GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THỊ LIÊN
PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : LUẬT KINH TẾ
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “pháp luật cho thuê tài chính – những vấn đề
lý luận và thực tiễn” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu
và trích dẫn tài liệu tham khảo được trình bày trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
Học viên
Lê Thị Liên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn với đề tài “pháp luật cho thuê tài chính – những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình
của PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân, các quý thầy cô khoa sau Đại học trường Đại
học Luật Hà Nội.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô đã dành thời
gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Thị Ánh
Vân đã nhiệt tình, tận tâm giúp đỡ để tôi có thể hoàn thiện đề tài luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng tiến hành nghiên cứu một cách hoàn thiện nhất
nhưng luận văn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được
những đóng góp quý báu của quý thầy cô.
Học viên
Lê Thị Liên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Nghị định
16/2001/NĐ-CP
Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 ban hành
Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài
chính
Nghị định
65/2005/NĐ-CP
Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/05/2005 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ-CP
Luật các TCTD 2010 Luật số 47/2010/QH12 của Quốc Hội: Luật các tổ chức
tín dụng 2010
Luật DN 2005
Luật số 60/2005/QH11 của Quốc Hội: Luật doanh
nghiệp 2005
CTTC
Cho thuê tài chính
DN
Doanh nghiệp
NHNN
Ngân hàng nhà nước
TCTD
Tổ chức tín dụng
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
NHTM
Ngân hàng thương mại
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................
LỜI CẢM ƠN .....................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN ...............................................................................................
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 6
CHƯƠNG I....................................................................................................... 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP
LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH .................................................................... 6
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH.................... 6
1. Khái niệm cho thuê tài chính ....................................................................... 6
1.1. Định nghĩa ............................................................................................ 6
1.2. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính. ....................................... 10
2. Các phương thứccho thuê tài chính ........................................................... 13
2.1. Bán và cho thuê lại .............................................................................. 13
2.2. Cho thuê tài chính bắc cầu. ................................................................. 14
2.3. Cho thuê tài chính giáp lưng ............................................................... 14
3. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính ................................................... 15
3.1. Đối với bên cho thuê ........................................................................... 15
3.2. Đối với bên thuê .................................................................................. 16
3.3. Đối với nhà sản xuất ( Hoặc nhà cung cấp thiết bị) ............................. 17
3.4. Đối với nền kinh tế .............................................................................. 18
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI
CHÍNH. ........................................................................................................... 19
1.Khái niệm pháp luật cho thuê tài chính....................................................... 19
2. Những yếu tố chi phối pháp luật cho thuê tài chính ................................... 20
2.1. Chính sách của nhà nước về hoạt động cho thuê tài chính .................. 20
2.2. Điều kiện kinh tế xã hội ....................................................................... 21
2.3. Kinh nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới ............................... 23
2.3. Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ............................................. 23
CHƯƠNG II ................................................................................................... 25
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH ............................ 25
2.1.Những thành tựu đạt được ...................................................................... 25
2.2. Những hạn chế cần khắc phục ............................................................. 27
2.2.1. Về thành lập công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam............................ 27
2.2.2. Về hoạt động cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính ........... 34
2.2.2.1. Chủ thể tham gia hoạt động cho thuê tài chính.............................. 34
2.2.2.2 Hoạt động huy động vốn. ............................................................... 37
2.2.3. Về pháp luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê tài chính........................... 43
2.2.4. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động CTTC ............................ 51
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHO
THUÊ TÀI CHÍNH ........................................................................................ 57
3.1. Hoàn thiện quy định về điều kiện, thủ tục cấp phép thành lập và hoạt động
của công ty cho thuê tài chính. ...................................................................... 57
3.22. Hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính
của công ty CTTC. ........................................................................................ 60
3.3. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng CTTC ............................................... 63
3.4. Các kiến nghị khác ................................................................................. 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 69
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -2020 mà Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt ra là tập trung
vào việc “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh,
bền vững, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản thành
nước công nghiệp theo định hướng XHCN” [26]. Để thực hiện mục tiêu đó,
chúng ta cần có một khối lượng vốn lớn đáp ứng được nhu cầu đầu tư và phát
triển của đất nước. Cho thuê tài chính (CTTC) là một trong những “kênh” dẫn
vốn quan trọng để đáp ứng nguồn vốn cho đầu tư và phát triển.
Hoạt động CTTC xuất hiện từ những năm trước Công Nguyên, chính vì vậy
trên thế giới đã có một tiền đề về lý luận cũng như thực tiễn để phát triển vững
chắc hoạt động này. Và cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, của
khoa học kỹ thuật, cho thuê tài chính đã khẳng định những thế mạnh của mình
để trở thành một trong những nghiệp vụ thường xuyên nhất, quan trọng nhất
trong hành trình huy động vốn cho kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thế giới,
hoạt động CTTC diễn ra sôi động, phát triển mạnh nhất là ở những nước phát
triển. Ở Việt Nam, chính thức từ năm 1995 hoạt động CTTC lần đầu tiên được
pháp luật thừa nhận, khẳng định vai trò quan trọng của CTTC trong nền kinh tế
nhưng CTTC phát triển khá chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của các DN
tham gia kinh doanh dịch vụ CTTC, chưa thật sự cuốn hút các doanh nghiệp
(DN) tham gia thị trường này, thậm chí một số DN đi vào “ngõ cụt” không đáp
ứng tốt yêu cầu phát triển của đất nước. Điều này do nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động CTTC còn thiếu đồng
bộ, chưa phù hợp là một trong những nguyên nhân do chính.
CTTC được xem là một “kênh” tài trợ vốn có hiệu quả nhưng đến nay
hoạt động này ở Việt Nam mới chỉ được điều chỉnh bởi Nghị định số
16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về “tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính” và đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
2
65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 và Nghị định 95/2008/NĐ-CP ngày 25/8/2008
của Chính phủ. Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng có một vài quy định về
CTTC nhưng rất chung chung, chủ yếu đề cập tới CTTC với tư cách là một
hình thức cấp tín dụng. Ngoài ra còn có một số Thông tư của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam điều chỉnh về hoạt động CTTC như Thông tư 06/2005/TTNHNN ngày 12/10/2005 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, Thông
tư số 08/2006/TT-NHNN ngày 12/10/2006 của NHNN Việt Nam, mới đây ngày
7/5/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định 39/2014/ NĐ-CP về hoạt động của
công ty tài chính và công ty CTTC, tuy nhiên phải đến ngày 25/6/2014 tới đây
thì Nghị định này mới có hiệu lực … Có thể nói, văn bản pháp luật điều chỉnh
trực tiếp về công ty CTTC có giá trị pháp lý không cao, đồng thời những quy
định trong các văn bản pháp luật về công ty CTTC vẫn chưa thật sự linh hoạt,
phù hợp với thực tiễn kinh doanh như quy định trình tự, thủ tục thành lập công
ty, quy trình, nghiệp vụ CTTC, quyền của công ty CTTC, tài sản cho thuê, chinh
sách thuế, huy động vốn, xử lý tranh chấp phát sinh từ hoạt động CTTC…
Những bất cập, vướng mắc này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn
thiện pháp luật về CTTC, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, an toàn và tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, giúp hoạt động của công ty CTTC diễn ra an toàn,
hiệu quả cao
Hoàn thiện pháp luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động CTTC là
một yêu cầu cần thiết góp phần giải quyết những khó khăn về vốn cho doanh
nghiệp, thúc đẩy nhanh sự tiến bộ khoa học công nghệ. Chính vì vậy, nghiên
cứu tìm ra các giải pháp pháp lý phù hợp để tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi
thúc đẩy sự phát triển của hoạt động CTTC là việc làm hết sức cần thiết và có ý
nghĩa quan trọng. Xuất phát từ những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, tôi quyết
định chọn đề tài:“pháp luật cho thuê tài chính – những vấn đề lý luận và
thực tiễn” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sỹ Luật học,
chuyên ngành Luật Kinh tế.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số công trình khoa học, một số bài nghiên cứu về
CTTC. Ngoài một số bài báo khoa học nhỏ được đăng trên các Tạp chí Ngân
hàng, tạp chí Luật học, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: Luận án
tiến sỹ kinh tế “ Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động CTTC ở Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam” năm 2005 của tác giả Vũ Quốc
Trung, Học viện Ngân hàng; Luận văn thạc sỹ kinh tế“Giải pháp mở rộng hoạt
động của các công ty CTTC trong điều kiện hội nhập kinh tế” năm 2008 của tác
giả Dương Thân Thiện, Học Viện Ngân hàng… Những nghiên cứu của các tác
giả trên chủ yếu tập trung nghiên cứu khía cạnh kinh tế của hoạt động cho thuê tài
chính. Ngoài ra, đi sâu nghiên cứu khía cạnh pháp lý của hoạt động CTTC thì có
thể kể tới như luận văn thạc sỹ luật học “pháp luật về công ty cho thuê tài chính
trực thuộc tổ chức tín dụng” năm 2003 của tác giả Đinh Tiểu Khuê, khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội và một số khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Luật…
Tuy nhiên các công trình này chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung nhất định,
chưa bao quát được toàn bộ pháp luật CTTC và pháp luật CTTC đã có những thay
đổi quan trọng và những yêu cầu của thực tiễn cũng đã có sự thay đổi. Do đó, vấn
đề này vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu để hoàn thiện.
3. Mục đích, Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu và làm rõ những khía cạnh lý luận và
những vấn đề nổi cộm trong thực tiễn thi hành pháp luật điều chỉnh hoạt động
CTTC từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật CTTC, nhằm
góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động CTTC tại Việt Nam phát triển.
Việc làm này cũng nhằm giúp thị trường cho thuê tài chính thực sự trở thành
một kênh cung cấp vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp nói riêng, và cho nền
kinh tế nói chung, đặc biệt là hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để đạt được mục đích trên, đề tài nghiên cứu có các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hoạt động CTTC và pháp luật CTTC
4
- Nghiên cứu cụ thể về thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về hoạt
động CTTC trong thời gian qua tại Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn thi hành pháp
luật nói trên, luận văn đưa ra những đánh giá về thực trạng pháp luật Việt Nam
về công ty CTTC, hợp đồng CTTC, tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này trên
cơ sở so sánh với pháp luật một số nước quy định về cùng vấn đề.
- Đề xuất phương hướng và những kiến nghị cụ thể đối với việc hoàn thiện
pháp luật về hoạt động CTTC ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, đề tài sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Thu thập dữ liệu
+ Nguồn tài liệu được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông
đại chúng như: Sách báo, tạp chí chuyên ngành, internet… có liên quan đến lĩnh
vực cho thuê tài chính.
+ Các tài liệu về số liệu hoạt động của công ty cho thuê tài chính của các
công ty cho thuê tài chính trên thị trường Việt Nam.
+ Một số nguồn tài liệu khác như: Các văn bản quy phạm pháp luật quy định
về hoạt động cho thuê tài chính, các nhận xét, ý kiến của chuyên gia trong ngành.
- Ngoài ra các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác được sử dụng trong quá
trình nghiên cứu đề tài gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê nhằm làm
sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về CTTC và pháp luật CTTC,
đánh giá thực trạng thi hành pháp luật CTTC ở Việt Nam trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp hoàn thiện pháp luật CTTC Việt Nam trong thời gian tới.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn.
Qua việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ đóng góp một số điểm mới
như sau:
5
- Làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm và vai trò
của hoạt động CTTC và pháp luật CTTC.
- Pháp luật cho thuê tài chính sẽ được nghiên cứu một cách toàn diện cả về
mặt tích cực và hạn chế, từ đó xác định lại vai trò này.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật CTTC ở Việt Nam cho
đến thời điểm hiện tại, tập trung phân tích, bình luận và đưa ra quan điểm riêng đối
với những vấn để về cho thuê tài chính còn có nhiều quan điểm đối lập nhau.
- Đưa ra một số định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật CTTC ở Việt
Nam, góp phần không nhỏ cho sự phát triển hoạt động CTTC ở Việt Nam trong
thời gian tới.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
kết cấu thành ba chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về cho thuê tài chính và pháp luật điều
chỉnh hoạt động cho thuê tài chính
Chương II: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật điều chỉnh
hoạt động cho thuê tài chính
Chương III: Giải pháp hoàn thiện pháp luật cho thuê tài chính Việt Nam
6
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP
LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1 Khái niệm cho thuê tài chính
1.1.1 Định nghĩa
Được xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử thế giới văn minh nhân loại, cho
thuê tài chính (CTTC) là một loại hình cấp tín dụng rất được ưa chuộng trên thế
giới, không những vì CTTC đáp ứng được yêu cầu sinh hoạt tiêu dùng và sản
xuất cho nền kinh tế mà còn bởi tính an toàn và hiệu quả của nó.
Mặc dù rất nhiều sách báo, tài liệu ở Việt Nam ghi nhận rằng hoạt động
CTTC là một trong những công cụ tài chính rất mới. Tuy nhiên, thực tế không
phải như vậy. Từ những thời điểm rất xa xưa trong lịch sử phát triển của nhân
loại, con người đã sử dụng CTTC để phục vụ sản xuất, phục vụ nhu cầu con
người mà tiền thân của nó được thể hiện dưới hình thức đơn giản nhất đó là các
giao dịch cho thuê tài sản. Theo Aristole (năm 384 – 322 TCN), khái niệm thuê
tài sản đối với người đi thuê là sự cần thiết khách quan của nền sản xuất xã hội,
từ rất xa xưa, các giao dịch cho thuê tài sản đã bắt đầu xuất hiện và ngày càng
phổ biến để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh lúc bấy giờ. Các công cụ
sản xuất, nô lệ, ruộng đất, trâu bò, lừa ngựa…nhàn rỗi đã được các nông dân tự
do, các thợ thủ công, các người làm nghề tự do khác thuê để phục vụ nhu cầu
của mình. Các giao dịch thuê tài sản này đã phát triển rất nhiều đến mức năm
1700 TCN, đức vua Hamnurabi của triều đại Babilon đã ban hành Bộ văn bản
luật để quản lý các giao dịch thuê tài sản.
Đến đầu thế kỷ XIX, với những bước tiến nhảy vọt của khoa học kỹ thuật,
nền kinh tế hàng hóa đã tạo rất nhiều sản phẩm đa dạng. Cùng với sự phát triển
của xã hội, nhu cầu và đòi hỏi của con người cũng ngày càng cao hơn. Chính
trong hoàn cảnh này, một cá nhân hay tổ chức kinh tế, tổ chức hành chính không
thể và cũng không cần thiết phải mua sắm đầy đủ các trang thiết bị phục vụ sản
7
xuất, phục vụ kinh doanh, tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, các giao dịch thuê tài
sản có được những điều kiện đầy đủ để ngày càng phát triển nhanh chóng cả về
số lượng, chủng loại và giá trị. Và một khi phát triển mạnh mẽ như thế, cùng với
sự phát triển của xã hội, hoạt động cho thuê tài sản truyền thống đã không thỏa
mãn được một số đòi hỏi, yêu cầu mới của các chủ thể tham gia giao dịch. Và từ
đó, CTTC đã ra đời bên cạnh hình thức cho thuê tài sản truyền thống.
Khởi xướng và sáng tạo ra hình thức CTTC là công lao thuộc về công ty
United States Leasing Corporation (Hoa Kỳ) vào năm 1952. Vào khoảng năm
1960, CTTC đã có mặt ở Pháp và được thể hiện trong Luật thuê tài chính của
nước này với tên gọi là Credit Bail. Và từ đó, lan rộng sang các nước Châu Á,
dấu mốc cho hoạt động CTTC được ghi nhận là vào những năm 1970. Đến thập
niên 70, cho thuê tài chính đã lan rộng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là khu
vực Châu Á. Một số nước đã ban hành đạo luật riêng về hoạt động cho thuê tài
chính như Hàn Quốc, Philiphin. Đến những năm 80-90 của thế kỷ XX, hoạt
động này đã chuyển sang một giai đoạn mới – giai đoạn quốc tế hóa hoạt động
cho thuê tài chính. Ở các nước phát triển, trong nhiều thập kỷ, dịch vụ được
cung cấp bởi các công ty cho thuê tài chính như: Cho thuê ô tô, dụng cụ làm
vườn, thiết bị gia dụng rất đắt khách. Ở Mỹ, giữa thập kỷ 90, non nửa số lượng
xe mới được tiêu thụ bằng con đường cho thuê tài chính. Nhu cầu lớn về dịch vụ
cho thuê tài chính trong giai đoạn này đã kéo theo sự gia tăng về số lượng của
công ty cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính, đồng thời buộc các công ty này
phải mở rộng phạm vi tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi mà không chỉ từ ngân hàng
mà còn từc công chúng bằng cách phát hành giấy nhận nợ và tín phiếu. Điều đó
còn được lý giải bởi chính sự tiện lợi hiệu quả của hình thức này.
Theo điều tra về hoạt động cho thuê tài chính của công ty tài chính quốc tế
IFC đối với 25 nước đang phát triển và 12 nước phát triển thì chỉ có 19 nước có
định nghĩa cụ thể trong Luật về cho thuê tài chính và các lĩnh vực liên quan.
Trong số 19 nước có định nghĩa thì có 9 nước đưa các định nghĩa vào trong “
Luật cho thuê tài chính” và 10 nước còn lại đưa định nghĩa vào trong các Luật
8
thuế hay các hướng dẫn do một cơ quan nào đó của chính phủ ban hành. Trong 9
nước có “Luật cho thuê tài chính” thì chỉ có 1 nước là nước phát triển ( nước
Pháp), 8 nước kia là các nước đang phát triển và việc xây dựng các Luật này chủ
yếu là để thúc đẩy ngành dịch vụ này phát triển một cách có trật tự theo ý muốn
của từng Chính phủ của mỗi nước. Có thể khái quát một số quan điểm của các tổ
chức nước ngoài về CTTC như sau:
- Theo quan điểm của Societe Generale Bank: Cho thuê tài chính là một
thỏa thuận trong đó bên cho thuê chuyển cho bên đi thuê quyền sử dụng một
loại tài sản trong một thời gian thỏa thuận để đổi lấy phí cho thuê. Trong suốt
thời hạn hợp đồng quyền sở hữu tài sản không chuyển cho bên thuê nhưng bên
thuê phải chịu trách nhiệm giữ gìn tài sản [51]
- Theo quan điểm của Công ty tài chính quốc tế IFC – International Finance
Corporation, Cho thuê tài chính là một hoạt động mà bên cho thuê cho bên đi
thuê thuê một tài sản cụ thể nào đó do bên đi thuê chọn lựa từ một nhà sản xuất
hay người bán tài sản này. Bên đi thuê có toàn quyền giữ và sử dụng đối với tài
sản này trong một thời gian nhất định khi trả tiền thuê tài sản [51]
Ở Việt Nam , hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện vào năm 1995, muộn
hơn nhiều so với các nước khác trên thế giới. Khái niệm cho thuê tài chính lần
được đề cập tại Điều 1 Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty
cho thuê tài chính tại Việt Nam ( ban hành kèm theo nghị định 64/ CP ngày
09/10/1995 của Chính phủ): “Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng
trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc – thiết bị và các động sản khác.
Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên
thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận
và không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê
được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều
kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê”. Tuy nhiên trước khi có sự ra đời của
Nghị định 64/CP, tại Quyết định số 149/ QĐ-NH5 ngày 27/05/1995 về việc ban
9
hành thể lệ tín dụng thuê mua đã ghi nhận khái niệm về tín dụng thuê mua, theo
đó, tín dụng thuê mua được hiểu là: “ Hoạt động cho thuê máy móc thiết bị và
các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng
mua theo yêu cầu của bên thuê. Bên thuê thanh toán tiền thuê cho các tổ chức
tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thuê thỏa thuận và không
được hủy bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài sản
thuê, hoặc mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản thuê theo các điều kiện
đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua”. Xét về bản chất, tín dụng
thuê mua chỉ là một cách gọi khác của cho thuê tài chính, khi trong định nghĩa
của cả hai hoạt động này đều có những tiêu chí rất đặc trưng của hoạt động cho
thuê tài chính , ví dụ như: Không được quyền hủy ngang hợp đồng, khi kết thúc
thời hạn thuê, bên thuê được ưu tiên mua lại tài sản thuê….
Hiện nay, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010( Điều 113) và Điều 1 Nghị
định số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính (
đã được sửa đổi bổ sung tại Điều1, khoản 1, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP) định
nghĩa về giao dịch cho thuê tài chính rất chi tiết:
“ Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc , thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên
cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết
mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu
cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên
thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã
được hai bên thỏa thuận
Một giao dịch cho thuê tài chính phải thỏa mãn một trong những điều kiện
sau đây:
a) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên;
b) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu
tiên mua lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản
thuê tại thời điểm mua lại;
10
c) Thời hạn cho thuê một loại tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản thuê;
d) Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính,
ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng”
Có thể nói đây là một định nghĩa về cho thuê tài chính đầy đủ và chi tiết
nhất so với các định nghĩa đã đề cập ở trên, định nghĩa này vừa khái quát hóa
hoạt động cho thuê tài chính, vừa nêu ra được những tiêu chí rõ ràng để phân
biệt hoạt động cho thuê tài chính với các hoạt động khác. Hoạt động cho thuê tài
chính khác với các hoạt động cho thuê tài sản và các hoạt động tín dụng khác
bởi các đặc trưng cơ bản của nó.
1.1.2. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính.
Thứ nhất, cho thuê tài chính mang tính chất của hoạt động cho thuê tài sản
thông thường
Thực chất trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ vốn cho bên
thuê bằng cách bỏ tiền mua tài sản mà bên thuê yêu cầu. Công ty cho thuê tài chính
giành quyền khai thác giá trị sử dụng tài sản đó cho bên thuê nhưng vẫn giữ lại
quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Ở đây, bên thuê chỉ có quyền khai thác giá
trị sử dụng tài sản chứ không có quyền sở hữu tài sản. Chính sự tách rời giữa quyền
sử dụng và quyền sở hữu tài sản trong các giao dịch này cho thấy cho thuê tài chính
có một số dấu hiệu giống với cho thuê tài sản thông thường.
Tuy nhiên cho thuê tài chính lại khác với cho thuê tài sản thông thường
(hoặc cho thuê vận hành) ở rất nhiều điểm. Trong quan hệ cho thuê tài chính,
tổng số tiền bên thuê đồng ý trả cho bên cho thuê trong suốt thời hạn thuê ít nhất
phải bằng hoặc lớn giá trị của tài sản thuê, tức là tối thiểu phải tương đương với
vốn đầu tư vào tài sản, bên thuê có quyền lựa chọn hoặc có nghĩa vụ mua lại tài
sản thuê khi hết hạn hợp đồng. Trường hợp mua lại tài sản thuê, giá mua thường
tương đương hoặc nhỏ hơn giá trị còn lại của tài sản. Trong quan hệ cho thuê tài
sản thông thường, bên thuê không phải trả tổng số tiền thuê tương đương hoặc
vượt quá giá trị của tài sản thuê. Tiền thuê thường được xác định căn cứ vào
11
nhiều yếu tố như công suất của máy, nhu cầu thị trường được xác định căn cứ
vào nhiều yếu tố như công suất của máy, nhu cầu thị trường đối với sản phẩm
sản xuất ra... Ngoài ra, quyền lựa chọn hoặc nghĩa vụ mua lại tài sản thuê không
được đặt ra trong loại giao dịch này
Thứ hai, cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng.
Cho thuê tài chính là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay ( ngân hàng
và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển tiếp tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Trong một giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê chuyển giao tài sản
thực cho bên thuê sử dụng. Trong quá trình sử dụng tài sản, bên thuê phải thanh
toán tiền thuê định kỳ cho đến khi hết hạn hợp đồng, khoản tiền thuê này cũng
bao gồm hai phần : phần vốn gốc và lãi. Đặc biệt, đối với các hợp đồng cho thuê
tài chính thanh toán một phần sau khi chấm dứt hợp đồng thuê, tiền lãi được
thanh toán đầy đủ trong thời gian sử dụng vốn, nhưng phần vốn gốc chưa hoàn
trả đầy đủ.
Trường hợp này có ba cách giải quyết và được thực hiện hợp đồng:
- Bên thuê đồng ý mua tài sản: Phần vốn gốc đã được hoàn trả dưới dạng
tiền thanh toán mua tài sản.
- Bên thuê muốn thuê tiếp tài sản: Phần vốn gốc được hoàn trả dưới dạng
thanh toán tiền thuê trong thời hạn hợp đồng.
- Bên thuê không muốn thuê tiếp tài sản: Trong trường hợp này, có thể
phần vốn gốc lại được hoàn trả dưới dạng hiện vật, tức tài sản thuê mua.
Có thể thấy rằng, trong giao dịch cho thuê tài chính, nguyên tắc hoàn trả
của tiền luôn được bảo đảm; tiền thuê và giá trị tài sản còn lại thường lớn hơn
giá trị tài sản ban đầu. Đây chính là sự trao đổi tài sản không ngang giá – bản
chất của một quan hệ tín dụng. Việc quay trở lại điểm xuất phát của tín dụng
không phải như lúc đã nhượng đi là một giá trị lớn hơn – đó gọi là tiền lãi mà
người cho vay được hưởng ngoài giá trị ban đầu của tín dụng.
12
Tuy nhiên, khi so sánh giữa hoạt động cho thuê tài chính và cấp tín dụng để
mua tài sản, có thể thấy giữa chúng có những điểm không tương đồng. Điểm
khác biệt cơ bản giữa hai hoạt động này là quyền sở hữu được hình thành từ
nguồn vốn tài trợ. Trong hoạt động cho thuê tài chính, bên cho thuê giữ lại
quyền sở hữu tài sản thuê và thu tiền trích khấu hao tài sản thuê. Khi hết hạn
hợp đồng, bên thuê có quyền lựa chọn giữa việc tiếp tục thuê hoặc mua lại tài
sản theo giá trị của tài sản. Trong hoạt động cấp tín dụng để mua tài sản, bên đi
vay không những có quyền sử dụng mà cả quyền sở hữu tài sản hình thành từ
nguồn vốn vay và có quyền giữ lại tiền trích khấu hao tài sản đó; còn bên cho
vay có quyền đòi lại cả gốc và lãi vốn cho vay.
Hoạt động cho thuê tài chính còn có những lợi thế nhất định so với hoạt
động cấp tín dụng để mua tài sản. Một là, đối với cho thuê tài chính, tài sản thuê
thông thường cũng chính là tài sản bảo đảm cho giao dịch cho thuê tài chính,
trong khi đó đối với cấp tín dụng để mua tài sản, người đi vay thường phải có tài
sản khác để thế chấp vốn vay. Hai là, trong cho thuê tài chính, kết thúc hợp
đồng thuê, bên thuê nếu muốn có thể chuyển giao lại tài sản đã thuê cho bên
thuê cùng tất cả những rủi ro do sự lỗi thời ( hao mòn vô hình) của tài sản thuê
đem lại. Ngược lại, ở các hoạt động cấp tín dụng để mua máy móc, thiết bị,
người đi vay, với tư cách là chủ sở hữu hình thành từ vốn vay, phải tự mình
gánh chịu tất cả rủi ro do sự mất giá của máy móc, thiết bị đó. Ba là, trong các
giao kết cho thuê tài chính, vấn đề đặt cọc, bảo lãnh thường được đưa vào điều
khoản tùy nghi mà hai bên có thể thỏa thuận. Bên cho thuê có thể yêu cầu một
khoản tiền đặt cọc nhỏ hoặc thậm chí không yêu cầu đặt cọc, nhưng sẽ tài trợ
toàn bộ chi phí để mua được tài sản đó cho khách hàng mình thuê. Khoản tiền
này dự tính sẽ được bên thuê trả dần trong suốt thời hạn hiệu lực của hợp đồng.
Bên thuê thường lựa chọn mua tài sản với giá trị bằng giá trị còn lại của tài sản
khi kết thúc hợp đồng thuê. Trong khi đó, khi ký kết hợp đồng tín dụng bên vay
thường phải có tài sản làm bảo đảm nợ hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba
13
Thứ ba, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Khác với các hình thức cấp tín dụng khác như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu
hoặc bao thanh toán, cho thuê tài chính luôn là hình thức cấp tín dụng trung và
dài hạn, tức là thời hạn thuê phải từ 1 năm trở lên. Đặc điểm này xuất phát từ lý
do sau: “ Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở
hữu tài sản và vì thế họ phải là người quản lý tài sản cho thuê. Để hợp thức hóa
hành vi này phải tiến hành các thủ tục đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu, đăng ký tài sản giao dịch đảm bảo… điều này sẽ phát sinh nhiều loại chi
phí. Nếu tài trợ bằng những tài sản có giá trị thấp với thời gian ngắn sẽ khó thực
hiện được và chi phí quản lý sẽ rất cao và bên đi thuê sẽ khó có thể chấp nhận.
Ngược lại, nếu tài trợ trung và dài hạn dưới hình thức cho thuê tài chính là một
yêu cầu khách quan xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các chủ thể trong nền
kinh tế. Với thời gian thuê trung và dài hạn, bên thuê có khả năng trả tiền thuê
dễ dàng hơn so với trường hợp thuê ngắn hạn
Đặc điểm tín dụng trung và dài hạn này của cho thuê tài chính ảnh hưởng
đến khả năng huy động vốn của công ty cho thuê tài chính. Công ty cho thuê tài
chính sẽ không được sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để mua tài sản cho
thuê tài chính.
1.2. Các phương thứccho thuê tài chính
Để thực hiện một giao dịch cho thuê tài chính, người ta có thể sử dụng
nhiều phương thức khác nhau nhằm đảm bảo sự thuận tiện và mang lại những
lợi ích tốt nhất cho cả bên thuê và bên cho thuê. Dưới đây là một số phương
thức cho thuê tài chính điển hình được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước
1.2.1. Bán và cho thuê lại
Người sở hữu tài sản bán tài sản cho một công ty cho thuê tài chính và đồng
thời ký kết một thỏa ước thuê lại tài sản đó trong một thời gian nhất định dưới
dạng một hợp đồng thuê tài chính. Bán và cho thuê lại là một phương thức cho
thuê mà trong đó bên cho thuê tài sản giao lại tài sản cho người bán( bên đi thuê)
sử dụng thông qua hợp đồng cho thuê tài chính hoàn trả hay hoàn trả từng phần.
14
Bên đi thuê ( người đã bán tài sản của mình rồi thuê lại) nhận được một số tiền
cho việc bán tài sản nhưng đồng thời vẫn không mất quyền sử dụng đối với tài
sản đó mặc dù không còn quyền sở hữu tài sản này. Tài sản dùng để giao dịch
trong phương thức cho thuê tài chính này có thể là thiết bị mới hay thiết bị đã
qua sử dụng nhưng vẫn còn giá trị sử dụng hữu ích.
Các giao dịch bán rồi cho thuê lại ngoài mục đích giải quyết nhu cầu cho
người bán tài sản còn được sử dụng để tài trợ vốn trung, dài hạn đối với những
tài sản trước đó đã được mua bằng nguồn tiền vay hay được dùng để làm giảm
chi phí huy động vốn, do đó hình thức này có mức lãi suất thấp hơn các hình
thức sử dụng vốn khác. Đây là hình thức giao dịch có sức cạnh tranh cao trong
ngành kinh doanh bất động sản
1.2.2. Cho thuê tài chính bắc cầu.
Trong thực tế, công ty cho thuê tài chính thường có nhiều khách hàng và
không phải lúc nào họ cũng đủ nguồn vốn để thực hiện tất cả giao dịch cho thuê.
Do đó khi thực hiện giao dịch cho thuê, công ty cho thuê tài chính có thể đi vay
từ bên thứ ba (thường là các ngân hàng hoặc định chế tài chính khác) để mua tài
sản cho thuê và dùng tài sản cho thuê làm tài sản đảm bảo cho số tiền vay.
Nhằm đảm bảo sự an toàn của giao dịch, pháp luật các nước thường giới hạn
khoản tiền vay so với giá trị tài sản. Tiền cho thuê nhận được trong từng thời kỳ
hạn nợ là nguồn tiền dùng để trả nợ cho các tổ chức tài chính, tín dụng đã cho
bên cho thuê tài sản vay vốn. Hình thức này giúp bên cho thuê mở rộng khả
năng tài trợ ra khỏi phạm vi nguồn vốn tự có của mình.
1.2.3. Cho thuê tài chính giáp lưng
Cho thuê tài chính giáp lưng là một phương thức cho thuê tài chính mà bên
đi thuê thứ nhất cho bên đi thuê thứ hai thuê lại tài sản mà bên đi thuê thứ nhất đã
thuê từ bên cho thuê thông qua sự đồng ý của bên cho thuê bằng văn bản. Hình
thức này giúp bên đi thuê tận dụng được khoản thời gian nhàn rỗi của máy móc,
thiết bị trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình để cho thuê lại tài sản
nhằm tận dụng tối đa công suất sử dụng máy móc, thiết bị làm giảm chi phí thuê
tài sản khi họ thu được một khoản kinh phí từ việc cho thuê lại tài sản đang thuê.
15
1.3. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính
Việc xác định vai trò của cho thuê tài chính giúp chúng ta định hình được
tầm quan trọng của nó để có những chính sách biện pháp phù hợp hướng hoạt
động dịch vụ này phát triển tương xứng với vai trò và ý nghĩa của nó.
1.3.1. Đối với bên cho thuê
- Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ vốn hạn chế tới mức thấp
nhất những rủi ro có thể xảy ra. Vì trong thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản
luôn thuộc về bên cho thuê, do đó nếu có những đe dọa đối với sự an toàn của
tài sản thuê (chẳng hạn bên thuê lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải thể..), bên
cho thuê hoàn toàn có khả năng thu hồi tài sản thuê ngay lập tức. Bên cho thuê
cũng không chịu những rủi ro do sự giảm giá trị của tài sản hoặc do tác động của
điều kiện khách quan.
- Bên cho thuê có thể biết chắc rằng vốn mà họ cho vay được sử dụng đúng
mục đích như trong hợp đồng cho thuê, vì dưới hình thức này, bên cho thuê trực
tiếp mua máy móc thiết bị từ nhà cung cấp (thường là sau khi bên đi thuê đã lựa
chọn) và do đó bên đi thuê không có cơ hội sử dụng vốn tài trợ vào mục đích
khác trừ trường hợp bên cho thuê lại tài sản đã thuê nhưng khi đó thường phải
có sự chấp thuận của bên cho thuê. Qua đó, bên cho thuê đảm bảo được khả
năng thu hồi nợ từ bên đi thuê.
- Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê linh hoạt trong kinh doanh. Trong
thời gian tài trợ, vốn của bên cho thuê bỏ ra để mua máy móc tài sản cho thuê,
số tiền này sẽ được thu hồi dần và cho phép bên cho thuê có thể sử dụng vốn đó
để tái đầu tư vào những hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận và giữ
vững được nhịp độ hoạt động của mình.
- Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định tài trợ nhanh.
Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với tư cách là nhà tài
trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không nhất
thiết phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ liên
quan đến tài sản như một giao dịch cho thuê tài sản thông thường. Hơn nữa, độ
16
an toàn cho vốn đầu tư cao nên nhìn chung thủ tục tài trợ thường đơn giản,
nhanh gọn. Đây cũng là một trong những yếu tố làm tăng sức cạnh tranh cho
thuê tài chính với các hình thức cấp tín dụng khác.
1.3.2. Đối với bên thuê
- Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế
về nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất
hoạt động của doanh nghiệp có thể được đặt ra bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các
nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích lũy. Trong khi đó, các doanh nghiệp
Việt Nam mà phổ biến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp
này thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu đi vay
theo hình thức tín dụng thông thường, các doanh nghiệp này lại thiếu tài sản thế
chấp. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà
vẫn mua được máy móc, thiết bị phục vụ yêu cầu của sản xuất và sau một số
năm có thể có được tài sản tích lũy nhất định.
- Những doanh nghiệp không thỏa mãn yêu cầu vay vốn của các tổ chức tài
chính cũng có thể nhận được vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính. Các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới thành
lập, chưa có uy tín với các tổ chức tài chính thường rất khó thỏa mãn các điều
kiện chống rủi ro nên thường bị các tổ chức này từ chối cho vay. Trong khi đó,
do đặc thù của cho thuê tài chính là bên cho thuê nắm quyền sở hữu pháp lý đối
với tài sản thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát việc theo dõi sử dụng tài sản,
tình hình kinh doanh của bên thuê. Vì vậy các công ty cho thuê tài chính có thể
sẵn sàng thỏa mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi vị thế tài chính,
uy tín của họ có những hạn chế.
- Cho thuê tài chính có thể giúp doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn
trong nguồn tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh
nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển
dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi vẫn
duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng.
17
- Cho thuê tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư đáp
ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với phương thức tăng vốn khác, cho thuê
tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn nên các thủ tục và điều kiện tài trợ cũng đơn
giản hơn. Do bên thuê có thể tự kiếm nguồn cung ứng tài sản thiết bị, hay đàm
phán, thỏa thuận trước về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà cung cấp, sau đó
mới yêu cầu công ty cho thuê tài chính tài trợ nên điều này cho phép bên thuê
rút ngắn thời gian tiến hành đầu tư thiết bị. Mặt khác, nếu tài sản cho thuê là tài
sản của công ty cho thuê tài chính thì các thông số kỹ thuật của thiết bị , các ý
kiến tư vấn cho những vấn đề phát sinh trong đầu tư được các công ty này đưa
ra phục vụ khách hàng thường rất hữu ích. Hiện nay, các công ty cho thuê tài
chính có xu hướng hoạt động chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực tài sản cho
thuê thường tổ chức cung ứng các loại thiết bị theo phương thức khép kín( thiết
bị gắn liền với phụ tùng, linh kiện, kỹ năng quản trị, sản phẩm cho khách hàng).
Điều này giúp bên thuê nhanh chóng đáp ứng được các cơ hội kinh doanh.
1.3.3. Đối với nhà sản xuất ( Hoặc nhà cung cấp thiết bị)
Nhà sản xuất ( hoặc nhà cung cấp thiết bị) khi chào bán sản phẩm của mình
trên thị trường đều mong muốn bên mua sẽ trả đủ tiền để nhà sản xuất ( hoặc
nhà cung cấp thiết bị ) có vốn lưu động, tạo cơ hội mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình. Nhưng trên thực tế, không phải tất cả các chủ thể muốn
mua thiết bị đều có đủ khả năng về tài chính hoặc trong trường hợp có doanh
nghiệp đủ khả năng về tài chính nhưng họ không muốn đầu tư số tiền này vào
việc mua tài sản cố định mà muốn giữ làm vốn lưu động phục vụ cho hoạt đông
sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy thông qua hợp đồng cho thuê tài chính mà
bên cho thuê trong hợp đồng này sẽ mua tài sản thuê để cho thuê và trả toàn bộ
số tiền tương ứng với giá trị tài sản.
- Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, nhà sản xuất ( hoặc nhà cung cấp
thiết bị ) sẽ tự tìm hiểu được nhu cầu thiết yếu của bản thân người sử dụng thiết
bị, từ đó có kế hoạch đầu tư đúng đắn.
18
- Thông qua cho thuê tài chính, các nhà sản xuất ( hoặc nhà cung cấp thiết
bị ) có thể bán thiết bị cũ, nhập thiết bị mới hay nhận được lời khuyên nên áp
dụng trình độ công nghệ ở mức nào cho phù hợp với doanh nghiệp, thị trường và
môi trường kinh tế vĩ mô.
1.3.4. Đối với nền kinh tế
Cho thuê tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể có
liên quan mà hình thức này còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Thể
hiện những điểm cơ bản sau:
- Cho thuê tài chính là hình thức thu hút vốn đầu tư trung, dài hạn cho nền
kinh tế. Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn
các hình thức khác nên có thể khuyến khích các thành phần kinh tế cả thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân và nhất là các tổ chức tài chính đầu tư vốn để kinh
doanh. Do đó hoạt động cho thuê tài chính đã huy động được những nguồn vốn
nhàn rỗi trong nội bộ nền kinh tế, thậm chí thu hút vốn đầu tư từ các lĩnh vực
đầu tư khác. Mặt khác, trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài
chính góp phần giúp cho các quốc gia thu hút các nguồn vốn quốc tế cho nền
kinh tế thông qua các loại máy móc, tài sản cho thuê mà quốc gia đó nhận được.
Đồng thời hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài này không làm tăng khoản
nợ nước ngoài của quốc gia nhận được tài sản cho thuê.
- CTTC còn góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa
học kỹ thuật. Thông qua hoạt động CTTC, các loại máy móc, thiết bị có trình độ
công nghệ tiên tiến được đưa vào DN, góp phần nâng cao trình độ, công nghệ
của nền sản xuất trong những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả với
nền kinh tế phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp… CTTC vẫn phát huy
tác dụng cập nhật hóa công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Do vậy, đối với các
quốc gia chậm phát triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ thì tác
dụng của nó còn mạnh mẽ hơn nhiều vì có thể rút ngắn được tiến trình phát
triển, lập tức bắt kịp với sự tiến bộ nhân loại thông qua hình thức tài trợ này.
19
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.4. Khái niệm pháp luật cho thuê tài chính
Sự ra đời của công ty CTTC đã làm phát sinh mối quan hệ giữa công ty cho
thuê tài chính với khách hàng, với các tổ chức tín dụng khác, và giữa công ty
cho thuê tài chính với Ngân hàng Nhà nước… Để điều chỉnh các quan hệ phát
sinh đó, Nhà nước ban hành nhiều quy định pháp luật khác nhau ở nhiều văn
bản khác nhau nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của công ty cho
thuê tài chính, giúp công ty hoạt động có hiệu quả, thông qua đó nhà nước kiểm
soát, hạn chế được rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính cũng như bảo vệ của
các chủ thể tham gia. Một giao dịch là cho thuê tài chính phải đáp ứng các điều
kiện cần và đủ là sự tồn tại của các chủ thể (công ty cho thuê tài chính và bên có
nhu cầu sử dụng tài sản thuê) và có phương tiện thực hiện giao dịch(hợp đồng).
Đây là các giao dịch có chứa các yếu tố như quyền tài sản, quan hệ hợp đồng
giữa bên cho thuê và bên thuê. Chính các yếu tố này quyết định các bộ phận cấu
thành pháp luật điều chỉnh cho thuê tài chính
Vậy pháp luật cho thuê tài chính, hiểu một cách khái quát nhất là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
quản lý nhà nước về cho thuê tài chính và các quan hệ hình thành trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính. [21]
Vậy nếu hiểu như trên thì pháp luật cho thuê tài chính bao gồm bộ phận
pháp luật điều chỉnh các chủ thể tham gia vào giao dịch cho thuê tài chính và bộ
phận pháp luật điều chỉnh hình thức pháp lý của các giao dịch cho thuê tài chính,
tức điều chỉnh hợp đồng cho thuê tài chính.
Ở Việt Nam hoạt động cho thuê tài chính là hoạt động tương đối mới mẻ.
Trong suốt một thời kỳ dài, pháp luật nước ta không thừa nhận hoạt động cho
thuê tài chính. Cho đến ngày 27/5/1995 Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt
Nam đã ban hành quyết định số 149/QĐ-NH5 ban hành thể lệ tín dụng thuê
mua. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên và là nền tảng cho hoạt động Cho thuê tài
chính ra đời sau này. Sau đó quyêt định này đã được thay thế bằng Nghị định số