MỤC LỤC
------------Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài..............................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài...........................................................................2
5. Bố cục đề tài........................................................................................................2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................4
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO
XHCN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...........................................................4
1.1. Nhận thức chung về nguyên tắc cơ bản trong Luật hình sự Việt Nam..............4
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo XHCN...................................4
1.2.1. Khái niệm nhân đạo..............................................................................5
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc nhân đạo XHCN trong Luật hình sự Việt Nam...5
1.2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo XHCN..............................................6
Chương 2. NHỮNG THỂ HIỆN CỤ THỂ CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO XHCN
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015...................................................................7
2.1. Những thể hiện cụ thể của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong Bộ luật Hình sự năm
2015
2.1.1. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong chính sách tội phạm và
đường lối xử lý hình sự...........................................................................................7
2.1.2. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong chế định tội phạm........10
2.1.3. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong chế định hình phạt.......14
2.1.4. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các quy định về hệ thống
miễn giảm trách nhiệm hình sự ..............................................................................16
2.2. Những kết quả đạt được...................................................................................19
2.3. Định hướng cần tiếp tục mở rộng và phát triển nhằm hoàn thiện nguyên tắc nhân
đạo XHCN trong Luật hình sự Việt Nam ……………………………………………….20
KẾT LUẬN............................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................23
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi xã hội, mọi giai đoạn lịch sử, vấn đề nhân đạo ln được xem là vấn đề
con người vì nhân đạo là một phạm trù của đạo đức, là giá trị chung của xã hội loài người.
Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà thuộc tính nhân đạo được xem là
thuộc tính thể hiện bản chất của Nhà nước; thể hiện mức độ văn minh, tiến bộ của một xã
hội. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những quan điểm cơ bản trước tiên
được xem xét, thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước ta từ trước đến nay, đặc biệt nhất là trong chính sách hình sự thể hiện rất rõ ngun tắc
này.
Có thể thấy rằng, nguyên tắc nhân đạo được thể hiện xuyên suốt trong các quy định
của Bộ luật Hình sự 2015 như các quy định về đường lối xử lý hình sự, về trách nhiệm hình
sự, về hình phạt và các trường hợp miễn, giảm trách nhiệm hình sự cũng như các vấn đề
khác liên quan đến trách nhiệm hình sự và hình phạt. Chính vì vậy, việc nghiên cứu ngun
tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong Luật hình sự năm 2015 cũng sẽ giúp ích cho nhiều sinh
viên Luật trong quá trình tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nguyên tắc nhân đạo xã hội
chủ nghĩa trong Bộ luật Hình sự năm 2015” để làm đề án mơn học.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong Luật hình sự
Việt Nam và ý nghĩa của nguyên tắc này.
- Phân tích những thể hiện cụ thể của nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong Bộ
luật Hình sự năm 2015.
- Kiến nghị một số định hướng cần tiếp tục mở rộng và phát triển nhằm hoàn thiện
nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong Luật Hình sự Việt Nam.
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ
nghĩa trong Luật hình sự Việt Nam và những thể cụ thể của nguyên tắc này trong Bộ luật
Hình sự năm 2015.
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chủ yếu nghiên cứu nguyên tắc này trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu, đề tài đã vận dụng phương pháp luận về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật. Đồng thời, đề tài còn sử dụng phối kết hợp các phương pháp nghiên
cứu sau: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp chứng minh và phương pháp giải thích.
5. Bố cục đề tài
Ngồi mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các từ viết
tắt, đề tài chia thành 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
trong Luật hình sự
Chương 2: Những thể hiện cụ thể của nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong Bộ
luật Hình sự năm 2015 và hướng hoàn thiện pháp luật.
2
Danh mục chữ viết tắt
BLHS
: Bộ luật hình sự
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO XHCN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức chung về nguyên tắc cơ bản trong Luật hình sự Việt Nam
Cũng tương tự như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật
Hình sự cũng đã định ra các nguyên tắc cơ bản nhằm mục đích chủ động phịng ngừa và
kiên quyết đấu tranh chống tội phạm và thơng qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hoá,
cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi công dân
tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa
và chống tội phạm.
Trong khoa học pháp lý hình sự nước ta, các nguyên tắc của Luật hình sự được phân
thành hai nhóm: Các nguyên tắc cơ bản và các nguyên tắc đặc thù của Luật hình sự. Các
ngun tắc cơ bản vừa có tính độc lập vừa có mối liên hệ chặt chẽ với các nguyên tắc đặc
thù, là cơ sở xuất phát điểm, là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt trong việc xây dựng, áp
dụng pháp luật hình sự. Các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự phản ánh các điều kiện
khách quan và chủ quan của đời sống xã hội, cùng với các nguyên tắc đặc thù của Luật hình
sự tạo thành hệ thống các tư tưởng chủ đạo làm kim chỉ nam cho hoạt động ban hành cũng
như áp dụng pháp luật hình sự.
Trong Luật hình sự Việt Nam, các nguyên tắc cơ bản bao gồm:
Nguyên tắc pháp chế XHCN;
Nguyên tắc dân chủ XHCN;
Nguyên tắc nhân đạo XHCN;
Nguyên tắc công bằng XHCN;
Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và hợp tác quốc tế trong đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Trên cơ sở đó, các nguyên tắc của Luật hình sự được hiểu như sau: “Các nguyên tắc
của Luật hình sự là những tư tưởng, quan điểm chủ đạo được ghi nhận, thể hiện trong các
quy phạm pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự phản ánh những quy luật kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội và những quan niệm về đạo đức và pháp luật của nhân dân đối
với việc quy định tội phạm và hình phạt và các quy định khác có liên quan đến tội phạm và
hình phạt.”
4
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo XHCN
1.2.1. Khái niệm nhân đạo
Theo từ điển Tiếng Việt 1994 - Trung tâm từ điển học thì “nhân” là “lòng thương
người”; “đạo” là “đường lối, nguyên tắc mà con người có bổn phận phải giữ gìn và tn
theo trong đời sống xã hội”; “nhân đạo” là “đạo đức thể hiện sự thương yêu, quý trọng và
bảo vệ con người”.
Theo từ điển Hán Việt thì “nhân” là “người”, “đạo” là “đường”; “nhân đạo” là “con
đường làm người hay đạo lý làm người”.
Như vậy, với hai cách diễn giải trên đều đi đến sự thống nhất chung: Nhân đạo là một
phạm trù cơ bản của đạo đức, là hệ thống các chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con
người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Những chuẩn mực này là các tiêu
chuẩn đánh giá hành vi của con người dưới các góc độ: thiện, ác, xấu, cao thượng, thấp hèn,
công bằng hoặc không công bằng… Sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhân đạo trở
thành Chủ nghĩa nhân đạo là một quá trình đấu tranh dai dẳng giữa cái thiện và cái ác, giữa
lợi ích cá nhân và xã hội… Dưới góc độ pháp lý - chính trị, đó là q trình đấu tranh vì
quyền con người, vì sự nghiệp giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng trong xã
hội, là đối tượng của các cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt trong lịch sử nhân loại.
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc nhân đạo XHCN trong Luật hình sự Việt Nam
Với tư cách là một ngành Luật nằm trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam
XHCN, Luật hình sự không thể không hàm chứa các nội dung của nguyên tắc nhân đạo
trong pháp luật. Tuy nhiên, trong Luật hình sự nguyên tắc nhân đạo có những biểu hiện đặc
thù được quyết định bởi chức năng, nhiệm vụ của Luật hình sự, bởi đặc trưng về đối tượng
điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự.
Cần khẳng định rằng, nhân đạo trước hết là nhân đạo với người phạm tội - đối tượng
phải chịu TNHS. Điều này đồng nghĩa với việc mục đích của việc truy cứu TNHS khơng
phải là để trả thù người phạm tội mà là tạo điều kiện có thể được để người phạm tội cải tạo
tốt, trở lại làm ăn lương thiện. Hình phạt cũng như các biện pháp tác động khác của Luật
hình sự chỉ được áp dụng đến mức độ cần cho sự cải tạo và giáo dục chứ khơng nhằm mục
đích khác. Nguyên tắc nhân đạo XHCN được thể hiện khi quyết định hình phạt và các biện
pháp tác động khác của cơ quan có thẩm quyền, trong q trình cải tạo giáo dục người phạm
tội và khi họ đã chấp hành xong hình phạt. Hình phạt cũng như các biện pháp tác động pháp
lý hình sự khác khơng nhằm gây đau đớn về thể xác, không nhằm hạ thấp phẩm giá của con
người và chỉ được áp dụng đến mức độ cần thiết tối thiểu cho sự cải tạo và giáo dục.
Có thể thấy, tinh thần của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong BLHS 2015 thể hiện
qua các phương diện sau:
5
- Bên cạnh hệ thống hình phạt, BLHS 2015 quy định hệ thống các biện pháp miễn,
giảm TNHS nhằm cụ thể hóa chính sách nhân đạo của Nhà nước trong xử lý tội phạm là
trừng trị kết hợp khoan hồng; cưỡng chế đi liền với giáo dục, thuyết phục.
- Mục đích của hình phạt là nhằm để cải tạo, giáo dục người phạm tội và phịng ngừa
tội phạm chứ khơng nhằm mục đích là để đày đọa hay trả thù người phạm tội. Định hướng
cho mọi hoạt động của quá trình xử lý người phạm tội là phải nhắm đến mục đích cuối cùng
là giáo dục cải tạo người phạm tội để hoàn trả cho xã hội người lương thiện.
- Hệ thống hình phạt nước ta có tính nhân đạo sâu sắc. Điều này thể hiện ở chỗ, trong
hệ thống hình phạt nước ta quy định nhiều hình phạt khơng tước tự do (chiếm đa số: 4/7 loại
hình phạt). Mặt khác, hệ thống hình phạt khơng quy định loại hình phạt nào mà nội dung
của nó khi được áp dụng có thể gây đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp phẩm giá của con
người.
- Trong quyết định hình phạt, Tịa án cân nhắc đến một số tình tiết giảm nhẹ TNHS vì
lý do nhân đạo: Người phạm tội là người già yếu, phụ nữ có thai, phụ nữ đang ni con nhỏ
dưới 36 tháng tuổi, trẻ em, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.
1.2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo XHCN
- Trong hoạt động xây dựng pháp luật hình sự: nếu thiếu sự hiểu biết, nhận thức về
các nguyên tắc của Luật hình sự thì khó mà quy định được một BLHS ưu việt, đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Vì vậy, các nguyên tắc
của Luật hình sự là một trong những nội dung quan trọng nhất thể hiện bản chất của chính
sách hình sự làm cơ sở cho việc ban hành, sửa đổi và hoàn thiện pháp luật hình sự.
Ngun tắc nhân đạo, với tính chất là sự khoan dung, độ lượng, tôn trọng các giá trị
của con người, coi con người là vốn quý nhất của xã hội cho nên các nguyên tắc này có vai
trị định hướng cho việc xây dựng một BLHS mang tính nhân văn cao cả, phản ánh các giá
trị nhân bản của con người, cùng với các tư tưởng tiến bộ về pháp chế, dân chủ, công bằng
xây dựng Luật hình sự vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm vừa
phản ánh bản chất nhân văn, nhân đạo và tính ưu việt của Nhà nước Việt Nam XHCN.
- Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự: tư tưởng nhân đạo giúp cho các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng định hướng trong hoạt động của mình. Những
người tiến hành tố tụng cần phải ý thức được rằng quá trình xử lý tội phạm tương tự như
một “quá trình sản xuất”, mà đầu vào của nó là người phạm tội - người nguy hiểm cần phải
cải tạo, giáo dục, còn đầu ra phải là người lương thiện - người đã được cải tạo, giáo dục.
6
Kiên định quan điểm đó giúp cho người áp dụng pháp luật có những hành xử đúng mực
trong q trình xử lý tội phạm. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự địi hỏi
những người áp dụng phải nhận thức một cách đầy đủ những nội dung, những yêu cầu của
nguyên tắc nhân đạo, bởi có như vậy mới truyền tải được tinh thần của nguyên tắc nhân đạo,
mới thực hiện hóa được giá trị nhân đạo vào thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm.
Ngày nay, khi xã hội càng phát triển, nhân loại ngày một hưởng thụ nhiều hơn giá trị
của những tư tưởng văn minh, tiến bộ thì thực tế cho thấy rằng con người xích lại gần với
các giá trị nhân bản. Đối xử nhân văn, nhân đạo, tôn trọng phẩm giá của con người đã trở
thành phương châm trong mọi hành xử trong cuộc sống. Trong đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, có lẽ đã đến lúc chúng ta cần nghiêm túc đánh giá về vai trò, ý nghĩa của tư
tưởng nhân đạo trong việc cảm hóa tội phạm.
Chương 2. NHỮNG THỂ HIỆN CỤ THỂ CỦA NGUYÊN TẮC
NHÂN ĐẠO XHCN TRONG BLHS NĂM 2015 VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT
2.1. Những thể hiện cụ thể của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong Bộ luật Hình sự
năm 2015
2.1.1. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong chính sách tội phạm và
đường lối xử lý hình sự
Ngun tắc nhân đạo trong chính sách tội phạm và đường lối xử lý hình sự được thể
hiện ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất, đề cao vai trị của yếu tố phịng ngừa tội phạm.
Có thể thấy rằng, phương châm chiến lược hàng đầu mà BLHS 2015 hướng đến để
đấu tranh với tội phạm không còn là xử lý tội phạm mà là phòng ngừa tội phạm. Ngay tại
Điều 1 BLHS 2015 đã quy định nhiệm vụ của BLHS khơng cịn là “đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm” như đã quy định tại điều luật tương ứng của BLHS 1999 mà là
“phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”. Quan điểm có tính ngun tắc về ưu tiên phòng
ngừa tội phạm tiếp tục được ghi nhận tại Điều 4 BLHS 2015, theo đó: Các cơ quan Cơng an,
Kiểm sát, Tịa án, Tư pháp, Thanh tra và cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành
đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của
Nhà nước, tổ chức, cơng dân phịng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người
phạm tội tại cộng đồng. Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc
thẩm quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp
7
luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân
và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình. Mọi cơng dân có nghĩa vụ
tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Từ quy định tại Điều 1 và Điều 4 có thể thấy rằng tính nhân đạo của BLHS thể hiện ở
chỗ, một mặt, khẳng định việc đấu tranh với tội phạm là nhiệm vụ lâu dài của toàn xã hội,
của Nhà nước và của mọi công dân, mặt khác khẳng định tầm quan trọng của tất cả các giải
pháp bảo đảm cho cuộc đấu tranh đó như kinh tế, xã hội, tư tưởng, tổ chức, kỹ thuật, pháp
luật… được huy động để đấu tranh với tội phạm, mặt khác, chúng khẳng định sự cần thiết
phải kết hợp hài hòa trong một tổng thể các giải pháp phòng chống tội phạm, song ưu tiên
cho các giải pháp phịng ngừa tội phạm bởi có như vậy mới có thể hạn chế ngăn ngừa, giảm
bớt tội phạm, mới có thể làm cho tình hình tội phạm ổn định dần dần loại trừ nó ra khỏi đời
sống xã hội.
Thứ hai, đặc biệt quan tâm đến đấu tranh chống tội phạm.
Ở khía cạnh này, tư tưởng nhân đạo được thể hiện ở những điều sau:
- Trong đấu tranh chống tội phạm, quan điểm xử lý được thể hiện trước hết trong quy
định về cơ sở của TNHS được ghi nhận tại Điều 2 BLHS 2015: “Chỉ người nào phạm một
tội được quy định trong BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này khơng chỉ
thể hiện tư tưởng cốt lõi của nguyên tắc pháp chế trong Luật hình sự mà thể hiện giá trị
nhân đạo, bình đẳng, cơng bằng trong chính sách xử lý tội phạm, bởi đối với người phạm tội
thì lý do phải chịu trách nhiệm trước hết là do việc thực hiện hành vi bị Luật hình sự cấm.
- Bên cạnh quy định cơ sở của TNHS, BLHS cũng có quy định rõ ràng về chính sách
hình sự trong xử lý tội phạm tại Điều 3 BLHS 2015. Cụ thể, Nhà nước ta nhất quán về
nguyên tắc xử lý tội phạm đó là: Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, cưỡng chế đi liền với
giáo dục thuyết phục, trường hợp nào cần phải trừng trị, chúng ta có các biện pháp nghiêm
khắc để áp dụng, trường hợp nào cần phải khoan hồng chúng ta có các biện pháp khoan
hồng. Quan điểm xử lý như vậy phản ánh nguyên tắc nhân đạo ở chỗ vừa bảo vệ được lợi
ích chung của cộng đồng xã hội vừa tiết kiệm được nội dung cưỡng chế ở mức độ cao nhất
khi áp dụng các biện pháp TNHS đối với người phạm tội.
- Để cụ thể hóa chính sách nhân đạo trong xử lý tội phạm, điểm đ, e, f, g Điều 3
BLHS 2015 quy định: “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải thì có
thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình
giám sát, giáo dục”; “Đối với người bị áp dụng hình phạt tù thì buộc họ phải chấp hành
hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã
8
hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm chấp hành hình phạ tha tù trước thời hạn”;
“Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn sinh sống lương thiện, hòa
nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện theo luật định thì được xóa án tích”.
Thứ ba, quy định hiệu lực về thời gian có lợi cho người phạm tội
Khoản 1 Điều 7 BLHS quy định: “Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm
tội là điều luật đang có hiệu lực tại thời điểm mà hành vi phạm tội đó được thực hiện”. Luật
hình sự khẳng định khơng áp dụng nguyên tắc hồi tố trong xử lý tội phạm, ngay cả các quy
định khác khơng có tính chất buộc tội cũng được áp dụng theo nguyên tắc này nếu việc áp
dụng đem lại bất lợi cho người bị áp dụng. Tuy nhiên, xuất phát từ lý do nhân đạo, Luật
hình sự cho phép có thể áp dụng các quy định của BLHS đối với trường hợp những hành vi
được thực hiện trước khi các quy định đó có hiệu lực thi hành. Cụ thể, khoản 3 Điều 7 ghi
nhận: “Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một
hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn
trách nhiệm hình sự,loại trừ trách nhiệm hình sự miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù
trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì
được áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi
hành”.
Thứ tư, quy định chính sách khoan hồng đối với các đối tượng đặc biệt
- Các đối tượng đặc biệt đó là: người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai, người
già. Đối với người chưa thành niên phạm tội, xuất phát từ đặc điểm chưa phát triển đầy đủ
về thể chất cũng như tâm sinh lý, nên người chưa thành niên phạm tội là đối tượng còn hạn
chế khả năng nhận thức cũng như kinh nghiệm sống - đây là đối tượng đang trong quá trình
hình thành nhân cách, chính kiến chưa định hình ổn định nên rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ để
phạm tội nhưng cũng rất dễ tác động để cảm hóa, cải tạo, giáo dục. Vì vậy, chính sách xử lý
đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống XHCN, giúp họ nhanh chóng sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành
mạnh, trở thành người có ích cho xã hội (nguyên tắc xử lý này được quy định cụ thể tại
Điều 91 BLHS 2015).
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS với phạm tội rất nghiêm
trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các Điều 123,
134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và Điều 252 của Bộ luật này.
- Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo
điều 90/91 BLHS 2015, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất
9
của người này và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh...
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong
trường hợp cần thiết và phải căn cứ đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Khi xét xử, tịa án chỉ áp dụng hình phạt nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm
hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giáo dục, cải tạo tại trường giáo dưỡng
khơng bảo đảm hiệu quả giáo dục, phịng ngừa.
Tịa án khơng xử phạt tù chung thân hoặc tử hình với người dưới 18 tuổi. Ở
mức án có thời hạn, người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức
án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và không áp dụng
hình phạt bổ sung.
Án đã tuyên với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội thì khơng tính để xác định tái
phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
- Đối với người già, phụ nữ có thai được quy định là một tình tiết giảm nhẹ tại Điều
51 BLHS. Riêng phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng là trường hợp khơng
được áp dụng hình phạt tử hình khi phạm tội hoặc khi xét xử; trước khi thi hành án tử hình
nếu phát hiện người phạm tội có thai thì bản án tử hình chuyển thành tù chung thân. Ngược
lại, nếu phạm tội đối với người già, phụ nữ có thai là trường hợp tăng nặng TNHS được quy
định tại Điều 52 BLHS 2015.
2.1.2. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong chế định tội phạm
Trong pháp luật hình sự nước ta, nguyên tắc nhân đạo được thể hiện tương đối rõ nét
trong các chế định về tội phạm, cụ thể, tư tưởng nhân đạo được thể hiện qua các quy định về
khái niệm tội phạm; phân loại tội phạm; quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt;
quy định khái niệm đồng phạm và các loại người đồng phạm cũng như quy định về các tình
tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quy định về khái niệm tội
phạm
Điều 8 BLHS 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vơ ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm đến
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật XHCN”.
10
Từ định nghĩa tội phạm trên, có thể khái quát: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
- Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm: Tội phạm trước hết phải là
hành vi của con người và hành vi ấy phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy
hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ được
Luật hình sự bảo vệ. Hành vi không gây thiệt hại hoặc không tạo ra nguy cơ gây thiệt hại
cho các quan hệ xã hội thì khơng được coi là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm phải ở mức độ đáng kể. Khoản 2 Điều 8 BLHS quy định: “Những hành vi tuy có dấu
hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng phải là tội
phạm”. Đây chính là biểu hiện của nguyên tắc hành vi trong Luật hình sự. Nếu một hành vi
được đánh giá là nguy hiểm không đáng kể thì người làm cơng tác áp dụng pháp luật không
cần xem xét đến các điều kiện khác của hành vi mà đương nhiên hành vi đó khơng phải là
tội phạm. Tính nguy hiểm là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất quyết định các dấu hiệu khác
của tội phạm, là tiêu chí để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác.
Luật hình sự nước ta quy kết trách nhiệm trên cơ sở hành vi của con người mà không
quy định trách nhiệm đối với âm mưu, tư tưởng thể hiện sự tiến bộ của khoa học pháp lý
hình sự. Nguyên tắc hành vi trong trường hợp này cũng là một phương diện để thể hiện tư
tưởng nhân văn, nhân đạo của Luật hình sự.
- Dấu hiệu có lỗi của tội phạm: Tội phạm về khách quan là hành vi nguy hiểm và về
chủ quan là hành vi có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của
mình và hậu quả do hành vi đó gây ra, biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý, thể hiện sự
phủ định các yêu cầu của xã hội. Cũng như nguyên tắc hành vi, nguyên tắc có lỗi cũng là
một trong các nguyên tắc đặc thù của Luật hình sự Việt Nam. Luật hình sự Việt Nam khơng
thừa nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là quy trách nhiệm hình sự cho một người chỉ căn
cứ vào việc người đó đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi
của họ. Điều này xuất phát từ mục đích hình phạt của Luật hình sự Việt Nam là giáo dục cải
tạo người phạm tội và mục đích giáo dục cải tạo chỉ có thể đạt được nếu hình phạt được áp
dụng cho người có lỗi. Đối với người khơng có lỗi khi thực hiện hành vi khơng nguy hiểm
cho xã hội là người khơng có ý thức về hành vi thì việc áp dụng hình phạt sẽ khơng có ý
nghĩa gì đối với họ, cũng như đối với người khác. Đây chính là quy định phản ánh bản chất
nhân văn, nhân đạo của Luật hình sự nước ta.
11
- Dấu hiệu trái pháp luật hình sự của tội phạm: Trong BLHS 2015, tính trái pháp
luật có cơ sở pháp lý từ một quy định mang tính nguyên tắc của Luật hình sự là tại Điều 2
BLHS: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định là tội phạm thì mới phải chịu
hình phạt”. Giữa tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự có mối quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức. Điều này đã được quy định tại Khoản 4 Điều 8
BLHS: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
khơng đáng kể, thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Quy
định này có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn xử lý tội phạm, tránh trường hợp hình sự hóa tràn
lan những hành vi chưa cần thiết phải xử lý bằng biện pháp hình sự. Ở đây, giá trị nhân đạo,
cơng bằng thể hiện ở chỗ tiết kiệm được tính cưỡng chế trong việc xử lý.
- Dấu hiệu chịu hình phạt của tội phạm: Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng bị đe dọa
phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính nghiêm khác nhất trong hệ
thống những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là việc áp dụng
và thi hành trong thực tế hình phạt cụ thể là có tính chất bắt buộc tuyệt đối cho mọi trường
hợp phạm tội. Trong thực tế vẫn có trường hợp người phạm tội khơng phải chịu hành phạt.
Đó là trường hợp có tội nhưng được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn thực
hiện hình phạt. Trong những trường hợp như vậy, người phạm tội tuy khơng phải chịu hình
phạt nhưng khơng có nghĩa là tội phạm mà họ thực hiện khơng có tính chịu hình phạt, mà
trái lại, khả năng đe dọa phải chịu hình phạt vẫn có. Người phạm tội khơng phải chịu hình
phạt vì đã được miễn với những lý do khác nhau. Đó là những lý do đã được quy định tại
các 29 của BLHS.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong quy định về phân loại tội phạm
Phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS dựa trên căn cứ là tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Như vậy, tính nguy hiểm cho xã hội là căn cứ phân
loại, còn loại và mức hình phạt là đại lượng pháp lý đo lường tính nguy hiểm đó. Cụ thể, tại
Điều 9 BLHS nội dung của từng loại tội phạm như sau: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội gây
nguy hại khơng cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3
năm tù; Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù; Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
15 năm tù; Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình.
12
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các quy định về chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt cũng như quy định về khái niệm đồng phạm và các loại
người đồng phạm
Các quy định này của Luật hình sự thể hiện nguyên tắc phân hóa trong pháp luật hình
sự, bởi mức độ vai trị thực hiện khác nhau thì trách nhiệm cũng có sự khác nhau - đây cũng
chính là địi hỏi của ngun tắc cơng bằng, ngun tắc nhân đạo trong xử lý tội phạm.
- Quy định về chuẩn bị phạm tội: Được quy định tại Điều 14 BLHS: “Chuẩn bị
phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo những điều kiện cần thiết
khác để thực hiện tội phạm”. Như vậy, để đảm bảo tính tương xứng giữa mức độ thực hiện
tội phạm với mức độ TNHS, đảm bảo tính cơng bằng, nhân đạo trong xử lý tội phạm, Điều
14 BLHS quy định không phải mọi hành vi chuẩn bị phạm tội đều phải chịu TNHS mà chỉ
chuẩn bị phạm vào tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thì mới phải chịu
TNHS về tội định thực hiện. Mức độ TNHS đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy
định tại Điều 57 như sau: “Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
khơng q một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.
- Quy định về phạm tội chưa đạt: Điều 15 BLHS quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố
ý thực hiện tội phạm nhưng khơng thực hiện được đến cùng vì những ngun nhân ngồi ý
muốn của người phạm tội”. Có nghĩa là, ở phạm tội chưa đạt, bản thân người phạm tội chưa
đạt vẫn có xu hướng ý chí muốn thực hiện tội phạm được đến cùng, nhưng tội phạm vẫn
không hồn thành được vì những ngun nhân ngồi ý muốn của họ.
13
- Quy định về khái niệm đồng phạm và các loại người đồng phạm
• Quy định về khái niệm đồng phạm: Khoản 1 Điều 17 BLHS quy định: “Đồng
phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Trong đồng
phạm ln ln địi hỏi phải có dấu hiệu lỗi cùng cố ý của những người tham gia thực hiện
tội phạm. Cho nên nếu có trường hợp cả hai người trở lên thực hiện cùng một tội phạm
nhưng do lỗi vơ ý thì khơng phải là đồng phạm, mà đó là trường hợp phạm tội riêng lẻ bởi
vì họ khơng mong muốn và cũng khơng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
• Quy định về các loại người đồng phạm: Trong đồng phạm, dù tội phạm được
thực hiện với sự cố ý liên kết của nhiều người, tuy nhiên mỗi người đồng phạm tham gia với
những tính chất và vai trị khác nhau. Vì vậy, để đảm bảo chính sách xử lý phân hóa, nhân
đạo và cơng bằng, pháp luật hình sự nước ta quy định về vai trò của các người đồng phạm.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 17 BLHS thì đồng phạm có 4 loại, đó là: người thực hành,
người tổ chức, người giúp sức và người xúi giục.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các quy định về các tình
tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi.
Để có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc phân biệt tội phạm và những trường hợp gây
thiệt hại cho xã hội nhưng không phải là tội phạm do thiếu một trong những dấu hiệu của tội
phạm, Luật hình sự nước ta có những quy định cụ thể về các trường hợp loại trừ tính chất
phạm tội của hành vi như: Sự kiện bất ngờ (Điều 20 BLHS), Tình trạng khơng có năng lực
trách nhiệm hình sự ( Điều 21), phịng vệ chính đáng (Điều 22 BLHS) và tình thế cấp thiết
(Điều 23 BLHS). Các trường hợp nói trên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự, bởi xác định pháp lý nội dung các trường hợp nêu trên giúp cho cơ
quan tiến hành tố tụng có khuân mẫu pháp lý vững chắc trong việc áp dụng, điều này có vai
trị trong việc tránh những sai lầm trong quy kết TNHS. Mặt khác, đối với mọi công dân,
việc quy định trên giúp họ chủ động trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
mình, tích cực tham gia vào cơng tác đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm. Vì vậy
những quy định này khơng chỉ đơn thuần thể hiện tư tưởng của nguyên tắc pháp chế, dân
chủ, mà xét về bản chất còn thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo của pháp luật hình sự.
2.1.3. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong chế định hình phạt
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong quy định về khái niệm và mục
đích của hình phạt
- Quy định về khái niệm hình phạt
Điều 30 BLHS quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước nhằm tước bở hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội”.
14
Việc Luật hình sự dành một điều luật để quy định khái niệm hình phạt thể hiện sự
quan tâm đặc biệt của Nhà nước về chế định hình phạt. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
Luật hình sự nước ta khơng che giấu tính chất, nội dung và các đặc điểm của hình phạt.
Chính sự cơng khai miêu tả bản chất của một biện pháp nhằm để cho tất cả mọi người trong đó có người áp dụng và người bị áp dụng biết được nội dung của biện pháp xử lý
không chỉ thể hiện tinh thần của nguyên tắc dân chủ, pháp chế mà đây thực sự là một biện
pháp, hình thức để đảm bảo tính cơng bằng, nhân đạo trong xử lý tội phạm.
- Quy định về mục đích của hình phạt
Điều 31 BLHS 2015 quy định: “Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội
mà cịn nhằm cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt cịn
nhằm giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm”.
Như vậy, qua quy định trên có thể thấy mục đích của hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, bởi mục đích cuối cùng của hình phạt khơng nằm
ngồi yêu cầu là để cải tạo, giáo dục người phạm tội và phịng ngừa tội phạm. Mục đích này
hồn tồn xa lạ với các quan niệm về mục đích hình phạt là để trả thù, đày đọa thân thể con
người hay hạ thấp phẩm giá trong các xã hội trước đây.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong quy định về hệ thống hình phạt
Hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 32 BLHS, từ quy định này có thể phát
biểu định nghĩa về hệ thống hình phạt như sau: “Hệ thống hình phạt là một chỉnh thể bao
gồm các hình phạt được quy định trong BLHS, có phương thức liên kết theo một trật tự nhất
định phụ thuộc vào nội dung nghiêm khắc của từng loại hình phạt”. Từ định nghĩa này có
thể thấy, hệ thống hình phạt nước ta thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, kết hợp hài hòa
giữa cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục. Khẳng định trên là hồn tồn có cơ sở bởi nhìn
vào Điều 32 BLHS cho thấy: thứ nhất, các loại hình phạt được quy định đa dạng và phong
phú, trong đó các hình phạt khơng tước tự do chiếm đa số trong các loại hình phạt chính
(4/7 loại hình phạt), điều này chứng tỏ Nhà nước ta rất coi trọng công tác giáo cải tạo, giáo
dục tại cộng đồng trong việc xử lý tội phạm; thứ hai, căn cứ vào quy định về các loại hình
phạt trong hệt thống hình phạt thấy rằng khơng có loại hình phạt có nội dung nhằm để trả
thù người phạm tội (tử hình bằng hình thức lăng trì) hay gây đau đớn về thể xác đánh bằng
roi, bằng trượng) hoặc hạ thấp phẩm giá con người (thích chữ vào mặt)… Điều này cũng thể
hiện tính ưu việt của Luật hình sự nước ta.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong quyết định hình phạt
Theo Luật hình sự thì quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn và quyết định áp
dụng một hoặc một số chế tài được quy định trong Luật hình sự đối với người phạm tội. Để
15
tạo cơ sở đúng đắn cho hoạt động quyết định hình phạt, BLHS quy định các căn cứ quyết
định hình phạt tại Điều 50 BLHS. Theo đó, khi quyết định hình phạt, Tịa án phải xem xét 4
căn cứ đó là : 1. Tuân thủ các quy định của BLHS; 2. Đánh giá tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm; 3. Cân nhắc nhân thân người phạm tội; 4. Đánh giá các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS. Việc ghi nhận trong BLHS về các căn cứ quyết định hình phạt nhằm
đảm bảo truyền tải đúng tinh thần các ngun tắc của Luật hình sự, trong đó có ngun tắc
nhân đạo. Khi quyết định hình phạt, ngồi tn thủ quy định của luật để đảm bảo nguyên tắc
pháp chế, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS để đảm bảo ngun tắc cá thể hóa hình phạt cũng như ngun tắc cơng
bằng thì việc xem xét các đặc điểm nhân thân của phạm tội nhằm cân nhắc một hình phạt
phù hợp với bản thân người phạm tội, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Luật hình sự
nước ta.
2.1.4. Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các quy định về hệ thống
miễn giảm trách nhiệm hình sự
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quy định về biện pháp
miễn hình phạt
Miễn hình phạt là khơng buộc người phạm tội phải chịu hình phạt về tội phạm mà họ
đã thực hiện. Thẩm quyền áp dụng miễn hình phạt là Tịa án. Phạm vi miễn hình phạt bao
gồm miễn hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hậu quả pháp lý của việc miễn hình phạt là
vẫn để lại án tích cho người phạm tội. Tuy nhiên, người được miễn hình phạt đương nhiên
được xóa án tích khi họ chấp hành xong tất cả các quyết định được ghi trong bản án, trong
đó có án phí và có thể có các quyết định khác. Điều kiện để miễn hình phạt được quy định
tại Điều 59 BLHS: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội
có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1, 2 Điều 54 Bộ luật này, đáng được khoan
hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức miễn TNHS”.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quy định về án treo
Căn cứ vào nội dung của quy định tại Điều 65 BLHS 2015, án treo là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều kiện để được hưởng án treo là: “Khi xử phạt tù
không quá 3 năm căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy khơng cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tịa án cho hưởng án treo”. Khi có
đủ các điều kiện nêu ở Điều 65 thì Tịa án có thể xét để cho hưởng án treo. Điều kiện mà
người phạm tội được hưởng án treo phải chấp hành là phải chịu thử thách. Thời gian thử
thách là thời gian mà Tòa án thấy cần thiết để người phạm tội tự chứng minh rằng họ có thể
tự cải tạo trong lịng xã hội mà khơng cần phải cách ly.
16
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quy định về thời hiệu thi
hành bản án
Khái niệm thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Khoản 1 Điều 60 BLHS 2015:
“Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn
đó, người bị kết án khơng phải chấp hành bản án đã tuyên”. Điều kiện để người bị kết án
không buộc phải chấp hành bản án Điều 62 BLHS:
- Thứ nhất: kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đã trơi qua khoảng thời gian
tương ứng: 5 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt
tù từ 3 năm trở xuống; 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 3 năm đến 10 năm;
15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù trên 15 năm đến 30 năm. Việc áp dụng thời hiệu
đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, sau khi đã qua thời hạn 15 năm,
do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Trường hợp không được hưởng thời hiệu thì hình phạt tử hình được
chuyển thành tù chung thân và tù chung thân xuống tù 30 năm. Thời hiệu thi hành bản án
hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Đối với các bản án có tổng hợp hình
phạt thì căn cứ để tính thời hiệu là mức hình phạt đã tổng hợp và thời hiệu từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật. Nếu trong bản án có nhiều người thì mỗi người được áp dụng thời hiệu
riêng tương ứng với loại và mức hình phạt mà Tịa án đã áp dụng đối với họ. Đối với các tội
xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII và các tội xâm phạm hịa bình quy
định tại Chương XXVI BLHS 2015 thì khơng áp dụng thời hiệu.
- Thứ hai: trong thời hiệu thi hành bản án, người phạm tội không được phạm tội mới
với bất kỳ loại tội nào và không phụ thuộc vào hình phạt nào được áp dụng. Nếu người bị
kết án phạm tội mới thì thời gian trơi qua khơng được tính vào thi hành bản án mà thời hiệu
được tính từ ngày người phạm tội phạm tội mới.
- Thứ ba: trong thời hạn thi hành bản án, người phạm tội khơng cố tình trốn tránh
việc thi hành án và khơng có lệnh truy nã. Nếu người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có
lệnh truy nã thì thời gian trốn tránh khơng được tính vào thời hiệu thi hành bản án, thời hiệu
được tính lại kể từ ngày người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quy định về biện pháp
miễn chấp hành hình phạt
Miễn chấp hành hình phạt được đặt ra trong trường hợp khơng thực sự cần thiết buộc
người phạm tội phải chấp hành hình phạt đã tun. Lý do của sự khơng cần thiết có thể xuất
phát từ hồn cảnh, từ những cố gắng chuộc lỗi, tự cải tạo của người bị kết án, những lý do
17
này phản ánh người bị kết án khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc khơng có nguy cơ
phạm tội mới, mặc dù họ chưa chấp hành hoặc mới chấp hành được một phần hình phạt. Vì
vậy, quy định miễn chấp hành hình phạt thể hiện rõ nét bản chất nhân đạo của Luật hình sự
trong việc xử lý tội phạm. Các trường hợp miễn hình phạt được quy định tại Điều 62, BLHS
bao gồm các trường hợp:
- Miễn chấp hành hình phạt do lập cơng lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo;
- Miễn chấp hành hình phạt do được đặc xá hoặc đại xá;
- Miễn chấp hành hình phạt trong trường hợp đã được hỗn chấp hành hình phạt;
- Miễn chấp hành hình phạt trong trường hợp đã được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt;
- Miễn chấp hành hình phạt bổ sung;
- Giảm mức hình phạt đã tuyên.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quy định về giảm hình
phạt đã tuyên
Trong BLHS 2015, vấn đề giảm mức hình phạt đã tuyên được quy định tại Điều 63
và Điều 64. Nội dung của giảm mức hình phạt đã tuyên ở đây chỉ giới hạn áp dụng cho các
hình phạt chính và đối với một số loại hình phạt cụ thể như: cải tạo khơng giam giữ, tù có
thời hạn, tù chung thân và hình phạt với tính cách là hình phạt chính. Với đặc trưng là biện
pháp giảm chấp hành mức hình phạt đã tuyên cho nên biện pháp này chỉ được áp dụng khi
người phạm tội đã trải qua một khoảng thời gian nhất định của việc chấp hành hình phạt.
Q trình đó, người bị kết án đã bộc lộ sự tích cực và tiến bộ trong việc tự cải tạo bản thân
mình hoặc phải lâm vào hồn cảnh khách quan đặc biệt. Chính bởi vì các lý do đó nên họ
đáng được nhận sự khoan hồng của Nhà nước bằng việc giảm bớt nội dung cưỡng chế trong
các biện pháp đã áp dụng. Ngay cả hình phạt tiền cũng khơng có ngoại lệ, để được giảm
hình phạt thì người đó cũng phải tích cực chấp hành được một phần hình phạt.
Việc quy định và áp dụng biện pháp này khơng những khơng mâu thuẫn với mục
đích của hình phạt là trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội và phịng ngừa tội phạm mà
nó cịn là biện pháp rút ngắn thời gian nhằm đạt tới mục đích của hình phạt. Tính nhân đạo
thể hiện ở chỗ tiết giảm liều lượng cưỡng chế khi có đủ các điều kiện đảm bảo đạt được mục
đích của hình phạt, thực chất chính là tiết kiệm tính cưỡng chế trong xử lý tội phạm của
Luật hình sự nước ta.
Thể hiện của nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quy định về hỗn và tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt
Hỗn chấp hành hình phạt tù là cho phép người bị kết án phạt tù chỉ phải chấp hành
hình phạt tù đã tuyên sau một thời hạn mà không phải chấp hành ngay vì lý do luật định.
Tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù là cho phép người đang chấp hành hình phạt tù trong thời
hạn nhất định vì lý do luật định mà tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù. Theo quy định tại
18
Khoản 1 Điều 67 và Điều 68 BLHS thì người bị kết án phạt tù có thể được hỗn hoặc tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt khi có một trong những điều kiện sau:
- Bị bệnh nặng được hoãn hoặc tạm đình chỉ cho đến khi sức khỏe hồi phục;
- Phụ nữ có thai hoặc đang ni con dưới 36 tháng tuổi, thì được hỗn cho đến khi
con đủ 36 tháng tuổi;
- Người bị kết án phạt tù là lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành
hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt được
hỗn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đến một năm, trừ trường hợp bị kết án về các
tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khác.
- Do nhu cầu cơng vụ, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng được hỗn hoặc tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù đến 1 năm.
Tóm lại, các quy định của BLHS 2015 đã thể hiện rõ tinh thần nhân văn, nhân đạo
XHCN sâu sắc.
2.2. Những kết quả đạt được
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong BLHS 2015 là một nguyên tắc có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa “của dân, do dân và vì dân” hiện
nay ở nước ta. Có thể thấy rằng, nội dung của nguyên tắc nhân đạo được truyền tải vào các
quy định của BLHS 2015 về đường lối xử lý, về TNHS, về hình phạt, về quyết định hình
phạt cũng như về vấn đề khác liên quan đến TNHS và hình phạt… song rõ nét nhất vẫn là
trong các quy định về đường lối xử lý hình sự, về TNHS, về hình phạt và quyết định hình
phạt. So với các quy định tương ứng của BLHS 1999, các quy định của BLHS 2015 đã thể
hiện được xu hướng giảm bớt TNHS, hình phạt và khơng tăng nặng TNHS, hình phạt một
cách khơng cần thiết. Với những lý do đó, chắc chắn yêu cầu và nội dung của nguyên tắc
nhân đạo sẽ được thể hiện đầy đủ và chính xác hơn, từ đó góp phần tăng cường hơn nữa vai
trị của Luật hình sự trong cơng cuộc đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm.
2.3. Định hướng cần tiếp tục mở rộng và phát triển nhằm hoàn thiện nguyên tắc
nhân đạo XHCN trong Luật hình sự Việt Nam
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà BLHS 2015 vẫn còn những điểm hạn chế ảnh
hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN trong thực tế. Vì vậy, cần hồn thiện
các quy định của BLHS 2015 về khái niệm, về cơ sở TNHS, phân loại tội phạm, mục đích
của hình phạt, lỗi, quy định về hình phạt tử hình, quy định về tổng hợp hình phạt tù, quy
định về tình tiết giảm nhẹ TNHS, xóa án tích… Dưới đây là một số kiến nghị mang tính
19
định hướng nhằm mở rộng và phát triển nguyên tắc nhân đạo XHCN trong Luật hình sự
Việt Nam:
* Có nên áp dụng triệt để nguyên tắc nhân đạo trong BLHS Việt Nam “Bỏ
khung hình phạt tử hình”
Ngay trong khu vực Đông Nam Á, gần đây nhất quốc gia Philippines đã bãi bỏ việc
áp dụng hình phạt tử hình…một số nước khác cũng áp dụng rất ít là Singapo và Malaysia.
Xu hướng thay hình phạt tử hình bằng những hình phạt khác nhẹ hơn và xu hướng tiến tới
xóa bỏ hình phạt tử hình của thế giới đang diễn ra với phạm vi rộng và tốc độ nhanh. Tuy
nhiên có ý kiến cho rằng, nước láng riềng Việt Nam, còn hùm sư tử của châu Á, một cường
quốc đông dân nhất thế giới có tiềm lực kinh tế cực mạnh- Trung Quốc-vẫn đang tồn tại 66
tội có khung hình phạt tử hình. Trung quốc cũng là một nước xã hội chủ nghĩa nên Việt
Nam có nhiều kinh nghiệm họ tập. Nhưng chúng ta khơng thể dập khn những chính sách
pháp luật của Trung Quốc vào trong điều kiện hoàn cảnh của nước ta. Hơn nữa,hiện nay
Trung Quốc đang nhận được rất nhiều chỉ trích từ phía dư luận quốc tê về quyền con người
cũng như phản đối từ các thế lực tự do dân chủ tiến khác. Vậy đối với nước ta có hay khơng
bãi bỏ khung hình phạt tử hình.
*/ Hình thức thi hành khung hình phạt tử hình đối với tội phạm thể hiện nguyên
tắc nhân đạo “Tiêm thuốc độc”
Đây là điểm mới trong BLHS Việt Nam nói chung, cũng như BLHS 2015 thể hiện
quan điểm nhân đạo của Đảng, Nhà nước đối với tội phạm. Tuy nhiên có nhiều ý kiến trái
chiều về việc thực hiện hình thức tử hình này vì:
+ Tội phạm phạm tội đặc biệt nguy hiểm, cần phải cách ly khỏi xã hội thì mới chịu
khung hình phạt cao nhất tử hình, vì vậy có cần thiết phải nhân đạo đối với các đối tượng
nay hay không?
+ Đã là đối tượng phạm tội cần cách ly khỏi xã hội. Tại sao khi thi hành án lại phải
tiêu tốn một khoản ngân sách cho việc thi hành án: Thuốc độc thi hành án phải nhập khẩu;
Nơi thi hành án khơng có ở các địa phương, một số địa phương phải di lý phạm nhân sang
địa phương khác để thi hành án. Những điều trên gây ra một hệ quả thực tế là : Những phạm
nhân đáng bị xã hội lên án, đáng phải cách ly khỏi xã hội, khơng đóng góp được cho sự phát
triển của xã hội; nhưng khi chết lại tiêu một khoản ngân sách của nhà nước??.
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc cơ bản mà pháp luật tất cả các quốc gia đều
hướng tới nhằm giáo dục, răn đe người phạm tội và công dân.Trên đây là một số đề xuất
nghiên cứu mở rộng. Song ở Việt Nam cần áp dụng dựa trên tình hình thực tế của nước ta để
đảm bảo “Pháp luật được thượng tôn” và “xã hội được yên bình”.
KẾT LUẬN
20
BLHS 2015 sẽ bỏ tử hình ở 7 tội danh: Cướp tài sản; Sản xuất, buôn bán hàng cấm là
lương thực, thực phẩm; Tàng trữ trái phép chất ma túy; Chiếm đoạt chất ma túy; Phá hủy
cơng trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Chống mệnh lệnh; Đầu hàng
địch. Đồng thời, Bộ luật đã bỏ tội danh hoạt động phỉ trước đây có quy định hình phạt tử
hình.
Vì vậy, Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ nét ở mục đích áp dụng
hình phạt là cải tạo người phạm tội, giáo dục để họ trở thành người lương thiện có ích cho
xã hội, thể hiện nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực
hiện chỉ trong trường hợp cần thiết, nếu xét thấy khơng cần thiết thì Tịa án áp dụng biện
pháp tư pháp. Từ hình và tù chung thân không áp dụng với người chưa thành niên. Khi xử
phạt tù có thời hạn, người chưa thành niên được hưởng mức án nhẹ hơn mức án với người
thành niên phạm tội tương ứng.
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc quan trọng của pháp luật Hình sự nhằm đảm bảo
tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối thiểu của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể hiện tư tưởng vì con người của định
hướng đi lên nhà nước xã hội chủ nghĩa.
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật Hình sự năm 1999 (SĐ, BS năm 2009).
[2] Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3]“Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự” năm 2012, tác giả Đinh Văn Quế, Nxb.
Lao Động.
[4] Từ điển Hán Việt Từ Nguyên năm 2010, tác giả Bửu Kế, Nxb.Thuận hóa
[5] Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb. Đà Nẵng.
22