Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVIIXVIII (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.28 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THÙY LINH

THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG NGHIỆP
ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII - XVIII

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9 22 90 13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS.NGUYỄN ĐỨC NHUỆ

Phản biện 1: GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc
Phản biện 2: PGS. TS. Trần Thị Vinh
Phản biện 3: PGS. TS. Trịnh Vương Hồng

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp
tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt


Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong toàn cảnh bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII,
thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thu hút được sự quan
tâm nhất định của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trước
đây, do hạn chế về nguồn tư liệu, giới nghiên cứu thường chỉ tập
trung khai thác các nguồn tài liệu chính sử cùng một số tập du hành
ký của các thương nhân và giáo sỹ phương Tây. Các nguồn tư liệu
phương Tây khác như tư liệu lưu trữ của các công ty Đông Ấn Hà
Lan và Anh cũng như tư liệu truyền giáo của Bồ Đào Nha,…có liên
quan đến các khía cạnh thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng
Ngoài thời kỳ này về cơ bản vẫn còn để ngỏ.
Những năm gần đây, giới sử học trong nước ngày càng dành
nhiều quan tâm cho giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII. Nhiều nguồn tư
liệu được tiếp cận khai thác nên các công trình nghiên cứu tăng về số
lượng và phong phú về lĩnh vực khảo cứu. Bên cạnh đó, một số công
trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài cũng được dịch và xuất
bản, một số nguồn tư liệu bước đầu được biên dịch và công bố, góp
phần phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử Việt Nam cổ đại và trung
đại. Trong những ấn phẩm đó, vấn đề thủ công nghiệp và thương
nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII cũng được đề cập ở các
mức độ đậm, nhạt khác nhau.

Thủ công nghiệp và thương nghiệp là những bộ phận cấu thành
của nền kinh tế, xuất hiện từ chỗ đơn giản sơ khai là sản xuất tự cung
tự cấp đến việc trao đổi hàng hóa, cao hơn là những hoạt động
thương mại tiền tệ đa dạng và phức tạp. Đặc điểm chung của kinh tế
công, thương nghiệp Việt Nam là khởi nguồn từ làng xã, là những bộ
phận của nền kinh tế làng xã và gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh
tế nông nghiệp. Trong quá trình chuyển biến của thủ công nghiệp có
vai trò quan trọng của thương nghiệp và ngược lại, thủ công nghiệp
là cơ sở không thể thiếu để thương nghiệp phát triển, chuyển từ hình
thức trao đổi, buôn bán nhỏ lẻ sang hình thức kinh tế hàng hóa, thể
hiện yếu tố thị trường.
1


Thành tố quan trọng hàng đầu của một nền thương nghiệp là các
thương phẩm. Ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII, thương phẩm đa
phần đến từ nguồn hàng thủ công nghiệp. Nghiên cứu chung về thủ
công nghiệp Việt Nam khá phong phú với nhiều công trình nghiên
cứu, chuyên luận và bài báo khoa học đề cập đến mọi ngành nghề
thủ công, làng nghề truyền thống …Tuy vậy, có thể khẳng định rằng,
đến nay chưa có công trình nghiên cứu hệ thống nào lấy thủ công
nghiệp, thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII làm đối
tượng nghiên cứu độc lập, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa sự
mở rộng của thủ công nghiệp và sự phát triển của thương nghiệp ở
Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi chọn
đề tài “Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII XVIII” cho Luận án Tiến sỹ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thủ công nghiệp và thương
nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII, luận án làm sáng tỏ mối

quan hệ của kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp. Từ đó, luận
án tập trung làm rõ các tác động của thủ công nghiệp, thương nghiệp
đối với sự phát triển kinh tế hàng hóa, tác động đối với chính trị,
quân sự, chuyển biến kinh tế - xã hội Đàng Ngoài và đánh giá sự dự
nhập thương mại khu vực, quốc tế của Đàng Ngoài trong các thế kỷ
XVII - XVIII.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án hướng tới giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Trình bày bối cảnh trong nước và quốc tế, những điều kiện căn
bản tác động đến thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế
kỷ XVII - XVIII.
- Nghiên cứu kinh tế thủ công nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII XVIII, xem đây là cơ sở cho thương nghiệp phát triển.
- Nghiên cứu kinh tế thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII XVIII trên cả hai phương diện nội thương và ngoại thương.
2


- Phân tích những chuyển biến trong chính trị, kinh tế, xã hội
Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII dưới tác động của kinh tế công,
thương nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động kinh tế thủ công
nghiệp và thương nghiệp; những tác động của kinh tế thủ công
nghiệp và thương nghiệp đối với chính trị, kinh tế, xã hội Đàng
Ngoài thế kỷ XVII - XVIII.
- Thủ công nghiệp: Nghiên cứu chính sách của Nhà nước Lê Trịnh đối với thủ công nghiệp; Nghiên cứu một số nghề thủ công
nghiệp tiêu biểu trong các thế kỷ XVII - XVIII dưới góc độ là nguồn
cung cấp hàng hóa cho thương nghiệp.
- Thương nghiệp: Nghiên cứu chính sách của Nhà nước Lê Trịnh đối với thương nghiệp; Nghiên cứu thương nghiệp Đàng Ngoài

thế kỷ XVII - XVIII trên phương diện nội thương và ngoại thương,
thể hiện cụ thể trong các khía cạnh: đội ngũ thương nhân, hàng hóa
trao đổi và các trung tâm thương nghiệp.
- Những tác động của kinh tế công, thương nghiệp đối với Đàng
Ngoài thế kỷ XVII - XVIII trên các phương diện: chính trị, quân sự,
những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp, hoạt động của các đô thị, chợ, bến và các tuyến buôn
bán; tác động đối với xã hội được thể hiện qua thành phần dân cư và
hiện tượng di dân, sự biến đổi của làng Việt, tôn giáo, tín ngưỡng, tư
duy, lối sống, khoa học kỹ thuật, chữ viết,…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII,
khi triều Lê sụp đổ trước sự tấn công của quân Tây Sơn.
- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu vấn đề thủ công
nghiệp và thương nghiệp trong phạm vi không gian Đàng Ngoài, từ
ranh giới sông Gianh trở ra Bắc quốc gia Đại Việt.
Nội chiến Trịnh - Nguyễn kéo dài 46 năm, từ năm 1627 đến năm
1672, hai bên quyết định dừng cuộc chiến tranh và lấy sông Gianh
3


làm giới tuyến, phân cắt Đại Việt thành hai miền. Tên gọi Đàng
Ngoài (Bắc Hà) và Đàng Trong (Nam Hà) xuất hiện từ thời điểm
này. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phân cắt lãnh thổ và quyền lực đã
diễn ra từ đầu thế kỷ XVII. Năm Canh Tý (1600), viện cớ đem quân
đánh dẹp Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê ở cửa Đại An,
Nguyễn Hoàng chủ động đem quân vào Thuận Hóa, ấp ủ ý tưởng
xây dựng lực lượng và vùng đất đứng chân riêng của họ Nguyễn ở
phía Nam. Từ năm Quý Sửu (1613), Nguyễn Phúc Nguyên lên thay
Nguyễn Hoàng, thực hiện những chính sách thoát khỏi ảnh hưởng

của chính quyền Lê - Trịnh, củng cố quyền lực để nắm giữ đất Thuận
Quảng, cục diện Đàng Ngoài - Đàng Trong hình thành rõ ràng hơn.
- Phạm vi nội dung:
Về kinh tế thủ công nghiệp, luận án nghiên cứu thủ công nghiệp
trong mối quan hệ với thương nghiệp nên chúng tôi giới hạn nghiên
cứu các nghề thủ công ở góc độ là cơ sở cho nền kinh tế hàng hóa,
cung cấp nguồn hàng cho kinh tế thương nghiệp. Do đó, phần viết sẽ
không đi sâu nghiên cứu lịch sử ngành nghề, không khảo tả quy trình
sản xuất của nghề thủ công như dưới góc nhìn dân tộc học cũng như
không đi sâu nghiên cứu những vấn đề thuộc về mối quan hệ sản xuất,
lực lượng sản xuất, v.v...
Về kinh tế thương nghiệp, vấn đề được nghiên cứu trên các
phương diện nội thương và ngoại thương.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận nghiên
cứu. Vấn đề “Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ
XVII - XVIII” được nghiên cứu trong bối cảnh lịch sử cụ thể của thế kỷ
XVII - XVIII, không gian được giới hạn là Đàng Ngoài. Kinh tế thủ
công nghiệp và thương nghiệp được nghiên cứu trong sự vận động
không ngừng của thực tế lịch sử, xã hội thế kỷ XVII - XVIII nên có
mối quan hệ tương tác giữa bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế thủ
công nghiệp, thương nghiệp.
4


Mối quan hệ biện chứng được thể hiện sâu sắc giữa thủ công
nghiệp và thương nghiệp. Do đó, phương pháp luận duy vật biện
chứng, phương pháp duy vật lịch sử là những phương pháp quan

trọng giúp tác giả nghiên cứu vấn đề một cách toàn diện, khách
quan và thấy được tác động của thủ công nghiệp và thương nghiệp
Đàng Ngoài đối với chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Đàng Ngoài
thế kỷ XVII - XVIII.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích đề tài đề ra, các phương pháp nghiên
cứu của khoa học lịch sử được sử dụng, gồm những phương pháp cơ
bản sau:
- Phương pháp chủ đạo là phương pháp lịch sử: nghiên cứu vấn
đề thủ công nghiệp và thương nghiệp theo đồng đại và lịch đại để có
sự đánh giá toàn diện và khoa học.
- Phương pháp so sánh: nhằm làm nổi bật đặc tính của đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp logic.
- Phương pháp khu vực học: đặt Đàng Ngoài trong bối cảnh khu
vực và quốc tế thế kỷ XVII - XVIII, nghiên cứu sự tương tác giữa
khu vực, quốc tế với Đàng Ngoài và ngược lại, đặc biệt trong lĩnh
vực ngoại thương.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Công trình nghiên cứu về các nghề thủ công ở Việt Nam rất
phong phú. Nghiên cứu về kinh tế thương nghiệp, đặc biệt là vấn đề
ngoại thương tăng lên đáng kể trong một vài thập niên gần đây. Trên
cơ sở khai thác tổng hợp các nguồn tài liệu trong nước và nước
ngoài, luận án “Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế
kỷ XVII - XVIII” nhằm đạt những kết quả nghiên cứu - những đóng
góp về khoa học như sau:
- Luận án rút ra được đặc điểm, xu hướng phát triển của kinh tế
thủ công nghiệp, thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII.


5


- Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế thủ công nghiệp và kinh tế
thương nghiệp thế kỷ XVII - XVIII được làm rõ: thủ công nghiệp
cung cấp nguồn hàng cho các hoạt động thương nghiệp. Thương
nghiệp tác động trở lại đối với hoạt động kinh tế thủ công nghiệp.
- Luận án phân tích được những tác động của kinh tế thủ công
nghiệp, thương nghiệp đối với chính trị, kinh tế, xã hội Đàng Ngoài
thế kỷ XVII - XVIII.
- Đồng thời, luận án chứng minh được vai trò của kinh tế thủ
công nghiệp, thương nghiệp trong sự dự nhập thương mại khu vực và
quốc tế của Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Trên cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học
và nguồn tài liệu tin cậy, luận án cung cấp những kết quả nghiên cứu
về đặc điểm và xu hướng phát triển của kinh tế thủ công nghiệp,
thương nghiệp của Đàng Ngoài trong 2 thế kỷ XVII - XVIII, góp
phần hiểu sâu hơn về kinh tế Việt Nam trong quá khứ.
Luận án “Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ
XVII - XVIII” cho thấy mối quan hệ giữa kinh tế thủ công nghiệp và
kinh tế thương nghiệp, sự tác động qua lại giữa hai bộ phận kinh tế,
qua đó, có thể rút ra được những kinh nghiệm trong phát triển kinh tế
hiện nay.
Bài học kinh nghiệm trong hoạch định chính sách của nhà nước:
chính sách phải phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế nói chung,
kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp nói riêng. Đồng thời, trong
mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, chính sách phải linh hoạt và phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn.
Vai trò của các ngành kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp

đối với sự hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam là vấn đề đang
diễn ra và tiếp tục trong tương lai. Luận án ít nhiều đưa ra những bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay
cũng như việc phải bảo tồn và phát huy giá trị của các nghề thủ công
và các làng nghề truyền thống trong bối cảnh công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước.
6


7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo,
luận án gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những yếu tố tác động đến kinh tế công, thương
nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
Chương 3: Kinh tế thủ công nghiệp
Chương 4: Kinh tế thương nghiệp
Chương 5: Tác động của kinh tế công, thương nghiệp đối với
chính trị, kinh tế, xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu trong nước
1.1.1. Những công trình nghiên đề cập đến thủ công nghiệp và
thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
Trước năm 1975, trong bối cảnh cả nước tập trung vào hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vấn đề kinh tế nói chung và
công, thương nghiệp nói riêng không được chú trọng nghiên cứu. Thời
kỳ này, công trình đáng chú ý hơn cả là Tình hình công thương nghiệp
Việt Nam trong thời Lê Mạt của Vương Hoàng Tuyên (Nxb. Văn Sử
Địa, Hà Nội, 1959). Sau năm 1975, số lượng công trình nghiên cứu có

đề cập đến kinh tế công, thương nghiệp tăng lên đáng kể.
Thủ công nghiệp, thương nghiệp Việt Nam có mối liên hệ chặt
chẽ với nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Do đó, hầu hết nghiên
cứu về làng xã Việt Nam đề cập đến công, thương nghiệp là những
cấu thành của kinh tế nông thôn. Đồng thời, vấn đề được nghiên cứu
một cách khái quát trong những công trình nghiên cứu về lịch sử
Việt Nam nói chung, những hội thảo khoa học quy mô, trong đó phải
kể đến Hội thảo Quốc tế Việt Nam học.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến thủ
công nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
Nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam rất đa dạng, phong phú,
thường đề cập đến lịch sử hình thành và phát triển của nghề và làng
7


nghề, đặc trưng của nghề như là tinh hoa nghề nghiệp của cha ông,
cung cấp cho chúng ta những thông tin cơ bản nhất về các nghề thủ
công của Việt Nam từ xưa đến nay.
Thời Pháp thuộc, có một số công trình nghiên cứu bằng tiếng
Pháp. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vấn
đề tiểu thủ công nghiệp không được chú trọng nghiên cứu. Sang đến
những năm 80, 90 của thế kỷ XX, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
đất nước sau chiến tranh, vấn đề thủ công nghiệp được đẩy mạnh
nghiên cứu.
Bên cạnh những nghiên cứu chung, khái quát về tình hình thủ
công nghiệp của cả nước, còn có những công trình chuyên khảo về
từng nghề thủ công riêng biệt và ở những địa phương cụ thể.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến
thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
1.1.3.1. Nghiên cứu về kinh tế nội thương

Trong tương quan so sánh với những nghiên cứu về ngoại thương,
những công trình nghiên cứu về nội thương Việt Nam nói chung và
Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII nói riêng ít ỏi và tản mạn hơn rất
nhiều. Trong khoảng thời gian dài mấy thế kỷ và gần hơn là mấy
chục năm của thế kỷ XX đến nay, vấn đề nội thương Việt Nam nói
chung, Đàng Ngoài nói riêng chưa thực sự được đầu tư nghiên cứu
một cách thỏa đáng.
1.1.3.2. Nghiên cứu về kinh tế ngoại thương
Những năm 50, 60 của thế kỷ XX, một vài nghiên cứu về thương
nghiệp được xuất bản, ngày nay, quan điểm và nguồn sử liệu cần
được bổ sung, cập nhật.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, vấn đề thương nghiệp Việt
Nam từng bước được nghiên cứu một cách hệ thống. Từ thập niên
đầu của thế kỷ XXI trở lại đây, vấn đề ngoại thương được nghiên
cứu một cách hệ thống với số lượng tác giả cũng như công trình
nghiên cứu ngày một nở rộ, nhiều nguồn tài liệu nước ngoài ngày
càng được khai mở.

8


1.2. Nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.1. Những công trình nghiên cứu đề cập đến thủ công
nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
Từ cuối thế kỷ XIX, song song với việc Pháp xâm lược Việt Nam
và mở rộng phạm vi bình định ra miền Bắc, một số nghiên cứu của
các học giả phương Tây nói chung (của học giả Pháp nói riêng) về
quan hệ của người phương Tây với Đàng Ngoài cuối thời trung đại
cũng đã được thực hiện.
Những biến động chính trị tại Đông Dương giữa thế kỷ XX (đặc

biệt là Thế Chiến II và chiến tranh Đông Dương giai đoạn 19451954) đã có những ảnh hưởng nhất định đến tốc độ và khuynh hướng
nghiên cứu của giới học giả phương Tây về lịch sử Việt Nam các thế
kỷ XVII-XVIII. Tình hình phát triển kinh tế thủ công nghiệp và
thương nghiệp Đàng Ngoài được đề cập đến trong những nghiên cứu
chung về quan hệ chính trị và thương mại khu vực Đông Á trong các
thế kỷ XVII-XVIII. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng các nghiên
cứu hết sức gián tiếp và thiếu tính toàn diện nên chưa làm nổi bật và
mang tính hệ thống về tình hình thủ công nghiệp và thương nghiệp
Đàng Ngoài thời kỳ này.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến thủ
công nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
Thời Pháp thuộc, để tìm hiểu về thuộc địa và phục vụ cho công
cuộc khai thác, người Pháp đã tiến hành nghiên cứu Việt Nam trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có các nghề thủ công ở các địa phương.
Những nghiên cứu về xã hội Việt Nam, nông thôn Việt Nam chứa
đựng những thông tin cơ bản về thủ công nghiệp Việt Nam nói
chung và Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII nói riêng.
1.2.3. Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến
thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
Thương nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế nông thôn Việt
Nam, do đó, ít nhiều cũng được đề cập đến trong những nghiên cứu
về làng xã, nông thôn Việt Nam của các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Trong hai thập niên 20 và 30 của thế kỷ XX, một số nghiên cứu
các học giả, tiêu biểu là của W.J.M Buch. Cho đến cuối thế kỷ XX,
9


các nghiên cứu của Buchvẫn được nhiều nhà nghiên cứu trong nước
trích dẫn và chắt lọc các thông tin vắn tắt liên quan đến kinh tế hàng
hóa Đàng Ngoài nói riêng, Đại Việt nói chung. Vào những năm cuối

của thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, có thêm một số nghiên cứu mới liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quan hệ giữa Việt Nam với cộng
đồng người phương Tây.
Nhìn chung, nghiên cứu chuyên sâu về thương nghiệp Đàng
Ngoài thế kỷ XVII - XVIII của các tác giả nước ngoài chưa nhiều và
còn tản mạn.
1.3. Những vấn đề luận án kế thừa và vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu
1.3.1. Những vấn đề luận án kế thừa
Luận án kế thừa được những kết quả nghiên cứu của các công
trình đã công bố trên các phương diện sau:
Những công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp hoặc có đề cập
đến thủ công nghiệp đã đem đến những hiểu biết chung về lịch sử và
đặc điểm của các nghề thủ công truyền thống của Việt Nam từ trong
quá khứ đến nay. Các công trình nghiên cứu trước đó cung cấp cho
tác giả luận án cái nhìn tổng quát về các nghề thủ công. Nghiên cứu
về các nghề có độ nông sâu, đậm nhạt khác nhau, các nghề gốm,
nghề dệt, nghề làm giấy, nghề đúc đồng thu hút khá nhiều nhà
nghiên cứu nên số lượng công trình phong phú hơn. Các nghề khác,
về cơ bản, các công trình nghiên cứu cung cấp đủ những thông tin và
những hiểu biết cần thiết.
Qua các công trình nghiên cứu, đặc biệt qua những bộ chính sử
và các văn bản pháp luật của nhà nước ban hành trong các thế kỷ
XVII - XVIII, tác giả luận án lĩnh hội được những nội dung căn bản
về chính sách của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với kinh tế
công, thương nghiệp trong hai thế kỷ này. Nắm vững chính sách của
nhà nước là cơ sở để tác giả luận án nghiên cứu và hiểu về thực trạng
của kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp diễn ra trong thực tế.
Luận án kế thừa được những thành tựu nghiên cứu quan trọng về
kinh tế thương nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những nghiên cứu về

lĩnh vực ngoại thương. Đó đều là những công trình công phu, có hàm
10


lượng khoa học cao, dựa trên những nguồn tài liệu đáng tin cậy từ
các kho tài liệu lưu trữ của phương Tây. Những nghiên cứu về nội
thương Đàng Ngoài có phần hạn chế hơn về nguồn sử liệu nhưng đã
phần nào được bổ sung bằng những tài liệu phương Tây đương thời.
Tác giả luận án được kế thừa những kết quả nghiên cứu đó là điểm
thuận lợi cho quá trình nghiên cứu đề tài “Thủ công nghiệp và
thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII”.
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam khá đa dạng, phong phú,
bao quát được hầu hết những nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên,
cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ công
nghiệp ở Đàng Ngoài trong các thế kỷ XVII-XVIII, do đó, luận án tập
trung vào các nghề thủ công trong hai thế kỷ này.
Các nghề thủ công nghiệp được đề cập đến trong các nghiên cứu
trước đây khá phong phú. Tuy nhiên, mức độ nghiên cứu sâu mới tập
trung vào một số nghề thủ công chính (như đã đề cập ở trên). Vì vậy, nếu
có được điều kiện nghiên cứu chuyên sâu hơn, đồng thời mở rộng đối
tượng các nghề, ắt hẳn vẫn còn những vẫn đề đáng được quan tâm.
Hầu hết những nghiên cứu về thủ công nghiệp dưới góc độ là nghề
thủ công truyền thống, nguồn gốc nghề, kỹ thuật chế tác,…Những
nghiên cứu về kinh tế thương nghiệp lấy trọng tâm là nghiên cứu trao
đổi hàng hóa, tỉ trọng hàng - tiền, mức độ thông thương,…Do đó, các
nghiên cứu chưa phân tích được mối quan hệ giữa thủ công nghiệp với
thương nghiệp. Việc đặt thương nghiệp trong mối quan hệ với thủ công
nghiệp - nguồn cung cấp sản phẩm chủ yếu cho hoạt động thương
nghiệp - chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng. Do đó, luận án

“Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII”
cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn những vấn đề nêu trên để thấy được
mối quan hệ giữa hai bộ phận kinh tế trong giai đoạn này.
Qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa thủ công nghiệp với thương
nghiệp, luận án phân tích những tác động qua lại của hai bộ phận kinh tế.
Có thể khẳng định kinh tế công, thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII XVIII có mối quan hệ tương hỗ, thúc đẩy nhau cùng phát triển trong thế
kỷ XVII và giảm sút trong thế kỷ XVIII. Luận án không chỉ làm sáng tỏ
11


mối quan hệ này mà còn phân tích những biến chuyển trong kinh tế thủ
công nghiệp, thương nghiệp thế kỷ XVII - XVIII.
Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII XVIII tác động sâu sắc đến những chuyển biến chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội Đàng Ngoài trong 2 thế kỷ. Căn cứ trên những nguồn sử
liệu phong phú, đáng tin cậy, tác giả luận án sẽ phân tích những tác
động và những biến chuyển này mà dấu ấn của nó thể hiện ra tương
đối rõ nét, phong phú, giúp người đọc hiểu hơn về bối cảnh lịch sử,
kinh tế, xã hội Đàng Ngoài trong những thế kỷ này. Đây được coi là
một trong những đóng góp của luận án “Thủ công nghiệp và thương
nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII”.
CHƯƠNG 2
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ
CÔNG, THƯƠNG NGHIỆP ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII - XVIII
2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực thế kỷ XVII - XVIII
Thuộc về Đông Nam Á - khu vực nằm án ngữ trên con đường
hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương - Đại Việt
ở vị trí tương đối thuận lợi cho sự tiếp nhận những tác động từ bên ngoài.
Olov Jansé gọi đó là vị trí “ngã tư các tộc người và các nền văn minh”.
Thế kỷ XVII - XVIII, Đại Việt là cầu chuyển giao của nhiều hoạt động
thương mại trong khu vực. Do đó, Đại Việt trong các thế kỷ này chịu sự

tác động sâu sắc của tình hình quốc tế và khu vực.
2.2. Bối cảnh trong nước
2.2.1. Tình hình chính trị
Thế kỷ XVII - XVIII được coi là thời kỳ lịch sử tương đối đặc
biệt trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam thời Cổ trung
đại. Mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến dẫn đến hiện tượng đất
nước bị chia cắt: vùng đất từ sông Gianh trở ra Bắc được gọi là Đàng
Ngoài (Bắc Hà) do chính quyền Lê - Trịnh cai trị, vùng Thuận - Quảng
được gọi là xứ Đàng Trong (Nam Hà) do chúa Nguyễn cai quản.
Chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ năm Đinh Mão (1627), kéo
dài 46 năm, sau 7 lần giao tranh quyết liệt, hai bên quyết định hưu
chiến năm Nhâm Tý (1672).
12


Đáp ứng nhu cầu của cuộc chiến, chúa Trịnh - vua Lê ở Đàng
Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong phải ra sức chuẩn bị, củng cố
lực lượng và tiềm lực quân sự, kinh tế, đồng thời tăng cường mở
rộng giao thương kinh tế với bên ngoài để tìm kiếm sự hậu thuẫn về
quân sự. Nguyên nhân nội tại này góp phần quan trọng thúc đẩy kinh
tế Đàng Ngoài phát triển dù trong bối cảnh chiến tranh.
Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVII, Đàng Ngoài xuất hiện những biểu
hiện của sự suy thoái. Khởi nghĩa của tôn thất nhà Lê, khởi nghĩa
nông dân bùng nổ.
Từ thực tế trên có thể thấy nhu cầu thống nhất về mặt lãnh thổ và
tập trung quyền lực là nhu cầu tất yếu của nhà nước Lê - Trịnh. Do
đó, việc phát triển kinh tế làm cơ sở cho việc xây dựng lực lượng
quân sự là yêu cầu bức thiết. Kinh tế Đàng Ngoài nói chung, kinh tế
thủ công nghiệp và thương nghiệp, ngoại thương Đàng Ngoài nói
riêng có động lực để phát triển trong điều kiện chiến tranh hoàn toàn

không phải là nghịch lý.
2.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Trong bối cảnh đất nước chiến tranh liên miên, đan xen là những
cuộc hưu chiến kéo dài, kinh tế Đàng Ngoài vẫn có sự phát triển làm
nền tảng cho sự hưng khởi của thương nghiệp. Nhìn chung, thế kỷ
XVII - XVIII, nền kinh tế Việt Nam có bước tiến bộ không thể phủ
nhận thể hiện qua nền nông nghiệp phát triển và đa dạng hóa, ngành
tiểu thủ công, kinh tế nội thương, ngoại thương tăng trưởng, đô thị
phát triển, lưu hành tiền tệ gia tăng. Đàng Ngoài hình thành mạng
lưới chợ ở khắp các địa phương, một số đô thị, trung tâm buôn bán
hưng thịnh. Hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ tương đối
thuận tiện cho thuyền bè đi lại, vận chuyển.
Sự hưng khởi của công, thương nghiệp thời kỳ dựa trên nền tảng
vật chất của kinh tế nông nghiệp mà căn nguyên sâu xa là do sự phổ
biến của hiện tượng tư hữu ruộng đất trong các thế kỷ này. Khi chế
độ tư hữu ruộng đất phát triển mạnh mẽ, kinh tế tiểu nông được mở
rộng làm xuất hiện sản phẩm nông nghiệp dư thừa, nguồn nguyên
liệu cho kinh tế thủ công nghiệp trở nên phong phú hơn, kích thích
kinh tế hàng hóa phát triển.
13


2.3. Vài nét về thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài
trước thế kỷ XVII
2.3.1. Thủ công nghiệp ở Đàng Ngoài trước thế kỷ XVII
Thủ công nghiệp Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời dựa trên
nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú. Từ trong lịch sử,
nghề thủ công truyền thống Việt Nam đa dạng loại hình nghề, kỹ thuật
ngày càng được nâng cao và trở nên tinh xảo ở một nghề chính như
nghề dệt, nghề gốm. Dưới thời Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc đều tồn tại

hai loại hình thủ công nghiệp: thủ công nghiệp do nhà nước quản lý và
thủ công nghiệp của nhân dân.
2.3.2. Thương nghiệp ở Đàng Ngoài trước thế kỷ XVII
Về cơ bản, ý thức hệ Nho giáo coi nông nghiệp là nghề gốc,
thương mại là nghề ngọn, chính sách của các chính quyền phong
kiến cơ bản là “trọng nông ức thương”. Tuy nhiên, ở một chừng mực
nhất định, hoạt động thương nghiệp vẫn diễn ra đáp ứng nhu cầu của
thực tế cuộc sống, là hoạt động mua bán của nhân dân trong nước,
giữa các làng xóm, vùng miền, nhân dân ở vùng biên giới với các
nước láng giềng như Trung Quốc, Ai Lao, Xiêm,… Nội thương của
các thời trải từ thời Lý đến thời Mạc tuy có sự phát triển khác nhau
từng thời nhưng đều có chung đặc điểm: việc buôn bán trong nước
lấy hệ thống chợ làm cơ sở, là địa điểm chính để trao đổi hàng hóa;
đồng tiền đã khẳng định được vị trí trong sự giao thương. Với ngoại
thương, có những thời điểm phát triển nhưng nhìn chung, các triều
đại phong kiến quân chủ có chính sách hạn chế sự giao thương với
người ngoại quốc vì mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia.
Tiểu kết chương 2:
Thế kỷ XVII - XVIII, Đại Việt nói chung, Đàng Ngoài nói riêng
chịu tác động sâu sắc bởi bối cảnh quốc tế và khu vực. Dù muộn hơn
so Đàng Trong nhưng Đàng Ngoài cũng đã tận dụng được những
thuận lợi do kỷ nguyên “thương mại biển Đông” đem lại cho sự phát
triển kinh tế, đặc biệt là ngoại thương. Bối cảnh chính trị trong các
thế kỷ này diễn biến phức tạp với sự hiện diện của 3 thế lực chính:
vua Lê, chúa Trịnh ở phía Bắc tạo nên thể chế chính trị song trùng
14


quyền lực và chúa Nguyễn ở phía Nam cho thấy một sự phân tán về
chính trị trên cả nước. Cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài,

theo lẽ thường sẽ tàn phá kinh tế. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm
của bối cảnh quốc tế và khu vực thế kỷ XVII - XVIII, đặc biệt là nhu
cầu về khí tài chiến tranh, sự hỗ trợ quân sự của các thế lực phương
Tây của chính quyền Lê - Trịnh đã tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển kinh tế công, thương nghiệp Đàng Ngoài trong các thế kỷ này.
Đại Việt nói chung, Đàng Ngoài nói riêng hội tụ được những điều kiện
thuận lợi từ truyền thống sản xuất thủ công nghiệp và những tiền đề hoạt
động thương nghiệp trong quá khứ để phát triển kinh tế công, thương
nghiệp và tiếp nhận những yếu tố bên ngoài, dự nhập mạnh mẽ vào mạng
lưới thương mại biển Đông trong thế kỷ XVII - XVIII.
Nền kinh tế trong nước có động lực để phát triển. Hiện tượng lớn
làm thời kỳ này khác với thời kỳ trước là sự phát triển của quyền tư
hữu. Xuất phát từ tư hữu ruộng đất, kinh tế nông nghiệp phát triển,
tạo đà cho thủ công nghiệp và thương nghiệp. Thủ công nghiệp gồm
có thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp dân gian cùng song
song phát triển, cung cấp nguồn hàng hóa cho hoạt động nội thương
và một phần cho xuất khẩu. Kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ ở
Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII và giảm dần từ đầu thế kỷ XVIII do nhiều
nguyên nhân chủ quan, khách quan. Sự đi xuống của nền kinh tế nói
chung, kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp gắn liền với những
biến động về chính trị, xã hội, điển hình là sự phát triển rầm rộ của
khởi nghĩa nông dân từ giữa thế kỷ XVIII.
CHƯƠNG 3
KINH TẾ THỦ CÔNG NGHIỆP
3.1. Chính sách của Nhà nước Lê - Trịnh đối với thủ công nghiệp
Chính sách của Nhà nước Lê - Trịnh đối với thủ công nghiệp thể hiện
trên các phương diện: Chính sách của Nhà nước đối với thợ thủ công
(gồm có thợ bách tác và thợ thủ công ở các địa phương); Quy định đối với
chất lượng và hình thức sản phẩm thủ công nghiệp; Quy định về trao đổi,
buôn bán sản phẩm thủ công nghiệp; Chính sách thuế đối với các nghề

thủ công nghiệp; Chính sách đối với nghề thủ công nghiệp khai thác.
15


3.2. Một số nghề thủ công tiêu biểu
Nghề thủ công ở Đàng Ngoài rất phong phú, chúng tôi sắp xếp
thành các nhóm nghề: Nghề gốm sứ; Nghề dệt, nghề nhuộm, nghề
thêu; Nghề xây dựng; Nghề mộc; Nghề khai mỏ, luyện kim; Nghề
kim hoàn; Nghề khảm trai, thếp vàng bạc, nghề ngọc; Nghề sơn,
Nghề làm giấy, nghề in cổ truyền và in tranh dân gian; Nghề đóng
thuyền; Nghề đan lát và một số nghề khác.
Tiểu kết chương 3:
Thế kỷ XVII-XVIII, chiến tranh Trịnh-Nguyễn diễn ra liên miên,
thuế khóa phu dịch nặng nề, khởi nghĩa nông dân bùng nổ nên cũng
có quan điểm cho rằng “các nghề thủ công bị đình đốn…nghề thủ
công không thể nào phát triển được”. Tuy nhiên, do nhu cầu trao đổi,
đặc biệt là với các lực lượng thương nhân nước ngoài, tận dụng thời
gian hưu chiến đan xen, các nghề thủ công nghiệp vẫn phát triển
mạnh mẽ, thể hiện qua số lượng các nghề thủ công tăng nhanh, số
lượng người làm nghề thủ công nhiều lên và xuất hiện thêm nhiều
ngành nghề. Chúng tôi nhóm thành 12 nhóm nghề nhưng khi bóc tách
thành từng nghề thủ công cụ thể, số lượng nghề là khá nhiều. Thủ công
nghiệp không chỉ phản ánh đời sống vật chất của nhân dân mà còn biểu
hiện nấc thang phát triển của văn hóa, văn minh dân tộc Việt Nam.
Các nghề thủ công phần nhiều tập trung ở vùng đồng bằng, mật độ
cao ở Thăng Long và tứ trấn - những vùng có nhiều điều kiện thuận lợi
cả về mặt thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu và vị trí địa lý thuận lợi cho
giao thương diễn ra.
Sự mở rộng của các ngành nghề thủ công là cơ sở cho một nền
thương nghiệp hướng đến xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải tất cả

sản phẩm những nghề thủ công kể trên đều trở thành hàng hóa xuất
khẩu mà đã có sự phân hóa: một số lượng lớn nghề thủ công cung cấp
sản phẩm cho nội thương và một số nghề trọng điểm như tơ lụa, gốm sứ
không chỉ phục vụ cho nội thương mà cả ngoại thương, góp phần tích
cực vào sự phát triển của thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII.
Từ cuối thế kỷ XVII, cùng với sự suy thoái của nền kinh tế Đàng
Ngoài, hoạt động sản xuất thủ công nghiệp bị đình đốn.
16


CHƯƠNG 4
KINH TẾ THƯƠNG NGHIỆP
4.1. Chính sách của Nhà nước Lê - Trịnh đối với thương nghiệp
4.1.1. Chính sách đối với nội thương
Chính sách của Nhà nước Lê - Trịnh đối với nội thương thể hiện qua:
Chính sách quản lý chợ, chính sách thuế (thuế chợ, thuế tuần ty, thuế
bến đò), chính sách tiền tệ, quy định về đơn vị đo lường.
4.1.2. Chính sách đối với ngoại thương
Đặc điểm nổi bật trong chính sách đối với ngoại thương của Nhà
nước Lê - Trịnh là Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương. Các
phương thức giao dịch phức tạp, thực thi biện pháp kiểm soát nghiêm
ngặt nhưng lại có sự thiếu sự nhất quán. Phần lớn thế kỷ XVII, nhà
nước thực thi chính sách thương mại thoáng mở, từ cuối thế kỷ XVII
- XVIII, chính sách thương mại thắt chặt hơn, cản trở các nước đến
tự do thông thương với Đại Việt nên hiệu quả đạt được của kinh tế
ngoại thương, đặc biệt trong thế kỷ XVIII đã bị hạn chế.
4.2. Nội thương
4.2.1. Đội ngũ thương nhân
Về nguồn gốc, thương nhân Việt xuất thân từ nông dân, hình
thành trong môi trường kinh tế - xã hội nông thôn phong kiến vốn

khép kín và đặc tính nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn đã quy định
những đặc điểm cơ bản như: căn tính tiểu nông, hạn hẹp và vốn và
tư duy về thương mại.
4.2.2. Các mặt hàng trao đổi chủ yếu
Các mặt hàng trao đổi là những sản vật, sản phẩm phục vụ nhu cầu
thiết yếu của người dân mọi tầng lớp trong xã hội Đàng Ngoài. Thông qua
biểu đánh thuế của Nhà nước, chúng ta có thể thấy mặt hàng trao đổi khá
phong phú và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước.
4.2.3. Tiền bạc trao đổi trong nước
Tiền đồng được sử dụng để buôn bán, trao đổi ở Đàng Ngoài là
chủ yếu. Ngoài ra, trong các thế kỷ này, vàng và bạc được dùng để
buôn bán những hàng hóa quan trọng.
Hoạt động cho vay nặng lãi “rất phổ biến và trở nên ghê tởm
ở Đàng Ngoài” do người nghèo khổ chiếm số lượng lớn nhất
trong số dân cư đông đúc.
17


Thế kỷ XVII-XVIII, hoạt động đổi tiền diễn ra khá thường xuyên
và trở thành một nghề mới trong xã hội.
4.2.4. Hệ thống chợ, bến, các trung tâm thương nghiệp, các
tuyến buôn bán
Gắn liền với hoạt động thương mại là hệ thống chợ, bến, các
trung tâm thương nghiệp và các tuyến buôn bán. Thế kỷ XVII, khi
thương nghiệp phát triển mạnh, những địa điểm này nhộn nhịp và trở
nên thưa thớt dần trong thế kỷ XVIII cùng với sự suy giảm của hoạt
động thương nghiệp và nền kinh tế Đàng Ngoài nói chung.
4.3. Ngoại thương
4.3.1. Đội ngũ thương nhân
Đội ngũ thương nhân hiện diện ở thị trường Đàng Ngoài thế kỷ

XVII - XVIII gồm có: thương nhân Việt, thương nhân Trung Quốc,
Nhật Bản, thương nhân Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp và thương
nhân một số nước khác.
4.3.2. Hàng hóa xuất khẩu
Cơ cấu hàng xuất khẩu được đề cập đến gồm có: tơ lụa, gốm sứ,
vàng, xạ hương và quế.
4.3.3. Hàng hóa nhập khẩu
Cơ cấu hàng nhập khẩu vào thị trường Đàng Ngoài gồm có: kim
loại tiền, vũ khí và khí tài chiến tranh, các loại vải ngoại nhập và một
số mặt hàng khác.
Tiểu kết chương 4:
Thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII được nghiên cứu
trên các phương diện: đội ngũ thương nhân, các mặt hàng xuất nhập khẩu
chủ yếu, hệ thống chợ, bến, các trung tâm thương nghiệp, các tuyến buôn
bán. Nhìn chung, kinh tế nội thương tương đối phát triển đã tạo tiền đề
cho sự mở rộng của ngoại thương Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII.
Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu thế kỷ XVII - XVIII phản ánh
một thực tế là: hàng xuất khẩu chủ yếu là những sản phẩm thủ công
nghiệp dựa trên lợi thế về tự nhiên. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là
khí tài chiến tranh và các mặt hàng xa xỉ, đáp ứng nhu cầu của các
nhà cầm quyền cho cuộc chiến tranh và sự hiếu kỳ, nhu cầu tiêu
dùng xa xỉ của một bộ phận vua chúa, quan lại, không phải là sự
buôn bán cho nhân dân. Theo đánh giá của tác giả Đỗ Thị Thùy Lan,
18


thị trường Đàng Ngoài để mua hơn là để bán. Trong những thế kỷ
này, yếu tố thị trường của nền kinh tế hàng hóa được thể hiện nhưng
không đầy đủ cho sự can thiệp quá mức của yếu tố chính trị, quân sự
và chính sách của Nhà nước Lê - Trịnh.

Từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, tình hình thương mại trở
nên trầm lắng hơn, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương là bởi nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trước hết là sự thay đổi thái
độ cũng như chính sách Nhà nước của chính quyền Lê - Trịnh.
Thương nhân Samuel Baron thẳng thắn chỉ rõ một thực tế: “Ở thời
điểm hiện tại họ còn giữ khoảng cách với người nước ngoài hơn
trước, thậm chí chẳng thèm đếm xỉa đến họ…Trước đây, bọn người
tầng lớp trên ở Đàng Ngoài rất chuộng hàng hóa nước ngoài còn bây
giờ họ dửng dưng với tất cả, ngoại trừ những nén vàng, nén bạc Nhật
Bản và những súc vải khổ rộng của châu Âu là còn hấp dẫn họ ít
nhiều. Họ chẳng thèm đoái hoài đến việc thăm thú các nước khác,
cho rằng chẳng có nơi đâu bằng vương quốc của họ và cũng chẳng tỏ
ra kính trọng những người đã đi ra nước ngoài”.
Người Anh đến Đàng Ngoài năm 1672 với những khởi đầu không
thuận lợi. Họ gặp phải vô vàn khó khăn từ phía phủ Chúa và sự cạnh
tranh khốc liệt của người Hà Lan. Người Anh từng than phiền về
việc mua bán chẳng theo một luật lệ nào mà phụ thuộc vào tâm trạng
của Chúa: “Nếu Chúa đang vui thì mọi kiến nghị của chúng tôi đều
được giải quyết một cách bất ngờ mà không dựa trên một điều khoản
nào và cũng không có tuyên bố hay hứa hẹn trước nào”.
Thương nhân Samuel Baron nhận định cuối thế kỷ XVII, việc
buôn bán với Đàng Ngoài thuộc loại ngán ngẩm nhất trong toàn xứ
Đông Ấn. Vì lẽ đó, các thế lực thương nhân phương Tây lần lượt rời bỏ
thị trường Đàng Ngoài từ cuối thế kỷ XVII, sang thế kỷ XVIII, thương
nhân ngoại quốc ở Đàng Ngoài phần lớn là người Trung Quốc.
Nền kinh tế trong nước ở thế kỷ này bị tác động mạnh mẽ bởi yếu
tố chính trị và tình trạng xã hội rối ren. Nông dân phiêu tán, khởi
nghĩa nông dân bùng nổ, sản xuất nông nghiệp đình đốn, thương
nhân rời bỏ thị trường Đàng Ngoài. Chính sách nhà nước khắt khe
hơn, quan lại nhũng nhiễu người buôn bán,…Tổng hòa những

nguyên nhân kể trên khiến thủ công nghiệp đình trệ, thương nghiệp
sa sút, là một bước thụt lùi đáng kể so với thế kỷ XVII.
19


CHƯƠNG 5
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ CÔNG, THƯƠNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI ĐÀNG NGOÀI
THẾ KỶ XVII - XVIII
Sự phát triển của kinh tế công, thương nghiệp góp phần quan
trọng vào sự hưng thịnh của toàn bộ nền kinh tế. Dưới tác động
của bối cảnh kỷ nguyên thương mại, vai trò năng động của
thương nhân phương Tây, sự chuyển biến trong hoạt động của
thương nhân người Việt, nền thương nghiệp nói riêng và toàn bộ
nền kinh tế Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII có những nhân tố
tích cực để phát triển. Nền sản xuất hàng hóa đã “thâm nhập vào
nền kinh tế phong kiến tự nhiên”, góp phần làm thay đổi cơ cấu
kinh tế phong kiến. Sự khởi sắc của kinh tế công thương thế kỷ
XVII - XVIII đã đưa đến nhiều chuyển biến quan trọng trong
chính trị, kinh tế, xã hội Đàng Ngoài.
5.1. Tác động đối với chính trị
Tác động đối với chính trị Đàng Ngoài thể hiện trên các phương
diện: ý thức hệ phong kiến, sự quản lý của Nhà nước, quân sự.
5.2. Tác động đối với kinh tế
Sự hưng khởi của kinh tế công, thương nghiệp đã tác động đến
sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đàng Ngoài trong các thế kỷ XVII XVIII. Do hạn chế của tư liệu, chúng tôi không có được những số
liệu cụ thể về tỉ trọng của từng thành phần kinh tế thủ công nghiệp,
thương nghiệp và nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, tình
hình kinh tế Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII đã phản ánh hiện
tượng chuyển đổi cơ cấu đã diễn ra trong thời kỳ này.

Kinh tế công, thương nghiệp mở rộng có những tác động trở lại đối
với nông nghiệp, thể hiện trên các phương diện sau: hiện tượng mua bán
ruộng đất, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nông nghiệp thế
kỷ XVII; thúc đẩy hoạt động khẩn hoang đất đai; số lượng nhân công
sản xuất nông nghiệp; mục đích sử dụng ruộng đất. Tuy nhiên, sang thế
kỷ XVIII, kinh tế công, thương nghiệp suy giảm đã tác động tiêu cực
đến kinh tế nông nghiệp.
20


5.3. Tác động đối với xã hội
Những chuyển biến về kinh tế làm nền tảng cho sự thay đổi
trong xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII. Những chuyển biến của
xã hội được thể hiện qua sự xuất hiện của thành phần dân cư mới,
hiện tượng di cư, một số biến chuyển ở làng Việt, sự du nhập của tôn
giáo, tín ngưỡng, khoa học kỹ thuật và sự hình thành chữ quốc ngữ, nếp
nghĩ và lối sống của con người có những thay đổi nhất định trong bối
cảnh kinh tế - xã hội đã biến chuyển của thế kỷ XVII - XVIII.
Tiểu kết chương 5:
Thủ công nghiệp và thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII
có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển. Sự
hưng khởi của kinh tế công, thương nghiệp tác động đến chính trị, quân
sự và góp phần làm chuyển biến của kinh tế - xã hội Đàng Ngoài trong
những thế kỷ này.
Nền kinh tế Đàng Ngoài phát triển, hoạt động giao thương từ
nông thôn tới đô thị trở nên nhộn nhịp. Mạng lưới chợ mở rộng đảm
bảo sự trao đổi thường xuyên của các làng xã, các địa phương, vùng
miền. Đô thị hưng khởi không chỉ ở Thăng Long - Kẻ Chợ mà còn ở
một số địa điểm khác như Phố Hiến, Domea (Đò Mè)…Kinh tế nông
thôn Đàng Ngoài do đó cũng có những biến chuyển nhất định.

Trong bối cảnh nhiều nhân tố mới, văn hóa - xã hội, tôn giáo, tín
ngưỡng không chỉ chịu tác động của sự thay đổi từ bên trong mà còn
ảnh hưởng từ những yếu tố bên ngoài. Đó là sự du nhập tôn giáo
mới, kiến thức mới về khoa học - kỹ thuật, chữ viết…Tổng hòa
những nguyên nhân chủ quan và khách quan, tác động sâu xa nhưng căn
bản của kinh tế công, thương nghiệp là đến nhận thức, đến tư duy của con
người về kinh tế, về mở cửa giao thương với bên ngoài, về giá trị của
thương nghiệp và đồng tiền. Từ đó, kéo theo những thay đổi trên nhiều
phương diện của xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII.

21


KẾT LUẬN
Kinh thế công, thương nghiệp Việt Nam là vấn đề nghiên cứu
rộng và có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Trong giới hạn của
một luận án Tiến sĩ Sử học, với tựa đề “Thủ công nghiệp và thương
nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII”, luận án chỉ tập trung nghiên
cứu về tình hình kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp ở Đàng
Ngoài, mối quan hệ giữa hai ngành kinh tế và những tác động của
chúng đối với xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII. Tác giả luận
án rút ra một số kết luận cơ bản sau:
1. Thế kỷ XVII - XVIII, nhìn chung, bối cảnh trong nước và quốc
tế tạo ra những cơ hội thuận lợi cho kinh tế thủ công nghiệp, thương
nghiệp phát triển. Xuất phát từ nhu cầu mở rộng thị trường sang
phương Đông, thương nhân các nước phương Tây hoạt động tích cực
và góp phần quan trọng trong việc mở rộng mạng lưới thương mại
nội Á. Thương mại khu vực vì thế thêm tác nhân để trở nên sôi động
trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Xã hội Đại Việt chịu tác động
sâu sắc bởi bối cảnh quốc tế.

2. Với tham vọng giành được thắng lợi trong cuộc chiến dai dẳng
mà chưa phân thắng bại, nhà Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa
Nguyễn ở Đàng Trong tận dụng mọi thời cơ để củng cố và phát triển
tiềm lực kinh tế, quân sự. Chính quyền Lê - Trịnh cũng đã kịp thời
có những chính sách chủ động mở cửa giao thương với các quốc gia
trong khu vực và các nước phương Tây. Do đó, kinh tế thương
nghiệp và thủ công nghiệp có điều kiện để phát triển.
3. Trên cơ sở truyền thống sản xuất thủ công nghiệp lâu đời,
thêm những tác động tích cực của kinh tế hàng hóa, nhìn chung kinh
tế thủ công nghiệp Đàng Ngoài khởi sắc đáng kể trong thế kỷ XVII
và suy giảm dần trong thế kỷ XVIII. Số lượng các nghề thủ công
nghiệp gia tăng với sự xuất hiện của nhiều nghề mới và kỹ thuật sản
xuất mới được du nhập từ bên ngoài, chủ yếu từ Trung Quốc qua con
đường đi sứ. Ở nhiều địa phương, trong một số nghề, thủ công
nghiệp bước đầu phát triển theo hướng chuyên môn hóa, biểu hiện
tính chất của một nền thủ công nghiệp hướng đến xuất khẩu.
4. Kinh tế thương nghiệp Đàng Ngoài, đặc biệt là ngoại thương
phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ XVII và suy thoái từ cuối thế kỷ XVII
sang thế kỷ XVIII.
22


Nội thương phát triển, mạng lưới chợ mở rộng khắp các địa
phương Đàng Ngoài. Mặt hàng trao đổi đa dạng, phong phú, phục vụ
đời sống dân sinh và một phần dành cho xuất khẩu.
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, chưa có thời điểm
nào kinh tế thương nghiệp phát triển ở đỉnh cao và chịu tác động sâu
sắc bởi tình hình quốc tế như thế kỷ XVII. Thời kỳ “thương mại biển
Đông” mở ra với những hoạt động sôi động của các nước trong khu
vực. Đại Việt không là ngoại lệ, đặc biệt khi Đại Việt ở vị trí “ngã tư

các tộc người và các nền văn minh”. Chưa bao giờ trong lịch sử chế
độ phong kiến Việt Nam, Đại Việt nói chung, Đàng Ngoài nói riêng
lại có sự hiện diện của đông đảo lực lượng thương nhân ngoại quốc
như ở thế kỷ XVII - XVIII. Bên cạnh những thương nhân truyền
thống ở phương Đông như Hoa thương, Nhật thương, thương nhân
Xiêm, Indonesia,… thời kỳ này còn có thêm những thương nhân từ
phương Tây: Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh làm tăng thêm sự sôi
động của thị trường Đàng Ngoài.
5. Về mối quan hệ giữa kinh tế thủ công nghiệp và thương
nghiệp: nếu coi thương nghiệp là “cầu” thì thủ công nghiệp đóng vai
trò là “cung”, tương tác lẫn nhau và tạo cơ hội cho nhau phát triển.
Mối quan hệ biện chứng này thể hiện xuyên suốt trong các thế kỷ
XVII - XVIII. Thế kỷ XVIII, thủ công nghiệp sa sút khiến kinh tế
thương nghiệp giảm mạnh và thương nghiệp không thể tạo đà vực
dậy kinh tế thủ công nghiệp. Thực tế trên bị quy định bởi mối quan
hệ của hai bộ phận kinh tế với nhau và bởi mối liên hệ mật thiết của
kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp với kinh tế nông nghiệp.
6. Sự phát triển của kinh tế công, thương nghiệp tác động tích
cực đến sự hưng thịnh kinh tế của các đô thị và việc hình thành nên
diện mạo của kinh đô quốc gia Đại Việt.
7. Bên cạnh những yếu tố như chính sách của Nhà nước Lê Trịnh, thái độ cởi mở của vua chúa, quan lại đối với thương nhân
ngoại quốc, thủ công nghiệp và thương nghiệp là nền tảng căn bản, là
những yếu tố quyết định cho Đàng Ngoài dự nhập mạng lưới thương
mại sôi động thời kỳ này.
Quá trình dự nhập khu vực, quốc tế và quan hệ thương mại với
các nước trong khu vực của Đại Việt chịu tác động khá sâu sắc bởi
hoạt động và chính sách của các nước láng giềng. Điển hình trong
giai đoạn này là chính sách “Hải cấm” của triều đình Mãn Thanh.
23



×