TiÓu luËn – TriÕt häc
LỜI GIỚI THIỆU
Thế kỷ XX sắp đi qua, nền kinh tế vật chất, dựa chủ yếu trên cơ sở sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên,
sản xuất, chế biến, phân phối, sử dụng sản phẩm vật chất làm nền tảng, đang
chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, trong đó việc sản xuất, truyền tải, sử
dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế. Từ nay các giá trị kinh tế
lớn nhất đuợc làm ra không phải trong khu vực trực tiếp sản xuất của cải vật
chất mà trong khu vực khoa học, kỹ thụật, dịch vụ. Vai trò của tài nguyên
thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày càng giảm so với tiềm năng trí tuệ,
tinh thần, văn hoá. Nếu ba mươi năm trước, sự tiêu hao vật chất và năng
lượng với nhịp độ khó kiềm chế nổi của nền văn minh công nghiệp truyền
thống đã khiến các nhà kinh tế thuộc câu lạc bộ Roma lên tiếng kêu gọi các
chính phủ ngừng tăng trưởng kinh tế để ngăn ngừa thảm hoạ diệt vong, thì
cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đảo lộn tình hình và đưa nhân loại
tiến lên một nền văn minh mới, cao hơn: nền văn minh trí tuệ, trong đó tăng
trưởng không ô nhiễm môi trường sống. Trong xu thế toàn cầu hoá đi đôi với
cạnh tranh quyết liệt, nền kinh tế tri thức tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho những
nuớc đi sau có thể dựa vào tiềm năng chất xám (tri thức) để nhanh chóng đuổi
kịp các nước khác, song cũng hàm chứa những thách thức to lớn, những khó
khăn, rủi ro và cạm bẫy không phải luôn luôn dễ nhìn và dễ tránh.
Việt Nam nằm trong nhóm các nước đi sau, thấy rõ được vai trò của tri thức
đối với sự phát triển nền kinh tế của mình để có thể đuổi kịp các nước khác.
Phân tích để hiểu rõ vai trò của tri thức đối với sự phát triển kinh tế nước nhà
với mong muốn thúc đẩy sự phát triển ấy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Vai trò của
tri thức đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay”.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của của thầy Đặng Việt Thường đã
tạo diều kiện cho em hoàn thiện đề tài này.
Với trình độ còn hạn chế nên trong phân tích đôi chỗ còn chưa sâu sắc, em rất
mong được sự đóng góp ý kiến thêm của thầy.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
TiÓu luËn – TriÕt häc
I-ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới, lấy trí lực làm
nguồn tài nguyên quan trọng hàng đầu; lấy sử dụng, phân phối, sản xuất tri
thức làm nhân tố chủ yếu. Đó là thời đại mà khoa học công nghệ là lực lượng
sản xuất thứ nhất, thời đại của nền kinh tế tri thức, của xã hội thông tin. Khác
với loại hình kinh tế trước đây lấy công nghiệp truyền thống làm nền tảng, lấy
nguồn tài nguyên thiên nhiên thiếu thốn và ít ỏi làm chỗ dựa để phát triển sản
xuất, kinh tế tri thức lấy công nghệ cao làm lực lượng sản xuất, lấy trí lực nguồn tài nguyên vô tận làm chỗ dựa chủ yếu, lấy công nghệ thông tin làm
nền tảng để phát triển.
Từ lịch sử văn minh nhân loại đến nay, theo góc độ tiến bộ của khoa học công
nghệ và phát triển lực lượng sản xuất, quá trình phát triển kinh tế có thể chia
làm 3 giai đoạn: giai đoạn kinh tế lao động chân tay (sức người), giai đoạn
kinh tế nguồn tài nguyên (tự nhiên) và giai đoạn kinh tế tri thức. Trong nền
kinh tế nông nghiệp, sự giàu có được tạo ra gắn bó chặt chẽ với đất đai và sức
lao động. Khối lượng sản phẩm quyết định sự giàu có và đến lượt mình chính
sự giàu có lại xác định sức mạnh chính trị, quân sự. Sau cuộc cách mạng công
nghiệp, những nền kinh tế có khả năng tạo ra các sản phẩm công nghiệp chất
lượng cao được coi là những nền kinh tế giàu có, phồn thịnh. Trong quá trình
dịch chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, các thiết bị máy
móc - sản phẩm của công nghiệp làm tăng hiệu suất lao động và giảm lực
lượng lao động trong nông nghiệp. Hiện tượng tương tự đang diễn ra trong
qúa trình dịch chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Công nghiệp được hỗ trợ bởi các máy tính điện tử giúp cho các hệ thống tự
động hoá sản xuất có khả năng đạt hiệu suất và chất lượng cao hơn rất nhiều
và giải phóng nguồn lực lao động lớn.
Trong nền kinh tế tri thức, sự giàu có, sức mạnh chính trị và quyền lực được
tạo ra nhờ thông tin và tri thức. Hàng loạt những sản phẩm công nghiệp và
2
TiÓu luËn – TriÕt häc
nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người, tuy nhiên
chỉ cần số ít lực lượng lao động cũng đủ cung cấp các sản phẩm công nghiệp
và nông nghiệp thoả mãn nhu cầu của con người.
Trên thế giới, các nước công nghệ thông tin không chỉ tác động mạnh mẽ đối
với lĩnh vực sản xuất mà còn có những ảnh hưởng xã hội, văn hoá sâu sắc
theo nhiều kiểu khác nhau và được đặc trưng bởi quá trình "Tin học hoá". Tin
học hoá là chìa khoá của quá trình dịch chuyển sang thời đại mới. Trong
tương lai gần khoảng 20 quốc gia sẽ bước vào kinh tế tri thức, trong khi phần
còn lại của thế giới vẫn ở trong xã hội công nghiệp, hoặc thậm chí trong xã
hội nông nghiệp. Khoảng cách giữa các xã hội đang diễn ra quá trình tin học
hoá và những xã hội mới bắt đầu dường như càng ngày càng lớn hơn và sâu
sắc hơn.
Chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ chuyển từ nền kinh tế công nghiệp
truyền thống sang một Nền Kinh tế Mới. Nền Kinh tế Mới này ít nhất có đến
bốn tên gọi khác nhau để diễn đạt cùng một nội dung: sản xuất và truyền tải
thông tin (tri thức) trở nên quan trọng hơn nhiều so với sản xuất hàng hóa
công nghiệp. Những người quan tâm nhiều đến khía cạnh kỹ thuật (công
nghệ) của vấn đề thì thích dùng khái niệm Nền Kinh tế Số hóa (Digital
Economy) hoặc Nền Kinh tế Thông tin (Information Economy). Một số người
khác muốn nhấn mạnh rằng khoa học và công nghệ đang dần dần trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng nhất, như Mác đã từng tiên đoán từ
giữa thế kỷ 19, thì thích dùng khái niệm Nền Kinh tế Tri thức (Knowledge
Economy) hay Nền Kinh tế Học hỏi (Learning Economy).
Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước thời kỳ đổi mới, chúng ta
cũng đã từng mắc khuyết điểm nóng vội chủ quan trong việc xác định mục
tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và quản lý kinh tế. Với đường lối đổi mới đúng đắn do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, hơn 12 năm qua, nhân dân ta đã được những thành tựu to lớn trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh
3
TiÓu luËn – TriÕt häc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giầu nước
mạnh, xã hội công bằng và văn minh, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mục
tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ 9 đã chỉ rõ:
“chúng ta phải khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý trí quật cường, phát
huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn,
lạc hậu” “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhan và bền vững”. Chúng ta đang kiên định thực hiện đường lối
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; hội nhập và mở cửa, Việt nam
sẵn sàng là bạn với tất cả các nước phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển, phát triển kinh tế và văn hóa, làm cho đất nước giầu có và công bằng
văn minh, chính là con đường đi tới mục tiêu lý tưởng của Đảng và nhân dân
ta.
C. Mác và Ph. Ănghen đã viết: “Xưa nay, tư tưởng không thể đưa
người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được; trong bất cứ tình huống nào, tư
tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự
thế giới cũ mà thôi. Thật vậy, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái
gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần phải có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn”. Bởi vậy, vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải là
ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế
giới khách quan, từ đó hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp
đúng đắn, đồng thời có ý trí, quyết tâm cần thiết cho hoạt động của mình. Sức
mạnh của con người là ở chỗ xuất phát từ thực tế khách quan, căn cứ vào điều
kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới
khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý trí quyết tâm cao nhằm phục
vụ lợi ích của con người và xã hội. Phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách
quan thì cải tạo thế giới khách quan mới có hiệu quả. Ở đây, vai trò năng
động, sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan của con người có vị thế hết
sức quan trọng.
4
TiÓu luËn – TriÕt häc
Tuy nhiên, phải thấy rằng, thế giới vật chất – với những thuộc tính và
quy luật vốn có của nó – tồn tại khách quan, không phụ thuộc và ý thức con
người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn “xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khi bàn về vai trò của tri thức, của khoa học đối với nền sản xuất
đương đại, người ta thường nhắc tới một luận đề để nói về đặc trưng của nền
sản xuất mới, rằng: "Ngày nay, tri thức hay nói khác đi là khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp". Như vậy, phải chăng trong một thời gian
dài trước đây, tri thức, khoa học không phải là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều đó có đúng không?
Người ta chỉ có thể nói: Trong tiến trình phát triển của các nền sản xuất, vai
trò, mức độ cùng với cách thức và quy mô tác động của tri thức, của khoa học
để làm nên năng lực và trình độ của các nền sản xuất có những bước phát
triển khác nhau từ thấp tới cao, từ nhỏ tới lớn, từ giản đơn đến phong phú, đa
dạng. Cũng vì thế mà từ vị thế bình thường, từ vị thế còn có thể thay thế
được, tri thức, khoa học đã trở thành yếu tố mang tính quyết định và không có
gì thay thế nổi đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội của loài người...
Còn lúc nào và bao giờ cũng vậy, tri thức, khoa học không hề nằm ngoài và
càng không bao giờ lại không phải là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tất cả những lý giải trên đây đều có thể được cắt nghĩa rõ ràng nếu chúng ta
hiểu đầy đủ về vai trò và tiến trình phát triển của công cụ lao động.
Suy cho cùng, cái cơ bản nhất, nấc thang phát triển cao nhất của con người so
với muôn loài chính là ở chỗ con người có tri thức đến mức độ đủ sức tạo ra
công cụ lao động cho mình từ những tri thức ấy.
Vậy tri thức là gì?
5
TiÓu luËn – TriÕt häc
Quan điểm Marxit về ý thức
Trước hết ta xét về nguồn gốc của ý thức
Trong sự phát triển của nhân loại đã không ngừng diễn ra cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa duy vật
biện chứng với chủ nghĩa duy vật siêu hình xung quanh vấn đề nguồn gốc của
ý thức. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất, sinh ra vật chất,
chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy tâm tầm
thường lại coi ý thức cũng là một dạng vật chất. Theo họ, mọi sự vật của thế
giới đều có ý thức. Những quan điểm như vậy về ý thức đều sai lầm. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: ý thức của con người là sản phẩm của
quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử – xã hội. Vì vậy khi xem xét nguồn gốc
của ý thức ta phải xem xét nó trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Ở các học thuyết triết học duy tâm khác nhau, quan niệm về ý thức
cũng có sự khác nhau nhất định. Song, về thực chất, họ giống nhau ở chỗ tách
ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức làm tiền đề xuất phát điểm để suy ra thế
giới tự nhiên.
Chúng ta không nhìn thấy ý thức cũng không chụp ảnh được ý thức.
Nhưng ý thức không phải là một hiện tượng siêu tự nhiên tồn tại độc lập với
vật chất và càng không thể sinh ra thế giới vật chất. Ý thức tách khỏi vật chất
bị tuyệt đối hoá thành “vị thần sáng tạo ra hiện thực” - đó chỉ là một tự trừu
tượng chết, một bịa đặt phi lý kiểu thần học. Ngay cả các nhà duy tâm trước
Mác cũng chỉ ra mối liên hệ khăng khít của ý thức với vật chất. Họ có nhiệm
vụ đóng góp đáng kể trong việc chứng minh “tính có sau”, sự phụ thuộc của ý
thức vào vật chất. Nhưng do hạn chế của sự nhận thức khoa học đương thời
và cũng do không nắm được phép biện chứng, nên họ không giải thích nổi
những vấn đề phức tạp có liên quan đến nguồn gốc và bản chất của ý thức.
Lê-nin đã cảnh cáo rằng, nếu coi tư tưởng (ý thức) là có tính vật chất, tức là đi
một bước sai lầm đến chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm
6
TiÓu luËn – TriÕt häc
Ý thức là đặc tính riêng của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là
bộ não con người. Bộ não người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý
thức chỉ diễn ra trong bộ não con người, trên cơ sở các quá trình sinh lý – thần
kinh của não. Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng riêng cho con người,
được phát triển từ thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất. Đó là năng lực
giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này thành những đặc điểm của hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Các tổ chức, các hệ
thống vật chất tiến hoá khác nhau, thuộc tính phản ánh của chúng cũng phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phản ánh ý thức của con
người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Ý thức là thuộc
tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người.
Bộ não người - cơ quan phản ánh thế giới vật chất xung quanh – và tác động
của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức.
Sự ra đời của bộ não người, cũng như sự hình thành con người và xã
hội loài người nhờ hoạt động lao động và giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ. Lao
động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người và xã hội loài
người khác hẳn với các loài động vật khác. trong quá trình lao động con người
biết chế tạo ra các loại công cụ để sản xuất ra của cải vật chất. công cụ ngày
càng phát triển làm tăng khả năng của con người tác động vào tự nhiên, khám
phá và tìm hiểu tự nhiên, bắt tự nhiên phải bộc lộ những thuộc tính của mình.
Lao động của con người là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới
khách quan làm biến đổi thế giới khách quan, cải tạo thế giới khách quan
nhằm thảo mãn nhu cầu của con người. Quá trình đó cũng làm biến đổi chính
bản thân con người, làm cho con người càng nhận thức sâu sắc hơn thế giới
khách quan.
Trong quá trình lao động, bộ não người phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát
7
TiÓu luËn – TriÕt häc
triển. Hoạt động lao động của con người đã đưa lại bộ não người năng lực
phản ánh sáng tạo về thế giới. Hoạt động của con người đồng thời cũng là
phương thức hình thành, phát triển ý thức. Ý thức với tư cách là hoạt động
phản ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình con người lao
động làm biến đổi thế giới xung quanh. Lao động sản xuất là cơ sở của sự
hình thnàh và phát triển ngôn ngữ. Trong lao động con người tất yếu có những
quan hệ với nhau và có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm. Từ đó ngôn ngữ ra đời
và phát triển cùng với lao động. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai là cái
“vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội,
pnản ánh một cách khái quát sự vật. Nhờ có ngôn ngữ con người tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Ngôn ngữ là phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự
phản ánh khái quát hoá, trừu tượng hoá, tức là của quá trình hình thành ý
thức. lao động và ngôn ngữ là “hai sức kích thích chủ yếu” biến bộ não con
vật thành bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành
và phát triển ý thức. chủ nghĩa duy vật biện chứng đã làm rõ nguồn gốc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức. Nếu như nguồn gốc tự nhiên là điều
kiện cần thì nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để hình thành ý thức cuả con
người. Như vậy ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự
nhiên và lịch sử. Nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là thực tiễn xã hội. ý thức là hiện tượng xã hội. Đó là cơ sở lý luận khoa
học để chúng ta đấu tranh vạch rõ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật siêu hình về ý thức.
Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, nhưng đến lượt nó, ngôn ngữ thúc
đẩy lao động phát triển về chất lượng. Thông qua hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới khách quan, con người nhận thức được bản chất của thế giới, nhờ
ngôn ngữ ghi lại tri thức về đối tượng, đồng thời tổng kết hoạt động của con
người và giữa các thế hệ người với nhau trong lịch sử. Nếu ở động vật, kinh
8
TiÓu luËn – TriÕt häc
nghiệm sống chủ yếu được trao đổi qua di truyền, bản năng, thì ở loài người
chủ yếu qua kỹ thuật và ngôn ngữ, kinh nghiệm hiểu biết của người này được
truyền cho người kia, thế hệ này được truyền cho thế hệ khác. Như vậy, ý
thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân, mà là hiện tượng có tính
chất xã hội; do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý
thức không thể hình thành và phát triển được. Từ những điều đã trình bầy trên
đây, có thể khẳng định rằng, để có ý thức xuất hiện phải cần và đủ bốn yếu tố:
hiện thực khách quan, bộ óc con người,lao động và ngôn ngữ. Nguồn gốc trực
tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao
động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện
tượng xã hội.
Bản chất của ý thức
Ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh
thế giới vật chất, diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong qua trình
lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ. Vì vậy, ý thức không có đặc tính vật
chất như quan niệm của chủ nghĩa duy vật tầm thường, và cũng không phải là
cái gì thần bí như quan niệm của chủ nghĩa duy tâm. ý thức chỉ là đặc tính của
một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.
Ý thức là hiện tượng tâm lý xã hội bao hàm nhiều yếu tố khác nhau như
tri thức, tình cảm ý trí, lòng tin …, là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ
óc con người. ý thức không phải là sự phản ánh tuỳ tiện, xuyên tạc hiện thực
khách quan. Ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi ở trong đó”. Nói cách khác ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan
một cách tích cực, chủ động sáng tạo. Bản chất đó được thể hiện qua đặc tính
và cấu trúc của nó.
Phản ánh ý thức là phản ánh tích cực, chủ động mang tính mục đích.
Động vật phản ứng lại các tác động của môi trường mang tính trực tiếp;
do vậy, theo một ý nghĩa nhất định, nó phải chấp nhận ân huệ của tự nhiên,
9
TiÓu luËn – TriÕt häc
lệu thuộc vào hoàn cảnh có tính chất bản năng. Nhưng con người khác hẳng
với con vật ở khả năng lựa chọn của sự phản ánh. Sự phản ánh của con người
mang tính mục đích. C.Mác viết: “Con nhện làm những động tác giống như
động tác của người thợ dệt, …còn ong còn làm cho một số nhà kiến trúc phải
hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong
giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã
xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi”. Tính mục đích của sự phản ánh
ý thức còn tạo ra khả năng phản ánh vượt trước hiện thực hướng dẫn hoạt
động của con người cỉa tạo thế giới khách quan. Sự phản ánh đó không dừng
lại ở cái trực tiếp bề ngoài, mà đi sâu vào nắm bắt bản chất, quy luật vận động
và phát triển của sự vật. Từ đó con người dự báo được kết quả, lường trước
được những tình huống tốt hoặc xấu ảnh hưởng đến kết quả hoạt động và điều
chỉnh chương trình, dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, xây dựng nên các
mô hình lý tưởng, vạch ra phương pháp hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục
đích.
Phản ánh ý thức mang tính sáng tạo.
Tâm lý động vật phản ánh nguyên xi thế giới bên ngoài theo nghĩa
chúng chỉ lợi dụng những cái gì có sẵn trong tự nhiên. Còn “ý thức con người
không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”.
Nhưng, không được hiểu sự “sáng tạo” theo cách diễn đạt của các nhà duy
tâm, sự sáng tạo hoàn toàn tách khỏi hiện thực vật chất. Phản ánh sáng tạo
bao giờ cũng xuất phát từ hiện thực, trên cơ sở của hiện thực, sáng tạo trong
khuôn khổ và theo tính vật chất, quy luật của sự phản ánh. Phản ánh sáng tạo
là đặc tính chỉ xuất hiện ở con người nhờ khả năng tư duy trừu tượng. Từ hiện
thực vật chất đã có, con người sáng tạo ra những vật phẩm hoàn toàn mới đáp
ứng nhu cầu của mình.
Ý thức ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn xã hội,
do thực tiễn xã hội cùng các quy luật xã hội chi phối, quyết định; cho nên ý
thức mang bản chất xã hội. Đây là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con
10
TiÓu luËn – TriÕt häc
người với tâm lý động vật. Đây cũng là phân biệt về nguyên tắc ý thức của
con người với cái gọi là suy nghĩ “máy móc”
Chủ nghĩa duy vật tầm thường đã quy ý thức về với vật chất. Ngược lại
chủ nghĩa duy tâm quan niệm ý thức như một thực thể độc lập, là thực tại duy
nhất. Cả hai quan điểm đó về ý thức đều sai lầm. Thực ra, cả ý thức và vật
chất đều là “hiện thực”, nghĩa là đều tồn tại thực. Sự khác nhau giữa chúng
chỉ là ở chỗ vật chất là hiện thực khách quan, còn ý thức là hiện thực chủ
quan. Theo Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc người
và được cải biến đi ở trong đó. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Chủ quan theo nghĩa là sự phản ánh thế giới bởi bộ
óc người (được thực hiện ở trong bộ óc con người), gắn liền với hoạt động
khái quát hoá, trừu tượng hoá, có định hướng có lựa chọn nhằm tạo ra những
tri thức sau sắc và nhiều mặt về các tính quy luật khách quan của thế giới. Tuy
là hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái
khách quan quy định và có nội dung phản ánh là cái khách quan. Cố nhiên
không phải chỉ cần thế giới xung quanh tác động lên bộ óc con người là mặc
nhiên sinh ra ý thức. Không phải riêng bộ óc mà là con người và các thế hệ
loài người qua hoạt động thực tiễn xây dựng trong đầu óc mình những hình
ảnh hoàn chỉnh về sự vật. Có như vậy, ý thức mới mang ý nghĩa là sự phản
ánh sáng tạo, tích cực thế giới khách quan.
Ý thức là một hiện tượng xã hội. Điều này có ý nghĩa: “…ngay từ đầu ý
thức là một sản phẩm xã hội, mà vẫn là như vậy chừng nào con người vẫn tồn
tại”.
Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn lịch sử, chịu sự
chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu của các quy luật xã
hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con
người quy định. Ý thức nang bản chất xã hội. Đây là sự khác biệt rất cơ bản
của ý thức con người so với tâm lý động vật, là ở chỗ phân biệt về nguyên tắc
ý thức của con người với cái gọi là “bộ óc” hay là “suy nghĩ” của máy móc.
11
TiÓu luËn – TriÕt häc
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm ý thức như một thực thể độc lập, là thực thể
duy nhất, là cái có trước từ đó sinh ra vật chất. Chủ nghĩa duy vật tầm thường
coi ý thức là một dạng vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ
động thế giới vật chất. Cả hai quan điểm đó về ý thức đều sai lầm. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng khẳng định ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật
chất vào bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn. Bản chất của ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Chủ quan theo nghĩa ý thức là
hình ảnh của sự vật, là sự phản ánh của thế giới khách quan bởi bộ não con
người, gắn liền với hoạt động khái quát hoá, trừu tượng hoá, có định hướng,
có lựa chọn nhằm tạo ra hững tri thức về sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan. Ý thức là hình ảnh chủ quan, hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình
ảnh vật lý. Ý thức lấy cái khách quan làm tiền đề, nội dung của ý thức là do
thế giới khách quan quy định.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan có nghĩa ý thức là
sự phản ánh sáng tạo, tích cực thế giới khách quan. Phản ánh ý thức là sáng
tạo, do nhu cầu thực tiễn quy định. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải
nhận thức cái được phản ánh. Sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản
ánh, dựa trên cơ sở của phản ánh. Phản ánh ý thức là tích cực, sáng tạo, vì
phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt động thực tiên xã hội và là sản phẩm
của các quan hệ xã hội. ý thức chịu sự chi phối chủ yếu của các quy luật xã
hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều
kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. Ý thức mang bản chất xã
hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật
biện chứng có cơ sở để khẳng định rằng: các sự vật, hiện tượng đầu có cùng
bản chất vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và thông qua vật chất, thế
giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận cả về bề rộng lẫn bề sâu, vật
chất không được sinh ra và không bị mất đi mà chỉ chuyển hoá từ dạng này
12
TiÓu luËn – TriÕt häc
sang dạng khác. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, thế giới không có gì khác ngoài
vật chất đang vận động, chuyển hoá và do vật chất vận động, chuyển hoá sinh
ra.
Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo vật chất, là cấp độ đặc
biệt của tổ chức vật chất. ở đây nhân tố hoạt động là những con người có ý
thức. Song điều đó không làm mất đi tính vật chất, khách quan của đời sống
xã hội, của các quan hệ vật chất xã hội. Xã hội là một bộ phận của thế giới vật
chất, có tảng tự nhiên, có kết cấu và quy luật vận động khách quan không phụ
thuộc vào ý thức con người. vật chất dưới dạng xã hội là kết quả của hoạt
động con người. Con người có vai trò năng động, sáng tạo trong thế giới vật
chất, chứ không phải bất lực trước thế giới.
Ở đây, điều cần nhấn mạnh là triết học Mác – Lênin, mà trong đó có
quan niệm duy vật về lịch sử đã đóng góp quan trọng vào việc chứng minh
nguyên lý về sự thống nhất vật chất của thế giới. Việc làm sáng tỏ vai trò
quyết định của phương thức sản xuất của cái vật chất trong việc phát triển xã
hội, việc chứng minh vị trí hàng đầu, ưu thế của các kinh tế trong hệ thống
các quan hệ xã hội đã tạo cơ sở để đuổi cổ những lực lượng “bí hiểm”, “siêu
tự nhiên” ra khỏi lĩnh vực các hiện tượng xã hội, để nghiên cứu những quy
luật khách quan của xã hội.
Như vậy, thế giới cả tự nhiên lẫn xã hội, về bản chất là vật chất, thống
nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó vĩnh hằng
với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ.
Học thuyết Mác – Lênin đã trình bầy về vật chất, vận động, không gian,
thời gian và sự thống nhất vật chất của thế giới. Học thuyết đã góp phần xác
lập thế giới quan duy vật khoa học và có ý nghĩa phương pháp luận to lớn
trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn cũng như trong cuộc đấu
tranh chống những quan điểm duy tâm và tôn giáo về đời sống xã hội.
13
TiÓu luËn – TriÕt häc
Tri thức và nền kinh tế tri thức
Ý thức là hiện tượng tâm lý tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp, bao hàm
nhiều yếu tố khác nhau như tri thức, tình cảm, lòng tin, ý chí …, trong đó tri
thức là yếu tố căn bản nhất. Tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại
và theo đó một cái gì đó nẩy sinh ra đối với ý thức, cho nên một cái gì đó nẩy
sinh ra đối với ý thức, chừng nào mà ý thức biết cái đó. Quá trình hình thành
và phát triển ý thức cũng chính là quá trình mà con người tìm kiếm, tích luỹ
tri thức về thế giới xung quanh. Hiểu biết về sự vật càng nhiều thì ý thức của
con người về sự vật đó càng sâu sắc.
Quá trình hình thành tri thức ở con người chịu sự tác động của những
nhu cầu, lợi ích khác nhau, theo đuổi những mục đích, trải qua những xúc
cảm khác nhau. Nói cách khác, tri thức, với những mức độ khác nhau, phải
được thực hiện cùng với nhân tố tình cảm thì mới phát huy được tác dụng.
Không có các “xúc cảm của con người” thì không bao giờ có thể có sự tìm tòi
chân lý.
Ý thức không có nội dung thực tế, tức là không có một cái gì hiện thực
cả, không bao hàm tri thức; nếu không dựa vào tri thức thì ý thức là một sự
trừu tượng trống rỗng, thuần tuý, không giúp ích cho con người trong hoạt
động thực tiễn. Nhưng tri thức mà không thông qua tình cảm, không chuyển
thành lòng tin thì vẫn chưa thể là ý thức trong hành động. Chính vì vậy, mà
nền kinh tế hiện nay của chúng ta là nền kinh tế dựa trên thông tin và tri thức
chứ không phải là ý thức.
Tri thức nhất là tri thức về giới tự nhiên có quan hệ mật thiết với sản
xuất, do đó thuật ngữ kinh tế tri thức quả là có một nội hàm hợp lý. Tri thức là
sản phẩm của lao động, kết quả của "thái độ tích cực của con người đối với tự
nhiên", cũng là biểu hiện cụ thể về năng lực tư duy mà chỉ duy nhất loài người mới có. Sản phẩm của tri thức do đó xuất hiện cùng với tiếng nói và tiếng
nói trở thành "vật mang" của tri thức khi thực hiện sự giao tiếp giữa những cá
nhân với nhau, tiền đề của mọi quá trình sản xuất. Khi có chữ viết thì sản
14
TiÓu luËn – TriÕt häc
phẩm tri thức đã có thể lưu trữ ngoài trí nhớ (bộ óc) của con người. Sách trở
thành vật mang sản phẩm tri thức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng
sản phẩm tri thức, tức là nâng cao giá trị sử dụng của chúng. Xét cho cùng thì
ngôn ngữ tự nhiên cũng là sản phẩm tri thức, hơn thế nữa lại là sản phẩm tri
thức loại độc đáo nhất của nhân loại.
Còn kinh tế tri thức là một trình độ phát triển cao của nền kinh tế, phát
triển dựa trên cơ sở lấy trí lực làm nguồn tài nguyên chủ yếu. Khoa học công
nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành công nghệ cao trở
thành ngành nghề sản xuất quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế tri thức.
Vai trò của tri thức đối với việc phát triển kinh tế nói chung.
Tiến bộ của công nghệ thông tin những năm qua đã tạo ra sự chuyển
biến nhanh chóng trong hoạt động văn phòng, thông tin,... nhưng khi sử dụng
Internet rộng rãi và gắn với thương mại điện tử (E-commerce) thì đã tạo ra sự
bùng nổ của hoạt động buôn bán qua mạng, dự báo doanh số lên tới 1600 tỷ
USD vào năm 2003. Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống và sinh
hoạt cũng làm tăng thêm tính "thông minh" của các dụng cụ gia đình. Rồi
những tiến bộ của vật liệu mới, tự động hoá, y học hiện đại, công nghệ vũ
trụ... sẽ làm thay đổi ghê gớm cuộc sống và phát triển nhân loại và từng bước
làm hình thành nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức (KBE), trong đó các lĩnh
vực công nghệ cao ngày càng đóng góp tỷ trọng lớn trong việc làm ra thu
nhập quốc dân. Đến lúc đó, khoa học và công nghệ hiện đại đã đi nhanh vào
cuộc sống, tạo ra những thay đổi theo hướng "hiện đại hoá" cuộc sống văn
hoá tinh thần của con người trên hành tinh chúng ta. Gần đây cũng có ý kiến
cụ thể hơn về nền kinh tế điện tử toàn cầu dựa trên tri thức (knowledge based
global e-economy), phản ánh tính chất mới mẻ của một nền kinh tế kiểu mới
vượt ra khỏi phạm vi từng quốc gia riêng lẻ.
Mặc dù hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về nền kinh tế dựa trên
tri thức, nhưng rõ ràng có một điểm chung, - đó là sự tác động của khoa học
và công nghệ mới nhất đã làm không chỉ tăng năng suất lao động xã hội, mà
15
TiÓu luËn – TriÕt häc
còn tác động đến nhiều mặt của cuộc sống xã hội, làm đảo lộn nhiều quan
niệm về nền văn hoá mới ngày càng mang tính toàn cầu. Toàn cầu hoá sẽ
không phải và không thể là làm mất đi bản sắc các dân tộc, mà làm cho cuộc
sống thêm đa dạng và phong phú.
Khi đề cập tới nền kinh tế dựa trên tri thức chúng ta cũng bác bỏ quan điểm
ảo tưởng về một thế giới không biên giới, về "sự nổi lên của nhà nước ảo"
trong đó chủ quyền lãnh thổ đã trở nên "lỗi thời". Ngay trong điều kiện ngày
nay, vai trò của Nhà nước ở bất kỳ đâu cũng rất quan trọng, nhằm dẫn dắt và
tổ chức xã hội đi đúng định hướng của nó trong từng giai đoạn phát triển. Mơ
hồ, ảo tưởng về điều này là mắc vào cạm bẫy của chủ nghĩa hữu khuynh, làm
cho tình trạng chênh lệch giàu nghèo trên thế giới cứ tồn tại mãi, dẫn tới sự
bóc lột các nước nghèo thông qua các công cụ tàn bạo được che đậy bằng các
thuật ngữ mỹ miều. Sự "bóc lột" kiểu mới của nước giàu so với nước nghèo,
của các nước phát triển đối với các nước đang phát triển, nhất là chủ nghĩa bá
quyền trắng trợn của Hoa Kỳ là điều mà cả các nước Phương Tây cũng phải
dè chừng.
Đồng thời, chúng ta lại không nên có quan niệm "tả" khuynh một cách
thơ ngây để chống lại các xu hướng toàn cầu hoá được đặt cơ sở vật chất
vững chắc bởi các thành tựu KHCN mà nhân loại đã thu được và sẽ có bước
tiến nhanh chóng trong tương lai. Nói riêng, chúng ta phải nghiên cứu, tìm
hiểu và trên cơ sở tìm ra cách thức tận dụng tối đa những mặt thuận lợi do sử
dụng nền kinh tế dựa trên tri thức vào sự nghiệp phát triển đất nước, đưa nước
ta tiến nhanh trên cơ sở một mô hình công nghiệp hoá phi cổ điển.
Khi bàn về vai trò của tri thức, của khoa học đối với nền sản xuất đương
đại, người ta thường nhắc tới một luận đề để nói về đặc trưng của nền sản
xuất mới, rằng: "Ngày nay, tri thức hay nói khác đi là khoa học đã trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp". Như vậy, phải chăng trong một thời gian dài
trước đây, tri thức, khoa học không phải là lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều
đó có đúng không?
16
TiÓu luËn – TriÕt häc
Người ta chỉ có thể nói: Trong tiến trình phát triển của các nền sản xuất, vai
trò, mức độ cùng với cách thức và quy mô tác động của tri thức, của khoa học
để làm nên năng lực và trình độ của các nền sản xuất có những bước phát
triển khác nhau từ thấp tới cao, từ nhỏ tới lớn, từ giản đơn đến phong phú, đa
dạng. Cũng vì thế mà từ vị thế bình thường, từ vị thế còn có thể thay thế
được, tri thức, khoa học đã trở thành yếu tố mang tính quyết định và không có
gì thay thế nổi đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội của loài người...
Còn lúc nào và bao giờ cũng vậy, tri thức, khoa học không hề nằm ngoài và
càng không bao giờ lại không phải là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tất cả những lý giải trên đây đều có thể được cắt nghĩa rõ ràng nếu chúng ta
hiểu đầy đủ về vai trò và tiến trình phát triển của công cụ lao động.
Suy cho cùng, cái cơ bản nhất, nấc thang phát triển cao nhất của con người so
với muôn loài chính là ở chỗ con người có tri thức đến mức độ đủ sức tạo ra
công cụ lao động cho mình từ những tri thức ấy.
Có một số loài vật hạ đẳng cũng có thể nhận biết, cũng có những thao tác đơn
giản thấp kém của trí khôn. Nhưng trí khôn của chúng không phát triển tới
mức có thể tạo ra được công cụ lao động. Con hắc tinh tinh cùng lắm chỉ biết
dùng một cái que sẵn có bên bờ rừng để khều một trái cây mà nó biết là ăn
được khi trái cây đó đang trôi trên dòng suối. Và nghe nói có loài trăn ở miền
tây Nam Bộ biết cuốn đuôi vào một gốc cây còn miệng nó thì cắn vào một
gốc cây khác rồi làm động tác đánh võng để bụng nó có thể chao qua chao lại
nhằm tát kiệt nước của một đìa cá. Con trăn ấy có trí khôn đủ biết làm thế nào
tát hết nước trong đìa khi nó muốn bắt cá. Nhưng rõ ràng cũng chỉ đến mức
đó thôi, chứ nó không thể đủ sức nghĩ ra, làm ra và sử dụng một cái gàu tát
nước, càng không bao giờ nó lại nghĩ ra và làm nổi cái máy bơm nước...
Ngược lại, con người rất tinh khôn, tinh khôn đến độ biết biến cái tinh khôn
của mình thành ra muôn hình vạn trạng các công cụ lao động khác nhau. Nói
khác đi công cụ lao động là tri thức đã được vật hóa.
17
TiÓu luËn – TriÕt häc
Nhưng mặt khác như đã biết, công cụ lao động lại chính là phần chính yếu
của sức sản xuất. Như vậy có nghĩa là do sự vật hóa thành công cụ lao động
mà tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Quả vậy, tri thức đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp ngay từ buổi đầu tiên của loài người văn
minh khi con người biết tạo ra và biết sử dụng công cụ lao động.
Cho đến nay, xã hội loài người đã và đang trải qua ba thời kỳ, ba nền kinh tế.
Đó là nền kinh tế nông nghiệp; nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế hậu
công nghiệp hay còn gọi là "nền kinh tế tri thức" như danh từ mà một số
chuyên gia ưa dùng.
Vậy thì cái gì là bản chất, là nguồn cội đã tạo ra và đã làm nên sự khác biệt
mang tính trình độ đó của các nền kinh tế. Đó chính là ba nấc thang vĩ đại của
thành quả lao động trí tuệ của loài người. Đó chính là ba trình độ phát triển
của công cụ lao động mà bằng tri thức của mình con người đã tạo ra được.
Thật ra, cũng không thể nói tới một ranh giới rạch ròi giữa ba nền kinh tế đó.
Bởi vì sự phát triển của các hình thái kinh tế hay nói khác đi là các nền kinh tế
thường được phôi thai, được hình thành, được chuẩn bị từ trong lòng các nền
kinh tế trước đó.
Tuy nhiên, về đại thể có thể vạch được đường biên giới giữa các nền kinh tế
bằng cách dựa vào sự phân chia trình độ phát triển của tri thức hoặc nói khác
đi là dựa vào các hình thức vật hóa của tri thức trên các loại hình công cụ lao
động đặc thù của các nền kinh tế đó.
Nền kinh tế nông nghiệp được ra đời và được đặc trưng bởi một nền sản xuất
mà ở đó con người sử dụng những công cụ thay thế cho lao động cơ bắp của
mình là chính. ở giai đoạn phát triển này con người còn có thể thay thế được
các công cụ lao động bằng chính sức lực của mình. Thí dụ khi con người
không có trong tay một cái liềm cắt cỏ thì con người có thể dùng tay để tự rứt
cỏ... Tóm lại, trong nền kinh tế nông nghiệp con người chủ yếu mới chỉ tạo ra
được các công cụ lao động mà giá trị của nó được đo bằng khối lượng lao
động của con người mà nó đã thay thế.
18
TiÓu luËn – TriÕt häc
Trong nền kinh tế công nghiệp, trí tuệ con người đã bước tới những bước
khổng lồ, đủ sức tạo ra những công cụ mà nếu dùng sức lao động cơ bắp của
con người thì không thể nào thực hiện nổi. Giá trị của các công cụ lao động
giờ đây không còn có thể đo bằng khối lượng lao động mà nó thay thế. Hay
nói đúng hơn, lao động của con người không thể thay thế nổi các công cụ lao
động đó. Rõ ràng là không thể tính nổi số lượng lao động nhằm thay thế công
việc của một con tàu viễn dương; của một chiếc máy bay bay xuyên lục địa;
của một giàn hỏa tiễn khi nó đưa một vệ tinh vào quỹ đạo vũ trụ...
Sự vĩ đại của các công cụ do con người tạo ra trong nền kinh tế công nghiệp
quả đã là ghê gớm. Nhưng nấc thang phát triển của công cụ lao động do trí
tuệ con người tạo ra không dừng lại ở đó. Giờ đây khi bước vào kỷ nguyên
của nền kinh tế tri thức thì đặc trưng tiêu biểu của hình thái phát triển mới của
công cụ lao động đó là các công cụ lao động trí tuệ. Trong giai đoạn phát triển
ngày nay, con người sử dụng công cụ lao động không phải chỉ nhằm thay thế
các thao tác lao động được thực hiện bằng cơ bắp hoặc bằng các nguồn năng
lực mà đã chuyển sang một trình độ, một hình thái mới cao hơn đó là việc con
người sử dụng công cụ lao động để còn, hoặc có thể nói đến lúc nào đó chủ
yếu là để thay thế lao động trí óc, để thực hiện các thao tác trí tuệ. Hơn thế,
trình độ phát triển của các công cụ ấy giờ đây cũng đã ở vào một thời kỳ
thăng hoa tới mức cho dù có nỗ lực đến đâu chăng nữa thì những thao tác và
những khối lượng lao động trí óc của con người cũng không còn đủ sức thay
thế nổi các công cụ lao động đó.
Có ba loại hình công nghệ được xem như là ba thành quả điển hình của nền
sản xuất hậu công nghiệp. Đó là công nghệ vi sinh, bao gồm cả công nghệ
gien. Bằng công nghệ đó con người có thể cải tạo được những yếu tố cơ bản
của thế giới hữu cơ; trong đó có cả bản thân sự sống của loài người như đã
nói. Đó là công nghệ Nano để làm nên những vật liệu mới. Công nghệ này
dựa trên những thành quả của việc sắp xếp lại cấu trúc nguyên tử. Thông qua
đó, con người có thể tác động cả vào bản chất của thế giới vô cơ. Đó là công
19
TiÓu luËn – TriÕt häc
nghệ tin học với các siêu máy tính. Công nghệ tin học chính là công nghệ trí
tuệ điển hình. Con người nhờ vào đó mà tổ chức, quản lý, điều hành và thực
hiện các quá trình sản xuất hết sức tinh vi, phức tạp mà con người không thể
nào thực hiện nổi, thậm chí không thể nào nghĩ tới nổi trong quá khứ tồn tại
của mình. Cũng nhờ có công nghệ tin học mà con người có thể làm phong
phú lên gấp nhiều lần các mối quan hệ trong đời sống xã hội giữa các con
người với nhau, đồng thời thông qua đó mà con người lại có thể tổ chức, điều
hành cả một xã hội, cả một đất nước... Song điều đáng nói thêm là, nếu như
không có các siêu máy tính thì con người không thể giải mã được bộ gien
người và cũng không thể thực hiện nổi các công nghệ Nano. Như thế có thể
thấy sở dĩ con người có được những bước nhảy khổng lồ trong nền sản xuất
mới với ba loại hình công nghệ đặc trưng kể trên trước hết chính là nhờ có
những thành quả của công nghệ tin học, công nghệ của thao tác trí tuệ.
Những phân tích trên đây làm sâu sắc và sáng tỏ thêm luận điểm cho rằng đặc
trưng cơ bản của nền kinh tế hậu công nghiệp là ở đó con người sử dụng các
loại hình công cụ chủ yếu là để thực hiện các thao tác trí tuệ. Phải chăng vì
thế mà có tên gọi: nền kinh tế tri thức.
Nền kinh tế tri thức có những đặc điểm sau:
- Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. ý thức đổi mới và công nghệ mới trở thành
chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh.
- Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến
nhất. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, trong đó khoa học và sản
xuất được thể chế hoá, không còn phân biệt giữa phòng thí nghiệm và công
xưởng.
- Ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực,
mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối hầu hết các tổ chức, gia
đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt động xã
hội đều có tác động của công nghệ thông tin.
20
TiÓu luËn – TriÕt häc
- Dân chủ hoá được thúc đẩy. Mọi người đều dễ dàng truy cập thông tin mà
mình cần. Điều này dẫn đến dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành
xã hội. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các chính sách
của Nhà nước, cơ quan nhà nước, các tổ chức và có thể có ý kiến ngay nếu
thấy không phù hợp. Không thể bưng bít thông tin được,
- Xã hội học tập. Giáo dục phát triển. Đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm
tỷ lệ cao. Đầu tư vô hình (con người, giáo dục, khoa học…) cao hơn đầu tư
hữu hình (cơ sở vật chất). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trong tâm.
- Tri trức trở thành vốn quý nhất, nguồn nhân lực hàng đầu tạo tăng trưởng.
Không như các nguồn vốn khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có
thể được chia sẻ, tăng lên khi sử dụng và hầu như không tốn kém khi chuyển
giao.
- Sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực tăng trưởng hàng đầu. Công
nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn, có khi chỉ mấy năm,
thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn
đổi mới công nghệ và sản phẩm.
- Các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Trong cùng một
lĩnh vực, khi một công ty thành công, lớn mạnh lên thì các công ty khác phải
tìm cách sáp nhập hoặc chuyển hướng ngay.
- Toàn cầu hoá thị trường và sản phẩm. Sản phẩm phần lớn được thực hiện từ
nhiều nơi trên thế giới, kết quả của công ty ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa
- Các xã hội phải có nhiều nỗ lực bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá của
mình để tránh bị hoà tan.
Vai trò của tri thức đối với việc phát triển kinh tế Việt Nam.
Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ: một mặt
phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công
nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân;
mặt khác đồng thời phải phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri
thức và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hoá và nâng
21
TiÓu luËn – TriÕt häc
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ngành nghề mới, việc làm mới,
đạt tốc độ tăng trưởng cao, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới.
Không thể làm đồng loạt, dàn hàng ngang cùng tiến.
Trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế chúng ta còn sử dụng các công nghệ
truyền thống nhng được cải tiến bằng các tri thức mới để tạo nhiều việc làm,
tận dụng lao động, đất đai tài nguyên, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp
và nông thôn, xoá đói giảm nghèo.
Trong khi đó phải dành lực lượng thích đáng phát triển các ngành kinh tế sử
dụng tri thức và công nghệ tiên tiên nhất. Đã đầu tư xây dựng mới là phải sử
dụng công nghệ tiên tiến nhất. Phải nhanh chóng xây dựng cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin, hình thành mạng xa lộ thông tin quốc gia, ứng dụng
công nghệ thông tin rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, phát triển công nghiệp
thông tin, nhất là công nghiệp phần mềm, như thế sẽ thúc đẩy phát triển
nhanh tất cả các lĩnh vực, dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế, nâng cao tốc độ
tăng trưởng, hiệu quả và chất lượng nền kinh tế. Phát triển các ngành công
nghiệp sinh học (các ngành nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp dợc
phẩm, công nghiệp môi trường), các ngành vật liệu mới v.v.. Sử dụng các
công nghệ cao để phát triển một số ngành công nghiệp then chốt: chế tạo máy
(sử dụng CAD, CAM, tự động hoá),... Các ngành xây dựng, giao thông, năng
lượng phải sử dụng công nghệ tiên tiến nhất và đảm bảo hiệu quả đầu tư cao
nhất.
Trong từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế cũng cần chọn những khâu, những
đơn vị đi trước, đi thẳng vào công nghệ mới nhất để thúc đẩy sự đổi mới của
toàn ngành, toàn lĩnh vực, đã đầu tư mới là phải sử dụng công nghệ mới nhất.
Có thể phấn đấu để sau một thập kỷ (đến khoảng 2010) nước ta xây dựng
được mạng xa lộ thông tin quốc gia, kết nối với tất cả các trường học, các cơ
quan, các xí nghiệp và phần lớn các hộ gia đình, ngành công nghiệp thông tin
trở thành một ngành công nghiệp chính, các ngành công nghiệp, dịch vụ tri
22
TiÓu luËn – TriÕt häc
thức có bớc phát triển mạnh, thì đó là bước tiến quan trọng vào nền kinh tế tri
thức.
Ta đã chủ trơng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chủ trơng phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất đúng, nh vậy phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh về
khoa học công nghệ của Việt Nam, bắt kịp và làm chủ công nghệ hiện đại, đi
nhanh đi tắt vào kinh tế tri thức. Không có đủ tri thức, không có khả năng vận
dụng những công nghệ mới nhất thì không thể cạnh tranh được, hội nhập chỉ
bị thua thiệt và dễ sẽ trở thành bãi thải công nghệ của các nước khác. Ta phải
tận dụng cơ sở vật chất hiện có, tận dụng lao động, nhưng đã đầu t mới thì
phải dùng công nghệ mới, tiên tiến nhất; sử dụng cơ sở vật chất hiện có cũng
phải với tri thức mới, đến lúc rõ ràng là không có hiệu quả nữa thì phải
chuyển sang làm việc khác hoặc bỏ đi. Không thể chọn "công nghệ trung
gian"; việc phát triển mía đường, xi măng không hiệu quả như vừa qua đã cho
ta bài học.
Nhiều nước đã có sẵn một cơ sở vật chất lớn, bây giờ bỏ đi thì rất tiếc. Song
nhiều nước cũng đã bỏ hẳn, không thơng tiếc. Nước ta cơ sở vật chất không
đáng kể, không có gì để luyến tiếc. Nên đi thẳng vào công nghệ mới, qui mô
nhỏ, vốn đầu tư
không nhiều; đã đầu tư mới là phải công nghệ mới.
Giải pháp chủ yếu cho chiến lược kinh tế dựa vào tri thức ở Việt Nam hiện
nay
Thứ nhất, phải đổi mới cơ chế quản lý, phát huy mọi khả năng sáng tạo
của người dân, tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phát
huy hết khả năng của mình đóng góp vào phát triển sản xuất.
Nhà nước quản lý bằng luật pháp, bằng cơ chế chính sách, tạo môi trường
thuận lợi cho sự cạnh tranh lành mạnh; chăm lo phúc lợi xã hội, giáo dục,
khoa học... mà không nên can thiệp vào sản xuất kinh doanh; để cho mỗi
doanh nghiệp, mỗi người dân phát huy hết quyền chủ động sáng tạo của mình.
23
TiÓu luËn – TriÕt häc
Vai trò của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có ý nghĩa
quyết định đối với phát triển khoa học và công nghệ, hớng tới nền kinh tế tri
thức. Phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền. Phát huy
tối đa quyền chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp. Hiện nay trong kinh tế
nhà nước chế độ trách nhiệm không rõ, mất mát thua lỗ không ai chịu trách
nhiệm. Nếu giao trách nhiệm cho một công ty tự bỏ vốn ra xây dựng rồi khai
thác để thu hồi lại vốn thì tình hình sẽ khác hẳn, không hiệu quả thì họ không
làm.
Phải thực sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy mọi thành
phần kinh tế nh các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Hiện nay còn nhiều vớng
mắc lúng túng trong chính sách, mà chủ yếu là do nhận thức về mối quan hệ
giữa cơ chế thị trường và sự quản lý của nhà nước theo định hớng xã hội chủ
nghĩa cha được sáng tỏ. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển lực lượng
sản xuất; phải xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất sao cho thúc đẩy phát
triển lực lượng sản xuất. Mọi người ai có khả năng góp phần vào sự phát triển
sản xuất thì phải được khuyến khích, phải thực sự khuyến khích mọi người
làm giàu; nhà nước có chính sách điều tiết thu nhập, chăm lo phúc lợi xã hội,
tạo công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi những người yếu thế.
Thứ hai, là chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào
tạo nhân tài. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu t để phát triển giáo dục
và phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới. Đây là yếu tố quyết định
nhất thúc đẩy nước ta đi nhanh vào kinh tế tri thức. Phải xây dựng những thế
hệ người Việt Nam có bản lĩnh, có lý tởng, có khả năng sáng tạo, làm chủ
được tri thức hiện đại, quyết tâm đa nước ta lên trình độ phát triển sánh kịp
các nước. Khoảng cách với các nước phát triển chủ yếu là khoảng cách về tri
thức. Ta có thể rút ngắn được bằng xây dựng và phát triển mạnh nền giáo dục
tiên tiến phù hợp xu thế phát triển của thời đại. Trong một thời gian ngắn
(khoảng 5 năm) phải phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong toàn quốc, phổ
cập trung học phổ thông trong các thành thị, khu công nghiệp và vùng đồng
24
TiÓu luËn – TriÕt häc
bằng đông dân, tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công
nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh gia. Mở rộng quan hệ hợp
tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ với nước ngoài; tuyển chọn đa đi
đào tạo ở các nước tiên tiến số lượng lớn cán bộ khoa học kỹ thuật thuộc các
lĩnh ưu tiên chiến lược.
Thứ ba, là tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, thực
hiện tốt các chính sách, chủ trương đã nêu trong Nghị quyết TƯ2 về khoa
học, công nghệ, mà nhất là:
- Phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài,
- Phát huy sức sáng tạo trong khoa học: các chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện
cho cán bộ nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng dân chủ trong
khoa học,
- Các chính sách khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp phải ứng dụng
khoa học, đổi mới công nghệ, cơ chế quản lý kinh tế phải buộc các doanh
nghiệp phải cạnh tranh bình đẳng, phải lấy hiệu quả làm đầu, đồng thời có
chính sách khuyến khích thích đáng các doanh nghiệp trong các ngành công
nghệ cao,
- Tăng đầu tư cho KHCN (nhà nước và doanh nghiệp) đạt 2% GDP, tăng đầu
tư mạo hiểm,
- Phát triển nhanh các khu công nghệ, tổ chức lại chương trình kinh tế kỹ
thuật, đặc biệt là cần có tổ chức có hiệu lực chỉ đạo phát triển công nghệ
thông tin.
Thứ tư là cải cách hành chính và tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới
có khả năng thúc đẩy mọi khả năng sáng tạo, làm cho sản xuất "bung ra", đáp
ứng yêu cầu phát triển nhanh các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp tri thức,
phù hợp với xu thế toàn cầu hoá mà nước ta đang trong quá trình hội nhập.
Điều này được thực hiện trên cơ sở xác định đúng đắn vai trò quản lý của nhà
nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
không trực tiếp làm kinh tế nhưng vai trò của nhà nước trong việc định hư25