BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ VĂN ANH
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Văn Anh
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
ĐTV
Điều tra viên
HĐXX
Hội đồng xét xử
KSV
Kiểm sát viên
TP
Thẩm phán
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TTHS
Tố tụng hình sự
THTT
Tiến hành tố tụng
TA
Tòa án
TAND
Toà án nhân dân
TANDTC
Toà án nhân dân tối cao
VAHS
Vụ án hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH
5
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.
Khái niệm chứng cứ và chứng minh
5
1.2
Đối t
10
1.3
Chủ thể chứng minh và nghĩa vụ chứng minh
15
1.4
Quá trình chứng minh
21
Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LIÊN QUAN
30
ng chứng minh và gi i h n chứng minh
ĐẾN CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1
Quy định về chủ thể chứng minh
30
2.2
Quy định về nghĩa vụ chứng minh
33
2.3
Quy định về đối t
ng chứng minh
35
2.4
Quy định về quá trình chứng minh
46
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI
54
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỨNG MINH TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
3.1
Thực tr ng áp dụng
54
3.2
Nguyên nhân của những h n chế bất cập
61
3.3
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chứng minh
64
KẾT LUẬN
69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Vấn đề cải cách t pháp đang đ
Cải cách t pháp đ
c Đảng và Nhà n
c ta quan tâm, coi trọng.
c coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng nhà n
c
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, n
c
m nh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để tiếp tục đẩy m nh công cuộc cải cách
t pháp, ngày 02 tháng 01 năm 2002 Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết số 08NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác t pháp trong thời gian t i và nghị
quyết số 49-NQ/TƯ ngày 02 tháng 06 năm 2005 về chiến l
năm 2020. Chính vì vậy chất l
ng ho t động t pháp đã đ
c cải cách t pháp đến
c nâng lên một b
c, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, t o môi tr ờng ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, công tác
t pháp còn bộc lộ nhiều h n chế, bất cập nh : Chính sách pháp luật nói chung và
chính sách pháp luật hình sự nói riêng và pháp luật về tố tụng còn nhiều bất cập, chậm
đ
c sửa đổi, bổ sung; Cơ sở vật chất, ph ơng tiện làm việc của cơ quan t pháp còn
thiếu thốn, l c hậu; Trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ
còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đ o đức và trách nhiệm nghề
nghiệp...Vì vậy, vẫn còn tình tr ng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét
xử. Các nghị quyết đó đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải đ
c
nghiên cứu một cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự. Nh ng cải cách t pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành
tựu đã đ t đ
c của nền t pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm của n
c ngoài phù h p v i hoàn cảnh n
động hội nhập quốc tế; Đáp ứng đ
c ta và yêu cầu chủ
c xu thế phát triển của xã hội trong t ơng lai [2].
Trong quá trình giải quyết VAHS, việc tìm ra chứng cứ và chứng minh đầy đủ
không chỉ đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đ
c đúng đắn mà còn rút ngắn đ
c
thời gian, giảm chi phí, góp phần nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống
tội ph m. Tuy nhiên, việc chứng minh và làm rõ nội dung diễn biến vấn đề không đơn
giản nên vẫn còn tình tr ng Tòa án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, điều tra l i hoặc dẫn đến việc giải quyết vụ án sai sót, không phù h p v i quy
định của pháp luật, làm oan ng ời vô tội, bỏ lọt tội ph m. Mặt khác quy định của pháp
luật TTHS về chứng minh nói chung còn có những điểm bất cập, trình độ nhận thức
ch a cao, ý thức chấp hành pháp luật ch a nghiêm của ng ời THTT…nên việc nghiên
2
cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chứng minh trong TTHS
là vô cùng quan trọng.
Chính vì lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Chứng minh trong tố tụng hình sự”
làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có một số cuốn sách, luận văn th c sỹ, luận án tiến sỹ và một số t p
chí có đề cập đến một số vấn để về chứng minh trong TTHS, nh ng đề cập đến d
i
góc độ là một vấn đề của quá trình chứng minh nên việc nghiên cứu m i dừng l i ở
mức độ nhất định, mang tính khái quát sơ bộ về vấn đề.
Trong Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Tr ờng Đ i học Luật Hà Nội năm
2011, ở Ch ơng VI - Chứng cứ và chứng minh có đề cập đến khái niệm chứng cứ,
nguồn chứng cứ, đối t
ng chứng minh và quá trình chứng minh. Trong cuốn “Chứng
minh và chứng cứ trong vụ án hình sự” năm 2006 của tác giả TS. Đỗ Văn Đ ơng có
nội dung đề cập đến chứng cứ trong vụ án hình sự, đối t
ng và ph m vi chứng minh
trong vụ án hình sự, nghĩa vụ chứng minh trong vụ án hình sự. Trong cuốn “Chứng cứ
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2005 của tác giả Th.S. Nguyễn Văn Cừ và
cuốn “Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2011 của tác giả
TS. Trần Quang Tiệp có nội dung chủ yếu của lý luận chứng cứ trong TTHS Việt
Nam.
Luận án tiến sỹ về đề tài “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều
tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” năm 2000 của tác giả Đỗ Văn Đ ơng có nội
dung nghiên cứu là quá trình chứng minh trong giai đo n điều ta vụ án hình sự; “Quá
trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước ta” năm 2005 của tác giả Nguyễn Văn
Du có nội dung nghiên cứu là quá trình chứng minh vụ án hình sự.
Luận văn th c sỹ về đề tài "Đánh giá, sử dụng chứng cứ trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" năm 2008 của tác giả Nguyễn Thị
Thuý Hà; "Thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam" năm 2011 của tác giả
Ph m Kim Hằng; "Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập
chứng cứ" năm 2010 của tác giả Khúc Thị Hoàng H nh; "Thu thập, kiểm tra và đánh
giá chứng cứ từ lời khai của bị can, bị cáo" năm 2011 của tác giả Ph m Thị Xuân;
"Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự" năm 2004 của tác giả Tô Hữu Thông.
Các luận văn đó đều có nội dung nghiên cứu chủ yếu về quá trình chứng minh vụ án
hình sự.
3
Một số t p chí có đề cập đến nội dung nghiên cứu nh “Hoàn thiện các quy định
về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự” của tác giả TS.
Hoàng Thị Minh Sơn đăng trên t p chí Luật học số 7/2008; “Đánh giá chứng cứ trong
tố tụng hình sự” của tác giả Bùi Kiên Điện đăng trên t p chí luật học số 6/1997; “Gi i
h n chứng minh trong vụ án hình sự” của tác giả Đỗ Văn Đ ơng đăng trên t p chí
Kiểm sát số 10/1996...
Các công trình trên ch a nghiên cứu hoặc nghiên cứu ch a kỹ các vấn đề sau:
Về lý luận đã có tác giả đ a ra khái niệm chứng minh trong TTHS nh ng khái niệm
ch a hoàn thiện; Đa số tác giả nghiên cứu luật thực định ch a đặt trong mối liên hệ
d
i góc độ chứng minh trong TTHS; Về thực tr ng các tác giả nghiên cứu mang tính
chất liệt kê ch a mang tính khái quát; Các tác giả đã đ a ra giải pháp nâng cao hiệu
quả chứng minh trong TTHS nh ng ch a đầy đủ.
Nh vậy, có thể nói rằng ch a có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và sâu sắc về chứng minh trong tố tụng hình sự v i quy mô là một đề tài độc lập,
chuyên biệt về vấn đề. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về chứng minh trong tố tụng
hình sự là cần thiết để làm rõ hơn nữa vấn đề lý luận và thực tiễn chứng minh trong tố
tụng hình sự ở Việt Nam trong những năm gần đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề
lý luận, phân tích, đánh giá thực tr ng quy định của pháp luật TTHS n
minh, so sánh v i quy định của luật TTHS một số n
c ta về chứng
c trên thế gi i về vấn đề này,
đánh giá thực tiễn ho t động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến
chứng minh, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật có liên
quan đến chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần
nâng cao chất l
ng giải quyết VAHS.
- Nhiệm vụ: Để đ t đ
c mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải
quyết những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chứng minh trong TTHS;
+ Nghiên cứu và so sánh những quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam và luật TTHS
của một số n
c trên thế gi i về chứng minh;
+ Đánh giá thực tr ng quy định của pháp luật về chứng minh và ho t động của các cơ
quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến chứng minh;
+ Xác định những bất cập trong quy định của pháp luật TTHS, h n chế trong thực tiễn
4
áp dụng và nguyên nhân của nó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận, quy định của
luật TTHS và thực tr ng ho t động của các Cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên
quan đến chứng minh.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về chứng minh trong TTHS một cách
tổng thể trong ph m vi chung của tất cả các giai đo n tố tụng: Điều tra, truy tố, xét xử
VAHS ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay, chủ yếu tập trung trong ph m vi khoa học và
thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở chừng mực nhất định có liên quan đến khoa học luật
hình sự, tội ph m học và khoa học điều tra hình sự. Nghiên cứu quy định của BLTTHS
Việt Nam, BLTTHS Liên bang Nga, BLTTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về
chứng minh. Đánh giá thực tr ng ho t động của các Cơ quan THTT hình sự Việt Nam
liên quan đến chứng minh trong khoảng thời gian 4 năm trở l i đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là ph ơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và t
t ởng Hồ Chí Minh về Nhà n
c và pháp luật.
- Ph ơng pháp nghiên cứu: Kết h p v i một số ph ơng pháp nghiên cứu cụ thể nh
ph ơng pháp: Ph ơng pháp phân tích, ph ơng pháp hệ thống, ph ơng pháp lôgic,
ph ơng pháp tổng h p, ph ơng pháp so sánh, ph ơng pháp lý luận kết h p v i khảo
sát thực tế liên quan đến chứng minh trong tố tụng hình sự, từ đó làm sáng tỏ nội
dung của luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về chứng minh trong tố
tụng hình sự.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS Việt Nam về chứng minh,
những thiếu sót, h n chế trong ho t động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam
liên quan đến chứng minh, tìm ra những nguyên nhân của những thiếu sót, h n chế
đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về
chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của luật TTHS về chứng
minh.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 ch ơng và 11 mục.
5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm chứng cứ và chứng minh
1.1.1. Khái niệm chứng cứ
Trong quá trình THTT, CQĐT, VKS và TA muốn làm sáng tỏ và có kết luận
chính xác về tội ph m và ng ời thực hiện hành vi ph m tội thì phải dựa vào chứng cứ.
Chứng cứ là ph ơng tiện để chứng minh tội ph m, ng ời thực hiện hành vi ph m tội.
Lịch sử pháp luật tố tụng hình sự tồn t i các quan điểm khác nhau về chứng cứ trong
TTHS.
Quan điểm về chứng cứ của trình tự tố tụng kiểu tố cáo rất đơn giản, kiểu tố
tụng này coi lời thú tội của bị cáo chứng cứ tốt nhất và là “Vua của các chứng cứ”. Kết
quả của án kiện phụ thuộc vào những chứng cứ nh quyết đấu, lời thề hoặc xét xử theo
ý trời. Trong đó quyết đấu và xét xử theo ý trời là chứng cứ đáng tin cậy hơn cả. Việc
quyết đấu tr
c tòa án và việc thử thách bằng lửa hoặc n
bị cáo. Kẻ nào tay bị chói chặt nhúng xuống n
tay vào n
c sẽ quyết định số phận của
c mà không bị chìm, kẻ nào khi nhúng
c sôi mà tay không bị th ơng thì sẽ là kẻ chiến thắng, kẻ nào thắng trong
cuộc quyết đấu thì kẻ đó không có tội và đ
c coi là phải [59]. Vì vậy, quan điểm về
chứng cứ của hình thức tố tụng này thể hiện sự tàn b o và mang tính chất mê tín, việc
thu thập chứng cứ theo hình thức này không đảm bảo tính khách quan trong việc
chứng minh vụ án hình sự.
Quan điểm về chứng cứ theo kiểu tố tụng thẩm vấn là quan điểm hình thức về
chứng cứ. Chứng cứ hình thức có nghĩa là hiệu lực của chứng cứ tố tụng đ
định tr
c luật quy
c.Trong quan điểm chứng cứ kiểu tố tụng này TP và ĐTV không suy luận,
không phân tích các sự việc, không đánh giá chứng cứ trên cơ sở chất l
ng, bản chất,
tính khách quan và sức thuyết phục của chúng. Nhiệm vụ duy nhất của TP hoặc ĐTV
là xác định số l
ng chính xác mỗi lo i chứng đ
c quy định trong luật để chứng
minh tội ph m và ng ời thực hiện hành vi ph m tội, họ không cần phải tìm thêm
chứng cứ nào khác. Ng
c l i khi không tìm đủ số l
ng chứng cứ mà luật đã quy
định thì không có căn cứ kết luận tội ph m và ng ời thực hiện hành vi ph m tội. Quan
điểm này tuy h n chế đ
c sự tuỳ tiện của các cơ quan tố tụng trong việc giải quyết
VAHS, nh ng nó cũng bộc lộ nhiều h n chế là không bảo đảm tính khách quan của
chứng cứ. Quan điểm hình thức về chứng cứ phát triển và ảnh h ởng đến hầu hết các
n
c châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Ngày nay, luật chứng cứ Anh – Mỹ
6
ng ời ta đặc biệt quan tâm đến tính hình thức và tính h p pháp của chứng cứ nên họ
xem luật chứng cứ là: Tổng h p các quy ph m điều chỉnh về tính h p pháp của chứng
cứ [19].
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về chân lý và con đ ờng nhận thức
chân lý, con ng ời có khả năng nhận thức các quy luật, hiện t
ng của thế gi i khách
quan và tìm ra chân lý. Quá trình nhận thức của con ng ời từ trực quan sinh động đến
t duy trừu t
ng, từ ch a biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện t
chất. Về nguyên tắc, không có sự vật, hiện t
chỉ có sự vật, hiện t
ng ch a đ
ng đến bản
ng nào là không thể nhận thức đ
c, mà
c nhận thức mà thôi. Chân lý trong VAHS là mục
tiêu mà toàn bộ ho t động điều tra, truy tố và xét xử phải làm sáng tỏ trong quá trình
chứng minh vụ án. Các luật gia Xô -Viết tr
chứng cứ cần thiết phải xác định đ
liệu thực tế, những tài liệu này đ
c đây cho rằng muốn làm rõ khái niệm về
c những dấu hiệu cơ bản của nó, đó là: Những tài
c dùng làm ph ơng tiện để xác định các sự kiện và
các tình tiết khác; Là tài liệu thực tế xác định các tình tiết có ý nghĩa đối v i việc giải
quyết đúng đắn VAHS; Chứng cứ phải đ
c thể hiện d
i các hình thức TTHS mà
luật đã quy định [19]. Quan điểm về chứng cứ của các luật gia Xô -Viết tr
c đây đã
đề cập đến các đặc điểm của chứng cứ là tính khách quan, tính liên quan và tính h p
pháp.
Có một số quan điểm khác về khái niệm chứng cứ nh : "Theo nghĩa rộng,
chứng cứ là một sự kiện đ
c giả định là có thật, sự kiện ấy đ
c coi nh một sự kiện
đ ơng nhiên làm lý do để tin t ởng việc có hay không có một sự kiện khác" [10,tr.68],
theo quan điểm này thì chứng cứ mang tính chất chủ quan, nó đ
c xác định hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí của ng ời sử dụng, không phản ánh đúng diễn biến khách quan
của tội ph m. Hoặc "Tất cả cái gì ở trong thế gi i vật chất, tất cả cái gì mà chúng ta có
thể lĩnh hội đ
c trong thế gi i tinh thần, đều có thể trở thành chứng cứ tố tụng"
[10,tr.68], quan niệm nh vậy về chứng cứ là quá rộng, dễ mất trọng tâm quá trình
chứng minh VAHS.
Trong các công trình nghiên cứu luật TTHS ở Việt Nam, có một số công trình
đã đ a ra khái niệm về chứng cứ nh : Chứng cứ là những gì có thật, có liên quan đến
VAHS, đ
c CQĐT, VKS, TA dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
ph m tội, ng ời thực hiện hành vi ph m tội cũng nh các tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn VAHS [53,tr.77]. Khái niệm này đã nói đến tính khách quan
và tính liên quan của chứng cứ, nh ng không nói đến tính h p pháp của chứng cứ.
7
Theo TS. Nguyễn Văn Du: Chứng cứ trong VAHS là những thông tin có thật
phản ánh sự thật khách quan, đ
c thu thập theo trình tự, thủ tục do bộ luật này qui
định mà CQĐT, VKS và TA dùng làm căn cứ để chứng minh tính chân lý của vụ án
[13]. Nghiên cứu khái niệm này chúng ta thấy, về mặt ngôn ngữ thông tin có nghĩa là "
truyền tin cho nhau " [37,tr.920], nên khái niệm nêu trên không bao hàm đ
c sự đa
d ng của chứng cứ, nh vật chứng, tài liệu, đồ vật...và vì vậy đã h n chế nguồn của
chứng cứ.
Có khái niệm khác về chứng cứ thể hiện đ
c nguồn của chứng cứ cũng nh
tính khách quan, tính liên quan và tính h p pháp của chứng cứ nh ng l i thiếu chủ thể
có thẩm quyền thu thập: Chứng cứ là những gì có thật đ
nhất định và đ
c xác định bằng các nguồn
c thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định mà
CQĐT, VKS và TA dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi ph m tội,
ng ời thực hiện hành vi ph m tội cũng nh các tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn VAHS [52,tr.77]. Quyền thu thập chứng cứ ở các mô hình tố tụng
khác nhau có sự khác nhau nhất định, qua nghiên cứu chúng ta nhận thấy: Ở giai đo n
điều tra ở mỗi mô hình tố tụng khác nhau cũng có sự khác nhau nhất định. Tuy nhiên ở
giai đo n này hầu hết các n
c trên thế gi i đều ghi nhận chức năng điều tra thuộc về
CQĐT mà trực tiếp là ĐTV. Theo truyền thống pháp luật n
c ta, chức năng thu thập
chứng cứ ở giai đo n này thuộc về CQĐT trực tiếp là ĐTV, VKS trực tiếp là KSV và
một số chủ thể khác đ
c giao nhiệm vụ tiến hành điều tra trong những tr ờng h p
quy định t i Điều 111 BLTTHS. Ở các n
c theo truyền thống án lệ thì song song v i
việc điều tra của ĐTV, Luật s cũng có quyền thu thập chứng cứ tiến hành điều tra
thực hiện chức năng gỡ tội cho bị can, bị cáo. Nh vậy, ph m vi chủ thể thu thập
chứng cứ không chỉ là ĐTV mà còn có cả KSV và Luật s . Ở giai đo n này thu thập
chứng cứ là để xây dựng, thiết lập hồ sơ vụ án; Ở giai đo n truy tố, việc thu thập
chứng cứ mang tính chất bổ sung, có thể là tự KSV điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ
cho CQĐT điều tra. Trong tr ờng h p hồ sơ trả l i cho CQĐT thì do ĐTV thực hiện
điều tra trong thời h n luật định mà không phụ thuộc vào thời gian truy tố. Vì vậy, chủ
thể thu thập chứng cứ trong giai đo n truy tố là KSV; Ở giai đo n xét xử, có thể phân
thành giai đo n thụ lý hồ sơ và giai đo n mở phiên tòa. Ở giai đo n thụ lý hồ sơ do
VKS chuyển sang cùng v i bản cáo tr ng, chủ thể giải quyết vụ án là TP đ
c phân
công. Sau khi nhận hồ sơ TP tiến hành phân tích đánh giá chứng cứ trong hồ sơ, nếu
thấy thiếu chứng cứ mà không thể bổ sung t i phiên tòa đ
c thì TP quyết định trả hồ
8
sơ cho VKS để điều tra bổ sung, cả hai tr ờng h p này TP để không tự mình tiến hành
thu thập chứng cứ. Đây là tr ờng h p pháp luật TTHS quy định nghĩa vụ chứng minh
tội ph m và ng ời thực hiện hành vi ph m tội thuộc về cơ quan THTT. Ở các n
c
theo truyền thống án lệ TP giải quyết vụ án có vai trò nh một trọng tài phân xử, TP
không đ
c nghiên cứu hồ sơ vụ án, chứng cứ do các bên buộc tội (CQĐT, Cơ quan
công tố) và bên bào chữa (Luật s ) cung cấp. Nh vậy, ở giai đo n tr
tòa các n
c khi mở phiên
c trên thế gi i đều không quy định việc thu thập chứng cứ. Còn t i phiên
tòa, ở các n
c quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan THTT, HĐXX đ
hỏi toàn bộ chứng cứ đã đ
c
c thu thập trong hồ sơ vụ án. Trong qua trình xét hỏi
HĐXX có thể yêu cầu các bên tham gia cung cấp chứng cứ m i. T i phiên tòa, KSV,
Luật s và những ng ời tham gia tố tụng cũng có quyền hỏi những ng ời tham gia tố
tụng khác về vụ án, nh ng đây không đ
c xem là việc thu thập chứng cứ m i mà chỉ
có thể là việc phát hiện chứng cứ m i còn việc kiểm tra, thu giữ ghi nhận và bảo quản
là do HĐXX quyết định. Nh vậy, việc thu thập chứng cứ ở giai đo n xét xử thực chất
là thu thập chứng cứ t i phiên tòa đ
c thực hiện bởi HĐXX.
Qua phân tích chúng ta có thể đ a ra khái niệm chứng cứ trong TTHS nh
sau: Chứng cứ là những có thật đ
c thu thập theo quy định của Luật tố tụng hình sự
mà cơ quan và ng ời có thẩm quyền dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi ph m tội, ng ời thực hiện hành vi ph m tội cũng nh các tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.1.2. Khái niệm chứng minh
Chứng minh là một hình thức tồn t i cơ bản của t duy, đồng thời cũng là thao
tác t duy cơ bản, trong đó để chứng minh tính đúng của một luận điểm bất kỳ, ng ời
ta phải dựa vào các luận điểm đúng khác và chúng có mối liên hệ hữu cơ v i luận
điểm cần chứng minh. Ho t động chứng minh của con ng ời đ
c tiến hành trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi lĩnh vực khác nhau thì ho t động chứng
minh có những nét khác nhau. Tuy nhiên, ho t động chứng minh có đặc điểm chung là
việc chủ thể sử dụng những ph ơng tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan, khẳng
định tính đúng đắn của một vấn đề nào đó để tìm ra chân lý.
Theo lý luận Mac - Lênin nhận thức là sự phản ánh biện chứng tích cực, sự
phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển không ngừng từ không biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện t
sâu để nắm đ
ng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến
c bản chất quy luật của sự việc hiện t
ng. Con ng ời có khả năng
9
nhận thức đ
c thế gi i, sự nhận thức của con ng ời về thế gi i có sự kế thừa và phát
triển, thế hệ sau kế thừa tinh hoa nhận thức thế gi i khách quan của thế hệ tr
c để
tiếp tục nghiên cứu phát triển. Trong khoa học pháp lý cũng vậy, con ng ời hoàn toàn
có thể nhận thức đ
c các diễn biến khách quan của vụ án, không có tội ph m nào l i
không thể phát hiện, chỉ có điều con ng ời có vận dụng đúng các quy luật khách quan
để chứng minh hay không thôi. Trong thực tế có nhiều vụ án xảy ra gây thiệt h i cho
xã hội nh ng không truy tìm đ
ng ời không thể nhận thức đ
c kẻ ph m tội, nh ng đây không phải là điều con
c mà đây là h n chế nhận thức của từng cá nhân hoặc
do có sự khó khăn chung nhất định.
Chứng minh thực chất là một quá trình nhận thức, mà nhận thức phải có chủ thể
nhận thức (nghĩa là ai nhận thức?) và khách thể nhận thức (nghĩa là nhận thức cái gì?).
Những chủ thể đ
c Nhà n
c trao cho quyền đ
c thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử
dụng chứng cứ để giải quyết VAHS, họ không phải là ng ời chứng kiến những gì đã
xảy ra nh ng họ l i là ng ời phải có nghĩa vụ nhận thức nó để giải quyết vụ án. Vì
vậy, trong một VAHS, việc tìm ra sự thật thực chất là khôi phục l i, t o dựng l i
những gì đã xảy ra trong quá khứ để chứng minh những tình tiết liên quan đến vụ án.
Trong thực tế, những chủ thể đó có thể là ng ời chứng kiến những tình tiết liên quan
đến vụ án nên về mặt pháp lý thì họ l i bị Nhà n
c cấm thực hiện quyền đó, vì nếu để
họ là ng ời giải quyết vụ án thì việc giải quyết không đ
c khách quan nữa. Trong
tr ờng h p này họ chỉ có thể là ng ời làm chứng...
Về khái niệm chứng minh trong TTHS có tác giả cho rằng: Chứng minh trong
TTHS là quá trình các cơ quan THTT, ng ời THTT trên cơ sở tuân thủ các quy định
của pháp luật TTHS tiến hành phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và sử
dụng các chứng cứ này làm ph ơng tiện, căn cứ để xác định, làm rõ tất cả những vấn
đề liên quan đến VAHS mà những vấn đề này luật quy định các cơ quan THTT cần
phải biết khi giải quyết VAHS [44,tr.15]. Chúng ta đã biết mục đích của thu thập
chứng cứ là để chứng minh VAHS, qua phân tích ở phần trên chủ thể thu thập chứng
cứ không gi i h n chỉ là cơ quan THTT và ng ời THTT mà còn có các chủ thể khác
nữa. Do vậy, ở khái niệm này đã thiếu về mặt chủ thể.
Theo quan điểm của chúng tôi: Chứng minh trong tố tụng hình sự là quá trình
các cơ quan và ng ời có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến
hành thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm xác định và làm rõ đối
t
ng chứng minh làm căn cứ giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến vụ án hình sự.
10
1.2. Đối tƣợng chứng minh và giới hạn chứng minh
1.2.1. Đối tƣợng chứng minh
Đối v i các VAHS việc xác định đối t
ng nhận thức hay đối t
ng chứng
minh cũng đặc biệt quan trọng. Nếu không xác định đ
c đối t
ho t động điều tra, truy tố và xét xử sẽ mất ph ơng h
ng, điều này là rất mất công
ng chứng minh thì
sức và tốn kém về tiền b c, điều quan trọng hơn là bỏ lọt những tình tiết mang tính
chất quyết định đến việc giải quyết vụ án. Ho t động chứng minh trong TTHS chính là
quá trình nhận thức làm sáng tỏ nội dung của vụ án và các tình tiết có liên quan đến vụ
án. Suy cho cùng mục đích của ho t động chứng minh trong TTHS là để phục vụ cho
việc giải quyết đúng đắn VAHS.
Đối t
ng chứng minh đ
c khoa học luật TTHS của hầu hết các quốc gia
trên thế gi i coi là một trong những nội dung cơ bản của pháp luật về chứng cứ. Có
quốc gia quy định đối t
ng chứng minh trong một điều luật cụ thể của BLTTHS
(Nh BLTTHS Liên Bang Nga Điều 73). Có quốc gia không có quy ph m độc lập để
xác định đối t
ng chứng minh mà đối t
ng chứng minh đ
c thể hiện rải rác ở các
điều luật điều chỉnh từng ho t động TTHS (nh Pháp, Nhật Bản ...) hoặc có quốc gia
chỉ quy định có tính chung nhất về đối t
ng chứng minh nh t i Khoản 1 Điều 59
BLTTHS Bungari quy định: “Cần phải chứng minh những tài liệu có ý nghĩa áp dụng
Luật hình sự và các quy ph m luật tố tụng hình sự” [10,tr.136].
Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội ph m không giống nhau nên
đối t
ng chứng minh ở mỗi vụ án có những ph m vi và yêu cầu khác khác nhau. Tuy
vậy, tội ph m đều có những đặc điểm, quy luật chung giống nhau và đ
thành những vấn đề chung nhất mà những vấn đề này đ
c khái quát
c luật TTHS quy định một
cách trực tiếp cụ thể hoặc quy định một cách gián tiếp và th ờng phải chứng minh
trong bất kỳ vụ án nào. Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội
ph m cũng là những vấn đề phải chứng minh trong bất kỳ VAHS:
- Dấu hiệu khách thể của tội ph m.
- Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách quan của tội ph m.
- Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội ph m.
- Dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội ph m.
Ngoài những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội ph m nói
trên, những dấu hiệu khác tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu thành
tội ph m, nh ng có thể là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội ph m cụ thể, vì
11
vậy chúng có thể là những vấn đề phải chứng minh trong VAHS. Ví dụ: Đối v i tội
trộm cắp tài sản, biểu hiện của ng ời ph m tội cần phải chứng minh dứt khoát phải là
hành vi lén lút; Trong vụ án mà ng ời ph m tội m i có hành vi chuẩn bị ph m một tội
rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng thì bị phát hiện, xử lý. Nh vậy,
trong vụ án này rõ ràng là hậu quả của tội ph m ch a xảy ra nên không phải chứng
minh nó.
Luật TTHS Việt Nam quy định phải chứng minh t i Điều 63: Có hành vi ph m
tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi ph m tội;
Ai là ng ời thực hiện hành vi ph m tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; Có
năng lực TNHS hay không; Mục đích, động cơ ph m tội; Những tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt h i do hành vi ph m tội gây
ra. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào tính chất, hoàn cảnh của từng vụ án cụ thể mà có thể có
những vấn đề không cần phải chứng minh vì nó rõ ràng là đã không xảy ra trong vụ án
đó. Mặt khác, trong luật TTHS còn quy định phải chứng minh các tình tiết khác có liên
quan đến việc giải quyết vụ án, mà những tình tiết này có thể chỉ phải chứng minh
trong vụ án cụ thể nào đó chứ không phải chứng minh trong bất kỳ vụ án nào. Hoặc có
những tình tiết, vấn đề chỉ phải chứng minh khi phát sinh những ho t động tố tụng có
liên quan.
Trong VAHS, những vấn đề phải chứng minh có vị trí, vai trò khác nhau. Vì
vậy, phân lo i những vấn đề phải chứng minh thành các nhóm khác nhau theo một trật
tự nhất định là để nghiên cứu chúng từ các góc độ khác nhau. Có thể hiểu phân lo i
những vấn đề phải chứng minh trong vụ án là việc chia các chứng cứ thành các nhóm
khác nhau dựa trên cơ sở những căn cứ xác định, nhằm giải quyết những mục đích
nhất định. Trên cơ sở mối quan hệ đối v i bản chất vụ án, những vấn đề phải chứng
minh trong VAHS đ
c chia thành ba nhóm: Nhóm những vấn đề phải chứng minh
thuộc về bản chất vụ án bao gồm: Khách thể của tội ph m, chủ thể của tội ph m, mặt
khách quan của tội ph m và mặt chủ quan của tội ph m; Nhóm những vấn đề phải
chứng minh không thuộc bản chất của vụ án, nh ng có ảnh h ởng trực tiếp đến TNHS
và hình ph t bao gồm: Những tình tiết miễn TNHS, miễn hình ph t; Những tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, những đặc điểm nhân thân ng ời ph m tội, những đặc
điểm nhân thân ng ời bị h i; Những vấn đề phải chứng minh không thuộc các yếu tố
cấu thành tội ph m, không ảnh h ởng trực tiếp đến TNHS và hình ph t nh ng có ý
12
nghĩa nhất định đối v i việc giải quyết đúng đắn vụ án bao gồm: Mối quan hệ giữa
ng ời làm chứng v i bị can, bị cáo, giữa ng ời làm chứng v i ng ời bị h i...
Trên cở sở tiêu chí mối quan hệ đối v i sự buộc tội, GS.TS M.X. Xtrôgôvich
ng ời Nga phân lo i những vấn đề phải chứng minh thành hai nhóm: Nhóm những vấn
đề phải chứng minh có tính chất buộc tội và nhóm những vấn đề phải chứng minh có
tính chất gỡ tội. Nhóm những vấn đề phải chứng minh có tính chất buộc tội bao gồm:
Có sự kiện ph m tội hay không? Những dấu hiệu của cấu thành tội ph m; Bị can có
thực hiện hành vi ph m tội đó hay không? Hình thức lỗi của bị can? Những tình tiết
tăng nặng TNHS, các tình tiết về đặc điểm nhân thân của bị can; Nhóm những vấn đề
phải chứng minh có tính chất gỡ tội bao gồm: Có hay không có những tình tiết bác bỏ
sự buộc tội đối v i bị can, bị cáo? Những tình tiết miễn TNHS, miễn hình ph t; Những
tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can bị cáo [48]. Đây cũng là vấn đề dễ hiểu vì BTTHS
Liên Bang Nga chia chủ thể tham gia tố tụng thành hai nhóm chính: - Các chủ thể
tham gia tố tụng thuộc bên buộc tội - Các chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên bào chữa.
Ngoài ra còn có các chủ thể khác tham gia tố tụng nh ng ời làm chứng, ng ời giám
định, nhà chuyên môn, ng ời phiên dịch, ng ời chứng kiến.
Về khái niệm đối t
ng chứng minh đã có nhiều tác giả đề cập nh :
Có những tác giả đề cập trong khái niệm cụm từ “...tổng h p những tình tiết...”
hoặc “...tất cả những tình tiết...” nh : Đối t
ng chứng minh trong vụ án hình sự là
tổng h p những tình tiết nói nên bản chất, nội dung vụ án hình sự cần phải xác định
bằng chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phòng ngừa tội ph m [19,
tr19]; Hay đối t
ng chứng minh là tất cả những tình tiết phải đ
c xác định đảm bảo
cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự [50, tr162].
Theo Đ i từ điển tiếng Việt, tình tiết có nghĩa là “Sự việc nhỏ trong qua trình
diễn biến của sự kiện, tâm tr ng” [14, tr963]. Nh vậy, theo khái niệm trên thì tổng
h p những tình tiết hoặc tất cả những tình tiết thì khó có thể nói nên những vấn đề
phải chứng minh thuộc về bản chất vụ án đ
c, nên những tình tiết đó dù có thu thập
nhiều nh thế nào nữa thì cũng khó mà giải quyết đúng đắn vụ án hình sự đ
Có tác giả đ a ra quan điểm: Đối t
c.
ng chứng minh là tất cả những vấn đề
ch a biết nh ng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ
quan THTT ra các quyết định phù h p trong quá trình giải quyết VAHS [13, tr165].
Thông th ờng, ngoài tr ờng h p ph m tội quả tang thì việc xác định đầy đủ những
chứng cứ để giải quyết vụ án là rất đơn giản, còn các tr ờng h p khác thì việc xác định
13
kẻ ph m tội là hết sức khó khăn. Khi đó sẽ có rất nhiều các vấn đề đặt ra đối v i các
cơ quan và ng ời có thẩm quyền điều tra vụ án, để biết đ
hành vi ph m tội, họ phải đứng tr
c ai là ng ời đã thực hiện
c rất nhiều các vấn đề ch a biết. Nếu đi tìm tất cả
những vấn đề ch a biết, thì rất tốn công sức làm cho thu thập chứng cứ một cách tràn
lan nên nhiều khả năng sẽ không giải quyết đ
về đối t
c vụ án. Nên theo chúng tôi, ph m vi
ng chứng minh của khái niệm này là quá rộng.
Quan điểm khác cho rằng: Đối t
những sự kiện và tình tiết của vụ án phải đ
ng chứng minh trong VAHS là tổng h p
c xác định bằng chứng cứ để vụ án đ
c
giải quyết đúng đắn [47, tr83]. Về mặt ngôn ngữ, sự kiện có nghĩa là “Sự việc có ý
nghĩa ít nhiều quan trọng đã xảy ra” [14, tr846], còn tình tiết có nghĩa là sự việc nhỏ
trong qua trình diễn biến của sự kiện, tâm tr ng. Do vậy, chúng tôi đồng tình v i quan
điểm này, vì khái niệm trên đã bao hàm nội dung cần phải chứng minh thuộc về bản
chất vụ án và nội dung cần chứng minh không thuộc bản chất của vụ án.
1.2.2. Giới hạn chứng minh trong TTHS
Hiện nay có một số quan điểm đề cập đến gi i h n và ph m vi chứng minh.
Có tác giả phân biệt đối t
ng, ph m vi và gi i h n chứng minh: Đối t
ng chứng
minh trong VAHS là tổng h p những vấn đề phải chứng minh do luật định, ph m vi
chứng minh điều chỉnh việc xác định những tình tiết cần chứng minh, còn gi i h n
chứng minh điều chỉnh việc xác định mức chứng cứ cần và đủ để làm sáng tỏ những
tình tiết đã đ
t
c xác định trong ph m vi chứng minh. Theo quan điểm này, nếu đối
ng chứng minh là những tình tiết do luật định nói lên mục đích mà ho t động chứng
minh cần nhằm vào, thì ph m vi chứng minh là tổng h p những tình tiết phải đ
rõ để xác định đối t
khối l
c làm
ng chứng minh, còn gi i h n chứng minh là khái niệm chỉ rõ
ng chứng cứ cần và đủ để xác định một cách khách quan, toàn diện các tình
tiết có ý nghĩa đối v i việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án [19, tr29]. Nh vậy, ph m vi
chứng minh rộng hơn đối t
ng chứng minh vì ngoài những vấn đề cần chứng minh
thuộc về bản chất của vụ án, các tình tiết liên quan đến việc xác định tính chất, mức độ
của tội ph m, ph m vi chứng minh có thể còn bao gồm nhiều vấn đề khác; Có quan
điểm phân chia các vấn đề trên thành đối t
trong TTHS. Theo đó đối t
ng chứng minh và gi i h n chứng minh
ng chứng minh là các sự kiện, tình tiết liên quan đến
VAHS mà các cơ quan THTT cần làm rõ, đối t
ng chứng minh xác định mục đích
cuối cùng của quá trình chứng minh. Còn gi i h n chứng minh xác định ranh gi i,
ph m vi của ho t động chứng minh. Xác định gi i h n chứng minh là xác định số
l
ng chứng cứ cần và đủ để giải quyết vụ án.
14
Các quan điểm nêu trên đều chung quan điểm về gi i h n chứng minh là xác
định ở mức độ cần và đủ số l
ng chứng cứ để giải quyết VAHS. Nh vậy, xác định
gi i h n chứng minh trong VAHS chính là xác định ranh gi i của việc thu thập chứng
cứ và nghiên cứu chúng ở mức độ đủ để giải quyết đúng đắn vụ án. Nói đến tính cần
và đủ của chứng cứ để chứng minh VAHS có nghĩa là các chủ thể có thẩm quyền giải
quyết vụ án phải đáp ứng các yêu cầu sau: " Đã nghiên cứu, đánh giá tất cả các chứng
cứ, các tình tiết thuộc ph m vi đối t
ng chứng minh, cũng nh những tình tiết cần
thiết cho việc giải quyết những khâu tố tụng trung gian; Đã xác định đ
c mức độ tin
cậy của tất cả các chứng cứ dùng làm cơ sở cho kết luận đối v i toàn bộ vụ án hay đối
v i từng việc cụ thể trong vụ án; Đã khẳng định đ
mình, phủ nhận những giả thuyết nêu lên tr
c sự đúng đắn trong kết luận của
c đây trái v i kết luận đó, đã làm sáng tỏ
của sự mâu thuẫn của giả thuyết sai và kết luận giữa các chứng cứ v i nhau " [59,
tr117].
Thực tiễn cho thấy, những sai sót, lệch l c trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án
th ờng bắt nguồn từ việc không xác định đ
c gi i h n chứng minh. Một là xác định
gi i h n chứng minh quá hẹp, điều này dẫn đến những chứng cứ đ a ra ch a đủ chứng
minh vụ án, vì những tình tiết cần phải chứng minh ch a đ
gi i h n chứng minh, tức là tăng l
c làm rõ. Nếu mở rộng
ng chứng cứ lên một cách không cấn thiết sẽ dẫn
đến tình tr ng lãng phí thời gian, gây tốn kém tiền b c và việc giải quyết vụ án sẽ bị
chậm trễ, kéo dài.
Trong BLTTHS Việt Nam năm 2003 ch a có quy định về gi i h n chứng
minh mà chỉ nêu nguyên tắc chung là CQĐT, VKS và TA phải áp dụng mọi biện pháp
h p pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng
nặng và những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Luật TTHS một số n
trên thế gi i quy định về gi i h n chứng minh t ơng đối cụ thể nh
BLTTHS Liên Bang Nga quy định: Gi i h n chứng minh không đ
cv
c
Điều 234
t quá khuôn
khổ luật định đối v i việc tìm ra chân lý. Điều này đặt ra đối v i những ng ời THTT
không đ
c thu hẹp hoặc mở rộng gi i h n chứng minh một cách tùy tiện mà chỉ đ
thu thập số l
c
ng cần và đủ để giải quyết vụ án.
Có thể hình dung đối t
ng chứng minh xác định bố cục bắt buộc mà một bức
tranh cần phải có còn gi i h n chứng minh xác định những đ ờng nét cần thiết để làm
rõ những phần trong bố cục của bức tranh đó và mọi sự thừa hoặc thiếu những đ ờng
15
nét này đều ảnh h ởng đến chất l
ng của bức tranh đó, làm cho nó không đảm bảo
đúng yêu cầu đề ra [17].
Nh vậy, gi i h n chứng minh trong vụ án hình sự là tổng h p những chứng
cứ cần và đủ cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự
1.3. Chủ thể chứng minh và nghĩa vụ chứng minh
1.3.1. Chủ thể chứng minh
Chủ thể chứng minh trong tố tụng hình sự ở các mô hình tố tụng khác nhau
cũng có sự khác nhau nhất định.
Trong tố tụng tranh tụng, TA giữ vai trò thụ động, trung lập. Tố tụng tranh
tụng đòi hỏi TA phải kiềm chế tham gia tìm hiểu về nội dung vụ án cho t i khi các bên
đã trình bày hết các chứng cứ. Nếu TA tham gia tích cực vào vụ án, nhất là việc xét
hỏi t i phiên tòa, công chúng sẽ cho rằng TA là một bên tranh chấp và nh vậy sẽ
không bảo đảm công lý [43]. TP và bồi thẩm đoàn có vai trò trọng tài đứng giữa bên
buộc tội và bên gỡ tội; Công tố viên là bên buộc tội, Luật s là bên gỡ tội, việc tham
gia của Luật s vào phiên tòa là bắt buộc. Tranh luận giữa Luật s và công tố viên là
ho t động chủ yếu, trọng tâm của phiên tòa. V i vai trò là trọng tài, TP và bồi thẩm
đoàn không đ
c nghiên cứu tr
c hồ sơ vụ án. Chứng cứ để chứng minh quan điểm
của bên buộc tội và bên gỡ tội do các bên tự thu thập theo quyền luật định của họ. Để
tránh thái độ phiến diện về các tình tiết của vụ án, qua việc tranh tụng t i phiên tòa của
các bên, TP và bồi thẩm đoàn có thể chấp nhận hay không chấp nhận chứng cứ và lý lẽ
các bên đ a ra và cuối cùng bằng niềm tin nội tâm của mình đ a ra phán quyết dựa
trên chứng cứ và lý lẽ t i phiên tòa. T i phiên tòa, các bên còn có quyền yêu cầu triệu
tập thêm ng ời làm chứng, thu thập chứng cứ m i để chứng minh những vấn đề m i
phát sinh t i tòa. Theo TS. Vũ Gia Lâm: " Ng ời chi phối quá trình tranh tụng là Công
tố viên và Luật s bào chữa, các bên tham gia tranh tụng thực chất không đi chứng
minh sự thật của vụ án mà chỉ chứng minh có tính đúng đắn của quan điểm buộc tội
hay gỡ tội mà thôi" [32]. Mô hình tố tụng này đảm bảo tính công bằng cao, đặc biệt là
t i phiên tòa xét xử thể hiện vị trí ngang bằng và vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và
Luật s ...Tuy nhiên, mô hình tố tụng này có nh
c điểm là phiên tòa th ờng kéo dài,
tốn kém...Nh vậy, theo mô hình tố tụng tranh tụng chủ thể chứng minh chủ yếu là
Công tố viên là bên buộc tội, Luật s là bên gỡ tội.
Trong mô hình tố tụng xét hỏi, các cơ quan THTT có nhiều thuận l i để xác
định sự thật của vụ án vì ho t động chứng minh tội ph m, ng ời ph m tội thuộc trách
16
nhiệm của cơ quan THTT. Pháp luật hầu nh đặt hết trách nhiệm chứng minh bị cáo
có tội hay không có tội lên vai HĐXX, còn bên buộc tội hay bên gỡ tội chỉ tham gia
vào quá trình chứng minh ở mức độ h n chế làm cho quá trình tranh tụng t i phiên tòa
mất đi ý nghĩa đích thực của nó. Việc xét xử t i phiên tòa cũng là một giai đo n tiếp
tục của quá trình điều tra tìm ra sự thật của vụ án. TA có vai trò tích cực và chủ động
trong việc tìm ra sự thật bằng việc có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ [43].
Luật s có quyền nh ng không có nghĩa vụ trình bày chứng cứ, họ có vai trò bổ sung
trong công cuộc đi tìm sự thật của TA và để đảm bảo rằng các ho t động tố tụng đã
diễn ra đùng đắn, các quyền của bị can, bị cáo đ
hỏi th ờng đ
c sử dụng trong các n
c tôn trọng và bảo vệ. Hệ thống xét
c theo hệ thống luật Châu Âu lục địa. Mục đích
chính của hệ thống tố tụng này là cố gắng xác định sự thật khách quan của vụ án để từ
đó đ a ra phán quyết. Vì vậy, quá trình tố tụng đ
c thực hiện bằng văn bản và bằng
sự xét hỏi (biên bản lấy lời khai của ng ời bị tình nghi, biên bản hỏi cung bị can...).
Mô hình tố tụng này có những u điểm nh : Có nhiều thuận l i để xác định sự thật của
vụ án vì ho t động chứng minh tội ph m, ng ời ph m tội là trách nhiệm của Nhà
n
c; Thủ tục tố tụng không thiên về bên buộc tội hay bên gỡ tội nh trong tố tụng
tranh tụng, nên tránh đ
c xu h
ng các bên buộc tội hay bên gỡ tội che dấu sự thật để
đ t mục đích riêng của mình; Phiên tòa diễn ra nhanh gọn nên ít tốn kém. Nh ng mô
hình tố tụng xét hỏi cũng chứa đựng những h n chế nhất định nh : Th ờng thiên về
h
ng sử dụng quyền lực Nhà n
c để tìm ra sự thật của vụ án nên khó tránh đ
c
những nghi ngờ về tính khách quan, vô t của những ng ời thực thi công lý.
Mô hình tố tụng pha trộn là hình thức tố tụng hỗn h p giữa tố tụng thẩm vấn
trong giai đo n tr
c khi xét xử và tố tụng tranh tụng t i phiên tòa. Nhìn từ góc độ
mục đích tố tụng cũng nh cách thức đ t đ
c mục đích tố tụng, thì mỗi hệ thống tố
tụng đều có mặt tích cực và mặt h n chế nhất định. Hệ thống tố tụng pha trộn đã phát
huy những u điểm và h n chế những khuyết điểm giữa hai hệ thống tố tụng nói trên.
Hệ thống tố tụng của n
c ta thể hiện sự kết h p giữa hệ thống tố tụng tranh tụng và
hệ thống tố tụng xét hỏi, nh ng vẫn thiên về xét hỏi [18].
Theo Luật TTHS Việt Nam chủ thể chứng minh gồm cơ quan THTT và ng ời
tiến hành tố tụng nh : CQĐT, VKS, TA; Thủ tr ởng, Phó Thủ tr ởng CQĐT, ĐTV,
Viện tr ởng, Phó viện tr ởng VKS, KSV, Chánh án, Phó Chánh án TA, TP, Hội thẩm
và các cơ quan thuộc đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm lâm, lực l
cảnh sát biển, các cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân đ
ng
c giao
17
nhiệm vụ tiến hành một số các ho t động điều tra theo quy định t i Điều 111
BLTTHS. Tuy nhiên, do chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể có sự khác nhau nên
giai đo n tham gia chứng minh cũng nh ph m vi, mức độ chứng minh của họ cũng có
sự khác nhau nhất định.
Ng ời bị t m giữ, bị can, bị cáo cũng là những chủ thể có quyền chứng minh.
Họ có quyền đ a ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu để bảo vệ quyền l i cho mình. Ng ời
bị h i, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ng ời có quyền l i và nghĩa vụ liên quan
cũng là những chủ thể có quyền chứng minh. Họ có quyền đ a ra các tài liệu , đồ vật,
yêu cầu để bảo vệ quyền l i cho mình. Ng ời bào chữa, ng ời bảo vệ quyền l i của
đ ơng sự tham gia chứng minh những tình tiết liên quan đến việc bào chữa cho bị can,
bị cáo hoặc liên quan đến việc bảo vệ quyền l i cho đ ơng sự tức là chứng minh
những tình tiết có l i cho bị can, bị cáo hoặc đ ơng sự.
Ngoài ra, trong TTHS còn có sự tham gia của ng ời làm chứng, ng ời phiên
dịch và đôi khi còn có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội, cá nhân khác. Sự
tham gia của những ng ời này nhằm cung cấp những tài liệu, chứng cứ phục vụ cho
quá trình chứng minh. Những ng ời này không phải chủ thể chứng minh bởi vì họ
không có mục đích trực tiếp nhằm chứng minh nội dung vụ án và các tình tiết liên
quan đến vụ án. Họ cũng chỉ tham gia tố tụng khi đ
c các cơ quan tiến hành tố tụng
yêu cầu.
Khác v i các n
c, BLTTHS của n
c ta căn cứ vào vai trò của các chủ thể
đối v i ho t động tố tụng để phân các chủ thể thanh hai nhóm: - Chủ thể tiến hành tố
tụng: Cơ quan điều tra (ĐTV), Viện kiểm sát (KSV), Tòa án (TP, hội thẩm và th ký
tòa án) - Chủ thể tham gia tố tụng: Ng ời bị t m giữ, bị can, bị cáo, ng ời bào chữa,
ng ời bị h i, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ng ời có quyền l i và nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, ng ời làm chứng, ng ời bảo vệ quyền l i cho đ ơng sự, ng ời giám
định, ng ời phiên dịch.
Theo TS. Nguyễn Đức Mai việc phân lo i các chủ thể trong BLTTHS sự của
n
c ta không chỉ mâu thuẫn v i nguyên tắc tranh tụng, gây sự nhầm lẫn trong việc
xác định t cách tố tụng t i phiên tòa, trách nhiệm chứng minh tội ph m giữa các chủ
thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và HĐXX cũng nh quy định về trình tự xét hỏi,
tranh luận t i phiên tòa sơ thẩm ch a h p lý [33]. Trên cơ sở phân tích đó TS. Nguyễn
Đức Mai đ a ra kiến nghị về quy định Ch ơng III và Ch ơng IV BLTTHS cần sửa đổi
bổ sung theo h
ng phân tích chủ thể tham gia tiến hành tố tụng theo các chức năng
18
cơ bản mà họ thực hiện thành bốn nhóm sau: - Tòa án bao gồm chánh án, phó chánh
án, thẩm phán, hội thẩm và th ký tòa án thực hiện chức năng xét xử - Bên buộc tội
bao gồm thủ tr ởng cơ quan điều tra (ĐTV), viện công tố (Công tố viên), ng ời bị h i,
t tố viên, nguyên đơn dân sự, ng ời đ i diện của ng ời bị h i. Các chủ thể này thực
hiện chức năng buộc tội - Bên bào chữa gồm ng ời bị tình nghi, bị can, bị cáo, ng ời
đ i diện h p pháp của bị can, bị cáo ch a thành niên, ng ời bào chữa, bị đơn dân sự,
ng ời đ i diện của bị đơn dân sự. Các chủ thể này thực hiện chức năng bào chữa - Các
chủ thể khác gồm ng ời làm chứng, ng ời giám định, nhà chuyên môn, ng ời phiên
dịch và ng ời chứng kiến. Các chủ thể này tham gia tố tụng để giúp cho các bên và
Tòa án xác định sự thật khách quan về vụ án.
Việc phân chia chủ thể tham gia TTHS thành bốn nhóm nói trên theo các
chức năng cơ bản mà họ thực hiện là có căn cứ. Vì phân chia nh vậy không làm mất
đi sự hiện diện của các chủ thể tham gia TTHS trong quá trình giải quyết vụ án, đồng
thời cũng không làm mất đi các quyền và nghĩa vụ luật định của họ. Mặt khác, nhìn
vào cách phân chia nh vậy chúng ta thấy ngay đ
c chức năng của mỗi nhóm: Nhóm
thuộc bên buộc tội là chủ thể thực hiện chức năng chứng minh tội ph m, ng ời ph m
tội; Nhóm thuộc bên bào chữa là chủ thể thực hiện chức năng chứng minh gỡ tội cho
chính bản thân họ hoặc cho ng ời đ
c họ bảo vệ. Trong tr ờng h p này Tòa án giữ
vai trò trọng tài nh mô hình tố tụng tranh tụng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi việc phân chia nh vậy cũng không thực sự cần
thiết, bởi lẽ: Thứ nhất, thực tế trong quá trình xét xử vụ án, TA chỉ dựa vào chứng cứ
do CQĐT cung cấp có trong hồ sơ vụ án, vì dù xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm các
HĐXX phần l n và chủ yếu vẫn phải dựa vào những tài liệu do CQĐT thu thập, xây
dựng, tập h p trong hồ sơ vụ án...chất l
ng xét xử phụ thuộc rất l n vào kết quả xây
dựng hồ sơ của CQĐT [36]. Mặc dù TA không trực tiếp thu thập chứng cứ về mặt thực
tế, nh ng TA là chủ thể đánh giá và sử dụng chứng cứ để giải quyết vụ án, họ có thể
đ a ra các quyết định nh : Đ a vụ án ra xét xử; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình
chỉ hoặc t m đình chỉ vụ án. Mặt khác, trong tr ờng h p xét xử vụ án t i phiên tòa nếu
phát sinh những tình tiết m i (Có thể là những thông tin, tài liệu chứng cứ m i do các
bên tham gia tố tụng cung cấp) HĐXX vừa thu thập đ
c và đ
c thảo luận đánh giá
sẽ ra một trong các quyết định nh trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc t m
đình chỉ vụ án...Thứ hai, cách phân chia chủ thể tham gia TTHS thành chủ thể tiến
hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng thể hiện đ
c nguyên tắc chủ thể chứng minh
19
chủ yếu và bắt buộc là chủ thể THTT gồm Cơ quan THTT và ng ời THTT. Vì vậy,
theo chúng tôi việc đề nghị sửa đổi ch ơng III và ch ơng IV BLTTHS theo h
ng nói
trên là không cần thiết.
Tóm l i chủ thể chứng minh trong TTHS bao gồm cơ quan THTT, ng ời
THTT và một số chủ thể khác đ
c giao nhiệm vụ tiến hành một số ho t động điều tra
trong những tr ờng h p do luật định. Đây là những chủ thể chủ yếu, việc chứng minh
tội ph m và ng ời thực hiện hành vi ph m tội là trách nhiệm của họ.
Những chủ thể tham gia TTHS nh ng ời bị t m giữ, bị can, bị cáo, ng ời bị
h i, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ng ời có quyền l i và nghĩa vụ liên quan,
ng ời bào chữa, ng ời bảo vệ quyền l i của đ ơng sự là những chủ thể có quyền tham
gia chứng minh nh ng không phải là vụ án nào cũng có tất cả đều tham gia mà tuỳ
theo từng vụ án cụ thể có thể chỉ có một số ng ời tham gia, cũng có thể có vụ án
không có ng ời nào trong số những ng ời này tham gia chứng minh vì đó là quyền
của họ. Mặt khác sự chứng minh của họ đôi khi vì những lý do cá nhân mà không thể
hiện tính khách quan cao. Theo luật tố tụng hình sự th ờng thì kết quả chứng minh của
những ng ời này ch a có giá trị pháp lý chính thức mà vẫn phải thông qua sự đánh
giá, kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng.
1.3.2. Nghĩa vụ chứng minh
Có rất nhiều chủ thể chứng minh TTHS, nh ng trong số những chủ thể đó, có
những chủ thể tham gia chứng minh là quyền của họ nên họ có thể thực hiện quyền đó
hoặc không thực hiện quyền đó. Ng
c l i có những chủ thể Luật TTHS quy định họ
có nghĩa vụ phải chứng minh, tức là họ bắt buộc phải tham gia vào ho t động chứng
minh. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đo n lịch sử, tuỳ thuộc vào trình tự tố tụng
đ
c tiến hành theo các kiểu khác nhau hoặc cơ sở, ph ơng pháp luận dựa trên các
học thuyết khác nhau nên luật tố tụng hình sự ở các n
c khác nhau, ở các giai đo n
lịch sử khác nhau quy định về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh có sự khác nhau. Nghĩa
vụ chứng minh VAHS đã đ
c đề cập từ lâu trong lịch sử luật TTHS của các n
c
trên thế gi i.
Ngay từ thế kỷ thứ III tr
c công nguyên v i hình thức tố tụng kiểu tố cáo,
Luật La Mã quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về ng ời tố cáo. Ngoài việc tố cáo,
ng ời tố cáo còn đ a ra những chứng cứ liên quan đến việc tố cáo ấy, vì vậy lời tố cáo
của một ng ời nào đó về tội ph m vừa là căn cứ xuất hiện trình tự để giải quyết vụ án,
20
vừa là căn cứ buộc tội đối v i ng ời bị tố cáo. Theo nguyên tắc ấy thì "Không có
nguyên cáo thì không có quan tòa" [19].
Khi hình thức tố tụng kiểu thấm vấn ra đời thay thế hình thức tố tụng kiểu tố
cáo thì Biện lý xuất hiện. Biện lý là ng ời đ i diện cho quyền lực nhà Vua có trách
nhiệm điều tra, thu thập chứng cứ và duy trì sự buộc tội tr
c Toà án. Hình thức tố
tụng kiểu thẩm vấn phát triển m nh ở Pháp vào thế kỷ XIV, ở Đức thế kỷ XVI.
Khoảng đầu thế kỷ XVIII ở n
c Nga xuất hiện Cơ quan công tố, cơ quan này chịu
trách nhiệm chứng minh hầu hết các VAHS, chỉ trừ một ph m vi rất nhỏ những vụ án
t tố mà ở đó ng ời bị h i có nghĩa vụ chứng minh tính có căn cứ của sự việc mà họ tố
cáo.
Ngày nay, trong luật TTHS của các n
c t bản, chủ thể có nghĩa vụ chứng
minh là do CQĐT, Cơ quan công tố thực hiện, có n
c còn do TP thực hiện nh ở
Italia. Nhiệm vụ của cảnh sát là thu thập tài liệu, chứng cứ và lập hồ sơ về vụ án xảy ra
d
i sự chỉ đ o trực tiếp của công tố viên (Cộng hòa Pháp), hoặc độc lập không chịu
ràng buộc của công tố viên (v ơng quốc Anh) [19]. Tuy nhiên, ở các n
c t bản Luật
s cũng có quyền thu thập chứng cứ, trách nhiệm của Luật s là tìm kiếm, thu thập
những bằng chứng ngo i ph m, những chứng cứ giảm nhẹ TNHS cho bị can, bị cáo và
chuẩn bị thẩm tra nhân chứng tr
c toà. Một số n
c theo tr ờng phái án lệ, luật pháp
quy định bị can không có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, trong khi hỏi cung bị can có
quyền trả lời hoặc im lặng.
Trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, nghĩa vụ chứng minh trong giai
đo n điều tra VAHS còn có hai quan điểm khác nhau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng:
Trách nhiệm này là trách nhiệm buộc tội nên chủ thể là VKS v i t cách là cơ quan
thực hành quyền công tố - Quan điểm thứ hai cho rằng: Nghĩa vụ chứng minh là nghĩa
vụ bảo vệ quan điểm do mình đ a ra, nghĩa vụ t o điều kiện cho việc xác định chân lý
vụ án nên nghĩa vụ không chỉ thuộc về CQĐT, VKS mà còn cả những ng ời tham gia
tố tụng nữa.
Quan hệ tố tụng trong việc truy cứu TNHS thực chất là quan hệ giữa một bên
là Nhà n
c và một bên là công dân. Khi tội ph m đ
c thực hiện, Nhà n
c có quyền
truy cứu TNHS đối v i ng ời ph m tội và ng ời ph m tội phải chịu TNHS. Vì vậy, để
ng ời ph m tội phải chịu hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi ph m tội của
mình thì Nhà n
tội.
c phải có trách nhiệm chứng minh rằng ng ời đó đã có hành vi ph m
21
Để làm sáng tỏ VAHS, ngoài nghĩa vụ chứng minh của các cơ quan THTT,
đòi hỏi có sự tham gia tích cực của những ng ời tham gia tố tụng và các chủ thể khác.
Tuy nhiên, sự tham gia của các chủ thể này không phải là họ có trách nhiệm chứng
minh vụ án mà là họ có trách nhiệm cung cấp những tài liệu, thông tin liên quan đến
vụ án và cơ quan THTT có thể sử dụng những tài liệu, thông tin này làm chứng cứ
chứng minh trong VAHS. T i Điều 10 BLTTHS Việt Nam quy định trách nhiệm
chứng minh tội ph m thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can, bị cáo có quyền
nh ng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Quy định này của pháp luật nhằm
bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự do dân chủ của công dân trong TTHS. Bị can,
bị cáo có quyền đ a ra chứng cứ chứng minh tính không có lỗi hoặc tình tiết giảm nhẹ
TNHS của mình, nh ng đó là quyền chứ không phải nghĩa vụ.
Nh vậy, nghĩa vụ chứng minh trong TTHS là trách nhiệm của các cơ quan
THTT, ng ời THTT và một số chủ thể khác đ
c giao nhiệm vụ tiến hành một số ho t
động điều tra trong những tr ờng h p do luật định đ
c nhà n
c trao thẩm quyền thu
thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ để chứng minh hành vi ph m tội và
ng ời ph m tội tr
c pháp luật. Những chủ thể khác nh ng ời bị t m giữ, bị can, bị
cáo, ng ời bị h i, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ng ời có quyền l i và nghĩa vụ
liên quan, ng ời bào chữa, ng ời bảo vệ quyền l i của đ ơng sự có quyền đ a ra
những tài liệu, đồ vật, yêu cầu để bảo vệ quyền l i cho mình hoặc bảo vệ cho ng ời họ
đ i diện nh ng họ không buộc phải có nghĩa vụ chứng minh.
1.4. Q a trình chứng minh
Có nhiều cách phân chia quá trình chứng minh thành các giai đo n khác nhau. Có
quan điểm xác định quá trình chứng minh đ
c chia làm ba giai đo n: “Thu thập chứng
cứ, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ” [53]. Có ý kiến khác cho rằng quá trình
chứng minh vụ án hình sự đ
c chia thành ba khâu: “Phát hiện, thu thập, củng cố và
bảo vệ chứng cứ; kiểm tra, xác minh chứng cứ; đánh giá chứng cứ” [46].
Quá trình chứng minh VAHS xét về bản chất là quá trình nhận thức về VAHS
thông qua các chứng cứ đ c diễn ra liên tục, kế tiếp, xen kẽ trong các ho t động TTHS. Vì
vậy, việc phân chia các quá trình chứng minh thành các giai đo n chỉ mang tính t ơng đối.
Có thể chia quá trình chứng minh VAHS thành các b
và sử dụng chứng cứ.
1.4.1. Thu thập chứng cứ
c sau: Thu thập, kiểm tra, đánh giá