BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ THANH HUYỀN
PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG TRONG
LĨNH VỰC NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Xuân Thu
HÀ NỘI - 2013
MUC LUC
LỜI NÓI ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 4
5. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của Luận văn .............................. 5
6. Kết cấu của Luận văn ....................................................................................... 5
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG TRONG
LĨNH VỰC NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ ........................................................... 6
1.1. Khái niệm an toàn lao động và an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử ............................................................................................................. 6
1.1.1. An toàn lao động .................................................................................... 6
1.1.1.1. Khái niệm ........................................................................................ 6
1.1.1.2. Đặc điểm của an toàn lao động ......................................................... 7
1.1.1.3. Ý nghĩa công tác an toàn lao động .................................................... 9
1.1.2. An toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử......................... 10
1.1.2.1. Khái niệm ...................................................................................... 10
1.1.2.2. Đặc điểm ........................................................................................ 12
1.2. Pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ................ 14
1.2.1. Vai trò của pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử ....................................................................................................... 14
1.2.2. Nội dung của pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử ....................................................................................................... 15
1.2.3. Pháp luật quốc tế về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên
tử .................................................................................................................... 16
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC
NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM ..................................................... 21
2.1. Khái lược sự hình thành và phát triển ngành năng lượng nguyên tử ............ 21
2.2. Quy định hiện hành và thực tiễn công tác an toàn lao động lĩnh vực năng
lượng nguyên tử ................................................................................................. 23
2.2.1. Những quy định nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho người lao
đông làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ....................................... 26
2.2.1.1. Tiêu chuẩn an toàn ......................................................................... 27
2.1.1.2. Những quy định yêu cầu an toàn về địa điểm, thiết kế, cơ sở.......... 28
2.2.2. Các quy định nhằm hạn chế những ảnh hưởng của môi trường, điều kiện
lao động phóng xạ ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động ............................ 39
2.2.2.1. Những quy định về phương tiện lao động, bảo hộ lao động ............ 39
2.2.2.2. Quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với người làm
việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ................................................... 46
2.2.2.3. Chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật ..................................................... 48
2.2.3. Chế độ chăm sóc y tế đối với người lao động....................................... 50
2.2.4. Quy định về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử và chế độ áp dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp ........................................................................................... 51
Chương 3:
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC AN TOÀN LAO ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC NĂNG LƯỢNG
NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM ................................................................................ 59
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử ................................................................................................. 59
3.2. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
công tác an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ......................... 61
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác an toàn lao
động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ......................................................... 63
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật ............................................................................. 63
3.3.1.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về an toàn lò phản ứng hạt nhân
nghiên cứu .................................................................................................. 63
3.3.1.2. Hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về tiêu chuẩn an toàn hạt
nhân ............................................................................................................ 64
3.3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về trang bị phương tiện lao động,
bảo hộ lao động .......................................................................................... 64
3.3.1.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tai nan lao động, bệnh nghề
nghiệp trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ............................................... 65
3.3.2. Các giải pháp khác................................................................................ 66
3.3.2.1. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về công tác an toàn lao động
trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử .......................................................... 66
3.3.3.2. Nâng cao hiểu biết về an toàn bức xạ đối với người làm việc trong
lĩnh vực năng lượng nguyên tử ................................................................... 69
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 71
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử ở nước ta đã được phát
triển từ hơn 30 năm và ngày càng được mở rộng trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã
hội, mang lại hiệu quả thiết thực, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Năng lượng nguyên tử đã được ứng dụng trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp,
địa chất, khoáng sản, khí tượng, thủy văn, giao thông, dầu khí… Đảng và Nhà
nước ta chủ trương xây dựng nhà máy điện hạt nhân nhằm đáp ứng nhu cầu điện
năng cho nền kinh tế của đất nước. Công nghiệp hóa đất nước đòi hỏi nguồn cung
cấp điện năng ổn định, kinh tế. Chất phóng xạ tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro đối
với môi trường và sức khỏe con người. Việc đảm bảo an toàn bức xạ và hạt nhân
đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm trên quan điểm đảm bảo sự phát
triển bền vững, đảm bảo an toàn cho con người và môi trường khi triển khai áp
dụng các kỹ thuật bức xạ, hạt nhân. Khi nghiên cứu, triển khai áp dụng các kỹ
thuật bức xạ và hạt nhân vào cuộc sống, thì những người lao động làm việc trong
ngành là đối tượng cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm hơn hết. Bởi họ là
những người trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp xúc với các chất phóng xạ, việc đảm bảo
an toàn cho những người lao động đặt ra những yêu cầu và thách thức đối với nhà
nước cũng như những người sử dụng lao động.
Nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành năng lượng nguyên
tử, bên cạnh những quy định pháp luật về an toàn lao động nói chung, Nhà nước
cũng cần có những quy định cụ thể, những yêu cầu đặc thù đối với ngành năng
lượng nguyên tử nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các cơ sở bức xạ, cơ sở hạt nhân và
các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo hộ cho người lao động. Đây cũng là
căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức
năng quản lý, thanh tra và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên
tử.
Việc tìm hiểu và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về đảm bảo an toàn
lao động cho người lao động làm việc trong ngành năng lượng nguyên tử là cần
2
thiết để Việt Nam có thể ngày càng mở rộng và phát triển những ứng dụng bức xạ
trong các ngành kinh tế và xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về an toàn lao động
trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử - Thực trạng và giải pháp” để làm luận
văn tốt nghiệp, với mong muốn góp phần vào công tác nghiên cứu, xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở
nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc quản lý an toàn bức xạ và hạt nhân là trách nhiệm của các quốc gia.
Tuy nhiên, phóng xạ có nguy cơ vượt qua biên giới địa lý của quốc gia lãnh thổ.
Vì vậy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về an toàn trên toàn cầu thông qua việc trao đổi
kinh nghiệm và tăng cường năng lực kiểm soát hiểm họa, phòng ngừa tai nạn, ứng
phó tình trạng khẩn cấp và giảm thiểu mọi hậu quả xấu đã hình thành nên Cơ quan
Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Chương trình xây dựng tiêu chuẩn an toàn
của IAEA có vai trò rất quan trọng đối với tương lai của năng lượng nguyên tử. Sự
đóng góp của IAEA cho an toàn hạt nhân của toàn thể giới đó là hệ thống tiêu
chuẩn an toàn của IAEA. Các tiêu chuẩn an toàn của IAEA là một tập hợp các
nguyên tắc cơ bản, yêu cầu và hướng dẫn cho các quốc gia tham khảo nhằm bảo
đảm an toàn trong tất cả các ứng dụng năng lượng nguyên tử. Các tiêu chuẩn này
là sự phản ánh các thỏa thuận quốc tế về quy định mức độ an toàn cao để bảo vệ
con người và môi trường cũng như đặt nền móng cho chế độ an toàn hạt nhân toàn
cầu.
Tiêu chuẩn an toàn đầu tiên của IAEA có tiêu đề Thao tác An toàn Đồng vị
Phóng xạ (Safe Handling of Radioisotopes) đã được ban hành vào tháng 12/1958.
Từ đó đến nay, hơn 200 tiêu chuẩn an toàn đã được xuất bản. Các tiêu chuẩn bao
gồm các nội dung an toàn hạt nhân, bảo vệ chống bức xạ, quản lý chất thải phóng
xạ, vận chuyển vật liệu phóng xạ, an toàn các cơ sở trong chu trình nhiên liệu hạt
nhân và bảo đảm chất lượng. Các tiêu chuẩn an toàn của IAEA cung cấp cho các
quốc gia một khung mà trong đó các quốc gia căn cứ nhu cầu, tình hình thực tiễn
3
của đất nước mà xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn an toàn phù hợp với đất nước
mình.
Các đề tài nghiên cứu về an toàn bức xạ và hạt nhân của Việt Nam phần
lớn là nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng các văn bản pháp luật về an
toàn trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử nhằm đảm bảo an toàn không chỉ cho
người làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử mà còn đảm bảo một môi
trường sống an toàn nói chung cho hệ sinh thái và an toàn đối với dân chúng. Hiện
nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu về các văn bản pháp luật an toàn bức xạ và hạt
nhân hiện hành dưới góc độ pháp luật lao động, đảm bảo an toàn lao động cho
người lao động làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích:
Vấn đề đảm bảo an toàn bức xạ và hạt nhân đối với môi trường và con
người hình thành một hệ thống văn bản pháp luật liên quan khá đồ sộ, phức tạp và
đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao. Luận văn không tham vọng nghiên cứu và giải
quyết toàn diện, triệt để các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật an toàn bức
xạ và hạt nhân, mà chỉ tập trung vào một số vấn đề cơ bản nhất, phân tích đánh giá
các quy định pháp luật hiện hành về an toàn bức xạ và hạt nhân dưới góc độ pháp
luật lao động, an toàn đối với người lao động làm việc trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử kết hợp thu thập, tổng hợp các số liệu thực tế. Trên cơ sở đó, tác giả
đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử để ngày càng thu hút nhiều người làm việc trong ngành
nhằm đảm bảo đủ nhân lực cho sự phát triển của ngành năng lượng nguyên tử.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nêu trên, những nhiệm vụ nghiên cứu được xác định
gồm:
- Nghiên cứu đặc điểm của công tác an toàn lao động trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử;
4
- Nghiên cứu khái quát hệ thống văn bản pháp luật an toàn lao động trong
lĩnh vực nguyên tử, có tham khảo một số văn bản pháp luật của quốc tế và một số
quốc gia;
- Đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về an toàn lao động trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử và thực tế áp dụng;
- Nghiên cứu đề xuất, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về an
toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm các quy định pháp luật về an toàn
bức xạ và hạt nhân nhằm bảo vệ sức khỏe người lao động làm việc trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử, một số quy định của quốc tế về an toàn bức xạ và hạt nhân,
thực tiễn xây dựng và áp dụng các quy định về an toàn bức xạ và hạt nhân đối với
người lao động làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những quy định riêng của pháp luật
về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cụ thể là những quy
định liên quan đến an toàn bức xạ và hạt nhân trong Luật Năng lượng nguyên tử,
Nghị định số 07/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử,
Nghị định số 70/NĐ-CP ngày22 tháng 06 năm 2010 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử về Nhà
máy điện hạt nhân và một số văn bản hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Lao động thương binh xã hội, Bộ Y tế về các chính sách đối với người lao
động làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm…
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như
phương pháp tổng hợp và phân tích để phân tích các quy định của pháp luật an
toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử từ những quy định pháp luật
về an toàn bức xạ và hạt nhân để từ đó đánh giá sự hoàn thiện của các quy định
pháp luật, mức độ hiệu quả khi áp dụng các quy định đó trên thực tiễn; phương
5
pháp so sánh và đối chiếu các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy định
của pháp luật các nước, từ đó rút ra những điểm đã đạt được và những điểm cần
phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử; phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực
tiễn... Các phương pháp nghiên cứu trong Luận văn được thực hiện trên nền tảng
của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ sở các quan điểm,
đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ thạc sỹ luật học nghiên
cứu về pháp luật an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử dưới góc
độ lý luận và thực tiễn áp dụng, luận văn đã đề cập tương đối hệ thống và giải
quyết khá toàn diện các nội dung của công tác an toàn lao động trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử. Những kết quả và đóng góp mới cơ bản của Luận văn là:
i) Xác định được khái niệm và những đặc điểm về an toàn lao động trong
lĩnh vực năng lượng nguyên tử;
ii) Phân tích, đánh giá được một cách có hệ thống các quy định về an toàn
bức xạ và hạt nhân và thực tế áp dụng ở Việt Nam;
iii) Đề xuất được một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật an toàn lao
động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử nhằm bảo vệ tốt nhất cho những người
lao động có nguy cơ gặp rủi ro cao.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật an toàn lao động trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử.
Chương 2: Thực trạng pháp luật an toàn lao động trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác an toàn lao
động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở Việt Nam.
6
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG
TRONG LĨNH VỰC NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ
1.1. Khái niệm an toàn lao động và an toàn lao động trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử
1.1.1. An toàn lao động
1.1.1.1. Khái niệm
Trong xã hội hiện đại ngày nay, con người luôn luôn phải đối mặt với
không chỉ những rủi ro, đe dọa từ thiên nhiên mà còn từ chính trong hoạt động xã
hội của mình. Vấn đề an toàn luôn được đặt ở vị trí hàng đầu cốt lõi cho mọi hoạt
động. Con người dành phần lớn thời gian của cuộc đời mình cho lao động sản xuất
để duy trì sự sống và phát triển. Đảm bảo an toàn lao động cho người lao động là
một nhu cầu tất yếu, khách quan trong quá trình sản xuất.
Hiểu theo nghĩa là một yêu cầu của quá trình sản xuất thì an toàn lao động
là việc đảm bảo cho người lao động được làm việc trong điều kiện lao động an
toàn, không gây nguy hiểm đến tính mạng, không bị tác động xấu đến sức khoẻ.
Hiểu theo nghĩa là biện pháp áp dụng trong sản xuất thì an toàn lao động là
tổng hợp các biện pháp nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm phát sinh trong quá
trình lao động đảm bảo cho người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn,
ngăn ngừa sự cố tai nạn xảy ra trong quá trình lao động, gây thương tích đối với
cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động.
Dưới góc độ pháp lý, an toàn lao động là một chế định của luật lao động
bao gồm những quy phạm pháp luật quy định việc đảm bảo an toàn lao động
nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động, đồng thời duy trì tốt khả
năng làm việc lâu dài của người lao động. An toàn lao động không tốt thì gây ra
tai nạn lao động.
Trong Bộ luật Lao động, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động được quy định
thành một chương riêng biệt, Chương IX. Các quy định về an toàn lao động, vệ
sinh lao động được áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động, mọi
công chức, viên chức, mọi người lao động kể cả người học nghề, tập nghề, thử
việc trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, trong lực lượng vũ trang và các
7
doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan nước ngoài, tổ chức quốc tế đóng trên lãnh thổ
Việt Nam.
Cùng với ý nghĩa là đảm bảo sức khỏe, tính mạng người lao động, công tác
an toàn lao động và vệ sinh lao động luôn được tiến hành đồng thời, hỗ trợ nhau
tạo nên môi trường lao động thuận lợi. Tuy nhiên, cần hiểu đó là hai phương diện
khác nhau của một vấn đề, chứ không nên nhầm lẫn đánh đồng chúng là một. Sự
khác nhau chủ yếu đó là mục đích cụ thể của chúng. Việc triển khai các biện pháp
an toàn lao động trong quá trình lao động có ý nghĩa quyết định trong việc ngăn
ngừa tai nạn lao động và những sự cố khác nhau có thể phát sinh trong quá trình
làm việc gây thiệt hại trực tiếp cho người lao động. Còn công tác vệ sinh lao động
được đặt ra đối với đơn vị sử dụng lao động nhằm kiến tạo một môi trường lao
động xanh, sạch, đẹp trong lành, hạn chế tới mức thấp nhất các tác nhân vật lý,
hóa học độc hại, giảm thiểu tình trạng người lao động mắc các bệnh nghề nghiệp.
Chính vì vậy, nội dung các biện pháp cũng được áp dụng khác nhau. Ví dụ như,
để thực hiện an toàn lao động, người lao động phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
trình an toàn kĩ thuật gồm trình tự thực hiện các công việc, vị trí đứng, thời gian
an toàn… Trong khi thực hiện vệ sinh lao động, chẳng hạn người lao động sẽ phải
làm vệ sinh sạch sẽ công trình trước và sau khi làm việc, lau chùi sạch sẽ các dụng
cụ lao động hoặc người lao động phải trang bị các thiết bị đảm bảo vệ sinh.
Tóm lại, việc đảm bảo an toàn lao động là một nhu cầu tất yếu và cần thiết
mà cả người sử dụng lao động và người lao động đều cần phải quan tâm thực hiện.
Công tác an toàn lao động là hoạt động phối hợp các biện pháp khoa học kỹ thuật,
pháp lý, kinh tế, tâm lý xã hội… nhằm đảm bảo môi trường lao động an toàn,
tránh tổn thất tính mạng sức khỏe người lao động. Việc triển khai thực hiện các
biện pháp đó trong quá trình lao động có ý nghĩa quyết định trong việc ngăn ngừa
tai nạn lao động và những sực cố khác.
1.1.1.2. Đặc điểm của an toàn lao động
a) Tính khoa học kỹ thuật
An toàn lao động mang tính chất khoa học kỹ thuật vì mọi hoạt động nhằm
loại trừ yếu tố nguy hiểm, độc hại, phòng chống tai nạn lao động đều xuất phát từ
8
những cơ sở khoa học và thực hiện bằng các giải pháp kỹ thuật. Ngoài ra, để đảm
bảo an toàn lao động, bên cạnh trang bị các phương tiện cá nhân, bồi dưỡng bằng
hiện vật… các doanh nghiệp còn phải tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn
lao động. Đây là những tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp
và đánh giá yêu cầu an toàn tối thiểu đối với từng ngành nghề, từng cơ sở sản xuất
do các cán bộ khoa học đảm nhiệm và có tính chất bắt buộc chung. Bên cạnh đó,
trong quá trình cải tiến, lắp đặt các thiết bị máy móc, dây chuyền sản xuất, các
doanh nghiệp cũng cần chú ý tới các yếu tố an toàn mang tính kỹ thuật như:
khoảng cách an toàn, biện pháp xử lý sự cố…
Muốn thực hiện tốt công tác an toàn lao động, Nhà nước phải tổ chức
nghiên cứu khoa học kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động gắn liền với trang bị cải
tiến thiết bị, kỹ thuật công nghệ sản xuất. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng
được ngành kỹ thuật bảo hộ lao động. Ngành bảo hộ lao động đào tạo kỹ sư có
kiến thức chuyên sâu về môi trường lao động, môi trường doanh nghiệp, an toàn
lao động, tâm sinh lý của người lao động, tổ chức khoa học lao động. Kỹ sư ngành
này có kỹ năng điều tra, khảo sát, phân tích, đánh giá và quản lý môi trường lao
động; đề xuất các giải pháp công nghệ và tổ chức để xử lý nóng, bụi, ồn, rung…
trong quá trình sản xuất; loại trừ các yếu tố nguy hiểm gây tai nạn lao động, sự cố
trong sản xuất và các yếu tố độc hại gây bệnh nghề nghiệp
b) Tính chất pháp lý
Muốn các giải pháp khoa học kỹ thuật, các biện pháp mang tính tổ chức và
xã hội về an toàn lao động được thực hiện phải thể chế chúng thành luật, chế độ,
chính sách, tiêu chuẩn, hướng dẫn để buộc các cấp quản lý, các tổ chức và cá nhân
phải thực hiện. Đồng thời các cơ quan có thẩm quyền cũng phải tiến hành thanh
kiểm tra thường xuyên, phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm.
Tính chất pháp lý của công tác an toàn lao động thể hiện ở chỗ tất cả các
quy định về an toàn lao động bao gồm các quy định về kỹ thuật (quy phạm, qui
trình, tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn); qui định về tổ chức thực hiện, trách nhiệm của
các tổ chức, cá nhân, các chính sách chế độ… đều là những văn bản pháp luật có
tính chất bắt buộc nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe người lao động. Đặc biệt là
9
các quy phạm và tiêu chuẩn an toàn (như thiết bị che chắn, khoảng cách an toàn,
thiết bị bảo hiểm…) có tính bắt buộc rất cao do có liên quan đến tính mạng của
con người trong quá trình sản xuất.
Các yêu cầu và biện pháp quy định đòi hỏi phải được thực thi nghiêm chỉnh
vì nó liên quan đến sức khỏe người lao động và tài sản người sử dụng lao động.
Mọi vi phạm về tiêu chuẩn an toàn trong quá trình sản xuất đều bị coi là những
hành vi phạm pháp luật về an toàn lao động.
c) Tính chất quần chúng
An toàn lao động mang tính quần chúng rộng rãi vì mọi hoạt động sản xuất
đều cần phải được người sử dụng lao động và người lao động thực hiện nghiêm
túc. Hoạt động an toàn lao động chỉ có hiệu quả khi mọi ngành, mọi tổ chức xã
hội, mọi người sử dụng lao động, cán bộ kỹ thuật và người lao động tích cực tham
gia thực hiện các quy định, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để phòng ngừa các
tai nạn lao động.[11]
1.1.1.3. Ý nghĩa công tác an toàn lao động
Việc quy định an toàn lao động và vệ sinh lao động thành một chế định
trong luật lao động có ý nghĩa quan trong trong thực tiễn.
Trước hết, nó biểu hiện sự quan tâm của nhà nước đối với vấn đề bảo đảm
sức khỏe làm việc lâu dài cho người lao động. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm
2001) cũng khẳng định chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân, với mục tiêu vì con người. Như vậy, quan điểm nhất quán của Đảng và
Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu cũng như động lực của quá trình
phát triển xã hội. Với nhận thức như vậy nên an toàn lao động là vấn đề cốt lõi
trong nhận thức và hành động thực tiễn. Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định
con người ở vị trí trung tâm của chính sách kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng
để phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Thứ hai, các quy định về đảm bảo an toàn lao động trong doanh nghiệp
phản ánh nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động trong vấn
đề bảo đảm sức khỏe cho người lao động. Người lao động bằng sức lao động của
10
mình đã tạo ra giá trị thặng dư cho người sử dụng lao động. Người sử dụng lao
động được hưởng những lợi ích lớn từ việc sử dụng lao động đồng thời cũng cần
phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đối với người lao động để có thể đảm bảo
duy trì tái tạo sức lao động cho người lao động.
Thứ ba, nó nhằm đảm bảo các điều kiện vật chất và tinh thần cho người lao
động thực hiện tốt nghĩa vụ lao động. Người lao động có được đảm bảo tính mạng
và sức khỏe thì họ mới có thể yên tâm lao động sản xuất, cố gắng đạt năng suất và
sản lượng theo yêu cầu của người sử dụng lao động.
1.1.2. An toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử
1.1.2.1. Khái niệm
Khái niệm nguyên tử đã tồn tại trong nhiều thế kỉ. Nhưng chỉ gần đây,
chúng ta mới bắt đầu hiểu được sức mạnh khủng khiếp chứa trong khối lượng nhỏ
xíu ấy. Trong những năm ngay trước và trong Thế chiến thứ hai, nghiên cứu hạt
nhân chủ yếu tập trung vào phát triển các loại vũ khí phòng thủ. Sau đó, các nhà
khoa học tập trung vào các công dụng hòa bình của công nghệ hạt nhân. Một công
dụng quan trọng của năng lượng hạt nhân là phát điện. Sau nhiều năm nghiên cứu,
các nhà khoa học đã ứng dụng thành công công nghệ hạt nhân cho nhiều mục đích
khoa học, y khoa, và công nghiệp khác. Chúng ta bắt đầu hình thành tư duy về
nguyên tử với ý tưởng của các nhà triết học Hi Lạp cổ đại. Sau đó, chúng ta biết
thêm về nguyên tử và năng lượng của nó nhờ những nhà khoa học đầu tiên khám
phá ra hiện tượng phóng xạ. Bây giờ, chúng ta biết đến công dụng hiện đại của
nguyên tử là một nguồn năng lượng vô giá. Chúng ta có thể thấy sự phát triển
chóng mặt của khoa học nguyên tử cũng như hiểu biết của con người về thế giới
vô cùng bé cấu tạo lên thế giới của chúng ta.
Chúng ta đã biết chất phóng xạ là một bộ phận không thể tách rời của trái
đất chúng ta, nó đã tồn tại cùng trái đất. Các chất phóng xạ tồn tại trong tự nhiên,
có trên mặt đất, có trong không khí và thực phẩm. Chất phóng xạ tồn tại ở dạng
khí trong không khí khi chúng ta hít thở. Cả trong cơ thể của chúng ta bao gồm cơ,
xương và các mô đều chứa các nguyên tố phóng xạ có trong tự nhiên. Con người
vẫn thường phải chịu sự chiếu xạ của các bức xạ tự nhiên từ trái đất, cũng như từ
11
bên ngoài trái đất. Bức xạ mà chúng ta nhận được từ bên ngoài trái đất được gọi là
các tia vũ trụ hay bức xạ vũ trụ. Tuy nhiên, con người chỉ có thể chịu được một
giới hạn liều bức xạ nhất định. Nếu vượt quá giới hạn đó, thì bức xạ ion hóa sẽ
làm tổn thương ở mức nhiễm sắc thể ADN, tổn thương ở mức tế bào có thể làm
phá hủy hoàn toàn các tế bào, ảnh hưởng tới hệ tiêu hóa, da, cơ quan sinh dục, sự
phát triển của phôi thai, làm giảm tuổi thọ hoặc dẫn tới bị ung thư phổi…
Người lao động trong ngành năng lượng nguyên tử là những người có nguy
cơ hấp thụ bức xạ nhiều hơn người bình thường trong môi trường tự nhiên. Như
vậy, Nhà nước cần có chính sách, quy định để giới hạn đảm bảo rằng lượng phóng
xạ mà người lao động hấp thụ không vượt quá giới hạn để có thể gây những biến
đổi bất lợi cho sức khỏe người lao động.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 “Hoạt động
trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là hoạt động nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; xây dựng, vận hành, bảo
dưỡng, khai thác, quản lý và tháo dỡ cơ sở hạt nhân, cơ sở bức xạ; thăm dò, khai
thác, chế biến, sử dụng quặng phóng xạ; sản xuất, lưu giữ, sử dụng, vận chuyển,
chuyển giao, xuất khẩu, nhập khẩu nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, nhiên liệu hạt
nhân, vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân và thiết bị hạt nhân; xử lý, lưu giữ
chất thải phóng xạ và các dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử”. Hoạt
động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được được quy định trong luật chỉ
mang tính liệt kê, không có sự phân loại. Ta có thể phân thành 5 nhóm chính như
sau để có thể dễ dàng xác định những nơi diễn ra hoạt động trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử:
- Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử;
- Hoạt động khai thác và chế biến quặng phóng xạ;
- Hoạt động vận chuyển vật liệu phóng xạ;
- Hoạt động ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ với những ứng dụng
trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp và môi trường;
12
- Hoạt động ứng dụng năng lượng hạt nhân với ứng dụng trong phát điện
(nhà máy điện hạt nhân) và lò phản ứng nghiên cứu.
Phạm vi hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử không bao gồm
hoạt động quản lý trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Điều này dẫn tới nhiều
tranh luận rằng những người quản lý có trình độ chuyên môn về nguyên tử có là
người làm việc trong ngành năng lượng nguyên tử hay không. Theo quy định của
Luật Năng lượng nguyên tử, thì những người hoạt động trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử là những người có nguy cơ hoặc có khả năng sẽ bị xâm nhập và chiếu
xạ vào cơ thể khi tiếp xúc với các nguồn phóng xạ và thiết bị phóng xạ. Tuy
nhiên, một số cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng phải nghiên cứu,
làm việc với nguồn phóng xạ thì họ mới có thể thanh tra, kiểm tra và thực hiện các
hoạt động dịch vụ liên quan đến năng lượng nguyên tử. Nếu không quy định hoạt
động quản lý về năng lượng nguyên tử trong khái niệm trên thì dẫn tới bỏ sót đối
tượng và không kịp thời có những chế độ đãi ngộ đối với những đối tượng này
như các cơ sở, đơn vị khác.
Cần có sự xác định lại nội hàm khái niệm hoạt động trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử, và có cách quy định khoa học hơn, quy định theo kiểu liệt kê, có
thể dẫn tới bỏ sót một số đối tượng nhất định.
An toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là tổng hợp các biện
pháp nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu sự xâm nhập và chiếu xạ của các nguồn phóng
xạ và thiết bị bức xạ vào cơ thể người lao động trong quá trình hoạt động quản lý,
sản xuất và nghiên cứu gây ra những biến đổi bất lợi đối với sức khỏe của người
lao động.
1.1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, phóng xạ không màu, không mùi, không vị, không màu sắc,
không thể sờ mó, bằng các giác quan thông thường con người không thể nhận biết
được sản phẩm vô hình này. Nguy cơ tiềm ẩn của phóng xạ luôn đe dọa, rình rập
sức khỏe con người mà không ai có thể nhận biết bằng những cách thông thường.
Để có thể chủ động kiểm soát những ảnh hưởng của phóng xạ tới sức khỏe con
13
người, người lao động được trang bị những phương tiện, thiết bị để nhận biết rủi
ro có thể gặp phải.
Thứ hai, vấn đề đảm bảo an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử không đơn thuần chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người lao
động, nếu sự cố, tai nạn về bức xạ và hạt nhân xảy ra thì những sự cố ấy còn ảnh
hưởng đến môi trường sống và sức khỏe của cộng đồng xung quanh. Vấn đề an
toàn bức xạ và hạt nhân không chỉ là vấn đề riêng của của người lao động hay của
riêng một quốc gia nào. Bởi sự phát tán của phóng xạ có khả năng vượt ra khỏi
biên giới lãnh thổ quốc gia hay nơi làm việc của người lao động. Đảm bảo an toàn
bức xạ và hạt nhân trước hết là cho những người lao động, là trách nhiệm của
người sử dụng lao động đối với người lao động. Song, nếu các biện pháp bảo đảm
an toàn không được thực hiện, không được quan tâm đúng mức thì nó còn ảnh
hưởng cả tới môi trường xung quanh và con người xung quanh. Chất phóng xạ lan
truyền càng nhanh trong không khí vượt ra khỏi biên giới quốc gia lãnh thổ nếu
lượng chất phóng xạ bị rò rỉ ra càng nhiều.
Thứ ba, các biện pháp phòng ngừa theo chiều sâu trong thiết kế và vận
hành thiết bị được đặc biệt chú trọng để bù cho những sai sót có thể có trong các
biện pháp bảo vệ an toàn bức xạ. Những yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn về
địa điểm, thiết kế cơ sở, máy móc thiết bị đều ở mức cao nhằm hạn chế tối thiểu
những tổn hại mà nó gây ra hoặc có khả năng gây ra ảnh hưởng tới sức khỏe của
người lao động. Để sử dụng được năng lượng nguyên tử, người ta cần phải có các
công nghệ cực kỳ phức tạp và khi làm chủ được công nghệ đó có thể hoàn toàn
yên tâm về vấn đề an toàn.
Thứ tư, văn hóa an toàn được ghi sâu trog tâm trí của mọi cá nhân, kể
những tổ chức, cá nhân được tiến hành công việc bức xạ lẫn nhân viên bức xạ đều
phải được đào tạo về an toàn bức xạ, nắm vững các quy định của pháp luật về an
toàn và kiểm soát bức xạ, tuân thủ các quy định về an toàn bức xạ của cơ sở. Khi
chúng ta không tuân thủ các quy định, các nguyên tắc về an toàn thì những sự cố,
các thiệt hại, thảm họa có thể xảy ra là điều chắc chắn. Vì vậy, vấn đề đảm bảo
14
toàn cần luôn thường trực trong tâm trí không chỉ của người lao động, người sử
dụng lao động mà cả các cơ quan quản lý.
1.2. Pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử
1.2.1. Vai trò của pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử
Pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là hệ
thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, quy định các
điều kiện an toàn lao động có tính chất bắt buộc, các biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn sự xâm nhập và chiếu xạ người lao động trong môi trường làm việc, nhằm
bảo vệ sức khỏe của người lao động và hạn chế các tai nạn lao động và bệnh
phóng xạ có thể xảy ra.
Pháp luật an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử có những
vai trò cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên
tử là cơ sở pháp lý quan trọng, đưa ra các yêu cầu tiêu chuẩn an toàn, các biện
pháp bắt buộc, những nghĩa vụ mà người sử dụng lao động cũng như nhà nước
phải đảm bảo cho tính mạng, sức khỏe người lao động. Việc chiếu xạ có khả năng
tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Các hoạt động dẫn đến việc chiếu xạ như việc sản xuất
và sử dụng các nguồn bức xạ, vật liệu phóng xạ, vận hành các thiết bị hạt nhân,
khai thác và chế biến quặng phóng xạ và quản lý chất thải phóng xạ phải được
quản lý bởi các biện pháp nhằm bảo vệ các cá nhân bị chiếu xạ. Đó là cũng là cơ
sở để xử phạt những hành vi vi phạm, ngăn ngừa răn đe những cơ sở, đối tượng vi
phạm các yêu cầu về an toàn
Thứ hai, những quy định pháp luật về an toàn lao động trog lĩnh vực năng
lượng nguyên tử hướng dẫn thống nhất việc thực hiện các biện pháp bảo đảm an
toàn, giúp cho người sử dụng lao động nắm được những công việc mình cần tiến
hành thực hiện. Đồng thời cũng giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước đảm bảo
tính công bằng, minh bạch khi quản lý hay cấp phép hoạt động cho các tổ chức, cá
nhân tiến hành công việc bức xạ.
15
Thứ ba, các quy định pháp luật về đảm bảo an toàn lao động trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử có ý nghĩa quan trọng đối với những người lao động. Thông
qua những quy định đảm bảo an toàn này, người lao động có thể yên tâm rằng tính
mạng, sức khỏe của mình được bảo vệ bởi nhà nước và pháp luật. Pháp luật đã có
những quy định rõ ràng nhằm hạn chế những nguy hại mà người lao động có thể
gặp phải để cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của ngành năng lượng nguyên
tử nhằm phát triển ngành năng lượng nguyên tử một cách bền vững.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về an toàn lao động trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử
Tương tự như pháp luật về an toàn lao động trong các lĩnh vực khác, pháp
luật an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử bao gồm các nhóm nội
dung cơ bản sau đây:
- Nhóm quy định nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho người lao
động làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, gồm:
+ Các tiêu chuẩn an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử;
+ Những quy định yêu cầu an toàn về địa điểm, thiết kế, cơ sở trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử;
+ Những quy định yêu cầu an toàn về nguồn phóng xạ, thiết bị hạt nhân,
thiết bị bức xạ.
- Nhóm quy định nhằm hạn chế những ảnh hưởng của môi trường, điều
kiện lao động phóng xạ ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử, gồm:
+ Những quy định về phương tiện lao động, bảo hộ lao động;
+ Những quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
+ Những quy định về bồi dưỡng bằng hiện vật.
- Nhóm quy định về chăm sóc y tế cho người lao động làm việc trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử.
- Nhóm quy định về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và chế độ áp dụng
đối với người lao động làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
16
1.2.3. Pháp luật quốc tế về an toàn lao động trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử
Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) hướng dẫn các nước thành
viên xây dựng Luật năng lượng nguyên tử, tiêu chuẩn bảo đảm an toàn, an ninh
cho các hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử và việc tham gia các điều ước
quốc tế.
Về Luật năng lượng nguyên tử (văn bản pháp luật ở cấp quốc gia), IAEA
có 2 tài liệu hướng dẫn quan trọng. Đó là:
- Sổ tay về Luật hạt nhân, (2003), (Handbook on Nuclear Law, IAEA).
- Mô hình khung pháp lý cho việc quản lý an toàn nguồn phóng xạ và chất
thải phóng xạ (dự thảo), (2006), (Model Legal Framework for the safe
management of radiation sources and for the safe management of radioactive
waste (draft), IAEA.)
Theo Điều III Quy chế của IAEA thì IAEA có quyền thiết lập các tiêu
chuẩn về an toàn trong việc bảo vệ chống bức xạ ion hoá và được phép cung cấp
tài liệu cho việc áp dụng những tiêu chuẩn an toàn này cho các hoạt động hạt nhân
vì hoà bình. Quy chế của IAEA cho phép IAEA xây dựng hoặc thông qua tư vấn,
hợp tác với các tổ chức có năng lực của Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên
môn có liên quan, để ban hành các tiêu chuẩn an toàn nhằm bảo vệ sức khỏe và
giảm thiểu các nguy cơ đối với cuộc sống và tài sản. IAEA cũng ban hành quy
định về việc áp dụng các tiêu chuẩn này.
Với quan điểm bảo vệ con người và môi trường khỏi tác động có hại của
bức xạ ion hóa, các tiêu chuẩn an toàn của IAEA thiết lập nguyên tắc an toàn cơ
bản, các yêu cầu và biện pháp nhằm kiểm soát chiếu xạ đến con người và phát tán
chất phóng xạ vào môi trường, giảm nhẹ hậu quả nếu xảy ra sự cố. Các tiêu chuẩn
an toàn được áp dụng đối với cơ sở và hoạt động có phát sinh rủi ro bức xạ, bao
gồm các cơ sở hạt nhân, việc sử dụng nguồn bức xạ, vận chuyển chất phóng xạ và
quản lý chất thải phóng xạ.
17
Các tiêu chuẩn an toàn của IAEA phản ánh sự đồng thuận quốc tế về những
yếu tố bảo đảm an toàn ở mức cao, nhằm bảo vệ con người và môi trường khỏi
các tác động có hại của bức xạ ion hóa.
IAEA đã xây dựng và đang tiếp tục hoàn thiện cơ chế an toàn hạt nhân toàn
cầu. Theo đó, tiêu chuẩn an toàn của IAEA, việc hỗ trợ thực hiện công cụ quốc tế
có ràng buộc và cơ sở hạ tầng an toàn quốc gia được xem là nền tảng của cơ chế
toàn cầu. Trong đó, tiêu chuẩn an toàn của IAEA được coi là công cụ hữu ích để
các quốc gia thành viên đánh giá hoạt động của mình. Việc đánh giá được thực
hiện tự nguyện, độc lập hoặc trong khuôn khổ hợp tác quốc tế theo các công ước
và thỏa thuận có liên quan.
Về tiêu chuẩn bảo đảm an toàn cho các hoạt động ứng dụng năng lượng
nguyên tử, hệ thống văn bản của IAEA có cấu trúc hình tháp theo Hình 1.1:
Nguyên tắc an toàn cơ bản (SF-1)
----------------------------------------Yêu cầu (xx-R-nn)
----------------------------------------Hướng dẫn (xx-G-nn)
SF-1 là văn bản có tính nguyên tắc, ở cấp cao nhất. Văn bản ở mức “Yêu
cầu” có các quy định bắt buộc phải thực hiện, làm rõ việc tuân thủ nguyên tắc bảo
đảm an toàn trong hoạt động cụ thể. Văn bản ở mức “Hướng dẫn” là văn bản giúp
tổ chức, cá nhân có liên quan có thể theo đó thực hiện được các yêu cầu bảo đảm
an toàn trong hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử.
Nguyên tắc an toàn cơ bản trình bày những mục tiêu, khái niệm và nguyên
tắc cơ bản của an toàn và bảo vệ trong quá trình phát triển và ứng dụng năng
lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình và đưa ra các cơ sở cho các yêu cầu về an
toàn.
18
Các yêu cầu về an toàn đưa ra những yêu cầu cần phải đáp ứng để đảm bảo
an toàn. Những yêu cầu này được thể hiện ở dạng câu “phải”, được điều chỉnh bởi
những mục tiêu và quy tắc đã đề ra trong “Nguyên tắc an toàn cơ bản”. Việc thực
hiện kết hợp và nhất quán các yêu cầu về an toàn sẽ đáp ứng được mục tiêu bảo vệ
con người và môi trường, trong cả hiện tại và tương lai. Các yêu cầu này có thể
được sử dụng để xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tương ứng của quốc gia
thành viên. Các yêu cầu về an toàn sử dụng dạng câu “phải” cùng với dạng câu về
các điều kiện liên quan cần đạt được.
Hướng dẫn về an toàn giới thiệu về các hoạt động, điều kiện hay các quy
trình để đáp ứng các yêu cầu về an toàn. Khuyến cáo được thể hiện ở dạng câu
“nên” với hàm ý rằng, việc tiến hành các biện pháp được khuyến cáo hoặc các
biện pháp thay thế tương đương là cần thiết để đáp ứng các yêu cầu về an toàn.
Hướng dẫn về an toàn cung cấp các khuyến cáo và hướng dẫn về cách để tuân thủ
các yêu cầu an toàn, thể hiện sự đồng thuận quốc tế rằng cần thiết phải thực hiện
các biện pháp được khuyến cáo (hoặc các biện pháp thay thế tương đương).
Khuyến cáo được đưa ra trong các hướng dẫn an toàn được thể hiện ở dạng câu
“nên”.
Theo quan điểm của IAEA (Draft Safety Guide DS424: Establishing a
Safety Infrastructure for a National Nuclear Power Programme, 6/2009), hạ tầng
quốc gia về điện hạt nhân phải được xây dựng trên nền tảng của hạ tầng an toàn,
với mục tiêu là nhằm tuân thủ mọi tiêu chuẩn về an toàn của IAEA. Quan điểm
này được thể hiện qua Hình 1.2 dưới đây:
19
Tiêu chuẩn
an toàn của
IAEA
Hạ tầng
an toàn
Hạ tầng quốc gia
về điện hạt nhân
Tiêu chuẩn an toàn của IAEA được phân loại theo lĩnh vực, cơ sở và hoạt
động theo Hình 1.3 [20]:
Nguyên tắc an toàn cơ bản
Lĩnh vực
Cơ sở, hoạt động
Hạ tầng pháp lý và pháp quy
Nhà máy điện hạt nhân
Sẵn sàng và ứng phó sự cố
Lò phản ứng nghiên cứu
Hệ thống quản lý
Cơ sở chu trình nhiên liệu
Đánh giá, thẩm định
Cơ sở, hoạt động có liên quan bức xạ
Đánh giá địa điểm
Cơ sở xử lý, chôn cất chất thải
An toàn bức xạ
Vận chuyển vật liệu phóng xạ
Quản lý chất thải phóng xạ
Chấm dứt hoạt động
Khôi phục khu vực bị nhiễm xạ
Các tiêu chuẩn an toàn của IAEA không mang tính ràng buộc pháp lý đối
với quốc gia thành viên, mà chỉ khuyến cáo để các quốc gia áp dụng. Tuy nhiên,
đối với các hoạt động do IAEA tài trợ ở các nước thành viên, thì các tiêu chuẩn
này có tính ràng buộc.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc xây dựng các hướng dẫn, tiêu chuẩn
không có tính chất bắt buộc áp dụng là xu hướng chung, phổ biến. Liên quan đến
hệ thống các tiêu chuẩn của IAEA. Các “Requirements” có ý nghĩa cần bắt buộc
áp dụng trong khi các “Guides” có ý nghĩa khuyến khích áp dụng và số lượng
“Guides” thì lớn hơn nhiều so với số lượng “requirements”. Nhiều quốc gia cũng
có cách tiếp cận này trong hoạt động xây dựng hệ thống pháp lý bảo đảm an toàn
20
hạt nhân. Tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Phần Lan, các quy định
pháp luật về an toàn hạt nhân không nhiều trong khi số lượng các hướng dẫn của
các cơ quản quản lý nhà nước rất lớn. Các hướng dẫn này không có tính chất bắt
buộc áp dụng mà có tính chất khuyến cáo áp dụng đối với các tổ chức xin cấp
phép nhà máy điện hạt nhân. Cơ quan quản lý tại các quốc gia này vẫn chấp nhận
các giải pháp kỹ thuật khác do bên xin cấp phép đưa ra mà vẫn đảm bảo đạt được
mục tiêu an toàn như trong các hướng dẫn của cơ quan quản lý.
Phương pháp xây dựng các tiêu chuẩn bảo đảm an toàn hạt nhân của Việt
Nam: tại nhiều quốc gia, cơ quan quản lý nhà nước chỉ ban hành các hướng dẫn có
tính chất chung trong khi các hiệp hội khoa học, công nghiệp xây dựng, công bố
các tiêu chuẩn có tính chi tiết, kỹ thuật cao. Tại Việt Nam cơ quan quản lý nhà
nước đặc biệt cơ quan quản lý chuyên ngành, chủ yếu xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh các vấn đề thuộc phạm vi quản lý của mình. Các
quy định kỹ thuật có tính chất khuyến khích áp dụng chủ yếu nằm trong hệ thống
tiêu chuẩn quốc gia do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ công bố và các tiêu
chuẩn cơ sở do tổ chức, cá nhân công bố áp dụng. Vì vậy, có thể thấy các tiêu chí
chuẩn quốc gia Việt Nam tương đương với các Guides – tiêu chuẩn an toàn có
tính chất khuyến khích áp dụng của IAEA và các hướng dẫn quản lý (regulatory
guides) của các nước. Do đó, việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về an toàn hạt
nhân của Việt Nam nên dựa vào các Guides của IAEA và các hướng dẫn của cơ
quan quản lý các nước.
21
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG TRONG LĨNH
VỰC NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM
2.1. Khái lược sự hình thành và phát triển ngành năng lượng
nguyên tử
Từ thuyết nguyên tử thô sơ của nhà hiền triết Cổ Hylạp Démocrite (năm
460 - 370 trước Công nguyên), trải qua hơn hai nghìn năm, đến cuối thế kỷ 19
nhân loại bước vào thời đại nguyên tử hiện đại, khởi đầu bằng phát minh hiện
tượng phóng xạ tự nhiên của urani và rađi vào các năm 1896 - 1898. Các chất
đồng vị phóng xạ nhân tạo được chế tạo ra lần đầu tiên vào năm 1934, lò phản ứng
hạt nhân đầu tiên ra đời năm 1942 và năm 1954 ra đời nhà máy điện hạt nhân đầu
tiên trên thế giới.
Khoa học nguyên tử đến với nhân dân ta khi những bệnh nhân ung thư đầu
tiên được điều trị bằng những chiếc kim rađi được gửi từ Paris sang cho Viện
Radium Hà Nội (nay là Bệnh viện K) thành lập năm 1923, mỗi chiếc kim đều đi
kèm theo một giấy chứng nhận hiện còn được lưu giữ trong hồ sơ của bệnh viện K
ghi hoạt độ phóng xạ và đặc điểm kỹ thuật với chữ ký bằng mực xanh của Giám
đốc Viện Radium Paris, nhà nữ bác học người Pháp gốc Balan Marie Curie, hai
lần được tặng giải thưởng Nobel.
Sau năm 1954, ở miền Bắc nước ta ngành y tế bắt đầu nhập máy chiếu xạ
Côban - 60 để điều trị bênh ung thư và từ năm 1970 bắt đầu nhập chất đồng vị
phóng xạ ngắn ngày (như iốt.131, phôtpho.32,...) để chẩn đoán và điều trị bệnh tại
hai cơ sở y học hạt nhân ở Bệnh viện Bạch Mai và Viện quân y 103. Ngành địa
chất với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô (cũ) đã nhập nguồn phóng xạ vào để
sử dụng trong công tác thăm dò và đánh giá trữ lượng khoáng sản.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đến nay, với việc
thành lập Viện nghiên cứu hạt nhân (sau là Viện năng lượng nguyên tử quốc gia
và nay là Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam) vào năm 1976 với việc chính
thức gia nhập Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (International Atomic
Energy Agency, viết tắt là IAEA) vào năm 1978, với việc khôi phục và nâng công
suất lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt vào năm 1984, ngành hạt nhân nước ta đã từng