BỘ TƯ PHÁP
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LƯƠNG THỊ KIM LOAN
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRONG NGÀNH XÂY DỰNG VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60.38.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LÊ VƯƠNG LONG
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRONG NGÀNH XÂY DỰNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..... 7
1.1. Cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng ... 7
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng ..... 7
1.1.2. Chủ thể và đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành
Xây dựng ............................................................................................... 10
1.1.2.1. Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật .............................. 11
1.1.2.2. Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật .......................... 16
1.1.3. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng ..... 19
1.1.4. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng .... 20
1.1.5. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng
.............................................................................................................. 21
1.1.6. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng .. 25
1.2. Cơ sở pháp lý của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong
ngành Xây dựng ...................................................................................... 27
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRONG NGÀNH XÂY DỰNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
..................................................................................................................... 29
2.1. Kết quả đạt được của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
ngành Xây dựng ...................................................................................... 29
2.1.1. Ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trong ngành Xây dựng ............................................................ 31
2.1.2. Xây dựng cơ cấu hợp lý về phương diện tổ chức, nguồn nhân lực
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ..................................... 33
2.1.3. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật ......................................... 34
2.1.4. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật ........................................ 36
2.1.4.1. Tổ chức các lớp tập huấn văn bản quy phạm pháp luật và đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành ............................................. 36
2.1.4.2. Tổ chức các hội nghị, hội thảo góp ý cho dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật: ................................................................................. 38
2.1.4.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua mạng điện tử ........... 38
2.1.4.4. Giải đáp pháp luật cho các tổ chức, cá nhân:........................ 39
2.1.4.5. Phổ biến, giáo dục pháp luật qua các phương tiện thông tin
đại chúng: .......................................................................................... 40
2.1.4.6. Phổ biến, giáo dục pháp luật trong các trường đại học, cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp của ngành Xây dựng: .................... 41
2.1.4.7. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tủ sách pháp luật, biên
soạn tài liệu, băng đĩa và các hình thức khác ..................................... 43
2.1.5. Kinh phí bảo đảm cho việc triển khai công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật ................................................................................................ 43
2.1.6. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.................................... 45
2.2. Hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và bài học kinh nghiệm
của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng ...... 46
2.2.1. Hạn chế ........................................................................................ 46
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.................................................. 51
2.2.3. Bài học kinh nghiệm .................................................................... 52
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG NGÀNH XÂY DỰNG
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY........................................................................... 56
3.1. Nhóm giải pháp về kiện toàn tổ chức và củng cố nguồn nhân lực
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ................................... 56
3.1.1. Tăng cường hoạt động của Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật ngành Xây dựng ....................................................... 56
3.1.2. Xây dựng, kiện toàn tổ chức pháp chế, nâng cao năng lực của cán
bộ, công chức, viên chức làm công tác pháp chế và công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng.............................................. 58
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng về nội dung, hình thức phổ
biến, giáo dục pháp luật .......................................................................... 62
3.2.1. Nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngành
Xây dựng ............................................................................................... 62
3.2.2. Xác định nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng
nhóm đối tượng ..................................................................................... 62
3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật .............. 65
3.3. Nhóm giải pháp về bảo đảm cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật trong ngành Xây dựng .................................................................... 70
3.3.1. Xây dựng Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm và
tổ chức kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan,
đơn vị trong Ngành: ............................................................................... 70
3.3.2. Phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật ......................................................................................... 72
3.3.3. Kinh phí thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chế độ,
chính sách cho những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 72
KẾT LUẬN ................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã đề cao
vai trò to lớn của pháp luật. Pháp luật được coi là một trong những phương
tiện để Đảng lãnh đạo Nhà nước, là công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước quản
lý toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật là
cầu nối giữa việc ban hành pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, là khâu
đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân dân. Do đó, Nhà nước phải đặc
biệt quan tâm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, vì mỗi người, trước hết có hiểu biết pháp luật thì mới có ý thức
đúng đắn về pháp luật và chấp hành tốt pháp luật.
Trong thời gian qua, các cấp, các ngành đã nỗ lực, cố gắng khắc phục
những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, những mặt còn hạn chế, bất cập của
pháp luật và chuyên môn để hoàn thành tốt việc xây dựng, thực hiện, phổ
biến, giáo dục pháp luật nên ý thức pháp luật của các tổ chức, cá nhân ở Việt
Nam được nâng lên rõ rệt. Sự hiểu biết pháp luật của các tổ chức, cá nhân,
nhất là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước đã ngày càng có những
bước nâng cao rõ nét. Tuy nhiên, ý thức pháp luật một bộ phận cán bộ và
nhân dân vẫn còn hạn chế, hành vi vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết pháp
luật hay cố ý vi phạm pháp luật vẫn còn xảy ra. Nguyên nhân có nhiều nhưng
một trong những nguyên nhân quan trọng là việc đưa pháp luật vào cuộc sống
chưa tiến kịp với quá trình xây dựng, ban hành pháp luật nên ảnh hướng
không nhỏ đến việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Vì vậy: "Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà
2
nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ
cương” [30, tr.247] đã trở thành một nội dung lớn trong Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc hiến định
thể hiện trong Hiến pháp của Nhà nước ta nhằm thiết lập một nền pháp chế
thống nhất và vững chắc trên phạm vi cả nước, thiết lập trật tự pháp luật, kỷ
cương, dân chủ và công bằng. Do đó, trong Hiến pháp 1992 đã giao Chính
phủ nhiệm vụ: “tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến
pháp và pháp luật trong nhân dân” [42, tr.62]. Đặc biệt nhấn mạnh nhiều
nhiệm vụ này tại Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và
nhân dân (Chỉ thị số 32-CT/TW) xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên,
liên tục của các cấp ủy đảng, chính quyền và hệ thống chính trị, cụ thể:
“ Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính
trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [28, tr.2].
“Các cấp ủy có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền các cấp tổ
chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với nội dung,
hình thức, phương pháp phù hợp với địa bàn và đối tượng khác nhau;
xây dựng kế hoạch, chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật thiết
thực cho các cấp, các ngành, các cơ quan, doanh nghiệp, đáp ứng yêu
cầu của từng thời kỳ” [28, tr.2].
Thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, nhiều văn bản pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Nhà
nước ban hành như: Nghị quyết số 61/2008/NQ-CP ngày 07/12/2007 của Chính
phủ về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban
3
Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán
bộ và nhân dân (Nghị quyết số 61/2008/NQ-CP), Quyết định số 13/2003/QĐTTg ngày 17/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007, Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg
ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo
dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 (Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg), theo
đó quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của các cấp, bộ, ngành, địa phương thực
hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngành Xây dựng là một trong những ngành kinh tế có đáng góp đáng
kể đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, với những thành tựu đạt được
như xây dựng những công trình hiện đại mang tầm cỡ quốc tế hiện nay là do chính
sách, pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành đã đáp ứng
được sự phát triển của kinh tế - xã hội trong tình hình mới. Tuy nhiên, ý thức
pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên,
người sử dụng lao động và người lao động trong ngành còn hạn chế, hiện tượng vi
phạm pháp luật vẫn còn xảy ra, việc tuân thủ pháp luật có nơi, có chỗ còn chưa trở
thành thói quen, nếp sống thường xuyên đối với các đối tượng phổ biến, giáo dục
pháp luật trong ngành… Vì vậy, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong ngành Xây dựng để nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng tình cảm pháp
lý và phong cách sống và làm việc theo pháp luật của các đối tượng phổ biến,
giáo dục pháp luật trong ngành là hết sức cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đánh giá thực trạng tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành
Xây dựng và nghiên cứu các giải pháp nhằm đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật đi vào nề nếp vững chắc, tạo sự chuyển biến trong nhận thức pháp luật
của các chủ thể có tham gia hoạt động trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc
ngành, như: Xây dựng; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị,
4
khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; phát triển đô thị; nhà ở và
công sở; kinh doanh bất động sản; vật liệu xây dựng nhằm làm giảm thiểu đến
mức thấp nhất hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường công tác quản lý nhà nước
của ngành và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Trên
cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn trong ngành Xây dựng, tôi chọn đề tài: “Phổ
biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng Việt Nam hiện nay” làm
luận văn thạc sĩ.
3. Tình hình và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Tình hình nghiên cứu
Trong giai đoạn hiện nay, phổ biến, giáo dục pháp luật là vấn đề hết
sức quan trọng. Việc nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật dưới góc độ
khoa học pháp lý được các nhà khoa học Việt Nam rất quan tâm. Cho đến nay
có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về phổ biến, giáo dục pháp luật của tập
thể, cá nhân đã được công bố như:
- Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, Trần Ngọc Đường, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Hà Nội (1998).
- Xây dựng lối sống theo pháp luật và vấn đề giáo dục pháp luật trong
nhà trường, Lê Vương Long, Tạp chí Luật học số 11/2001.
- Quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật pháp luật trong Bộ
Quốc phòng hiện nay, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công của Phạm Đức
Hoài, 2009.
- Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công của Ngô Trần Thị Thu Hà, 2010.
- Ý thức pháp luật, Nguyễn Minh Đoan, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể, cá nhân,
các bài viết của các tác giả từ trước đến nay về giáo dục pháp luật đã đóng
5
góp rất nhiều vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác
nhau về phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về phổ
biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về thực trạng công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng, chủ yếu tại các cơ quan, đơn vị
như: các Cục, Vụ, Viện, Thanh tra, Văn phòng, các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP. Hà Nội, Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP.
Hồ Chí Minh, Phòng Quản lý đô thị, Phòng Công thương thuộc Uỷ ban nhân
dân cấp huyện và cán bộ quản lý chuyên ngành cấp xã, các doanh nghiệp nhà
nước trực thuộc Bộ Xây dựng; nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, viên
chức, học sinh, sinh viên, người sử dụng lao động, người lao động trong
Ngành và nhân dân có tham gia hoạt động xây dựng ở nước ta hiện nay.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu trong 05 năm (từ 2007-2011).
4. Nhiệm vụ của đề tài
- Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận chung về phổ biến, giáo
dục pháp luật, luận văn phân tích rõ đặc điểm và vai trò của phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng
của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong ngành Xây dựng.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về phổ biến, giáo
dục pháp luật cho đối tượng hoạt động trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
thuộc ngành Xây dựng và nhân dân.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng với các phương pháp: Lịch sử - cụ thể, phân tích, tổng hợp, kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống kê, khảo sát thực tế...
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương
đối toàn diện về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây
dựng ở nước ta hiện nay, nêu được khái niệm và đặc trưng của công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng trong Ngành và đề cập giải pháp
cơ bản để nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật trong các cơ quan,
đơn vị thuộc ngành Xây dựng.
7. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về phổ
biến, giáo dục pháp luật, làm rõ tính đặc thù của công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây
dựng Việt Nam.
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong chỉ đạo
tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan đảng và nhà nước về công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trong Ngành.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRONG NGÀNH XÂY DỰNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành
Xây dựng
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động xã hội xuất hiện có thể
nói từ khi pháp luật ra đời. Trên thực tế khi có các quy định pháp luật dĩ nhiên
sẽ phát sinh nhu cầu về giải thích, phổ biến, giáo dục pháp luật. Mặc dù vậy, ở
nước ta cho đến nay những vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật nói
chung vẫn còn những cách hiểu khác nhau, chưa có sự thống nhất về mặt
nhận thức, khái niệm. Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa thì phổ biến, giáo dục
pháp luật là một từ ghép hai từ phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật.
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2009:
“Phổ biến là làm cho đông đảo người biết về nội dung văn bản
pháp luật bằng cách truyền đạt trực tiếp hay gián tiếp thông qua hình
thức nào đó” [51, tr.1010].
“Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến
sự pháp triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho
đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra” [51, tr.510].
Theo Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật:
“Phổ biến pháp luật có hai nghĩa: (i) nghĩa hẹp: là giới thiệu tinh
thần văn bản pháp luật cho đối tượng của nó; (ii): nghĩa rộng là truyền
bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Giáo dục pháp luật: là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình
nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (thuyết
8
phục, nêu gương, ám thị...) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật
cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Cả cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật có nghĩa là việc truyền bá
pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin
pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng” [3, tr.2].
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như hoạt động nghiên cứu
khoa học, quan niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu dưới các góc độ
sau đây:
- Phổ biến pháp luật là hoạt động do cơ quan chức năng của Nhà nước
thực hiện truyền đạt văn bản pháp luật, tài liệu liên quan về hoạt động xây
dựng và thực hiện pháp luật đến các đối tượng nhất định. Đối tượng được phổ
biến pháp luật là những cá nhân, nhóm người trong một tổ chức cần phải nắm
vững về nội dung, những thông tin thiết thực, sự cần thiết trước mắt phục vụ
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, trao đổi, sinh hoạt của họ như nội dung
các quy định pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành, các điều ước
quốc tế và các tài liệu liên quan đến pháp luật khác…, nhằm nâng cao hiểu
biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của các thành viên trong xã hội.
Hoạt động phổ biến pháp luật phải được tiến hành một cách nhanh chóng và
kịp thời để các đối tượng phổ biến nắm bắt được các quy định của pháp luật
trước khi các quy định đó có hiệu lực thi hành và kịp thời xử sự theo những
quy định của pháp luật hiện hành.
- Giáo dục pháp luật hiểu theo nghĩa rộng, là quá trình tác động của
những điều kiện khách quan như chế độ chính trị, hệ tư tưởng, nền văn hóa,
trình độ phát triển kinh tế, hệ thống pháp luật, môi trường sống, phong tục,
tập quán... và của cả những nhân tố chủ quan như sự tác động tự giác, có chủ
định và định hướng của nhân tố con người nhằm hình thành ý thức pháp luật,
9
văn hóa pháp luật của đối tượng giáo dục pháp luật. Ý thức pháp luật của
những giai cấp khác nhau thì khác nhau, do đó ý thức pháp luật là sản phẩm
của quá trình tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan, tích cực và
tiêu cực.
Giáo dục pháp luật hiểu theo nghĩa hẹp, là quá trình tác động có định
hướng, chủ động, tích cực của chủ thể giáo dục pháp luật (tổ chức, cá nhân)
một cách thường xuyên tới nhận thức của đối tượng giáo dục pháp luật là cá
nhân hay nhóm người trong một tổ chức nhằm mục đích cung cấp, trang bị
cho họ kiến thức pháp luật, hình thành tình cảm, thái độ tích cực đối với pháp
luật, tạo lập thói quen tuân thủ, chấp hành, tôn trọng và xử sự theo yêu cầu
của pháp luật.
Do đời sống thực tế luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng,
nếu chúng ta thả lỏng không coi trọng việc giáo dục pháp luật hoặc không cập
nhật những kiến thức, thông tin để đổi mới nội dung và hình thức giáo dục
pháp luật thì các yếu tố tiêu cực khách quan (tư tưởng xấu, lối sống không
lành mạnh, vi phạm pháp luật, coi thường pháp luật…) sẽ tác động mạnh mẽ
đến nhận thức, tình cảm và lòng tin vào pháp luật của con người, đi ngược lại
mục tiêu của giáo dục pháp luật, không mang lại hiệu quả trong quá trình hình
thành ý thức pháp luật đúng đắn. Do đó, giáo dục pháp luật là sự chuyển tải
thông tin không chỉ có tính chất thời sự, trước mắt mà là một quá trình tác
động lâu dài phụ thuộc vào năng lực các chủ thể, nội dung, hình thức giáo dục
và còn chịu sự chi phối đa chiều của nhiều yếu tố như: Kinh tế, xã hội, dân trí,
phong tục, tập quán…
Xét trên mối quan hệ thực tiễn cũng như yêu cầu, mục đích chung của
phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật có thể thấy: Phổ biến pháp luật và
giáo dục pháp luật có mối quan hệ đan xen, kết hợp chặt chẽ với nhau. Phổ
biến pháp luật hướng tới giáo dục pháp luật, trong giáo dục pháp luật có phổ
biến pháp luật và đều có mục đích chung là nâng cao hiểu biết pháp luật và ý
thức chấp hành pháp luật của người dân.
10
Như vậy, có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật: Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động có tổ
chức, có mục đích, có tính định hướng tác động lên các đối tượng phổ biến,
giáo dục pháp luật nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm đối với
pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng có
những đặc thù riêng so với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung
về chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật. Chủ
thể là hệ thống các cơ quan, đơn vị trong Ngành từ trung ương đến địa
phương có chức năng phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định của pháp
luật; đối tượng là cá nhân, tập thể người trong các cơ quan, đơn vị có tham gia
hoạt động trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc Ngành; nội dung phổ
biến, giáo dục pháp luật là pháp luật chuyên ngành, pháp luật về quản lý kinh
tế và pháp luật có liên quan khác; hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được
lựa chọn để tổ chức thực hiện phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể nhằm
mục đích mang lại hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cao nhất.
Từ khái niệm chung về phổ biến, giáo dục pháp luật có thể hiểu: Phổ
biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng là hoạt động có tổ chức, có
mục đích, có tính định hướng của chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật là các
cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây
dựng lên đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là cán bộ, công chức, viên
chức, học sinh, sinh viên, người sử dụng lao động và người lao động trong
Ngành và các cá nhân khác nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, niềm tin,
tình cảm đối với pháp luật và có hành vi xử sự phù hợp với các quy định của
pháp luật hiện hành về các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng.
1.1.2. Chủ thể và đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật trong
ngành Xây dựng
Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật những tổ chức, cá nhân
theo chức năng của mình tham gia vào việc truyền thụ, phổ biến, giáo dục pháp
11
luật như giảng dạy, trình bày, giải thích pháp luật gọi là chủ thể; những người
được truyền thụ, học tập, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật gọi là đối tượng.
1.1.2.1. Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật
Theo Từ điển Tiếng Việt 2009:“chủ thể là đối tượng gây ra hành
động, trong quan hệ đối lập với đối tượng bị sự chi phối của hành động” [51,
tr.243]. Vì vậy, hiểu chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật là những người
hoạt động truyền đạt kiến thức pháp luật theo chức năng, nhiệm vụ hay trách
nhiệm xã hội thực hiện các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật (là báo cáo
viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật, giáo viên, giảng viên pháp luật tại
các bộ, ngành, địa phương, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội…). Trong
mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng phổ biến, giáo
dục pháp luật thì chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật có sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đến đối tượng. Trên
cơ sở đó, chủ thể xác định những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác
động phổ biến, giáo dục pháp luật của đối tượng cũng như các yêu cầu đòi hỏi
khách quan để xác định nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp nhằm tiếp
cận phổ biến, giáo dục pháp luật và tiến hành phổ biến, giáo dục đạt hiệu quả
cao nhất.
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng là tất cả
những người tham gia truyền đạt kiến thức pháp luật thuộc các cơ quan, đơn
vị có chức năng, nhiệm vụ thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong Ngành. Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP của Chính phủ yêu cầu các bộ,
ngành, địa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách
nhiệm xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật hàng năm, dài hạn, chịu trách nhiệm chính trong việc phổ biến, giáo dục
pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Là người đứng đầu cơ quan Bộ Xây dựng,
Bộ trưởng Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành triển khai thực
hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về các
12
lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ. Vì vậy, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp
luật trong ngành Xây dựng được xác định là các cơ quan, đơn vị trong Ngành
mà cụ thể là những người được phân công phụ trách thực hiện công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, báo cáo viên pháp luật, nhà báo, giáo viên, giảng
viên tham gia vào việc truyền đạt pháp luật chuyên ngành cho các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động thuộc các lĩnh vực quản lý của Ngành. Các nhóm
chủ thể trong trong ngành Xây dựng, bao gồm:
- Cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Xây dựng:
+ Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật ngành Xây
dựng: Là cơ quan tham mưu, tư vấn giúp Bộ trưởng Bộ Xây dựng phối hợp,
chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng. Nhiệm
vụ của Hội đồng là chỉ đạo phối hợp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật giữa các Cục, Vụ, Viện, Thanh tra Bộ, Học viện Cán bộ quản lý xây
dựng và đô thị, các Sở Xây dựng, Sở Quy hoạch - Kiến trúc và các doanh
nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ; kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị trong
Ngành về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
+ Vụ Pháp chế: Là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Xây dựng
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ, đồng thời là cơ quan
thường trực của Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật
ngành Xây dựng. Vụ Pháp chế có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các đơn vị
có liên quan xây dựng Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm
của Bộ, đôn đốc các đơn vị triển khai thực hiện chương trình; tổng kết, lập
báo cáo thường xuyên và đột xuất về việc thực hiện công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật.
+ Các Cục, Vụ, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ:
Bộ Xây dựng có 09 Vụ, 04 Cục, Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ, Cơ quan
đại diện Bộ Xây dựng tại TP. Hồ Chính Minh, là các cơ quan tham mưu về
chuyên môn giúp Bộ trưởng thực hiện công tác quản lý nhà nước về các lĩnh
13
vực: Xây dựng; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu
công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; phát triển đô thị; nhà ở và công
sở; kinh doanh bất động sản; vật liệu xây dựng; thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo… Đây là các cơ quan được Bộ
trưởng Bộ Xây dựng giao chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật
trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ ban hành hoặc trình Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành theo thẩm quyền,
cùng với việc lập Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng
năm, các cơ quan tiến hành lập Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật
riêng cho cơ quan mình và tổ chức triển khai thực hiện, tổng kết, đánh giá về
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật định kỳ 6 tháng, một năm gửi Vụ Pháp
chế là cơ quan chủ trì tổng hợp báo cáo chung về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật của Bộ.
Đội ngũ báo cáo viên pháp luật tại các Cục, Vụ, Viện, Thanh tra Bộ là
những người trực tiếp tham gia Ban soạn thảo, Tổ biên tập văn bản quy phạm
pháp luật chuyên ngành, đây là đội ngũ có kiến thức về các lĩnh vực xây
dựng, quy hoạch, kiến trúc, địa chất, quản lý dự án đầu tư xây dựng công
trình, khảo sát, thiết kế công trình…, có nhiều năm kinh nghiệm, là lực lượng
nòng cốt của Bộ Xây dựng trong việc tuyên truyền pháp luật cho các đối
tượng phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành.
+ Các Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ Xây dựng: Ngoài chức năng
nghiên cứu khoa học về lĩnh vực quy hoạch đô thị - nông thôn, kinh tế xây
dựng, vật liệu xây dựng, khoa học công nghệ xây dựng còn có chức năng tuyên
tuyền, phổ biến kiến thức pháp luật về các lĩnh vực do Viện nghiên cứu.
+ Học viện Quản lý cán bộ xây dựng và đô thị và các cơ sở đào tạo của
các đơn vị trực thuộc Bộ: Có nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chính
trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh doanh, chuyên môn,
nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, công chức, viên chức trong ngành
14
Xây dựng, cán bộ chính quyền đô thị các cấp, cá nhân khác tham gia quản lý
và hoạt động xây dựng. Đội ngũ giảng viên tại Học viện và các cơ sở đào tạo
của các đơn vị trực thuộc Bộ có trình độ chuyên môn về pháp luật và có
nghiệp vụ sư phạm nên việc tuyên tuyền pháp luật luôn luôn đảm bảo yêu cầu
về tiêu chuẩn chất lượng đề ra.
+ Báo Xây dựng, Tạp chí Xây dựng, Trung tâm thông tin và một số ấn
phẩm chuyên ngành khác: Là cơ quan ngôn luận của Bộ Xây dựng với chức
năng tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc Ngành, đồng thời tích cực trao
đổi kinh nghiệm hoạt động giữa các đơn vị, biểu dương điển hình tiên tiến, phê
phán hành vi tiêu cực, góp phần nâng cao dân trí. Báo Xây dựng, Tạp chí Xây
dựng, Trung tâm thông tin và các ấn phẩm khác có đội ngũ phóng viên, biên
tập viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có đạo đức và bản lĩnh nghề
nghiệp, họ thực sự là những tuyên truyền viên pháp luật tích cực nhất trên các
phương tiện thông tin đại chúng của Ngành.
+ Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp của
Ngành: Với số lượng 15 trường, bao gồm: 02 trường đại học, 06 trường cao
đẳng và 07 trường trung cấp chuyên nghiệp (trong đó có 06 trường trung cấp
trực thuộc các doanh nghiệp thuộc Bộ). Đội ngũ giáo viên, giảng viên trong
các trường có trình độ đại học trở lên, có năng lực, phần lớn có trình độ
chuyên ngành và trình độ pháp lý chuyên sâu về các lĩnh vực quản lý nhà
nước của ngành, đó là điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy bộ môn pháp
luật trong nhà trường. Chương trình đào tạo của nhà trường luôn tuân thủ quy
định chung về quản lý đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bên cạnh đó còn
bồi dưỡng kiến thức pháp luật chung về giáo dục công dân cho học sinh, sinh
viên và đặc biệt là kiến thức pháp luật chuyên ngành.
- Các Sở Xây dựng và Sở Quy hoạch - Kiến trúc:
Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương về các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây
15
dựng, hiện nay có 63 Sở Xây dựng và 02 Sở Quy hoạch – Kiến trúc (Sở Quy
hoạch – Kiến trúc Hà Nội và Sở Quy hoạch – Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh),
chức năng, nhiệm vụ của các Sở trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
được quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/07/2011 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp
chế (Nghị định số 55/2011/NĐ-CP), cụ thể:
+ Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan lập kế hoạch phổ biến, giáo
dục pháp luật dài hạn, hàng năm trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý nhà
nước ở địa phương trình Thủ trưởng cơ quan và tổ chức thực hiện kế hoạch
sau khi được phê duyệt;
+ Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức phổ biến, giáo dục
pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương; hướng
dẫn, kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các đơn vị thuộc cơ quan;
+ Chủ trì và phối hợp với các đơn vị tổ chức xây dựng, quản lý và khai
thác tủ sách pháp luật tại cơ quan;
+ Chủ trì và phối hợp với các đơn vị tham mưu, giúp Thủ trưởng cơ
quan định kỳ 6 tháng, hàng năm tiến hành kiểm tra, tổng kết tình hình thực
hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; báo cáo Sở Tư pháp về kết quả
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để Sở Tư pháp tổng hợp, báo cáo Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tư pháp.
- Phòng Quản lý đô thị, Phòng Công thương:
Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện về các lĩnh
vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng. Chức năng, nhiệm vụ về công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Phòng Quản lý đô thị, Phòng Công
thương được quy định tại Thông tư liên tịch số 20/2008/TTLT-BXD-BNV
ngày 16/12/2008 của Bộ Xây dựng và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân
16
dân cấp xã về các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng (Thông
tư số 20/2008/TTLT-BXD-BNV), cụ thể: Thông tin, tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng.
- Ủy ban nhân dân cấp xã:
Chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã về công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật được quy định tại Thông tư liên tịch số
20/2008/TTLT-BXD-BNV, cụ thể: Tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy
phạm pháp luật thuộc ngành xây dựng cho các tổ chức và nhân dân trên địa
bàn xã.
- Các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ:
Hiện nay Bộ Xây dựng có hơn 300 Công ty tư vấn và hơn 300 Công ty
xây lắp thuộc 16 Tổng công ty, trong đó có 11 Tổng công ty thuộc 02 Tập
đoàn kinh tế, nhiệm vụ của các doanh nghiệp nhà nước trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cũng được quy định cụ thể tại Nghị định
55/2011/NĐ-CP, cụ thể: Chủ trì hoặc phối hợp với các tổ chức đoàn thể của
doanh nghiệp phổ biến, giáo dục pháp luật, điều lệ, nội quy, quy chế của
doanh nghiệp cho người lao động.
- Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác:
Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc
ngành Xây dựng của các bộ, ngành, địa phương khác như: Các ban quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực
quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng của các bộ, cơ quan ngang bộ, các
sở, ban, ngành tại địa phương hoặc các doanh nghiệp tư nhân khác. Đây cũng
là những chủ thể không chính thức trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật của Ngành.
1.1.2.2. Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật
Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật là những người chịu sự tác
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch về kiến thức pháp luật bằng hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật của chủ thể. Trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật việc xác định được đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật có ý
17
nghĩa quan trọng để chủ thể tìm tòi nội dung, hình thức thực hiện hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật nhằm truyền bá kiến thức pháp luật cho đối tượng một
cách có hiệu quả.
Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là những công dân, cán bộ,
công chức, viên chức, người sử dụng lao động, người lao động trong các cơ
quan, tổ chức hoặc một nhóm cộng đồng dân cư trong xã hội được tiếp nhận tác
động của các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp do
chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật tiến hành nhằm đạt được mục đích đặt ra.
Theo quy định tại Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của
Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày
12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ, Nhà nước ta tập trung tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho sáu nhóm đối tượng: cán bộ, công chức, viên
chức; người dân thành phố, người dân nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số,
cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang; thanh thiếu niên; người sử dụng lao
động, người lao động trong các doanh nghiệp; người nước ngoài ở Việt Nam và
người Việt Nam ở nước ngoài.
Các nhóm đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật nêu trên cơ bản phủ
kín các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm việc tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật đồng bộ, toàn diện, phù hợp, hiệu quả. Đồng thời, việc xác
định các nhóm đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
tổ chức thực hiện của bộ, ngành, địa phương và sự tham gia tích cực của các
đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng
được phân chia ra các nhóm sau đây:
Nhóm 1: Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại các cơ
quan, đơn vị trực thuộc Bộ Xây dựng, Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP. Hà Nội,
Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh, Sở Xây dựng các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Phòng Quản lý đô thị, Phòng Công thương thuộc Ủy
18
ban nhân dân cấp huyện và cán bộ phụ trách lĩnh vực xây dựng thuộc Ủy ban
nhân dân cấp xã. Đây là nhóm đối tượng thuộc khối các cơ quan quản lý nhà
nước, đơn vị sự nghiệp của Ngành, là những người trực tiếp nghiên cứu hoạch
định chính sách, pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây
dựng. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhóm đối tượng này là vấn đề vừa cấp
bách, vừa lâu dài và phải tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng đòi hỏi của công
cuộc quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta.
Nhóm 2: Học sinh, sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp thuộc ngành Xây dựng. Đối với nhóm đối tượng này ngoài
việc trang bị các kiến thức khoa học kỹ thuật chuyên ngành, công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, trang bị những tri thức pháp luật cơ bản cho học
sinh, sinh viên nhằm giáo dục ý thức tự giác tuân thủ pháp luật cho các thế hệ
công dân trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước.
Nhóm 3: Người sử dụng lao động, người lao động của các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc
ngành Xây dựng và nhân dân:
- Người sử dụng lao động và người lao động của các doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây
dựng: Trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế ở nước ta, Nhà nước tạo ra môi
trường pháp luật bình đẳng nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như
sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế.
Tuy nhiên, trên thực tế không ít các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong
các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng có vi phạm pháp luật
hay bị lừa đảo do kiến thức pháp luật còn hạn chế…; người lao động do
không hiểu biết pháp luật nên không tránh khỏi những trường hợp tranh chấp
về hợp đồng lao động, bị tai nạn lao động hoặc vi phạm pháp luật. Do đó, phổ
biến, giáo dục pháp luật là đòi hỏi từ nhu cầu thiết thực của các nhà kinh
19
doanh và yêu cầu quản lý kinh tế của Nhà nước. Hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật giúp họ có những kiến thức cơ bản về pháp luật liên quan đến lĩnh
vực kinh doanh và pháp luật chuyên ngành, từng bước tạo cho họ thói quen
kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, tránh tình trạng vi phạm pháp luật.
- Nhân dân tham gia hoạt động trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
thuộc ngành Xây dựng: Đây là nhóm đối tượng đông đảo tham gia hoạt động
trong các lĩnh vực như xây dựng, kinh doanh bất động sản… nhất là xây dựng
nhà ở riêng lẻ để sử dụng hoặc kinh doanh. Do đó, họ cần có kiến thức pháp
luật phù hợp để tham gia vào hoạt động trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
thuộc ngành Xây dựng nhằm tránh được các sai phạm xảy ra.
1.1.3. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng
Để thực hiện mục đích hình thành ý thức pháp luật trong nhân dân thì
chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật phải xác định nội dung, nhu cầu,
điều kiện, đặc điểm của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật. Căn cứ
nhu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, yêu cầu của việc thực hiện các
nhiệm vụ, mục tiêu chính trị, kinh tế xã hội mà chủ thể quyết định nội dung
phổ biến, giáo dục pháp luật, bên cạnh đó còn phải xem xét nội dung phổ
biến, giáo dục pháp luật có phù hợp hay không phù hợp với thực trạng ý thức
pháp luật của người dân, điều kiện và khả năng tiếp thu của họ để xác định
nội dung giáo dục từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm: Đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thông tin về thực tiễn xây dựng pháp luật,
thi hành, bảo vệ pháp luật và các kiến thức lý luận về khoa học pháp lý…
Trong xã hội có rất nhiều đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật khác nhau
nên nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cũng đa dạng, phong phú gần như
phủ kín các lĩnh vực đời sống xã hội.
Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng cần
phổ biến kịp thời, đầy đủ cho các nhóm đối tượng về nội dung pháp luật thuộc
20
các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng, tạo điều kiện để các tổ
chức và cá nhân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, của nhà nước và xã hội khi tham gia hoạt động
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành Xây dựng.
Các đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng
cần được tiếp nhận những thông tin về pháp luật như sau:
- Nội dung chung: Phổ biến, quán triệt các quy định pháp luật về cán
bộ, công chức, viên chức; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phòng, chống
tham nhũng; lao động; chính sách thuế; phòng, chống tệ nạn xã hội; hội nhập
kinh tế quốc tế; thực hiện Quy chế dân chủ tại cơ quan, đơn vị… Đồng thời, chú
trọng phổ biến, giáo dục pháp luật các quy định pháp luật chuyên ngành và gắn
với chuyên môn, nghiệp vụ của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức.
- Nội dung về lĩnh vực kinh tế: Các quy định pháp luật về dân sự, hình
sự, kinh tế, tài chính, thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế, điều ước
quốc tế liên quan đến hoạt động chuyên môn.
- Nội dung về các lĩnh vực quản lý nhà nước ngành Xây dựng, pháp
luật về: Xây dựng; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu
công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; phát triển đô thị; nhà ở và công
sở; kinh doanh bất động sản và vật liệu xây dựng.
1.1.4. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng
Hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ phụ
thuộc vào nội dung mà còn phụ thuộc vào hình thức và phương pháp phổ
biến, giáo dục pháp luật. Bởi vì, để chuyển tải được nội dung phổ biến, giáo
dục pháp luật một cách hiệu quả đòi hỏi phải có cách thức và biện pháp tác
động phù hợp với khả năng tiếp nhận của từng nhóm đối tượng. Pháp luật có
phạm vi điều chỉnh rộng lớn và có đối tượng tác động phong phú, phức tạp.
Do đó, đòi hỏi hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật phải có nhiều hình thức
và phương pháp đa dạng phù hợp với từng đối tượng khác nhau và tùy thuộc
tình hình cụ thể trong mỗi giai đoạn.
21
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng căn cứ vào
đặc điểm của từng đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật như: Họ là ai?
chức trách, nhiệm vụ đến đâu? trình độ nhận thức, điều kiện, địa bàn, hoàn
cảnh sống của họ như thế nào? mức độ quan tâm đến pháp luật, các vấn đề
quan tâm và ưu tiên quan tâm của họ như thế nào? để tìm ra hình thức phổ
biến, giáo dục pháp luật phù hợp và đạt hiệu quả.
Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng được
thường xuyên vận dụng cho phù hợp với từng nhóm đối tượng, cụ thể:
Phổ biến, giáo dục pháp luật bằng hình thức tổ chức các lớp tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ; sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng (báo, tạp chí, Đài
phát thanh, Đài truyền hình, mạng thông tin điện tử ...); biên soạn và phát hành
các tài liệu, băng đĩa hình, đĩa tiếng để phổ biến, giáo dục pháp luật; xây
dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật thông
qua các buổi sinh hoạt câu lạc bộ tại các trường học; hỏi - đáp pháp luật…
1.1.5. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Xây dựng
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và hoạt động phổ
biến, giáo dục trong ngành Xây dựng nói riêng đều có mục đích như sau:
- Cung cấp thông tin để hình thành hoặc làm sâu sắc và mở rộng hệ
thống tri thức pháp luật của tổ chức, cá nhân:
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của mỗi cá nhân có được
qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật và qua quá trình tích lũy kiến thức của
hoạt động thực tiễn cuộc sống và công tác. Mục đích của hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật giúp đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật từ chưa
biết pháp luật đến hiểu biết pháp luật và từ biết ít đến biết nhiều và biết sâu,
rộng hơn. Đây là mục đích quan trọng nhất của công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật bởi vì sự hiểu biết pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm sự phát triển của tư duy pháp lý và định hướng hành vi của mỗi cá nhân,
là cơ sở hình thành ý thức pháp luật, tình cảm, thái độ của con người đối với