị mất
một chiếc xe sau đó phát hiện thấy B đang đi chiếc xe đó; A có quyền đòi lại chiếc
xe từ B, nếu B không chịu trả thì A có thể kiện B để đòi lại chiếc xe. Hoặc trường
hợp A cho B mượn một chiếc điện thoại di động để dùng, sau đó B không trả cho A

mà lại tặng chiếc điện thoại này cho C. Khi A phát hiện ra C đang sử dụng thì A có
thể kiện C để đòi lại điện thoại của mình). Trong trường hợp các bên có quan hệ
hợp đồng mà phát sinh tranh chấp thì không áp dụng phương thức kiện đòi lại tài
sản mà phải áp dụng các quy định về hợp đồng để giải quyết.
Như vậy, về bản chất thì các đặc điểm riêng của kiện đòi lại tài sản cũng
chính là các điều kiện để áp dụng phương thức kiện này.
1.1.3. Vai trò của kiện đòi lại tài sản
Có thể nói rằng, trên thực tế biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm
hữu hợp pháp của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất.
Hơn nữa, người Việt Nam có truyền thống “duy tình”, “dĩ hoà vi quý”, luôn muốn


12

giữ gìn tình làng nghĩa xóm không muốn kiện tụng nhau ra Toà. Do vậy, việc kiện
nhau ra Toà cũng không phải là “thói quen” như là một nét văn hoá hết sức bình thường
ở các nước Phương Tây. Khi có “xung đột” thì thông thường các bên tự dàn xếp với
nhau thông qua con đường hoà giải. Cách thức này đem lại hiệu quả rất tốt bởi một
mặt nó giúp giữ được quan hệ tốt đẹp giữa các bên, mặt khác nó còn giúp cho việc
khắc phục hậu quả được nhanh chóng và kịp thời do có sự tự nguyện của các bên.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, kéo theo những tác
động tiêu cực từ mặt trái của nó thì trong những năm gần đây, các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp bắt đầu có xu hướng gia tăng, đặc
biệt là các hành vi lấn chiếm đất đai. Có nhiều vụ việc có nguồn gốc từ những
tranh chấp dân sự nhỏ nhặt nhưng các bên không thể tự hoà giải được với nhau mà
trở thành những vụ án hình sự nghiêm trọng. Trong những trường hợp này, biện
pháp tự hoà giải xem ra không còn phát huy tác dụng, và chủ sở hữu, người chiếm
hợp pháp buộc phải nhờ đến Toà án để có thể bảo vệ quyền lợi của mình. Với
những nét đặc thù riêng, kiện đòi lại tài sản là một phương thức kiện dân sự có vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu, giữ vững trật tự an toàn xã hội. Có

thể nhận thấy vai trò của kiện đòi lại tài sản thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, việc luật hoá các quy định về sở hữu nói chung và quy định về
kiện đòi lại tài sản nói riêng thành một chế định tương đối đầy đủ và hoàn thiện
như hiện nay không chỉ thể hiện trình độ lập pháp ngày càng tiến bộ của Nhà nước
ta mà nó còn là sự thể hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước ta trong việc bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
Phương thức kiện đòi lại tài sản thể hiện thái độ tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối của
Nhà nước đối với quyền sở hữu hợp pháp của người dân. Các quy định này là cơ
sở củng cố, tăng cường quyền lực Nhà nước trong hoạt động quản lý xã hội nói
chung và quản lý các quan hệ về sở hữu nói riêng, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, các quy định này là căn cứ pháp lý để Toà án áp dụng trong quá trình
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn, đảm bảo tính thống nhất, công
bằng và nghiêm minh của pháp luật. Trong thực tiễn thực thi pháp luật của các cơ


13

quan Nhà nước có nhiều trường hợp gặp phải khó khăn, vướng mắc mà nguyên nhân
xuất phát từ sự thiếu các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề đó hoặc tuy có nhưng
lại thiếu sự đồng bộ. Trong khi đó có thể nói rằng, các quy định hiện này về kiện đòi
lại tài sản là tương đối hoàn thiện và đồng bộ. Điều này đã tạo rất nhiều thuận lợi cho
các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là Toà án trong quá trình thực thi pháp luật.
Thứ ba, pháp luật nói chung là phương tiện quan trọng để giáo dục mọi thành
viên trong xã hội. Những quy phạm pháp luật được đặt ra luôn xác định rõ quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mỗi chủ thể khi ở
trong tình huống đã được dự kiến. Pháp luật tạo cho mỗi chủ thể khả năng sử dụng
những quyền đã được quy định để phục vụ lợi ích của mình, nhưng đồng thời phải
thực hiện những nghĩa vụ tương ứng để tôn trọng quyền và lợi ích của các chủ thể
khác, của tập thể và nhà nước. Các quy định về kiện đòi lại tài sản cũng không nằm

ngoài chức năng này của pháp luật. Quy định về kiện đòi lại tài sản đã góp phần
nâng cao hiểu biết của người dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu của mình, tránh
các hành vi vi phạm, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ
quyền sở hữu của mình và tôn trọng quyền sở hữu của các chủ thể khác.
Thứ tư, các quy định về kiện đòi lại tài sản thể hiện sự điều chỉnh kịp thời của
pháp luật đối với những quan hệ pháp luật phát sinh trong đời sống xã hội, là căn cứ
để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Toà án xét xử khi có hành vi vi
phạm. Kiện đòi lại tài sản giúp cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp lấy lại
được tài sản đang bị người khác chiếm hữu bất hợp pháp, khôi phục lại tình trạng tài
sản như lúc ban đầu, tạo khả năng khắc phục kịp thời những thiệt hại vật chất cho chủ
sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp như khi chưa bị xâm phạm. Kiện đòi lại tài sản là
biện pháp bảo hộ rất thiết thực bởi nó giúp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
đòi lại được tài sản mà không cần quan tâm đến khả năng tài chính của người phải
thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản khi thoả mãn các điều kiện để kiện đòi lại tài sản.
Như vậy, muốn thực hiện tốt sự quản lý của Nhà nước góp phần ổn định và
thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung và các quan hệ về sở hữu nói riêng thì
cần phải chú trọng, phát huy vai trò của pháp luật. Do vậy, cần phải xây dựng và
hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu cho


14

phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới của đất nước.
1.2. Khái lược các quy định về kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu nói chung và kiện đòi lại tài sản nói riêng
ở nước ta hình thành từ rất sớm. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, những quy
định này không những có sự kế thừa tinh hoa của thời kỳ trước mà còn không
ngừng được hoàn thiện để phù hợp hơn với các điều kiện lịch sử, xã hội mới.
1.2.1. Kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến
Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam là giai đoạn

từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII. Các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, đến triều
Nguyễn đều đã để lại những di sản đồ sộ trong đó phải kể đến hệ thống pháp luật.
Hai bộ luật được xem là tiêu biểu nhất trong thời kỳ phong kiến đó là Bộ Luật Hồng
Đức (hay còn gọi là Quốc triều hình luật) của nhà Lê và Bộ Hoàng Việt luật lệ (hay
còn gọi là Bộ luật Gia Long) của nhà Nguyễn.
* Thời kỳ nhà Lê
Năm 1428, sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, nhà Lê được
thành lập. Thành công lớn nhất trong lĩnh vực lập pháp của nhà Lê là đã xây dựng
và ban hành Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là Quốc triều hình luật). Các vấn đề về
sở hữu và bảo vệ sở hữu đã được ghi nhận khá cụ thể trong bộ luật này.
Pháp luật nhà Lê rất chú trọng đến quyền sở hữu và cách thức bảo vệ quyền
sở hữu, nhất là quyền sở hữu đối với ruộng đất. Để bảo vệ quyền tư hữu đất đai
pháp luật quy định cụ thể các hành vi xâm chiếm hoặc bán trộm đất đai đều bị Nhà
nước trừng phạt và phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu.
Điều 382 Chương điền sản trong Quốc triều Hình luật quy định: “Bán trộm
ruộng đất của người khác thì xử tội biếm, bán từ 10 mẫu trở lên thì xử tội đồ, trả
tiền cho người mua và phải trả thêm một lần tiền mua nữa để trả cho chủ có ruộng
đất và người mua, mỗi người một nửa, ruộng đất phải trả cho chủ. Nếu người mua
biết mà cứ mua thì xử 80 trượng và mất số tiền mua.”
Điều 386 cũng quy định: “Nô tỳ mà bán trộm ruộng đất của chủ thì xử phạt
90 trượng và thích vào mặt 6 chữ, lưu đi châu gần, ruộng đất phải trả lại cho chủ
và trả tiền cho người mua. Người mua biết mà cứ mua thì xử phạt 50 roi, biếm một


15

tư, tiền mua phải tịch thu sung công”.
Có thể thấy rằng, các quy định này đã chỉ rõ chủ sở hữu được lấy lại tài sản
(ruộng đất) đã bị người khác bán trộm hay nói cách khác là bị người khác định đoạt
ngoài ý chí của mình. Người bán trộm tài sản của người khác phải chịu hình phạt rất

nghiêm khắc cả về nhân thân và tài sản. Các quy định trên cũng xác định rõ quyền
và nghĩa vụ của người mua ngay tình và người mua không ngay tình. Đối với người
mua biết rõ người bán không phải chủ sở hữu đích thực hoặc không có quyền bán
mà vẫn mua (không ngay tình) thì ngoài hình phạt về nhân thân còn phải trả lại tài
sản cho chủ sở hữu, mất tiền mua. Nếu họ không biết người bán là người không có
quyền bán (người mua ngay tình) thì họ được lấy lại tiền đã mua từ người bán và
còn được bồi thường thêm một khoản tiền từ người đã bán tài sản cho mình.
Quốc triều Hình luật cũng đã có quy định về thời hiệu đòi lại tài sản trong
một số trường hợp cụ thể như: Quốc triều Hình luật quy định rằng, đối với những
ruộng đất cầm mà chủ ruộng xin chuộc thì phải trong niên hạn (niên hạn là 30 năm),
“Nếu quá niên hạn mà xin chuộc thì không được. Trái lẽ mà cố cưỡng đi kêu, thì
phải phạt 50 roi, biếm một tư” (Điều 384). Ngoài ra, “Con trai từ 16 tuổi, con gái từ
20 tuổi trở lên, mà ruộng đất của mình để người trưởng họ hay người ngoài cày hay
ở, đã quá niên hạn mới cố cưỡng đòi lại, thì phải phạt 80 trượng và mất ruộng đất
(niên hạn: người trưởng họ 30 năm, người ngoài 20 năm). Nếu vì binh hoả hay đi
siêu bạt mới về, thì không theo luật này”. Như vậy, ruộng đất đã chiếm hữu lâu năm
(thông qua ở nhờ, mượn ruộng) sẽ được xác lập quyền sở hữu cho người chiếm hữu
lâu năm đó, chủ sở hữu không còn quyền đòi lại nữa. Quy định này là hết sức cần
thiết và tiến bộ nhằm tránh tình trạng bỏ hoang ruộng đất cũng như ổn định các giao
dịch dân sự, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể.
Trong Quốc triều hình luật các quy định về quyền sở hữu cũng như bảo vệ
quyền sở hữu không được quy định thành chương, mục cụ thể, riêng biệt mà được
bố trí theo kiểu “xâm nhập”của những điều khoản riêng biệt thuộc loại này vào
phần dành cho loại khác. Nằm trong mối liên hệ với rất nhiều điều khoản của Quốc
triều Hình luật, chế định sở hữu cũng như các chế định khác xứng đáng được đánh
giá là đã đạt đến độ hoàn thiện khá cao và được dùng làm khuôn mẫu của cho các


16


triều vua sau này [39, Tr 361].
* Thời kỳ nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, kéo dài từ 1802 1945. Nhưng trong thực tế, nhà Nguyễn chỉ tồn tại độc lập trong khoảng thời gian
từ 1802 - 1858, còn từ sau 1858 trở đi, khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, thì
nhà Nguyễn thực chất chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hệ thống chính quyền cũng như
pháp luật đều do thực dân Pháp thiết lập và ban hành.
Sản phẩm lập pháp tiêu biểu của nhà Nguyễn là Bộ Hoàng Việt luật lệ (hay còn
gọi là Bộ luật Gia Long). Cũng giống như Quốc triều Hình luật, Bộ luật Gia Long điều
chỉnh nhiều quan hệ xã hội thuộc nhiều nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực dân
sự, Bộ luật này tập trung bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất và tài sản.
Tuy nhiên, trong Bộ Hoàng việt luật lệ không có các điều khoản quy định một
cách trực tiếp về vấn đề kiện đòi lại tài sản, mà chỉ có những quy định gián tiếp. Theo
đó, đối với ruộng đất của dân lưu tán, quyền sở hữu của họ được bảo lưu khá dài, đợi
họ trở về để trả lại như: dân lưu tán từ trước 1802 mà đến năm 1854 chưa quay về thì
mới bị mất quyền sở hữu, còn trong thời hạn đó mà họ quay trở về thì người đang
chiếm hữu thực tế phải trả lại tài sản đó cho chủ cũ. Đối với ruộng đất bị bỏ hoang hoá
thì nhà Nguyễn cho phép người nào khai khẩn trước được nhận làm ruộng tư của mình.
Để bảo vệ quyền tư hữu, pháp luật cũng quy định những tội xâm phạm quyền tư hữu
tài sản bị trừng trị rất nặng.
Mặc dù còn có những hạn chế do sao chép gần như nguyên vẹn bộ luật của triều
Mãn Thanh Trung Hoa, do làm mất đi “bao nhiêu sự tân kỳ mới lạ trong bộ dân luật
triều Lê”, nhưng Bộ Hoàng Việt luật lệ của nhà Nguyễn vẫn là tài liệu có giá trị để
nghiên cứu các chế định về dân luật nói chung và chế định sở hữu nói riêng [40, Tr 43].
Như vậy, pháp luật thời kỳ phong kiến đã có những quy định về bảo vệ quyền
sở hữu, trong chừng mực nhất định cho phép chủ sở hữu được đòi lại tài sản của
mình đang bị người khác chiếm hữu trái phép. Các quy định về bảo vệ quyền sở
hữu trong thời kỳ này đã đặt nền móng cho pháp luật dân sự hiện đại về sau.
1.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự



17

Napoleon 1804, thực dân Pháp đã ban hành và cho thi hành ở Việt Nam ba Bộ Dân
luật tương ứng với ba xứ : Bộ Dân luật Giản yếu Nam kỳ năm 1883 được áp dụng ở
xứ Nam kỳ; Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 áp dụng ở xứ Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt
Trung kỳ Hộ luật năm 1936 áp dụng ở Trung kỳ. Các vấn đề về bảo vệ quyền sở
hữu nói chung và biện pháp kiện đòi lại tài sản nói riêng đã được quy định khá cụ
thể trong cả ba bộ luật này.
Điều 9 Bộ Dân luật Trung Kỳ quy định: “Người và của (tài sản) đều không ai
được xâm phạm và do pháp luật bảo hộ. Tục bắt người làm nô lệ nhất thiết là
nghiêm cấm”. Như vậy, pháp luật ghi nhận quyền sở hữu đối với tài sản được pháp
luật bảo hộ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm.
Theo quy định tại các Điều 426, 465, 466 của Bộ Dân luật Bắc kỳ và các
Điều 467,479, 480 của Bộ Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật thì thấy rõ pháp luật thừa
nhận quyền sở hữu tư nhân là quyền tuyệt đối. Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm
hữu, hưởng dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền được hưởng các quyền
phái sinh khác từ tài sản sinh ra.
Trên cơ sở bảo hộ quyền sở hữu của chủ sở hữu, Điều 554 Bộ Dân luật Bắc
kỳ quy định: “Người đánh mất tài sản hoặc bị ăn trộm trong vòng một năm mà thấy
vật ở tay người khác thì có quyền kiện đòi lại tài sản; người đang chiếm hữu vật bị
trộm cắp đó cũng có quyền kiện người đã trao vật ấy cho mình”. Điều luật này đã
ghi nhận quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu ngoài ý
chí của họ, mà không có sự phân chia các trường hợp người đang chiễm hữu là ngay
tình hay không ngay tình. Theo tinh thần của điều này có thể hiểu rằng, trong mọi
trường hợp thì chủ sở hữu đều có quyền kiện đòi lại tài sản từ người đang chiếm
hữu. Tuy nhiên, việc đòi lại phải được thực hiện trong một thời hạn nhất định. Theo
đó, thời hiệu để chủ sở hữu đòi lại tài sản từ người đang thực tế chiếm hữu vật là
một năm, thời hạn này là khá ngắn. Khi bị chủ sở hữu đòi lại tài sản thì người thứ
ba đã nhận chuyển giao tài sản từ người không phải là chủ sở hữu có quyền kiện

người đã trao vật cho mình để đòi bồi thường.
Vấn đề xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cũng được ghi nhận. Theo đó,
người chiếm hữu bất động sản trong vòng 15 năm liên tục, ngay tình thì sẽ trở thành


18

chủ sở hữu của tài sản đó. Điều này đồng nghĩa với việc chủ sở hữu sẽ bị mất quyền
đòi lại tài sản trong trường hợp tài sản đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
cho người chiếm hữu.
Do chịu ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Napoleon 1804, nên có thể nói rằng
một số quy định trong cả ba bộ luật trên mang tính hiện đại và tiến bộ, trong đó bao
gồm cả các quy định về kiện đòi lại tài sản. Tuy nhiên, pháp luật về sở hữu trong
thời kỳ này vẫn chủ yếu là nhằm bảo vệ cho chế độ chính quyền của thực dân Pháp,
các quyền lợi của người dân chưa thực sự được bảo đảm.
1.2.3. Kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt Nam thời kỳ từ sau cách
mạng Tháng 8 năm 1945 đến BLDS 1995
* Giai đoạn từ 1945 đến 1959
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính
quyền từ tay đế quốc phong kiến. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà còn non
trẻ phải đối mặt với thù trong giặc ngoài nên chưa có điều kiện tập trung vào xây
dựng hệ thống pháp luật mới. Mặc dù vậy, do nhận thức được vai trò quan trọng của
pháp luật nói chung trong đời sống xã hội, đặc biệt là pháp luật dân sự nên chỉ hơn
một tháng sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 10/10/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký Sắc lệnh
47/SL quy định về việc cho phép tạm thời sử dụng một số luật lệ cũ hiện hành ở ba
miền Bắc, Trung, Nam trên nguyên tắc: “những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc
độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”.
Theo tinh thần sắc lệnh 47/SL, về lĩnh vực dân sự vẫn áp dụng các bộ luật:
Bộ Dân luật Giản yếu Nam kỳ năm 1883, Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Bộ
Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật năm 1936 tương ứng với ba miền Bắc, Trung, Nam

trong thời gian chờ ban hành các văn bản pháp luật mới thống nhất trong toàn quốc.
Ngày 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà được thông qua. Theo đó, các quyền dân sự, đặc biệt là quyền sở hữu của người
dân được tôn trọng và bảo vệ. Điều 12 Hiến pháp 1946 quy định: “Quyền tư hữu tài
sản của công dân Việt Nam được đảm bảo”.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều sắc lệnh đã được ban hành góp
phần điều chỉnh các quan hệ xã hội mới. Đối với lĩnh vực dân sự, Sắc lệnh 97/SL


19

ban hành ngày 22/5/1950 về: “Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật” có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Sắc lệnh này vẫn tiếp tục cho thi hành những quy định của
các bộ dân luật cũ, đồng thời có bổ sung, thay đổi nhất định để phù hợp với thể chế
chính trị mới, tạo nền móng cho các nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự sau này. Về
vấn đề sở hữu, Điều 12 Sắc lệnh 97/SL quy định: “Người ta chỉ được hưởng dụng và
sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt hại
đến quyền lợi của nhân dân”. Theo quy định này, chỉ có quyền sở hữu hợp pháp mới
được pháp luật bảo vệ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm, chiếm đoạt tài sản của
người khác.
Việc áp dụng ba bộ dân luật được chấm dứt vào năm 1959 bằng Chỉ thị
772/CT-TATC ngày 10/7/1959 về việc đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của phong
kiến đế quốc. Như vậy, trong giai đoạn này chưa có các quy định mới về kiện đòi
lại tài sản.
* Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Với thắng lợi vang dội của chiến dịch Điện Biên Phủ, cách mạng Việt Nam
bước sang một thời kỳ mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Ở miền Nam, chế độ nguỵ quyền Sài Gòn vẫn cho áp dụng các quy định của
Bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật. Năm 1972,

chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Bộ Dân luật Sài Gòn. Các quy định về
kiện đòi lại tài sản được quy định khá đầy đủ và cụ thể trong bộ luật này.
Điều 722 Bộ Dân luật Sài Gòn quy định: “Người thâu nhận một bất động sản
hay một động sản hữu hình, phải trả lại tài vật ấy nếu còn, hoặc giá trị của tài vật
ấy nếu đã bị tiêu hủy hay hư hại vì lỗi của mình, ngay cả trong trường hợp ngẫu
nhiên, nếu người ấy gian tình”. Theo đó, chủ sở hữu được đòi lại tài sản là bất động
sản hay một động sản hữu hình từ người đang chiếm hữu không ngay tình. Tiếp đó,
Điều 1489 quy định về trường hợp chủ sở hữu đòi lại tài sản từ người chiếm hữu
ngay tình: “Nếu người chấp hữu đã mua đồ vật ấy ở chợ, hay trong một cuộc phát
mại công cộng, hay ở một tiệm có bán những đồ vật tương tự, người chủ, muốn lấy
lại đồ vật, phải hoàn lại giá mua cho người chấp hữu”. Như vậy, người chiếm hữu


20

ngay tình được pháp luật bảo vệ rất mạnh mẽ. Người chiếm hữu ngay tình đã mua
tài sản một cách công khai minh bạch nên chủ sở hữu muốn lấy lại tài sản của mình
thì phải hoàn trả giá mua cho người chiếm hữu là hợp lý. Quy định này có thể nói là
rất tiến bộ vì nó đã bảo vệ một cách hài hoà quyền lợi cho cả chủ sở hữu và người
chiếm hữu ngay tình.
Bộ Dân luật Sài Gòn cũng quy định về thời hiệu kiện đòi lại tài sản là ba năm
đối với động sản, Điều 1488 quy định: “người nào để thất lạc hay bị mất trộm một
đồ vật thực thể, hữu hình, có thể truy sách đồ vật ấy trong tay người chấp hữu,
trong hạn ba năm kể từ ngày đồ vật bị thất lạc hay bị lấy trộm, trong trường hợp
này người chấp hữu có quyền khởi tố người đã di chuyển đồ vật cho mình”. Sau khi
miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước, các bộ luật ở miền Nam
trong đó có Bộ Dân luật Sài Gòn bị bãi bỏ, cả hai miền Nam Bắc được áp dụng
thống nhất một hệ thống pháp luật.
Ở miền Bắc Ngày 31/12/1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới trên cơ sở
sửa đổi và phát triển Hiến pháp 1946. Trong giai đoạn này Nhà nước cũng ban hành

hàng loạt các văn bản pháp luật khác nhằm thể chế hoá Hiến Pháp, các quy định về sở
hữu và bảo vệ quyền sở hữu cũng được lồng ghép trong đó. Ngày 21/10/1970 Pháp
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân được ban hành thể hiện
thái độ nghiêm khắc của Nhà nước ta đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu.
Xuất pháp từ bối cảnh lịch sử đặc thù, ở Miền Bắc thời kỳ này với chính sách
kinh tế bao cấp, các quan hệ dân sự chủ yếu mang tính hành chính mệnh lệnh cho
nên tranh chấp dân sự hầu như ít xảy ra và nếu có thì thường được giải quyết bằng
cách thức hoà giải. Do vậy, các quy định về bảo vệ quyền sở hữu nói chung và các
quy định về kiện đòi tài sản nói riêng trong giai đoạn này nhìn chung là chưa được
xây dựng thành một chế định pháp luật cụ thể trong hệ thống pháp luật dân sự. Việc
giải quyết các tranh chấp về tài sản được áp dụng theo các nguyên tắc chung của
pháp luật dân sự đó là Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân.
* Giai đoạn từ năm 1980 đến trước khi ban hành Hiến pháp 1992
Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, để đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ lịch sử mới, ngày 18/12/1980 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới thay


21

thế cho Hiến Pháp 1959. Trong thời kỳ này Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật về sở hữu, trong đó xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
trong từng trường hợp cụ thể. Trong đó, phải kể đến một số văn bản pháp luật quan
trọng như Luật Đất đai năm 1987; Pháp lệnh Thừa kế năm 1990; Pháp lệnh Nhà ở
năm 1991; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Nhìn chung,
hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật về sở hữu trong thời kỳ này có giá trị
pháp lý cao hơn thời kỳ trước đó. Do vậy, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu cũng tốt hơn.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này vẫn chưa có các quy định mới cụ thể về kiện đòi lại tài
sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
* Giai đoạn từ 1992 đến khi ban hành BLSD 1995
Công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta bắt đầu từ sau Đại hội VI của Đảng

đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng và đạt được những thành tựu bước đầu.
Để đáp ứng nhu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, Quốc hội đã quyết định sửa đổi
Hiến pháp 1980. Ngày 15/4/1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi, Hiến
pháp 1992. Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và
tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất
được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.”
Sau khi ban hành Hiến pháp 1992, ngày 28/10/1995, Quốc hội đã thông qua
BLDS. Có thể nói, BLDS 1995 ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong
quá trình lập pháp của Nhà nước ta. Chế định sở hữu được quy định trong BLDS
1995 tại phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu và chương VI quy định về bảo vệ
quyền sở hữu.
Điều 263 BLDS 1995 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiên quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và
yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở


×