BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRẦN THU HƯƠNG
TỔN THẤT TINH THẦN
VÀ PHƯƠNG THỨC BÙ ĐẮP TỔN THẤT TINH THẦN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Bùi Đăng Hiếu
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Thu Hương
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. BẢN CHẤT CỦA TỔN THẤT TINH THẦN ........................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức biểu hiện của tổn thất tinh thần ............ 7
1.1.1. Khái niệm tổn thất tinh thần................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm và hình thức biểu hiện của tổn thất tinh thần .................... 11
1.2. Sự khác nhau giữa tổn thất tinh thần và thiệt hại vật chất ........................ 14
1.3. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc quy định về tổn thất tinh thần trong
pháp luật dân sự ............................................................................................. 16
1.3.1. Cơ sở pháp lý .................................................................................... 16
1.3.2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................. 17
1.4. Lược sử quy định trong pháp luật Việt Nam về tổn thất tinh thần ............ 18
1.4.1. Trước BLDS 1995 ............................................................................. 18
1.4.2. Quy định trong BLDS 1995 ............................................................... 20
1.4.3. Quy định trong BLDS 2005 ............................................................... 25
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG THỨC BÙ ĐẮP TỔN THẤT TINH THẦN VÀ
NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG ......................... 26
2.1. Nguyên tắc chung trong phương thức bù đắp tổn thất tinh thần ............... 26
2.1.1. Nguyên tắc suy đoán tổn thất tinh thần ............................................. 26
2.1.2. Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên ............................... 28
2.1.3. Nguyên tắc bù đắp bằng tiền ............................................................. 28
2.2. Những người được bù đắp tổn thất tinh thần ........................................... 30
2.2.1. Người trực tiếp chịu sự tác động của hành vi gây thiệt hại ............... 30
2.2.2. Người thân thích của người bị thiệt hại............................................. 34
2.3. Mức tiền bù đắp tổn thất tinh thần ........................................................... 39
2.3.1. Trường hợp sức khỏe bị xâm phạm ................................................... 40
2.2.2. Trường hợp tính mạng bị xâm phạm ................................................. 41
2.3.3. Trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ...................... 42
2.3.4. Trường hợp thi thể bị xâm phạm ....................................................... 43
2.4. Phương thức thanh toán tiền bù đắp tổn thất tinh thần ............................. 48
2.4.1. Về số lần thanh toán ......................................................................... 48
2.4.2. Về người được nhận thanh toán khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần 49
2.4.3. Về vấn đề lãi suất khi chậm thanh toán ............................................. 50
2.5. Phương thức phân chia tiền bù đắp tổn thất tinh thần trong trường hợp có
nhiều chủ thể được hưởng tiền bù đắp tổn thất tinh thần ................................ 52
2.6. Các biện pháp khác đi kèm theo bù đắp tổn thất tinh thần ....................... 53
2.6.1. Chấm dứt hành vi vi phạm ................................................................ 55
2.6.2. Xin lỗi, cải chính công khai............................................................... 55
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔN THẤT TINH THẦN
VÀ PHƯƠNG THỨC BÙ ĐẮP TỔN THẤT TINH THẦN .......................... 56
3.1. Áp dụng triệt để nguyên tắc suy đoán tổn thất tinh thần .......................... 56
3.2. Mức tiền bù đắp tổn thất tinh thần ........................................................... 58
3.2.1. Mức tiền tối đa bù đắp tổn thất tinh thần .......................................... 58
3.2.2. Xác định mức độ tổn thất tinh thần ................................................... 60
3.3. Quy định rõ ràng về hành vi và hậu quả của việc xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín ................................................................................................... 62
3.4. Phương thức thanh toán tiền bù đắp tổn thất tinh thần ............................. 64
3.5. Phương thức phân chia tiền bù đắp tổn thất tinh thần trong trường hợp có
nhiều chủ thể được hưởng tiền bù đắp tổn thất tinh thần ................................ 64
3.6. Quy định rõ hình thức công khai, xin lỗi ................................................. 65
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
BLDS 2005
BLDS 1995
Bộ luật dân sự
Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1995
BLHS
Bộ luật hình sự
BTTH
Bồi thường thiệt hại
Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28
tháng 04 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán
NQ số 01
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật Dân sự về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08
tháng 07 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán
NQ số 03
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng là một chế định
quan trọng trong pháp luật dân sự nhằm bảo vệ những người có quyền và lợi ích
chính đáng bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật. Theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 2005 (BLDS 2005), một người có lỗi, có hành vi trái pháp luật phải
BTTH do hành vi của mình gây ra khi hành vi đó xâm phạm tới các quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Trường hợp xâm
phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, thi thể thì ngoài việc
BTTH về vật chất, người có trách nhiệm BTTH còn có trách nhiệm bù đắp tổn
thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
Các thiệt hại liên quan đến quyền nhân thân rất đa dạng. Thực tiễn cho
thấy các vụ kiện yêu cầu BTTH ngoài hợp đồng không chỉ dừng lại ở tranh chấp
giữa cá nhân với cá nhân phát sinh từ một sự việc đơn lẻ mà phạm vi của nó đã
được mở rộng, liên quan đến nhiều người bị thương tích do cùng một hành vi,
với những nguyên nhân phức tạp và chỉ được phát hiện sau một thời gian dài tiếp
xúc (thiệt hại phát sinh từ ô nhiễm môi trường, từ việc tiếp xúc với hóa chất,
thực phẩm, thuốc hoặc các chất nguy hại khác).
Việc xác định các thiệt hại vật chất được bồi thường và mức bồi thường
cụ thể là việc không dễ dàng. Đối với các tổn thất về tinh thần còn khó khăn hơn
rất nhiều. Pháp luật dân sự của Việt Nam và các nước trên thế giới không đưa ra
khái niệm tổn thất về tinh thần mà chỉ quy định những trường hợp người bị tổn
thất hoặc những người thân của họ được bù đắp tổn thất về tinh thần. Trong luật
La Mã, đã có danh từ practium doloris (giá tiền của sự đau thương) để chỉ ngạch
số bồi thường trong loại tổn hại tinh thần.
Theo pháp luật Việt Nam, đó là trường hợp bị xâm phạm về sức khỏe,
tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, thi thể (Điều 609, 610, 611, 628 BLDS).
2
Một số quy định về tổn thất tinh thần và phương thức bù đắp tổn thất tinh thần
trong BLDS 2005 đã có sự thay đổi so với các quy định trước đó tại BLDS 1995.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, chưa
thực sự phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Việc giới hạn các trường hợp được bù
đắp tổn thất về tinh thần, những người được bù đắp tổn thất về tinh thần và mức
bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa như hiện nay trong nhiều vụ án đã không bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể bị xâm phạm, ngược lại với
những quy định về việc tôn trọng, bảo vệ các quyền nói chung và quyền về dân
sự nói riêng của các chủ thể được quy định trong Hiến pháp và BLDS.
Việc nghiên cứu một cách toàn diện về tổn thất tinh thần để có thể đưa ra
được những đặc điểm và biểu hiện của tổn thất tinh thần, những trường hợp phát
sinh và phương thức bù đắp hợp lý, góp phần đảm bảo đến mức tối đa quyền và
lợi ích chính đáng của chủ thể bị xâm phạm là đòi hỏi cấp thiết và quan trọng
hiện nay. Đó là lý do tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tổn thất tinh thần và
phương thức bù đắp tổn thất tinh thần” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, Việt Nam có rất ít công trình nghiên cứu riêng và
chuyên sâu đến vấn đề bù đắp tổn thất về tinh thần. Đa số việc nghiên cứu về
vấn đề này thuộc một phần nhỏ trong các công trình nghiên cứu về trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng hoặc trong những trường hợp BTTH cụ thể do tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Có thể lý do cơ bản dẫn đến
thực trạng này là tổn thất về tinh thần rất khó xác định, khó đánh giá chính xác
và phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người áp dụng. Thậm chí có quan
điểm còn cho rằng tổn thất về tinh thần chỉ là khái niệm xã hội và ở phạm vi tình
cảm. Dưới đây có thể kể đến một số công trình sau:
- Cuốn sách chuyên khảo “Luật BTTH ngoài hợp đồng Việt Nam” của
TS. Đỗ Văn Đại do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010;
3
- Cuốn sách chuyên khảo “BTTH ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và
tính mạng” của tác giả Phùng Trung Tập do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
xuất bản năm 2009;
- Các sách chuyên ngành đã xuất bản như Giáo trình luật dân sự Việt Nam
(tập 2) của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất
bản năm 2009, Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2) tác giả Lê Đình Nghị
(chủ biên) do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2009;
- Luận văn thạc sĩ Luật học “BTTH trong trường hợp sức khỏe và tính
mạng bị xâm phạm - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần
Minh Châu (2006); Luận văn thạc sĩ Luật học “Một số vấn đề về trách nhiệm
BTTH do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín” của
tác giả Lê Thị Bích Lan (1999)…
- Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu trực tiếp vấn đề
bù đắp tổn thất về tinh thần như tác giả Đỗ Văn Đại với các bài viết “BTTH về
tinh thần trong pháp luật Việt Nam”, “Trao đổi về bài “Vấn đề tổn thất tinh thần
theo khoản 2 Điều 610 BLDS” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) số
16-2008 và số 21-2009; tác giả Hoàng Kì với bài viết “Vấn đề bồi thường tổn
thất tinh thần theo khoản 2 Điều 610 BLDS” đăng trên Tạp chí TAND số 182009; tác giả Đinh Văn Quế với bài viết “Một số ý kiến về khoản tiền bù đắp về
tinh thần do bị xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
quy định tại BLDS” đăng trên Tạp chí TAND số 20-2009; tác giả Vũ Tuấn Dũng
với bài “Về bài: Vấn đề bồi thường tổn thất tinh thần theo khoản 2 Điều 610
BLDS” đăng trên Tạp chí TAND số 20-2009; tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh với
bài “Vấn đề bồi thường tổn thất tinh thần” đăng trên Tạp chí TAND số 21-2009;
Ban biên tập Tạp chí TAND với bài “Vấn đề bồi thường tổn thất tinh thần theo
khoản 2 Điều 610 BLDS” đăng trên Tạp chí TAND số 23/2010; tác giả Đỗ Văn
Chỉnh với bài “Bàn về bồi thường do tính mạng bị xâm phạm quy định tại Điều
610 BLDS” đăng trên Tạp chí TAND số 22-2009; tác giả Phạm Kim Anh với bài
4
viết “Về quy định BTTH do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong
BLDS Việt Nam và hướng hoàn thiện” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 32001…
- Kỷ yếu Tọa đàm trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng do Nhà Pháp luật
Việt - Pháp tổ chức tại Hà Nội ngày 06-07/12/2011.
Có thể nhận thấy hiện tại các công trình nghiên cứu về tổn thất tinh thần
và phương thức bù đắp tổn thất tinh thần còn khá ít ỏi và mới chỉ đề cập đến một
khía cạnh hay một nội dung nhất định của vấn đề. Luận văn là công trình đầu
tiên nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống từ lý luận đến thực tiễn về
vấn đề tổn thất tinh thần và phương thức bù đắp tổn thất tinh thần.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
“Tổn thất tinh thần và phương thức bù đắp tổn thất tinh thần” là đề tài đòi
hỏi tính chuyên sâu, vì vậy trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, luận văn
không đề cập đến những vấn đề chung của chế định BTTH ngoài hợp đồng mà
tập trung nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tổn
thất tinh thần và phương thức bù đắp tổn thất tinh thần. Cụ thể như sau: Luận
văn tập trung nghiên cứu về bản chất của tổn thất tinh thần, phương thức bù đắp
tổn thất về tinh thần, đồng thời xem xét thực tiễn giải quyết các yêu cầu về bù
đắp tổn thất tinh thần, từ đó đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
BLDS.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để giải quyết các yêu cầu đặt ra trong luận văn, luận văn đã sử dụng và
kết hợp một cách hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học sau đây:
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương, mục của luận
văn để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài;
- Phương pháp lịch sử, so sánh, đối chiếu được sử dụng ở cả ba chương
của luận văn để đối chiếu, đánh giá các quy định pháp luật khác nhau trong pháp
luật Việt Nam từ trước tới nay cũng như để so sánh sự khác nhau giữa pháp luật
5
Việt Nam với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, từ đó chỉ ra được kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật;
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh các luận điểm
tại chương 1, các nhận định về những vướng mắc pháp luật ở chương 2 và các
giải pháp hoàn thiện tại chương 3 của luận văn;
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp được sử dụng trong việc đưa ra những
kết luận của luận văn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là làm rõ vấn đề bản chất của tổn thất tinh thần,
phương thức bù đắp tổn thất tinh thần; đánh giá thực trạng các quy định của pháp
luật hiện hành, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế của các quy định này; đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc bù đắp tổn thất về tinh
thần.
Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài phải thực hiện được các
nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng và nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm của tổn thất về
tinh thần.
- Phân tích, so sánh, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về
phương thức bù đắp tổn thất tinh thần và việc áp dụng các quy định đó vào thực
tiễn giải quyết các vụ án.
- Đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BTTH nói
chung, bù đắp tổn thất về tinh thần nói riêng.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn đề cập tương đối đầy đủ và có hệ thống các quy định của pháp
luật về phương thức bù đắp tổn thất tinh thần, đặc biệt làm rõ khái niệm, đặc
điểm và hình thức biểu hiện của tổn thất tinh thần; chỉ ra những hạn chế, bất cập
trong các quy định hiện hành; từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
việc xác định tổn thất tinh thần và phương thức bù đắp tổn thất tinh thần.
6
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cơ cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Bản chất của tổn thất tinh thần.
Chương 2: Phương thức bù đắp tổn thất tinh thần và những vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về tổn thất tinh thần và phương thức bù
đắp tổn thất tinh thần.
7
CHƯƠNG 1
BẢN CHẤT CỦA TỔN THẤT TINH THẦN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức biểu hiện của tổn thất tinh thần
1.1.1. Khái niệm tổn thất tinh thần
Quyền đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công
dân là những quyền nhân thân bất khả xâm phạm, được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã
hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật”. Để cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp, BLDS đã quy định về các quyền nhân thân và trách nhiệm BTTH của
người có hành vi trái pháp luật.
Khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi
vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Như vậy, trách
nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm pháp lý, theo đó một người có lỗi, có hành
vi trái pháp luật phải BTTH do hành vi của mình gây ra khi hành vi đó xâm
phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc
chủ thể khác. Một điều cần lưu ý trong mối quan hệ này là giữa người gây thiệt
hại và người bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng (ví dụ một người điều khiển
phương tiện giao thông vi phạm các quy tắc an toàn giao thông như phóng
nhanh, vượt ẩu, lạng lách hoặc do gặp những tình huống, sự cố đột xuất, do bất
cẩn, vô ý… gây ra thiệt hại cho người khác). Tuy nhiên, trong thực tế, mặc dù
các bên có quan hệ hợp đồng, chẳng hạn như hợp đồng vận chuyển hành khách
“nhưng trong quá trình áp dụng riêng với loại hợp đồng này các Tòa án nhân dân
8
thường áp dụng trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng mà không áp dụng trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng” [4, tr. 217] .
Điều 307, 609, 610, 611, 628 BLDS 2005 khi quy định về trách nhiệm
BTTH và việc xác định thiệt hại trong các trường hợp xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, thi thể có đề cập đến hai loại trách nhiệm:
trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách
nhiệm BTTH về vật chất được quy định rất cụ thể, đó là “trách nhiệm bù đắp tổn
thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn
thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút” (khoản 2 Điều 307). Ngược lại, trách
nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần được quy định rất chung chung “người gây
thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi
phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền đề bù đắp
tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại” (khoản 3 Điều 307).
“Tinh thần” là một thuật ngữ có nội hàm rất rộng, được nhìn nhận dưới rất
nhiều khía cạnh khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, đó là “tổng thể nói chung
những ý nghĩ, tình cảm… những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con
người” [35, tr. 995]. Do đó, những tổn thất về tinh thần cũng rất trừu tượng và
được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Việc đưa ra được khái niệm đầy
đủ và chính xác về tổn thất tinh thần không hề đơn giản.
- Sự khác biệt giữa hai thuật ngữ “tổn thất” và “thiệt hại”
Trong các văn bản pháp luật và trong thực tiễn không có sự phân định rõ
ràng về mặt ý nghĩa giữa thuật ngữ “tổn thất” với “thiệt hại”, hai thuật ngữ này
trong nhiều trường hợp được dùng chung và thay thế cho nhau.
Điều 609, 610, 611, 628 BLDS 2005 có sự phân biệt khi sử dụng hai thuật
ngữ “tổn thất” - tinh thần và “thiệt hại” - vật chất. Tuy nhiên khi đối chiếu với
quy định chung tại Điều 307 BLDS 2005 về trách nhiệm BTTH thì dễ dàng nhận
9
thấy thuật ngữ “tổn thất” và “thiệt hại” được lặp lại nhiều lần nhưng các lần lặp
lại có sự nhầm lẫn và không thống nhất về ý nghĩa giữa hai thuật ngữ này.
Trong nhiều cuốn từ điển, “tổn thất” cũng được định nghĩa là “thiệt hại”
hoặc ngược lại và hai thuật ngữ này đều nói đến sự mất mát [15, tr. 1864, 1942;
35, tr. 943, 1012]. Cụ thể hơn, thiệt hại không chỉ là về vật chất mà còn bao hàm
cả thiệt hại về tinh thần, đó là “bị mất mát về người, về của cải vật chất hoặc tinh
thần” [35, tr. 943].
Liên quan đến thuật ngữ “tổn thất” và “thiệt hại”, có quan điểm cho rằng
“sẽ là vô ích khi phức tạp hóa vấn đề bằng cách phân biệt tổn thất và thiệt hại, dù
chúng ta có làm được việc đó thì điều này không đem lại một hệ quả bản chất và
rõ rệt” [20, tr. 457]. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng chính sự không phân biệt rõ
ràng hai thuật ngữ này đã dẫn đến những quy định và khái niệm không thống
nhất như đã phân tích ở trên và mang lại nhiều sự lúng túng trong áp dụng pháp
luật. Việc phân biệt này không chỉ có ý nghĩa học thuật mà còn có tầm quan
trọng đặc biệt trong lĩnh vực lập pháp. Khái niệm tổn thất rộng hơn thiệt hại.
Thiệt hại mang ý nghĩa chắc chắn đã xảy ra và hoàn toàn định lượng được, vì
vậy chỉ có thể được sử dụng với những thiệt hại về vật chất. Còn tổn thất bao
hàm cả những trường hợp trừu tượng, khó định lượng được toàn bộ mà từ thiệt
hại không dùng để thay thế được.
- Khái niệm tổn thất tinh thần
Tổn thất tinh thần là một khái niệm rộng, các văn bản khác nhau có mức
độ công nhận khác nhau về tổn thất này.
Theo bình luận số 5 tại Điều 7.4.2 Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp
đồng thương mại quốc tế, thiệt hại phi vật chất “là những nỗi đau về thể xác và
tinh thần (pretium doloris), tổn hại đến danh dự nhân phẩm, thiệt hại về hình
thể… cũng như những xúc phạm đến danh dự hoặc uy tín”. Ngoài ra còn có rất
nhiều sự liệt kê về các loại tổn thất tinh thần: Sự đau đớn hay khó chịu là hậu
quả của một thiệt hại về thân thể, sự thất vọng hay nỗi buồn phiền, các tổn hại
10
đến nhân cách, thanh danh hay danh dự hay là cái chết của vợ/chồng hay một
người thân thuộc; bị rối loạn tâm lý hay tình cảm nghiêm trọng do những tổn hại
về thân thể, trường hợp gây ảnh hưởng đến các giá trị tinh thần, trường hợp xúc
phạm đến hình ảnh của người vợ/chồng đã quá cố, trường hợp đau đớn về thể
xác ngay cả khi không có những tổn hại về bệnh lý hay về các cơ quan chức
năng của cơ thể hay trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe [20, tr. 472]; cũng có
thể là sự giảm sút về khả năng sinh lý, thiệt hại về thẩm mỹ, thiệt hại về sự vui
thích, tổn thất về tình cảm hay cả những thiệt hại về tình dục [20, tr. 487]… Như
vậy, tổn thất tinh thần dù được biểu đạt qua nhiều từ ngữ khác nhau, nhưng tất cả
các sự liệt kê đều cho thấy tổn thất tinh thần là sự tác động, ảnh hưởng tới tâm
lý, tình cảm, sinh lý… mà người bị thiệt hại phải gánh chịu khi quyền nhân thân
bị xâm phạm.
Trong pháp luật Việt Nam, BLDS 2005 mới chỉ dừng ở việc liệt kê các
trường hợp được bù đắp và mức bù đắp tổn thất về tinh thần. Thông qua các quy
định này và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07
năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng (NQ số 03), có thể
hiểu, tổn thất về tinh thần của cá nhân là tổn thất cho chính bản thân người bị
xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc tổn thất cho những
người thân thích của người bị xâm phạm tính mạng (phải chịu đau thương, buồn
phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị
hiểu nhầm…). Đối với pháp nhân và các chủ thể khác, tổn thất về tinh thần được
hiểu là sự giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm do danh
dự, uy tín bị xâm phạm. Tuy nhiên, theo chúng tôi, quy định này chưa chính xác.
Chủ thể bị tổn thất về tinh thần chỉ có thể là cá nhân. Pháp nhân và các chủ thể
khác không phải là pháp nhân là những chủ thể trừu tượng, không có những đặc
trưng riêng thuộc về con người. Bên cạnh đó, thiệt hại do danh dự, uy tín của
pháp nhân bị xâm phạm hoàn toàn có thể định giá được.
11
Theo tinh thần của NQ số 03, trong mọi trường hợp xâm phạm đến sức
khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, người bị thiệt hại đều được hưởng
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Nếu chỉ dừng lại ở những quy định này
thì tổn thất tinh thần chưa bao quát hết các trường hợp. Hơn nữa, NQ số 03 chưa
hướng dẫn cụ thể về các tổn thất tinh thần và mức bù đắp cụ thể trong các trường
hợp khác nhau dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất đối với những vụ
việc có tính chất tương tự nhau.
Điều 26 đến Điều 51, Điều 738 BLDS 2005 liệt kê tương đối đầy đủ các
quyền nhân thân của cá nhân. Điều 9 và Điều 25 BLDS 2005 quy định cách thức
bảo vệ quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng, trong đó quy định
chủ thể bị xâm phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi; cải chính công
khai; buộc BTTH. Tuy nhiên, Điều 609, Điều 610, Điều 611, Điều 628 BLDS
2005 mới chỉ đề cập đến việc bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp xâm
phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, thi thể còn những tổn
thất do các quyền nhân thân khác bị xâm phạm chưa được quy định cụ thể.
Qua các phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm tổn thất tinh thần như
sau: Tổn thất tinh thần là những đau đớn về thể xác, sự sup sụp về tâm lý, tình
cảm của cá nhân, những bất tiện trong giao tiếp,… mà cá nhân phải gánh chịu
khi các quyền nhân thân của mình bị xâm phạm.
1.1.2. Đặc điểm và hình thức biểu hiện của tổn thất tinh thần
Tổn thất tinh thần là một khái niệm rộng và trừu tượng, vì thế nó có
những đặc trưng riêng dưới đây:
- Tổn thất về tinh thần rất khó để liệt kê cụ thể, ở mỗi người, mỗi hoàn
cảnh, sự tổn thất này được nhìn nhận khác nhau. Đó có thể là sự đau đớn, khổ sở
và suy nhược về thể xác do thương tích gây ra, tổn hại về tinh thần do thương tật
hoặc biến dạng mặt mũi, không được hưởng thụ cuộc sống, không có khả năng
thực hiện các hoạt động thông thường như đi bộ, chạy nhảy hoặc quan hệ tình
12
dục và tất cả các loại đau khổ khác… Dù được mô tả dưới đặc điểm nào thì cũng
chắc chắn một điều là tiền bạc không thể bù đắp được tổn thất về tinh thần.
- Tổn thất tinh thần là tổn thất phi vật chất, không mang tính chất kinh tế
và tài sản, không thể tính thành tiền, không thể cân đong, đo đếm được. Vì vậy,
không thể có công thức chung để quy ra bằng tiền áp dụng cho các trường hợp
cũng như không thể dùng hình thức bồi thường vật chất là có thể khôi phục được
tổn thất tinh thần. Muốn hạn chế, khắc phục phần nào đó tổn thất tinh thần phải
dùng nhiều biện pháp như chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công
khai…, BTTH chỉ là một biện pháp.
- Chủ thể bị tổn thất tinh thần chỉ có thể là cá nhân.
- Tổn thất về tinh thần để lại những vết hằn tâm lý rất sâu sắc, khó phai
mờ trong ký ức của người bị thiệt hại. Nó có thể gây nên những đảo lộn trong
tâm lý, đời sống của người bị thiệt hại.
Hình thức biểu hiện của tổn thất về tinh thần rất đa dạng:
- Đối với bản thân người bị xâm phạm, đó là sự đau đớn về thân thể, sự
tác động về tâm lý. Người bị thiệt hại phải chịu đựng đau đớn khi bị người khác
dùng bạo lực tấn công, bị mất một phần cơ thể, bị mang thương tích suốt đời, bị
tàn phế… hoặc khi phải chịu đựng các ca phẫu thuật… Sự đau đớn về tinh thần
là cảm giác ê chề, nhục nhã, uất ức, bực bội hoặc sự vò xé nội tâm…, ở trạng
thái ức chế cao có thể gây nên những bất ổn về tâm thần sau này, như có thể gây
ra các cơn mê sảng, hoảng hốt trong khi ngủ, nặng có thể trở thành bệnh lý. Đó
là tổn thất do mất khả năng vui chơi, giải trí, mất đi hoặc giảm đi niềm vui, niềm
lạc quan trong cuộc sống. Từ các hành vi xâm phạm gây nên những tổn thương
các bộ phận cơ thể làm mất khả năng thực hiện các chức năng bình thường của
con người hoặc gây nên bệnh tật dẫn đến mất khả năng sinh đẻ hoặc những khó
chịu trong đời sống tình dục, sức khỏe suy giảm… làm cho họ lo lắng, buồn
chán, phiền muộn, suy giảm niềm vui, niềm lạc quan trong cuộc sống. Người bị
thiệt hại bị biến dạng hoặc phải chịu đựng nhiều vết sẹo ở trên mặt, trên thân thể
13
hoặc phải cắt bỏ một phần thân thể. Thiệt hại này còn gây ra những hậu quả về
nghề nghiệp cho những người bị thiệt hại, nó có thể gây ra những rắc rối đối với
khả năng thành đạt trong hoạt động nghề nghiệp của họ. Yếu tố thẩm mĩ đóng
vai trò không thể phủ nhận được trong một số hoạt động nghề nghiệp nhất định
như: diễn viên, ca sỹ, người mẫu, tiếp viên hàng không, các nhà hoạt động chính
trị… Đó còn là sự xấu hổ, bị xa lánh khi bị người khác dùng lời lẽ có tính chất
miệt thị, thiếu văn hóa, hay có những hành động có tính chất thóa mạ để lăng
nhục, hạ thấp nhân cách, loan truyền tin bịa đặt sai sự thật dù vô tình hay hữu ý...
- Đối với người thân thích của người bị xâm hại tính mạng, đó là những
đau đớn, mất mát về tình cảm, sự hụt hẫng và sụp đổ về tinh thần. Vết thương
lòng cũng như những mất mát, đau đớn này có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến
tình trạng sức khỏe, sự tham gia bình thường của người thân người bị hại vào các
hoạt động văn hóa, kinh tế, xã hội mà còn kéo theo các hậu quả nghiêm trọng
hơn, cũng có thể gây ra những cú sốc làm người thân của người bị hại bị rối loạn
tâm thần, ốm nặng hoặc thậm chí là chết… Đối với người thân thích của thi thể
bị xâm phạm, họ luôn phải sống trong tình trạng bất an, lo sợ, day dứt bởi vì theo
quan niệm của người Việt Nam những người đã mất luôn được gia đình và dòng
họ thờ cúng, chăm sóc phần mộ chu toàn. Những hành vi xâm hại thi thể khiến
những người thân thích của thi thể phải chịu đau đớn như mất người thân một
lần nữa.
- Tổn thất tinh thần có thể được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức và
trạng thái khác nhau. Tuy nhiên việc định lượng thế nào là đau buồn, mất mát
trên thực tiễn không hề đơn giản. Chúng ta không thể khẳng định được một bà
mẹ khi mất đi người con duy nhất của mình mà không hề rơi một giọt nước mắt
có nghĩa người mẹ đó không yêu con, ngược lại cũng không thể khẳng định được
sự kêu gào thảm thương có nghĩa là một tình yêu lớn. Tổn thất tinh thần là tổn
thất ở sâu trong suy nghĩ, tình cảm mỗi con người, vì vậy những biểu hiện ra bên
ngoài nhiều trường hợp không phản ánh đúng mức độ tổn thương mà một người
đang gánh chịu. Dù ít hay nhiều, trong mọi trường hợp, khi sức khỏe, tính mạng
14
hay danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm đều gây ra cho chủ thể những đau
đớn, buồn phiền nhất định, vì vậy BLDS 2005 và NQ số 03 không yêu cầu người
bị thiệt hại phải chứng minh vì sao mình bị tổn thất tinh thần. Tổn thất này
đương nhiên được thừa nhận trên cơ sở nguyên tắc suy đoán có tổn thất.
1.2. Sự khác nhau giữa tổn thất tinh thần và thiệt hại vật chất
Tổn thất tinh thần và thiệt hại vật chất đều là hậu quả trực tiếp của hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm.
Trách nhiệm BTTH nói chung, trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm bù
đắp tổn thất về tinh thần nói riêng đều không thể xóa bỏ hậu quả của sự thiệt hại.
Mục đích chính của chế định này là đưa ra các khoản tiền bồi thường hợp lý nhất
nhằm bù đắp cho các tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, tổn thất tinh thần và thiệt hại vật chất có nhiều điểm cần phân biệt.
Điều 307, 609, 610, 611 BLDS 2005 và mục 1, mục 2, mục 3 phần II NQ
số 03 liệt kê rất cụ thể về thiệt hại vật chất. Những thiệt hại này bao gồm:
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại (tiền thuốc và tiền mua các thiết bị
y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền
máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sĩ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ,
tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định
của bác sĩ; các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy,
nạng chống và khắc phục thẩm mỹ...).
+ Tiền tàu, xe đi lại của người bị thiệt hại (đi cấp cứu tại cơ sở y tế, đi
giám định…).
+ Tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ cho người chăm sóc người bị thiệt
hại.
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng (tiền mua quan tài, các vật dụng cần
thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa thuê xe tang…).
15
+ Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
+ Chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu,
chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; chi phí tổ chức
xin lỗi, cải chính công khai…
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại.
Ngược lại, tổn thất tinh thần được quy định rất chung chung: Có sự xâm
phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm thì người bị xâm
phạm được suy đoán là có tổn thất về tinh thần.
Ví dụ về sự khác nhau giữa thiệt hại vật chất và tổn thất tinh thần: Do tai
nạn giao thông mà một người bị gãy tay. Việc chạy chữa tay hết 10 triệu đồng,
đó là thiệt hại vật chất. Việc chạy chữa kéo dài 10 ngày làm cho người này
không thể làm việc và mất khoản thu nhập thực tế là 5 triệu đồng. Đó cũng là
thiệt hại vật chất. Ngoài ra do thương tật mà người đó mất 10% khả năng lao
động thì đó cũng là thiệt hại về vật chất. Nhưng sự suy giảm khả năng vận động,
những biến chứng sau chấn thương như khi trái nắng trở trời vết thương tái phát
làm người đó đau đớn thì đó chính là tổn thất tinh thần.
Những thiệt hại vật chất, nói chung có thể đo đếm, tính toán được và về
nguyên tắc có thể đưa ra một cách tính thiệt hại mà người xâm phạm gây ra cho
người bị xâm phạm. Tuy nhiên, những tổn thất tinh thần hoàn toàn không thể đo
đếm, tính toán được, tổn thất tinh thần trong các trường hợp khác nhau là hoàn
toàn khác nhau, phụ thuộc vào trạng thái tâm lý, tình cảm của mỗi cá nhân. Thiệt
hại vật chất dễ dàng chứng minh hơn so với các tổn thất về tinh thần. Thiệt hại
về vật chất được thể hiện thông qua các chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về
các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của người bị thiệt hại… Còn các tổn thất
16
về tinh thần thì không rõ ràng, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người đánh giá.
Có thể nói rằng, những thiệt hại vật chất có thể khôi phục được tình trạng ban
đầu nhưng những tổn thất tinh thần thì hoàn toàn không thể khôi phục được hay
nói cách khác là không thể bù đắp toàn bộ được mà chỉ bù đắp phần nào, giảm
bớt phần nào tổn thất về tinh thần. Tổn thất về tinh thần tạo ra những vết hằn về
tâm lý sâu sắc, khó phai mờ trong ký ức của người bị thiệt hại, nhiều trường hợp
làm đảo lộn đời sống tâm lý cũng như cuộc sống của người bị thiệt hại.
1.3. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc quy định về tổn thất tinh thần
trong pháp luật dân sự
1.3.1. Cơ sở pháp lý
Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể và quyền
được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trong số những quyền nhân thân
quan trọng nhất. Căn cứ vào nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của mình, BLDS
2005 ngay tại Điều 1 đã nêu nhiệm vụ “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và
an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đồng
thời BLDS đã giành toàn bộ mục 2 chương III để quy định về các quyền nhân
thân và bảo vệ quyền nhân thân. Tại các Điều 32, 37 quy định rất chi tiết về
quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể và quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền nhân thân,
BLDS còn quy định biện pháp để bảo vệ các quyền ấy. Khi quyền dân sự của
một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền:
“a) Công nhận quyền dân sự của mình;
b) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm;
c) Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
17
đ) Buộc BTTH” (Điều 9 BLDS 2005).
Cụ thể hơn, khi quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,
thân thể và quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm thì
người đó có quyền:
“1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
buộc người vi phạm BTTH” (Điều 25 BLDS 2005).
Điều 307, 609, 610, 611, 628 BLDS 2005 đã ghi nhận quyền của người bị
thiệt hại được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong các trường hợp
khi sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, thi thể bị xâm phạm bởi
hành vi trái pháp luật của người khác.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn
Trong các vụ việc có yêu cầu BTTH về sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy
tín, nhân phẩm, thi thể, nếu điều luật chỉ quy định về trách nhiệm BTTH vật chất
của người gây thiệt hại thì chúng ta thấy có một thiếu sót rất lớn. Bởi lẽ bên cạnh
những thiệt hại vật chất cụ thể, tính toán được, người bị thiệt hại còn phải chịu
đựng những nỗi đau vô hình, ám ảnh và kéo dài. Sự ảnh hưởng của nó có thể dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng hơn rất nhiều những thương tổn bề ngoài của
vết thương. Hoặc trong trường hợp có người thân trong gia đình bị xâm phạm
tính mạng, sự nhớ nhung, đau đớn, dằn vặt… của những người thân còn lại liệu
rằng có sự bù đắp nào thỏa đáng? Nhiều trường hợp, người bị thiệt hại chỉ có tổn
thất về tinh thần mà không có thiệt hại vật chất thì bằng cách nào để trả lại cuộc
sống bình thường, yên ổn cho họ như khi chưa có sự xâm phạm? Đó là việc
chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi và một sự bù đắp hợp lý cho những nỗi đau
mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.
18
Thực tiễn cho thấy ngoài tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
thì còn các quyền nhân thân khác (như quyền nhân thân đối với họ tên, hình ảnh,
bí mật đời tư…) khi bị xâm phạm cũng làm phát sinh tổn thất tinh thần, do đó
người gây thiệt hại cũng phải chịu trách nhiệm BTTH. Tuy nhiên, hiện nay
BLDS không quy định cụ thể mức BTTH khi những quyền nhân thân này bị xâm
phạm. Do đó, khi áp dụng các Tòa án tự hiểu là áp dụng tương tự theo quy định
về BTTH do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Vì vậy, việc hoàn thiện
quy định pháp luật về trách nhiệm bù đắp tổn thất tinh thần do xâm phạm sức
khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác là hết
sức cần thiết trong điều kiện hiện nay nhằm bảo vệ tốt nhất những quyền, lợi ích
chính đáng của người bị thiệt hại.
1.4. Lược sử quy định trong pháp luật Việt Nam về tổn thất tinh thần
1.4.1. Trước BLDS 1995
Khi nghiên cứu về pháp luật cổ ở Việt Nam chúng ta thấy các quy định về
trách nhiệm dân sự được quy định rất tản mạn, không có sự phân biệt rõ với
trách nhiệm hình sự. Sở dĩ như vậy vì pháp luật Việt Nam cổ xưa ảnh hưởng sâu
sắc tư tưởng Nho giáo Trung Hoa mà theo tư tưởng này, trong xã hội mọi người
đều hành động như hiền nhân quân tử, giữa họ không thể có những tranh chấp về
quyền lợi. Tuy nhiên, khi nghiên cứu pháp luật thời Lê (Quốc triều hình luật) và
pháp luật thời nhà Nguyễn (Hoàng Việt luật lệ) có thể nhận thấy, cùng với những
quy định về trách nhiệm hình sự, hai bộ luật cũng đã quy định về khoản tiền bồi
thường cho người bị thiệt hại. Những quy định của Quốc triều hình luật và
Hoàng Việt luật lệ đã ghi nhận ngoài bồi thường những tổn thất vật chất, người
gây thiệt hại còn phải đền khoản “tiền tạ” được hiểu như là tiền bù đắp tổn thất
về tinh thần. Tuy vậy, khác với tổn thất vật chất được quy định khá rõ và được
áp dụng cho mọi trường hợp gây thiệt hại, tổn thất tinh thần chỉ được áp dụng
trong một số trường hợp nhất định gắn với quan niệm lập pháp thời đó về danh
giá, danh dự cần hoặc xứng đáng được bồi thường. Khoản tiền tạ với tính chất là
19
tiền bồi thường danh dự chỉ được áp dụng khi người bị xâm phạm là người có
một địa vị xã hội hoặc danh giá hoàng tộc nhất định. Nếu nạn nhân là thường
dân thì khoản tiền tạ đó không được đề cập đến. Theo nội dung của Điều 472
Quốc triều hình luật quy định về trường hợp kẻ dưới đánh quan lại, quan lại đánh
lẫn nhau thì khi một người đánh quan chức bị thương, ngoài việc phải chịu hình
phạt, phải đền tiền thương tổn còn phải đền tiền tạ. Trái lại, nếu đánh người
không phải quan chức, theo quy định tại các điều luật khác, thì không phải chịu
khoản tiền tạ. Tương tự như vậy, Điều 473 dự liệu về khả năng kẻ dưới lăng mạ
quan lại, quan lại lăng mạ nhau đã không chỉ đưa ra hình phạt mà còn quy định
sự phạt tiền tạ nếu phạm tội lăng mạ quan chức. Các trường hợp lăng mạ khác
thì không phải chịu khoản tiền tạ này. Điều 474 đưa ra tình huống đánh người
trong hoàng tộc cũng quy định trách nhiệm đền bù tiền tạ nếu đánh hoặc lăng mạ
người trong hoàng tộc từ hàng đản miễn (cháu 5 đời).
Ngoài ra, việc bù đắp tổn thất về tinh thần còn được dự kiến chung cho tất
cả mọi người trong một số trường hợp liên quan đến hôn nhân gia đình, điền
sản… Ví dụ, “người kết hôn mà không đủ sính lễ đến nhà cha mẹ [người con
gái]… để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư và
phải theo lệ sang hèn, bắt phải nộp tiền tạ cho cha mẹ…” (Điều 314 Quốc triều
hình luật). Trong trường hợp từ hôn, nghĩa là khi hai bên đã giao nhận sính lễ rồi
mà thay đổi ý kiến không kết hôn nữa thì bên nam cũng như nữ đều phải bồi
thường tổn thất về danh dự cho người kia (Điều 315 Quốc triều hình luật, Điều
94 Hoàng Việt luật lệ). Đặc biệt, trong chương Điền sản, Quốc triều hình luật đã
ghi nhận một số khía cạnh của tổn thất về tinh thần mà BLDS Việt Nam hiện
hành chưa thừa nhận. Đó là trường hợp xâm phạm đến mồ mả của người khác.
Điều 358, 359 quy định: “Nếu chặt tre gỗ trong vườn mộ địa của người khác thì
xử biếm một tư và nộp tiền tạ lỗi 10 quan”; “Cấy trộm vào đất mộ của người ta,
thì phải biếm một tư; lấn phạm vào mộ thì biếm ba tư; kẻ phạm lỗi trên không có
quan chức, thì xử tội đồ làm khao đinh, và phải nộp tiền tạ lỗi 30 quan”.
20
Dưới thời Pháp thuộc, do tiếp thu được phần nào sự tiến bộ của nền khoa
học pháp lý phương Tây nên trách nhiệm dân sự đã được tách khỏi trách nhiệm
hình sự. Các BLDS của nước ta thời kỳ này do nhà nước Pháp ban hành bằng
tiếng Pháp và được dịch ra tiếng Việt. Các bộ luật này dựa theo BLDS của
Napoleon nhưng có điều chỉnh phù hợp với điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội
ở Việt Nam. Chế định BTTH trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung
Kỳ Hộ luật được chia thành trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và ngoài hợp
đồng. Đối với trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, nguyên tắc chung để xác định
trách nhiệm dân sự được quy định tại Điều 712 Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Điều 761
Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật, đó là: Người nào làm bất cứ việc gì gây thiệt hại
cho người khác do lỗi của mình đều phải bồi thường thiệt hại. Việc bù đắp tổn
thất về tinh thần được đề cập cụ thể trong trường hợp từ hôn: Bên nào xin bỏ lời
hứa về việc giá thú mà không có duyên cớ gì chính đáng hoặc vì sự lỗi bên ấy,
thì phải chịu trách nhiệm bồi thường tổn hại cho bên kia; ngoại lệ khi người hứa
giá thú chết (Điều 71 Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật).
Bên cạnh đó, Điều 22 Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật còn
quy định những trường hợp hộ lại không chịu đăng ký một việc sinh, tử, giá thú
mà người ta đã khai sinh với mình… “thì bị phạt từ 5 đồng đến 100 đồng”. Đây
chính là sự bảo hộ của pháp luật đối với người dân trong lĩnh vực khai sinh, khai
tử là những quyền nhân thân gắn với mỗi chủ thể.
1.4.2. Quy định trong BLDS 1995
Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần lần đầu tiên được quy định tại
BLDS 1995. Trước BLDS 1995, Thông tư số 173/UBTP ngày 23-3-1972 của Ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn xét xử về BTTH
ngoài hợp đồng đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản và những căn cứ làm cơ sở
cho việc giải quyết bồi thường trong các vụ án cụ thể. Nhưng Thông tư này mới
chỉ đề cập đến thiệt hại vật chất mà không nói đến tổn thất về tinh thần: “phải có
thiệt hại. Đó là thiệt hại về vật chất, biểu hiện cụ thể là thiệt hại về tài sản, hoặc