Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Triết học thuyết giáo dục của nho gia và giá trị thời đại của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.34 KB, 19 trang )

Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu

01

1. Lí do chọn đề tài

01

2. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

01

Phần nội dung

02

1. Quá trình phát triển của tư tưởng Nho gia

02

2. Học thuyết giáo dục của Nho gia với đại diện là Khổng Tử
09
3. Ý nghĩa thời đại của học thuyết
Phần kết luận

13
16



1


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Chúng ta biết rằng, không có lâu đài khoa học nào có thể đứng vững
mà không kế thừa và tiếp thu những thành tựu đã có trong lịch sử, và
Triết học cũng không ngoại lệ. Trong đời sống tư tưởng, chính trị – xã
hội và triết học của người Việt Nam ta cũng như Nhật Bản, Hàn Quốc và
đặc biệt là Trung Quốc, học thuyết Nho gia luôn in đậm dấu vết ảnh
hưởng. Vì thế, nghiên cứu Nho giáo là việc cần làm không chỉ đối với
Triết học. Hơn nữa, từ khi ra đời, Nho gia đã góp phần quan trọng vào
lịch sử tư tưởng nhân loại và nó vẫn là đối tượng nghiên cứu đầy thử
thách cũng như rất hấp dẫn đối với giới khoa học trên toàn thế giới.
Ngày nay, chúng ta vẫn chưa hết ngỡ ngàng về trí tuệ Nho gia, mà
điều đầu tiên người ta hay nói đến là tư tưởng nhân sinh, quan điểm chính
trị – xã hội, … và đặc biệt là quan điểm giáo dục của Khổng Tử. Trước
chúng ta gần 3000 năm, Khổng Khâu đã có những quan điểm giáo dục
tiến bộ khiến ngành giáo dục học hiện đại không thể không quan tâm
nghiên cứu. Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đang trăn trở bậc nhất đến
vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy và học. Trong đó, có những
nội dung và nguyên tắc chúng ta đang theo đuổi lại rất gần những quan
điểm của Khổng Khâu. Vì thế, thiết nghĩ việc khảo cứu tư tưởng giáo dục
của Nho gia, đặc biệt là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, là việc cần làm.

2



Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Tư tưởng giáo dục của Nho gia là hệ thống những quan điểm tồn tại
và phát triển cùng nhân loại cho đến ngày nay nên không thể không có
quá trình lịch sử, có sự biến đổi, phát triển. Tuy nhiên, với khuôn khổ hạn
chế về thời gian và dung lượng kiến thức của một bài tiểu luận, người
viết lượng sức mình không thể làm được việc lớn là khảo cứu toàn bộ
quan điểm giáo dục của Nho gia từ khi xuất hiện cho đến ngày nay. Hơn
nữa, xét thấy Khổng Tử là một nhà giáo dục vĩ đại, là nhân vật Nho giáo
được Giáo dục học đánh giá cao nhất. Vì thế, người viết bài tiểu luận này
quyết định chọn tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với tư cách là đại diện
cho quan điểm giáo dục của Nho gia là đối tượng nghiên cứu chính. Và
đó chính là phạm vi nghiên cứu của bài tiểu luận này.
Bài tiểu luận này sẽ dùng phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp
và đứng trên quan điểm lịch sử để nhìn nhận vấn đề.

3


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

PHẦN NỘI DUNG
1. Quá trình phát triển của tư tưởng Nho gia:
Những mầm mống của tư tưởng Nho gia đã có từ rất sớm trong xã
hội Tây Chu, đó là tinh thần tông tộc và đời sống Vu giáo (1). Song đến
Khổng Tử (551 – 479 TCN) Nho mới chính thức xuất hiện với tư cách là
một học thuyết, các tư tưởng được tập hợp thành hệ thống. Từ giai đoạn
nguyên thuỷ của mình (tức là Nho gia thời kì Xuân thu – Chiến quốc do

Khổng Tử khai sáng, Mạnh Tử và Tuân Tử phát triển), Nho gia đã không
ngừng phát triển theo lịch sử cho đến ngày nay. Trong suốt gần ba nghìn
năm sinh sống và chi phối mạnh mẽ lịch sử tư tưởng Trung Quốc cũng
như một số nước Châu á, Nho gia đã tự phân ra các giai đoạn phát triển
khác nhau. Chúng tôi xin điểm qua mấy giai đoạn chính mà học thuyết
Nho gia phát triển đặc biệt về mặt tư tưởng:
 Giai đoạn Nho gia nguyên thuỷ:
Khổng Tử là người nước Lỗ thời Xuân Thu, thuộc dòng dõi quý tộc
nên được học từ nhỏ, lớn lên có một chủ trương một cái đạo mà không có
cơ hội được thi hành, nên đến cuối đời đã tập trung vào dạy học, viết
sách, lập thành một học phái. Có lẽ bởi nước Lỗ của Khổng Tử ở gần
Chu, mà Lỗ vẫn tôn Chu, theo lễ của Chu; bởi bản tính ông ôn hoà,
nghiêm cẩn, thích tế lễ từ nhỏ; bởi thời đại của ông còn tương đối không
động loạn như những thời sau; nên ông thích Chu Lễ, chủ trương khôi
phục lại truyền thống lễ nhạc mà Chu Công đã thiết lập cho nhà
Chu.Truyền thống ấy trọng chế độ tôn ti, đẳng cấp tông pháp truyền
thống và lễ nghi của triều Chu. Ông ít bàn về vũ trụ, ông không phủ nhận
trời nhưng không cho rằng trời thế lực mạnh mẽ và tối cao nên không
4


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

giảng đến thiên đạo. Ông hoài nghi quỷ thần, khuyên người ta “kính quỷ
thần nhi viễn chi” (kính quỷ thần nhưng xa quỷ thần) [trích Luận ngữ].
Về lĩnh vực chính trị, đạo đức, ông đưa ra vấn đề chính danh. Đối với
chính trị, “chính danh” là để minh phận, để xác định tương quan vua tôi;
đối với đạo đức, “chính danh” để chính kỷ và chính nhân, nghĩa là để sửa
đức của mình và của người cho được ngay. Cống hiến lớn nhất của
Khổng Tử có lẽ là về nhân sinh quan. Ông là người đầu tiên đề cao đức

nhân, định nghĩa chữ nhân. Ông trọng lễ nghĩa tôn ti, đặc biệt là sự ngay
thẳng và thành thực. Ông cũng đề cao “trung dung”, tuỳ thời phải lấy
Thành làm cơ sở, dùng Lễ để ước thúc. Về chính trị, ông tôn quân, trọng
lễ giáo hơn pháp luật, không ưa chiến tranh, trọng người hơn chế độ,
muốn dùng nhân để cảm hoá dân.
Sau Khổng Tử, các học trò của ông đã đưa học thuyết Nho học chia
thành tám phái. Trong đó, có ảnh hưởng lớn nhất là Nho học của Mạnh
Tử và Tuân Tử. Hai phái này đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển
của Nho giáo, nhưng vì quan điểm chính của hai phái khác nhau, nên vận
mệnh lịch sử của chúng cũng không giống nhau. Học thuyết của Mạnh
Tử vu khoát, không thể thích hợp với điều kiện lịch sử của thời Chiến
quốc, cho nên không được sử dụng. Nhưng đến thời Hán và đặc biệt là từ
thời Tống trở về sau, học thuyết Tính thiện và quan điểm về tâm tính của
ông rất phù hợp với tư duy lí luận đương thời, vì thế nên rất được coi
trọng. Còn học thuyết của Tuân Tử đã khởi sắc trong tư tưởng Pháp gia
thời kì sau, rất nhiều quan điểm của Tuân Tử được học giả đời sau tiếp
thu, nên có thể nói: nó đã phát huy tác dụng trong quá trình nước Tần
thống nhất lục quốc. Tầng lớp thống trị đời sau không thực hành nhân

5


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

nghĩa nhưng rêu rao nhân nghĩa, đặc biệt ít dùng ân nghĩa nhưng lại ra
sức vạch rõ ranh giới với Pháp gia, cho nên Tuân Tử đã trở thành đối
tượng đả kích bài xích của họ, điều này thật không công bằng.
 Giai đoạn Nho gia đời Hán:
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là Nho học đi vào những vấn đề
kinh học, vì thế lịch sử Nho gia giai đoạn này còn được gọi là Kinh học

lưỡng Hán. Các nhà Nho thời này ra sức đề cao các kinh điển mà họ tôn
sùng như “Dịch”, “Thi”, “Thư”, “Lễ”, “Nhạc”, “Xuân thu”. Dòng Kinh
học Nho gia trong các triều đại đều có, nhưng xuất hiện hình thái Tự học
và Lí học ở thời phát triển nhảy vọt về tư tưởng như thời Tiên Tần và
Lưỡng Tống, còn thời tư tưởng không có sự phát triển nhảy vọt như thời
Lưỡng Hán và thời Thanh thì xuất hiện hình thức Kinh học.
Đứng trên phương diện chính trị mà xem xét, thì từ đời Hán trở đi,
Nho liên kết với Pháp. Còn về phương diện học thuật thì riêng trong đời
Hán, Nho đã tiếp thu pha trộn với nhiều quan điểm của Âm dương học,
Lão học cho nên đã giữ được địa vị độc tôn và phát minh ra Tượng số
học. Giai đoạn này có các tác giả tiêu biểu là Đổng Trọng Thư, Dương
Hùng, Vương Sung, … Đổng Trọng Thư có công đưa Khổng học lên địa
vị quốc giáo nhưng không phát huy được gì cho Khổng học. Ông dung
hoà thuyết của Mạnh Tử và Tuân Tử về tính thiện, tính ác. Ông là người
đầu tiên dùng từ “tam cương” để chỉ đạo quân thần, phụ tử, phu phụ. Về
chính trị ông chú trọng “quân phú bần” nghĩa là ông theo Khổng Tử,
không để cho có kẻ giàu quá, kẻ nghèo quá. Ông cũng nhấn mạnh vào
điểm “tri” thì phải “hành”. Nhưng ông sở trường nhất về âm dương, ngũ
hành.

6


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

Dương Hùng là nhân vật nổi tiếng hơn cả. Ông cho huyền là cái bản
căn của vũ trụ (cũng như Đổng Trọng Thư coi đó là nguyên), mà người
cùng vũ trụ chung một thể với nhau (thiên địa vạn vật nhất thể). Về tính
người, ông cho rằng có cả phần thiện phần ác chứ không thiện hẳn hay ác
hẳn ( nhân chí tính dã, thiện ác hỗn), làm điều thiện thì thành người thiện

mà làm điều ác thì thành người ác.
Vương Sung trái lại, cho vũ trụ là vô ý chí, vô vi, cứ tự nhiên sinh
hoá. Tư tưởng của ông có phần hợp với tư tưởng của Lão Tử. Do đó, ông
không nhận rằng linh hồn bất tử. Nhưng ông lại rất tin ở mệnh: ai có
mệnh sang thì cho dù ở chỗ hèn cũng tự làm nên, ai có mệnh hèn thì ở
chỗ giàu cũng tự suy đi. Không những cá nhân mà quốc gia cũng có
mệnh như thế. Như vậy, ông vẫn không thoát được cái không khí dị đoan
đương thời. Khổng, Mạnh cũng tin có mệnh, nhưng phải làm hết sức của
mình rồi mà kết quả không như mình đoán trước , lúc đó mới gọi là
mệnh. Chứ không như Vương Sung, coi mọi sự đều đã có tiền định. Về
tính người, Vương Sung cho rằng có người bẩm sinh tính thiện, có người
bẩm sinh tính ác, hạng trung thì có cả tính thiện có cả tính ác. Nhưng ông
tin vào sự giáo hoá có thể biến ác thành thiện. Học thuyết của ông không
trọng cổ khinh kim, đề cao sự thực nghiệm – rõ ràng là ông có tinh thần
khoa học và tiến bộ hơn những triết gia đương thời.
 Nho học giai đoạn Tống, Nguyên, Minh:
Thời Ngụy, Tấn, Tuỳ, Đường, Lục triều Nho học hầu như không có
phát triển gì đáng kể, trên vũ đài chính trị cũng như trong học thuật, Nho
gia không được coi trọng. Trước tình hình đó, các nhà tư tưởng Nho gia
không thể không tìm cách phục hưng địa vị Nho học, và họ đã tìm ra một

7


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

con đường hiệu quả để chống Phật. Họ đã đánh Phật ngay trên mảnh đất
của Phật, tức là đã khai thác những điểm hạn chế trong học thuyết Phật
giáo và tiếp thu những điểm độc đáo của Phật vào học thuyết Nho gia để
nó trở nên hoàn bị hơn. Họ gác phạm vi chính trị, thực tế của Nho để đi

vào đạo lí huyền nhiệm của Phật. Về luân lí, phép tu dưỡng, người ta đưa
ra những chủ trương dưỡng tâm tồn tính rất cao xa. Không như Khổng
Tử, người ta đã cách biệt với quần chúng, nên học thuyết huyền vi và
kém thực dụng. Đây vừa là sở trường nhưng cũng vừa là sở đoản của
Nho học thời kì này. Sự phát triển học thuyết Nho gia giai đoạn này có
thể chia thành 3 thời kì nhỏ: Thời kì thứ nhất, các triết gia (Chu Đôn Di,
Thiệu Ung, Trương Tái, Trình Hạo, Trình Di, …) chưa thể hiện rõ
khuynh hướng thống nhất là duy lí hay duy tâm, riêng có Trương Tái chủ
trương khí là bản căn của vạn vật, mở đường cho phái duy khí có ảnh
hưởng lớn ở đời Thanh. Thời kì thứ hai, cuối Tống, kể từ Chu Hy, người
ta bàn về đạo lí nhiều hơn, nên gọi là thời kì Lý học. Trong thời kì này,
Chu Hy là bậc Tập đại thành tri thức kể từ thời cổ cho đến đương thời,
nhưng học thuyết của ông nói chung là gần Trình Y Xuyên hơn cả. Ông
được hậu Nho xếp ngang hàng với Mạnh Tử. Thời kì thứ ba, đời Minh,
người ta (đại diện là Lục Cửu Uyên) bàn đến tâm nhiều hơn, nên gọi là
thời kì Tâm học. Trong đó, nổi bật hơn cả là phong trào Lý học do Chu
Hy khởi xướng và phát triển, vì thế mà khi nhắc đến Nho gia giai đoạn
này, các học giả thường gọi là thời kì Lý học Tống Minh.
 Nho gia thời nhà Thanh:
Giai đoạn này Nho vẫn giữ được địa vị chính trị và học thuật như cũ,
nhưng thiên về thực dụng, khảo cứu, rồi canh tân. Vì thế mà Nho học giai

8


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

đoạn này còn được gọi là Kinh học mới.
Dân tộc Trung Hoa đời nhà Thanh cực khổ vô cùng. Họ lần lượt bị
người Mãn cai trị, rồi lại bị người Âu coi như một miếng mồi, tha hồ cắt

xén chia xẻ hết “tô giới” này đến “tô giới” khác. Các triết gia Trung Hoa
lúc này không thể tĩnh toạ mà suy luận về tâm, tính, thái cực, thái hư những điều mà suốt bảy thế kỉ qua đã ngự trị trong đời sống tư tưởng và
nay đã trở nên khô cạn, thiếu phong phú. Người ta buộc phải nghĩ đến
thực tế. Do đó, triết học Trung Hoa đời Thanh đã có những chuyển biến
lớn. Đời Thanh sơ người ta còn lưu luyến một chút đạo học đời Tống,
Minh (đại biểu là Hoàng Tôn Hi và Vương Phu Chi), đồng thời một số
quay về Nho học đời Hán (Cố Viêm Võ), rồi hướng triết học về phần
thực học, quan sát, duy vật. Lúc này, triết học vẫn còn giữ được bản sắc
của Trung Quốc. Đến thời Thanh mạt, sau cuộc chiến tranh nha phiến, đã
nảy sinh phong trào Duy tân mà Khang Hữu Vi, Đàm Tự Đồng là đại
biểu. Họ muốn dung hoà tư tưởng của Khổng học với tư tưởng Âu Tây,
mở đường cho cách mạng Tân Hợi và sự Âu hoá của Trung Hoa.
 Tiếp sau đó, Nho gia vẫn tiếp tục phát triển, giới học thuật gọi
giai đoạn sau đó là giai đoạn Nho học mới hiện đại. Phân tích và đánh giá
Nho gia giai đoạn mới này có rất nhiều cách nhìn khác nhau và chưa thật
thống nhất. Vì thế, người viết xin để ngỏ phần này để khi có điều kiện sẽ
tiếp tục trình bày.

9


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

2. Học thuyết giáo dục của Nho gia với đại diện là Khổng Tử:
Khổng Tử không chỉ là một nhà tư tưởng vĩ đại, mà còn là một nhà
giáo dục vĩ đại. Trước ông, Trung Quốc chỉ có quan phủ làm việc giáo
dục, dạy học con em quý tộc, như thế gọi là học tại quan phủ. Từ khi
Khổng Tử bắt đầu tập hợp học trò để giảng dạy, Trung Quốc mới có tư
nhân làm việc giáo dục. Trong hành động và sự nghiệp chưa từng có
thuộc lĩnh vực giáo dục này, ông vĩnh viễn sáng soi sử sách. Tư học là kết

quả của quá trình văn hoá truyền xuống đa số dân thường, đến lượt mình,
nó lại thúc đẩy trở lại đối với quá trình này. Từ 30 tuổi trở đi, Khổng Tử
bắt đầu con đường sinh sống bằng nghề dạy học, và hoạt động này dường
như không gián đoạn trong cả cuộc đời ông. Có lẽ thời gian trước khi làm
quan năm 50 tuổi và sau khi quay về nước Lỗ năm 68 tuổi là thời kì hưng
thịnh nhất trong sự nghiệp giáo dục của Khổng Tử. Học trò của ông có
người xuất thân từ quý tộc, có người xuất thân từ nhà nghèo; đa số đều
đến từ nước Trâu, nước Lỗ, cũng có người từ nơi xa như các nước: Tần,
Sở, Ngô đến nhận thầy xin được học. Nói chung, học trò Khổng Tử có
khoảng 3000 người, trong đó tinh thông lục nghệ có 72 người. Thành tích
giáo dục ấy thật đáng trọng.
Việc Khổng Tử dạy học đương nhiên là có mục đích mưu sinh,
10


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

nhưng ông nhận từ mỗi học trò mức học phí rất ít, chỉ để duy trì cuộc
sống(1). Mục đích chủ yếu của ông là bồi dưỡng nhân tài có đầy đủ tri
thức kĩ năng lễ nhạc và hiểu đạo nhân lễ. Ông thường sai những học trò
ưng ý đi làm quan, để mong thực hiện chủ trương chính trị của mình, đây
cũng chính là mục đích giáo dục của ông.
Ông cho rằng, những nhân tài mà ông đào tạo nên là bậc quân tử có
cả tri thức kĩ năng lẫn phẩm chất đạo đức cao cả. Ông nói: Chất thắng
văn tắc dã, văn thắng chất tắc sử. Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử
(trích sách Luận ngữ , thiên Ung dã) [Đạo đức nổi bật hơn tác phong,
trình độ hiểu biết thì thô mộc, trình độ và hình thức nổi trội hơn đạo đức
thì cầu kì khuôn sáo. Đạo đức và hình thức thể hiện tốt đẹp như nhau thì
mới là quân tử]. Chất chỉ đạo đức phẩm chất của một người, văn chỉ tố
chất thuộc phương diện lễ nghi và trình độ văn hoá của người ấy, trong

hai phương diện này phương diện nào nhiều hơn cũng không tốt, cần phải
làm cho chúng phát triển hài hoà nhịp nhàng với nhau. Sách Luận ngữ,
thiên Thuật nhi nói: Tử dĩ tứ hiếu: văn, hành, trung tín [Quân tử cần có 4
điều yêu thích: văn, hiếu, trung, hành]. Bốn phương diện này là nội dung
giáo dục của ông, trong đó văn và hành là chỉ tri thức văn hiến và kĩ năng
lễ nhạc, còn trung và tín lại thuộc phạm trù tu dưỡng đạo đức. Dĩ tứ hiếu
là bảo đảm bồi dưỡng phẩm chất học tập và ưu điểm nhân tài.
Khổng Tử chủ trương: hữu giáo vô loại [giảng dạy không phân biệt
ai, không ai không nhận dạy] (trích sách Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công),
đây là tư tưởng nhân ái vận dụng cụ thể trong phương diện giáo dục, là
1

Khổng Tử nói: “Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên” (trích sách
Luận ngữ, thiên Thuật nhi) [Lễ từ bó nem trở lên, ta chưa từng không nhận dạy
ai]. Bó nem tức 10 cái nem. Tất cả những ai mang lễ vật này đến diện kiến thì ông
đều nhận dạy.
11


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

một điểm đủ để nhận được sự tán dương trong tư tưởng giáo dục của ông.
Trong thời đại phân biệt đẳng cấp trên thực tế và giới hạn gia tộc của xã
hội còn vô cùng khắc nghiệt ấy, Khổng Tử có thể không phân biệt đẳng
cấp gia tộc là đã giáo dục cho tất cả những người muốn được dạy, đây
không chỉ là hành động sáng suốt, mà thậm chí còn mang ý nghĩa cải
cách trọng đại ở một trình độ nhất định. Những đệ tử bình dân cơ bản
không có tư cách vào học ở quan phủ ấy, trong việc thực thi nguyên tắc
hữu giáo vô loại của Khổng Tử, đã nhận được sự giáo dục, và phần đông
đã gia nhập hàng ngũ kẻ Sĩ. Sau đó, những người xây dựng trường tư học

nhao nhao bắt chước, do đó mà khiến tầng lớp sĩ không ngừng lớn mạnh.
Khổng Tử khi dạy học thì kinh nghiệm phong phú, lại giỏi phân tích,
khảo sát, suy luận, vì thế mà ông đã đề xuất một hệ thống phương pháp
dạy học rất tiến bộ. Ông chủ trương: tuỳ theo người học mà thi hành việc
dạy, cùng một lí lẽ nhưng trọng điểm và yêu cầu xiển thuật cho các học
sinh không cùng tính cách sẽ khác nhau. Ông căn cứ vào đặc điểm trí tuệ
và tính cách của học trò để phân chia thành 4 khoa: đức hạnh, ngôn ngữ,
chính sự, văn học, đó cũng chính là căn cứ vào tố chất mà thực hành giáo
dục. Ông rất giỏi trong phương pháp khởi phát để giáo dục. Ông nói: Bất
phẫn bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản,
tắc bất phục dã (trích sách Luận ngữ thiên Thuật nhi) [Không cáu lên vì
chưa hiểu thì chưa gợi mở cho, không băn khoăn bứt dứt vì chưa hiểu thì
không giải thích cho. Giảng cho 1 góc mà không hiểu 3 góc còn lại thì
không giảng cho nữa]. Đây chính là vấn đề đòi hỏi học trò phải tự suy
nghĩ khảo cứu, tìm ra đáp án, chỉ khi đã nghĩ rồi mà không thông, muốn
nói ra mà không diễn đạt được thì ông mới chỉ ra cho, từ đó mà đạt đến

12


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

hiệu quả cử nhất phản tam [nói 1 biết 3]. Phương pháp tốt này đã kích
thích được tính tích cực chủ động của người học, các học trò không chỉ
học được tri thức, mà còn học được phương pháp suy nghĩ, khảo cứu.
Một đặc điểm khác trong phương pháp giáo dục của Khổng Tử là lí luận
luôn liên hệ với thực tế, ông giảng cho học trò lục kinh, đồng thời kết
hợp triển khai thảo luận những sự kiện chính trị trọng đại đương thời,
người học thông qua thảo luận về tư tưởng với Khổng Tử mà lĩnh hội sâu
thêm, Khổng Tử cũng từ trí tuệ của học trò mà nhận thêm hiểu biết, như

thế là đã thực hiện giáo học tương trưởng [người dạy và người học, việc
dạy và việc học cùng dựa vào nhau mà phát triển]. Đối với học trò,
Khổng Tử không chỉ tiến hành ngôn giáo [giáo dục bằng ngôn ngữ] mà
còn tiến hành thân giáo [dùng bản thân để giáo dục], bản thân ông chính
là mẫu hình lí tưởng của luân lí Nho gia, ông có tính nguyên tắc cao độ,
nghị lực phi thường, tri thức văn hiến cổ đại phong phú, kĩ năng thực
hành đa dạng, thái độ sống rõ ràng, đạo xử sự khiêm hư và lương thiện,
… Đối với học trò, ảnh hưởng của sức mạnh nhân cách của ông dã vượt
xa những lời lẽ giảng dạy. Tử Cống nói: Tha nhân chi hiền giả, khâu
lăng dã, do khả du dã; Trọng Ni, nhật nguyệt dã, vô đắc nhi du yên (trích
sách Luận ngữ thiên Tử Trương) [Đức hiền của người khác là gò đống,
có thể vượt qua; Trọng Ni là mặt trời mặt trăng, ta không thể đạt được để
mà vượt qua]. Nhan Uyên nói, đạo của Khổng Tử ngưỡng chi di cao,
toản chi di thâm, chiêm chi tại tiền, hốt nhiên tại hậu (trích sách Luận
ngữ, thiên Tử Hãn) [Ngước nhìn lên càng thấy cao, dùi đục vào càng thấy
sâu, thoáng nhìn ở trước mặt đã thấy ở phía sau]. Các học trò vô cùng
sùng kính và ngưỡng mộ nhân cách và học vấn của Khổng Tử, cả đời họ

13


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

đi theo Khổng Tử và cố gắng thực hiện chủ trương, lí tưởng của ông. Tất
cả những điều đó đều là hiệu quả to lớn của phương pháp ngôn giáo và
thân giáo của Khổng Tử.

3. Ý nghĩa thời đại của vấn đề:
Khác với chủ trương “dĩ pháp vi giao”, “dĩ sử vi sư” của Pháp gia,
Nho gia luôn coi trọng giáo dục đạo đức và văn hoá. Với kiểu dẫn dắt

tinh thần này, các triều đại Trung Quốc sau nhà Hán đều ra sức thi hành
giáo dục Nho học, đều mở các cấp các loại trường học từ trung ương đến
địa phương, giảng truyền “Tứ thư”,“Ngũ kinh” và tri thức lịch sử. Nhà
Hán có đặt ra chức Ngũ kinh Bác sĩ, chế độ khoa cử chọn kẻ sĩ từ thời
nhà Tuỳ, Đường trở về sau đã kích động kẻ sĩ nhiệt tình học tập kinh điển
Nho gia. Điều này đã khiến cho tỉ lệ người biết chữ và trình độ phổ cập
tri thức văn hoá tăng cao ở Trung Quốc cũng như các nước chịu ảnh
hưởng của văn hoá Trung Hoa, dùng Nho gia như một hệ thống tư tưởng
chính thống. Theo đó, các nhà nước và tư nhân thuộc các nhà nước ấy
đều chú trọng thuyết minh kinh điển, biên soạn sử sách, trứ thư lập
thuyết, lưu trữ sách vở, giao lưu học thuật, …. Những thành tích này
cũng chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn hoá thế giới.
Rõ ràng, việc tập hợp học trò để giảng dạy tri thức, kĩ năng văn hoá
và đạo nhân lễ của Khổng Tử đã mở đường cho truyền thống tư học xuất
14


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

hiện. Hành động ấy đã tích cực đưa tri thức văn hoá ra cho đông đảo
nhân dân, khiến cho trình độ văn hoá của dân chúng đương thời tăng cao,
tri thức văn hóa chuyển dần từ quý tộc xuống bình dân. Cục diện văn hoá
mới như thế đã dần dẫn đến cục diện chính trị – xã hội mới: tầng lớp trí
thức bình dân không ngừng lớn mạnh, cùng với đó là tầng lớp địa chủ
trong xã hội đương thời cũng không ngừng tăng về số lượng và thế lực.
Thế là, xã hội cuối Chu nhanh chóng bị đảo lộn trật tự để dẫn đến thiết
lập một trật tự (một chế độ chính trị – xã hội) tiến bộ hơn trong lịch sử.
Về phương thức tư duy, Nho gia chỉ chú trọng khảo sát tổng hợp
toàn bộ hệ thống mà không có khả năng đặc biệt trong việc phân tích,
nghiên cứu sự vật cụ thể. Không chỉ có Nho gia như vậy, có thể nói rằng

đây là đặc trưng chung của văn hoá truyền thống Trung Quốc. Nguyên
nhân của đặc điểm này có lẽ là: Nho gia coi trọng kinh nghiệm nhưng
không thể phân tích chu đáo tỉ mỉ cái logic của kinh nghiệm, thường từ
kinh nghiệm trực quan mà nảy sinh suy luận về tổng thể. Vì thế, lối tư
duy của Nho gia rất khó đề xuất được lí luận khoa học chính xác. Đặc
trưng riêng có này của Nho gia khác hẳn với tư tưởng phương Tây. Song,
những suy xét tổng hợp ấy lại thường có ích cho các nhà khoa học
phương Tây tìm kiếm trí tuệ phương Đông khi mà khoa học ngày nay
đang sắp tiến vào một giai đoạn tổng hợp mới.
Việt Nam ta ngày nay đang quan tâm xây dựng một nền giáo dục
mới đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu to lớn ấy đòi hỏi chúng ta phải
đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy. Và tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử có thể xem là tài liệu tham khảo quý giá.

15


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

Khổng Tử quan tâm dạy cả đạo đức lẫn tri thức, kĩ năng – cũng như
ngày nay chúng ta nói: rèn luyện con người có đủ đức, trí, thể, mĩ. Đạo
đức là đạo nhân lễ, tri thức gồm những tri thức về lịch sử, văn học, ngôn
ngữ, văn hóa, kĩ năng gồm kĩ năng thực hành lục nghệ ( lễ: thao tác thực
hành một buổi lễ và tác phong, cư xử với mọi người; nhạc: đánh đàn; xạ:
bắn cung; ngự: cưỡi ngựa; thư: đọc sách và viết sách; số: tính toán). Như
vậy, nội dung giáo dục của Khổng Tử khá đầy đủ. Ngày nay chúng ta
đang hướng đến một nền giáo dục toàn diện, rõ ràng Khổng Tử từ gần
3000 năm trước đã gợi ý cho chúng ta rồi.
Ông cũng đề cao việc mở rộng đối tượng giáo dục và chú trọng dạy

tri thức đi liền với thực hành. Những nguyên tắc này đã được lịch sử và
thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Quả thật, Khổng Tử đã và mãi là tấm
gương sáng về hoạt động giáo dục mà chúng ta cần học hỏi và rút kinh
nghiệm để áp dụng trong thời hiện đại. Chúng ta cũng đang từng bước
phổ cập giáo dục và nêu cao khẩu hiệu “học đi đôi với hành”. Trong quá
trình thực hiện những nguyên tắc ấy, chúng ta không nên quên người
thầy, người đã dũng cảm áp dụng những điều tiến bộ ấy trong hoàn cảnh
xã hội cổ đại.

16


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

17


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

PHẦN KẾT LUẬN
Nho gia được Khổng Tử sáng lập trong chế độ nhà Tây Chu của xã
hội Trung Hoa cổ đại. Đối với xã hội ấy, cục diện động loạn, chiến tranh
liên miên để kết thúc chế độ chiếm hữu nô lệ mà chuyển lên chế độ
phong kiến là tất yếu khách quan. Để có thể giải quyết được vấn đề, tức
là sớm kết thúc cục diện chiến tranh loạn lạc, giải quyết mâu thuẫn thời
đại, lịch sử cần một học thuyết đại diện cho giai cấp phong kiến mới xuất
hiện và một nhân vật đứng trên lập trường ấy để hành động. Khổng Tử
không phải là một người như vậy. Ông đứng trên lập trường của tầng lớp
quý tộc nhà Chu, chủ trương lập lại chế độ nhà Chu nên tất nhiên là học
thuyết của ông không được người đương thời trọng dụng. Nhưng bỏ qua

vấn đề giai cấp và lập trường giai cấp, xét riêng về giá trị triết học, đặc
biệt là giá trị giáo dục, thì Khổng Tử là một nhân vật kiệt xuất thời cổ
đại. Cho đến xã hội hiện đại ngày nay, lối tư duy và những tiêu chuẩn đạo
đức cũng như tri thức, kĩ năng mà Khổng Tử quan tâm lại rất có giá trị.
Khổng Tử có một hệ thống quan điểm về giáo dục khá đầy đủ và sâu
sắc: mục tiêu giáo dục của ông là đào tạo những người có đầy đủ đạo
đức, tri thức, tài năng để lãnh đạo xã hội; nội dung giáo dục của ông là hệ
thống tri thức về nhân cách, về lịch sử, xã hội, ngôn ngữ, những kĩ năng
cụ thể; đối tượng giáo dục của ông là tất cả mọi người muốn học; phương
pháp giáo dục của ông là căn cứ vào đặc điểm riêng của người học mà có
cách truyền đạt và nội dung truyền đạt cụ thể, người dạy và người học
cùng kích thích nhau phát triển tri thức, học tri thức luôn gắn liền với
thực hành trong thực tế,…. Với những quan điểm tiến bộ như thế, giáo
dục học hiện đại tôn Khổng Tử là nhà giáo dục vĩ đại, sự tôn sùng ấy là
18


Học thuyết giáo dục của Nho gia và giá trị thời đại của nó.

hoàn toàn thích đáng. Những nguyên tắc giáo dục của ông vẫn còn
nguyên giá trị tham khảo hữu hiệu cho đến ngày nay.

19



×