HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 2 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng
hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát
triển khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp
phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.
Môn toán là ''chìa khoá'' mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công
cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn
không thể thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp
ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng
dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có
ích cho xã hội.
Toán có lời văn là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua
những câu văn nói về những mối quan hệ, tương quan và phụ thuộc liên quan
đến cuộc sống hằng ngày với các em. Từ đó giúp học sinh có những hiểu biết
cần thiết khi tiếp xúc với những “ Tình huống toán học” trong cuộc sống hàng
ngày.
Hiện nay việc đánh giá xếp loại học sinh Tiểu học dựa vào thông tư 30 của
bộ GD&ĐT có rất nhiều điểm mới, thông tư không yêu cầu chấm điểm mà chỉ
nhận xét và động viên các em. Đây cũng là lí do để giáo viên cần quan tâm tỉ
mỉ và thường xuyên hơn với tất cả đối tượng học sinh trong lớp khi học sinh học
các môn học trong đó có môn Toán. Năm học 2016 - 2017 tôi được phân công
giảng dạy lớp 2. Tôi nhận thấy việc dạy các em giải toán có lời văn trong
chương trình toán ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng là hết sức cần
thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn chưa phát triển về mặt
suy luận, phân tích. Việc dạy giải toán có lời văn ở Tiểu học sẽ góp phần giúp
học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng suy luận, và kĩ năng giải toán
đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt trong việc giải toán ở các lớp trên.
Với những lí do trên tôi đã chọn đề tài: " Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải toán
có lời văn ".
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Với những lí do thực tế của lớp học cũng như thực trạng việc học toán nói
chung, việc giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 2 nói riêng trong những
năm học trước và năm học 2016 - 2017 tôi thấy học sinh lớp 2 gặp nhiều khó
khăn việc học Toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng. Việc giải Toán
có lời văn tốt sẽ góp phần vào việc học Toán tốt cho các em góp phần nâng cao
chất lượng Dạy và Học của thầy và trò. Trong một lớp học thường có học sinh
đạt và chưa đạt về hoạt động học tập. Thực tế lớp 2 có những học sinh gặp khó
1
khăn trong học tập nói chung và giải toán có lời văn chiếm tỉ lệ khá cao vì các
em mới ở lớp 1 lên, Chính vì lí do đó tôi đã xây dựng những giải pháp cụ thể để
hướng dẫn học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt kết quả tốt đồng thời nâng cao
chất lượng dạy học của thầy và trò. Thông qua đây giúp các em có kĩ năng giải
Toán ở các lớp trên với những giải pháp cụ thể như sau.
Giải pháp1: Tìm hiểu thực tế
Là giáo viên chủ nhiệm ai cũng mong muốn học sinh mình học tốt, chăm ngoan.
Muốn biết được cụ thể từng học sinh như thế nào, công việc đầu tiên của tôi đó
là tìm hiểu thực thế từng học sinh. Công việc được thực hiện như sau:
Sau khi nhận lớp tôi tự tìm hiểu thực tế học sinh của lớp mình với nhiều hình
thức như: khảo sát thông tin học sinh thông qua đồng nghiệp trong trường, thông
qua phụ huynh... Học sinh lớp 2 tôi chủ nhiệm có 16 em, nữ 8 em. Trong đó số
học sinh có hoàn cảnh khó khăn có: 2 em hộ nghèo, 2 em hộ cận nghèo, 7 em
có hoàn cảnh khó khăn, 3 em ở với ông bà cha mẹ đi làm ăn xa. Mặt khác trình
độ nhận thức của các em không đồng đều, sự quan tâm của cha mẹ cũng khác
nhau... Phần lớn phụ huynh không biết chữ, 100% phụ huynh làm nghề nông.
Việc học của các em khoán trắng cho giáo viên trên lớp. Theo thông tư 30 của
Bộ GD&ĐT năm 2014 việc học tập của các em phải hoàn thành trên lớp, không
yêu cầu học sinh về nhà làm bài tập. Ở lớp thời lượng một tiết dạy rất hạn hẹp
với những em nhận thức còn chậm trong học tập. Với những lí do trên cũng ảnh
hương không ít đến việc học của các em.
Sau khi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh của từng em, tôi tiến hành khảo sát lại kiến
thức Toán của các emsau hai tháng nghỉ hè. Tôi tiến hành khảo sát bằng cách ra
đề kiểm tra môn toán, trong đó có các dạng bài tập và một số bài toán giải theo
chuẩn kiến thức. Kết quả đạt như sau:
Chất lượng học sinh học giải Toán có lời văn đạt như sau:
ĐẠT
2 em ( 12,5%)
CHƯA ĐẠT
14 em ( 87,5% )
Sau khi khảo sát xong tôi thống kê việc học tập của các em theo 2 mức đạt và
chưa đạt. Từ đây tôi thông báo kết qủa khảo sát cho phụ huynh theo hình thức
gặp trực tiếp để trao đổi, để cùng phụ huynh phối hợp. Theo thông tư 30 của
BGD&ĐT phụ huynh có quyền tham gia đánh giá chất lượng của con em họ với
hình thức thông báo kết quả giúp đỡ con em mình khi được giáo viên chủ nhiệm
thông báo tình hình học tập của các em. Việc tìm hiểu thực tế học sinh là việc
làm cần thiết phải có, công việc này tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong
quá trình dạy học. Thông qua kết quả đó tôi tìm biện pháp giúp đỡ các em để
nâng cao chất lượng, hiệu quả trong từng tiết học, bài học.
2
Mỗi em tôi lập một trang trong sổ theo dõi cá nhân của giáo viên. Hàng tháng tôi
nhận xét cụ thể từng học sinh với bộ môn Toán trong sổ nhật kí và thông báo với
phụ huynh về tình hình học tập của các em.Từ thực tế tôi thấy các em như: Lý
Thị Bình, Ly Thị Mái, Giàng A Dơ, Giàng A Vảng, Giàng Thị Anh Thư….khi
giải Toán có lời văn thường gặp rất nhiều khó khăn. Với những thực tế đó giáo
viên sẽ tìm cách đưa ra phương pháp dạy học phù hợp với từng học sinh để giúp
các em có kĩ năng giải toán tốt hơn.
- Qua kết quả đó giáo viên sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh phù hợp như: Xếp cho
những học sinh có năng lực trong học tập ngồi gần những học sinh còn gặp khó
khăn trong học tập. Giáo viên thường xuyên giúp đỡ các em trong 15 phút truy
bài và các tiết tăng cường Toán .
Giải pháp 2: Hình thành đôi bạn học tập
- Hình thành đôi bạn học tập ở lớp, đôi bạn học tập ở nhà. Ở lớp những em hạn
chế về năng lực học tập sẽ được ngồi bên những học sinh có năng lực về học
tập. với giải pháp này giáo viên tiện việc theo dõi và giúp đỡ các em. Trong học
tập cùng trang lứa các em sẽ thích học bạn hơn học thầy, các em cùng học, cùng
chơi. Thuận tiện cho việc trao đổi và cùng nhau hợp tác. Thông qua đây các em
có năng lực sẽ có điều kiện giúp đỡ bạn mình trong học tập. Trong 15 phút đầu
giờ các em sẽ tự làm bài, tự kiểm tra nhau. Các em có năng lực trong học tập sẽ
theo dõi sự tiến bộ của bạn mình và báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm
đầu giờ học. Hình thành đôi bạn học tập không chỉ giúp các em cùng nhau học
tập mà còn cùng nhau giải đáp thắc mắc. các em sẽ có cơ hội thể hiện mình
trước bạn bè, rèn kĩ năng mạnh dạn trong giao tiếp.
- Giáo viên chủ nhiệm nên theo sát các đối tượng học sinh bằng cách trực tiếp,
thông qua các học sinh để động viên khuyến khích kịp thời, hoặc kiểm tra các
em gặp khó khăn trong giải Toán với những bài tập trên lớp trong các tiết học
chính khóa và tăng cường. vào thời gian truy bài đầu giờ giáo viên nên trực tiếp
hướng dẫn các em gặp khó khăn trong học tập.. Luôn yêu thương gần gũi các
em , luôn tạo điều kiện cho các em có cơ hội thể hiện mình trước bạn bè trong
lớp với mục đích giúp các em yêu thích đến trường, hăng say học tập, giúp các
em hiểu rằng: “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Giải pháp3: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán
Việc đọc thông thạo, lưu loát là một trong bốn kĩ năng của học sinh cần đạt. Các
em muốn học tốt các môn trong đó có môn toán thì các em phải đọc tốt. Để tìm
hiểu được nội dung bài toán việc đầu tiên cần phải có đó là học sinh phải đọc
3
thông thạo. Muốn vậy trong các tiết Tiếng Việt giáo viên nên kết hợp việc đọc
đúng, đọc hiểu cho học sinh để các em thuận lợi hơn khi học Toán
Trong các bài toán muốn để học sinh hiểu và giải đúng thì giáo viên cần lưu ý
hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài toán 2 đến 3 lần với các hình thức như đọc
thầm, đọc thành tiếng trước lớp. Đối với học sinh lớp 2 việc hướng dẫn các em
đọc kĩ đề bài toán là việc làm rất quan trọng vì các em mới ở lớp một lên, các
em chỉ đọc thuộc các chữ nhưng chưa hiểu nội dung mình đọc là gì? Bước này
trước khi học sinh đọc đề bài toán ( thời điểm đầu năm học) giáo viện cần định
hướng để các em đọc mà hiểu chứ không đọc suông. Đối với các bài toán giải
giáo viên cần chuẩn bị các đề bài toán trên bảng phụ ( chuẩn bị đồ dùng dạy
học) trong các tiết học Toán. Khi đọc cần giúp học sinh hiểu nghĩa một số từ
khóa quan trọng nói lên tình huống toán học bị che lấp bởi cái vỏ ngôn ngữ
thông thường như: " ít hơn", "nhiều hơn", tất cả", " cả hai"... khi đọc giáo viên
nên gạch chân dưới các từ đó để học sinh dễ nhìn thấy ( đối với thời gian đầu
năm học, về sau không cần gạch chân các từ đó). Nếu học sinh chưa hiểu giáo
viên cần giúp các em hiểu nghĩa các từ đó.
Ví dụ: Bài toán: "Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học
sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát? " (sách
Toán lớp 2 trang 11)
Đối với các đề toán như thế này giáo viên cần thực hiện theo các bước sau:
+ Giáo viên đọc yêu cầu bài toán, khi giáo viên đọc lưu ý nhắc học sinh đọc
thầm theo. Khi đọc giáo viên cần thể hiện ngữ điệu gây sự chú ý cho học sinh
những yêu cầu bài toán cần giải quyết.
+ Gọi học sinh đọc lại yêu cầu từ 2 đến 3 em, giảm dần về sau.
+ Hướng dẫn phân tích giáo viên phải đưa ra một số câu hỏi dẫn dắt để học sinh
nhận biết các điều kiện đã có và điều kiện cần phải giải quyết với hệ thống các
câu hỏi như sau:
+ Bài toán đã cho biết gì?
+ Bài toán hỏi gi? Bài toán yêu cầu làm gì? Bài toán yêu cầu tìm gì?
Hoặc: Trong bài toán đã cho em biết gì và cần tìm gì?...
Ví dụ: Bài toán
"Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bảo có bao nhiêu
viên bi?"
4
Hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu nội dung bài toán như sau:
- Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết Nam có 10 viên bi, Bảo nhiều hơn
Nam 5 viên bi).
- Bài toán yêu cầu làm gì? ( Bài toán yêu cầu tìm số bi bạn Bảo)
Đối với hệ thống câu hỏi giáo viên có thể nâng dần lên về sau khi học sinh đẫ có
kĩ năng phân tích đề bài. Tuy nhiên ở bước này giáo viên có thể hướng dẫn các
em tự đặt câu hỏi với nhau thông qua thảo luận nhóm ( học sinh có năng lực
giúp các em còn hạn chế). Qua đây giúp các em tự tóm tắt bài toán về sau. Lưu ý
ở bước này giáo viên nên phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh. Có thể
các em đưa ra một số hệ thống câu hỏi khác ý giáo viên nhưng theo suy nghĩ của
các em, không nhất thiết phải máy móc rập khuôn theo giáo viên. Thông qua đây
phát huy tính sáng tạo của học sinh .
Ví dụ: hệ thống câu hỏi trong bài toán "Năm nay bà 65 tuổi, mẹ kém bà 27 tuổi.
Hỏi năm nay mẹ bao nhiêu tuổi?" hệ thống câu hỏi có thể như sau:
+ Số tuổi bà năm nay là bao nhiêu?
+ Tuổi mẹ như thế nào so với tuổi bà?
+ Bài toán hỏi tuối ai ?
Hoặc:
+ Bà năm nay bao nhiêu tuổi?
+ Tuổi mẹ nhiều hơn hay ít hơn tuổi bà?
+ Tuổi mẹ ít hơn tuổi bà bao nhiêu tuổi?
+ Bài toán yêu cầu tìm tuổi ai?
Trong bước phân tích bài toán giáo viên là người định hướng giúp học sinh phát
huy tối đa năng lực của mình. Từ đây các em sẽ có hứng thú trong học tập và
yêu thích học toán. Vì vậy giáo viên nên để học sinh tự đặt câu hỏi để phân tích
bài toán tránh áp đặt các em.
Trong quá trình Dạy- Học giáo viên nên xem các em là con người với đầy đủ
quyền được vui chơi, đựơc học tập, được lao động, được nhận thức,...được
quyền hỏi và trả lời trong quá trình Dạy- Học.
Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán
Sau khi tìm hiểu nội dung yêu cầu bài toán xong giáo viên cần hướng dẫn cho
học sinh biết cách tóm tắt bài toán bằng lời, sô đồ, mẫu vật... Thời gian đầu giáo
viên vừa hỏi học sinh giáo vừa tóm tắt trên bảng. Đối với học sinh lớp hai tóm
tắt bằng lời và sơ đồ, mẫu vật là thuận lợi cho học sinh nhận diện bài toán. Mức
độ nâng dần lên về sau với hình thức học sinh tự đọc hiểu, phân tích và tón tắt
bài toán dưới sự gúp đỡ hướng dẫn của giáo viên.
5
Bước tóm tắt bài toán giúp các em nhận diện được bài toán, từ đây các em có cơ
sở để đặt phép tính đúng cho bài toán.Thông qua hệ thống câu hỏi tìm hiểu nội
dung bài toán giáo viên dẫn dắt các em cách tóm tắt cho phù hợp với bài toán.
Với dạng bài toán về nhiều hơn giáo viên cần định hướng cho các em tóm tắt
bằng sơ đồ đoạn thẳng để học sinh dễ nhận biết yêu cầu cần tìm và giải quyết
vấn đề dựa vào sơ đồ.
Ví dụ Bài toán: "Páo có 4 bông hoa, Bình nhiều hơn Mỉ 2 bông hoa. Hỏi Mỉ có
mấy bông hoa?"
Giáo viên cần dẫn dắt bằng các câu hỏi để học sinh nhận biết đoạn thẳng biểu
thị số bông hoa của bạn Páo ngắn hơn đoạn thẳng biểu thị số bông hoa của bạn
Mỉ. Khi vẽ đoạn thẳng biểu thị số bông hoa của bạn Páo giáo viên cần giải thích
cho học sinh hiểu vì sao vẽ đoạn thẳng biểu thị số bông hoa của bạn Mỉ phải dài
hơn đoạn thẳng biểu thị số bông hoa bạn Páo bởi vì số hoa bạn Mỉ nhiều hơn số
bông hoa của bạn Mỉ.
Đoạn thẳng thứ nhất để biểu thị số bông hoa bạn Páo, đoạn thằng thứ hai dài
hơn đoạn thẳng thứ nhất biểu thị số bông hoa bạn Mỉ. lưu ý độ dài các đoạn
thẳng phải cân đối và phù hợp.
Tóm tắt:
Páo
4 bông hoa
2 bông
Mỉ
? bông hoa
Ví dụ dạng Toán ít hơn:
Bài toán: lớp 2B có 15 học sinh gái, số học sinh trai ít hơn số học sinh gái 2 bạn.
Hỏi lớp 2B có bao nhiêu học sinh trai?
Cách hướng dẫn như trên nhưng nâng dần về sau để học sinh tự tóm tắt.
Tóm tắt:
Số HS gái
15 bạn
2 bạn
Số HS trai
? bạn
Cũng có bài toán không tóm tắt bằng sơ đồ mà tóm tắt bằng lời để học sinh dễ
hểu hơn.
Ví dụ: bài Toán" Mỗi con gà có hai chân. Hỏi 6 con gà có bao nhiêu chân?"
(sách Toán 2 trang 95)
Tóm tắt:
1 con có: 2 chân
6 con có: ... chân?
Hoặc có bài giáo viên nên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng mô hình
6
Ví dụ: Bài toán " Một đoạn dây đồng được uốn thành hình tam giác như hình
vẽ. Tính độ dài đoạn dây đó?"
A
3cm
2cm
B
4cm
C
Tóm tắt:
AB: 3cm
BC: 2cm
AC: 4cm
ABC….cm ?
Với các dạng bài toán khác nhau giáo viên tìm cách tóm tắt như thế nào để học
sinh dễ hiểu, từ đó học sinh nhìn vào tóm tắt để giải được bài toán đúng và viết
phép tính đúng với yêu cầu. Toán lớp hai thường có ba hình thức tóm tắt, không
nhất tiết bài nào cũng tóm tắt như nhau.
Không hất thiết bài toán nào cũng tóm tắt một dạng nhưng tùy thuộc vào từng
bài toán để tóm tắt. Làm thế nào giúp học sinh dễ hiểu và nhận dạng được bài
toán , giải đúng là được.
Giải pháp5 : Hướng dẫn gải toán và trình bày bài giải
a. hướng dẫn giải Toán: Dựa vào tóm tắt bài toán để hướng dẫn học sinh xác
định được dạng toán để tìm cách giải phù hợp. Toán lớp 2 thường có các dạng
như sau:
+ Bài toán về nhiều hơn
+ Bài toán về ít hơn
+ Tìm một số trong một tổng
Vì vậy khi dạy giải Toán cho học sinh cần hướng dẫn các em có kĩ năng nhận
diện bài toán để biết cách đặt phép tính đúng cho bài toán, cách như sau:
Sau khi học sinh đọc đề bài và phân tích bài toán giáo viên cho học sinh biết
dạng bài toán bởi những câu hỏi gợi ý và sát với thực tế bài toán yêu cầu. Lưu ý
khi hướng dẫn nhận dạng bài toán giáo viên nên dạy theo hệ thống và có logic
với tất cả dạng các bài. Các tiết học trên lớp tránh giảng qua loa rồi chỉ cho học
sinh biết bài này phải làm phép cộng , trừ, nhân hoặc chia. Việc hướng dẫn học
sinh nhận diện dạng toán là nền tảng cho các em học toán và giải toán lên các
lớp trên. Từ việc nhận dạng bài toán các em sẽ tư duy tìm ra phép tính đúng cho
bài toán.
Chẳng hạn như dạng bài toán: " Giải bài toán về nhiều hơn" Thì phép tính đúng
của bài toán là phép cộng hoặc dạng :" giải bài toán về ít hơn" thì phép tính đúng
cho bài toán đó là phép trừ. Ở lớp hai hầu hết các bài giải chỉ giải bằng một phép
tính, không có giải bằng hai phép tính. bước này giáo viên cần hướng dẫn các
em với các dạng câu hỏi để nhận diện bài toán.
Ví dụ : Bài toán " Thùng thứ nhất đựng được 16 lít dầu, thùng thứ hai đựng ít
hơn thùng thứ nhất 2 lít dầu. Hỏi thùng thứ hai đựng được bao nhiêu lít dầu?"
7
Đối với bài toán này sau khi phân tích, tóm tắt học sinh nhận biết được đây là
dạng " Giải bài toán về ít hơn". Ở bước này giáo viên nên đặt câu hỏi để học
sinh nhận biết như:
Số dầu thùng thứ hai như thế nào so với thùng thứ nhất? ( Số dầu thùng thứ hai
ít hơn thùng thứ nhất)
Đây là bài toán có dạng gì? ( Giải bài toán về ít hơn) Thời gian đầu là khó với
các em, giáo viên có thể chỉ ra trực tiếp dạng toán và nâng dần về sau.
Sau khi học sinh nhận dạng bài toán giáo viên cần hướng dẫn các em tìm cách
giải quyết( nêu cách làm) với các câu hỏi như sau:
Để tìm số dầu thùng thứ hai em làm gì? ( Ta lấy số dầu thùng thứ nhất trừ đi số
dầu ít hơn của thùng thứ hai) Bước này giáo viên không nên hỏi muốn tìm số
dầu thùng thứ hai em làm phép tính gì? Nếu đặt câu hỏi như thế sẽ không phát
huy được tư duy của các em.
Trước khi học sinh viết phép tính giáo viên cần hướng dẫn các em tìm câu lời
giải đúng với yêu cầu bài toán. Lưu ý với học sinh bài toán yêu cầu gì mình trả
lời thế. Cụ thể bài toán hỏi gì các em chỉ việc gạch bỏ chữ hỏi và viết câu trả lời
sau từ hỏi.
Ví dụ: bài toán trên ta viết câu lời giải như sau:
+ Thùng thứ hai đựng được là:
+ Số dầu thùng thứ hai đựng được là:
+ Thùng thứ hai đựng được số dầu là:
Ở bước này giáo viên không nên máy móc rập khuôn bắt học sinh viết một mẫu
lời giải, mà phải để học sinh phát huy tính sáng tạo. Khi học sinh nêu câu lời
giải giáo viên cần gọi nhiều học sinh nêu câu lời giải khác và hướng dẫn uốn nắn
các em tìm ra câu lời giải chính xác, ngắn gọn. Trong giải Toán có lời văn bước
này là bước giúp học sính phát huy sáng tạo, qua đây giáo viên phát hiện và tìm
ra học sinh có năng khiếu về môn Toán. Đồng thời cũng rèn cho các em có kĩ
năng giải toán tốt.
b. Hướng dẫn trình bày bài giải
Hướng dẫn cách trình bày bài giải đây cũng là bước quan trong vì giáo dục học
sinh có tính cẩn thận. Đối với bước này giáo viên cần có quy định cụ thể ngay từ
đầu năm và tất cả các bài toán giải, để học sinh có thói quen và trở thành kĩ năng
khi trình bày bài giải toán, cụ thể như sau:
Trước hết viết bài giải giữa vở, viết lời giải phải xuống hàng khi viết từ lề vở
trái lùi vào 2 hoặc 3 ô tùy vào độ dài của lời giải, sau đó xuống hàng viết phép
tính, phép tính lùi vào 4 ô , đáp số xuống dòng viết lùi vào 5 ô.
Ví dụ:
Bài giải
Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:
16 - 2 = 14 ( l )
Đáp số: 14 lít dầu
Trong các bài toán không yêu cầu cách trình bày bài giải cụ thể. Nhưng bản
thân tôi đã dạy nhiều năm ở Tiểu học tôi thấy việc trình bày bài giải như thế nào
cho đẹp cũng rất cần thiết vì vậy thông qua kinh nghiệm bản thân và cách làm
8
của đồng nghiệp tôi tự rút ra cách trình bày bài giải như thế và tôi thấy trình bày
như vậy là khoa học nhất.
Giải pháp 6: Hướng dẫn nhận xét đánh giá
Trong các môn học việc nhận xét đánh giá là không thể thiếu, theo thông tư 30
của Bộ GD&ĐT năm 2014 có nhiều điểm mới đó là không chấm trực tiếp vào
bài làm học sinh bằng điểm số mà chỉ nhận xét đánh giá. Thông qua nhận xét
đánh giá, giáo viên sẽ đưa ra biện pháp hỗ trợ cho từng học sinh cụ thể với từng
môn học cụ thể.
Việc nhận xét đánh giá không chỉ giáo viên thực hiện mà cả học sinh cũng tham
gia nhận xét đánh giá. Học sinh đánh giá nhân xét bài mình làm và bạn làm với
nhiều hình thức khác nhau như: Nhận xét bài làm của bạn, đưa ra cách làm của
mình, đồng ý với cách làm của bạn... dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên.
Trong bước này học sinh hoàn toàn chủ động trong việc nhận xét đánh giá
bài của mình và bài của bạn một cách tích cực.
Ví dụ: học sinh tự nhận xét đánh giá rồi đối chiếu với bài bạn rồi tự sửa chữa bài
sai. Cũng có thể các em đối chéo vở để nhận xét đánh giá dưới sự quan sát
hướng dẫn của giáo viên.
Trong các bước giải toán thì bước nhận xét đánh giá là không thể thiếu, việc
nhận xét đánh giá diễn ra song song với việc các em làm bài, tránh để học sinh
làm xong các bài mới nhận xét một lần. Nếu làm như vậy học sinh khó phát hiện
ra mình giải sai ở chỗ nào, nhiều bài quá học sinh sẽ nhầm bài này với bài khác.
Từ đó các em sẽ khó nhận biết bài này vì sao sai, bài khác sai ở chỗ nào. .. các
trường hợp sai thường rơi vào những em học sinh gặp khó khăn trong giải toán,
giải còn chậm, lúng túng. Vì vậy chúng ta nên giải quyết dứt điểm và áp dụng
theo như thông tư 30 của BGD&ĐT đã hướng dẫn. Từ đó các em sẽ nhận biết
cách giải bài tiếp theo đối với các bài đồng dạng tiếp theo. Khi nhận xét đánh
giá giáo viên cần nhận xét cụ thể từng em và từng bài cụ thể để sai đâu sửa đó.
Khi chữa bài giáo viên không nêu phép tính hoặc đọc cho học sinh viết lại bài
giải mà cần định hướng, giảng lại để học sinh tự nhận ra điểm sai và tự giải lại.
làm như vậy mới phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của các em và
các em sẽ nhớ lâu hơn.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Với những giải pháp trên bản thân tôi đã thực hiện trong suốt năm học, tôi nhận
thấy học sinh lớp tôi phát huy được tính tích cực, chủ đông sáng tạo dưới sự tổ
chức hướng dẫn của giáo viên. Các giải pháp trên bản thân tôi thường xuyên
trao đổi với giáo viên trong khối, trong trường để cùng nhau thực hiện cho có
hiệu quả. Giáo viên cùng học sinh luôn luôn họat động nhịp nhàng và có hiệu
quả tốt. Đa số các em yêu thích học toán, biết tự tìm hiểu và phân tích bài toán.
Từ đó các em đã tự tin khi giải các bài toán, viết được các câu lời giải đúng, có
kĩ năng nhận dạng bài toán nhanh hơn so với đầu năm học. Hướng dẫn học sinh
giải toán lời văn với những biện pháp cụ thể là một việc mà giáo viên dạy học ở
tiểu học nên làm. Với những giải pháp trên các khối lớp ở cấp Tiểu học có thể
vận dụng và nâng dần lên với các lớp học trên. Hiệu quả đề tài cho thấy sự tiến
bộ của học sinh được thể hiện qua kết quả sau:
Chất lượng môn Toán đầu trước khi thực hiện đề tài:
9
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
2 em ( 12,5 % )
14 em ( 87,5 )
Chất lượng môn Toán đến cuối năm.
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
16 em ( 100 %)
Không có
Vận dụng các giải pháp " Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải Toán có lời văn" góp
phần vào nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh nói chung và môn Toán nói
riêng. Góp phần nhỏ bé vào việc phát triển giáo dục huyện nhà trong thời kì đổi
mới.
IV. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT, KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.
- Bản thân là một giáo viên đứng lớp nên luôn xem việc chất lượng là hàng đầu.
Các em chính là sản phẩm lao động của người giáo viên hôm nay sẽ là tương lai
của đất nước mai sau. Ngoài việc cố gắng học hỏi đồng nghiệp ở chuyên môn,
vận dụng phương pháp dạy học đổi mới. Bản thân tôi luôn sáng tạo trong dạy
học không quá cứng nhắc, vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt
cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp
- Phối hợp với phụ huynh học sinh để trao đổi tình hình học tập của các em
cũng như nắm bắt tâm lí của từng học sinh từ đó có các biện pháp dạy học phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
- Tôi luôn hiểu: Việc rèn các kĩ năng giải Toán cho các em là điều rất cần thiết
cho học sinh Tiểu học. Kĩ năng đó là nền tảng cho các em học toán đối với các
lớp trên.
- Cần có các bài tập trong tiết học cũng như thực hành phải vừa sức với từng
đối tượng học sinh.
- Người giáo viên phải thường xuyên học tập bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
nâng cao hiểu biết và cập nhật những phương pháp mới để phục vụ tiết học tốt
hơn tạo điều kiện tốt cho việc nâng cao chất lượng Dạy- Học, tạo nền móng
vững chắc cho sự phát triển xã hội trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
- Để có kết quả tốt giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo từng bài học, tiết học
( soạn bài trước khi lên lớp). Các tiết dạy cần có và luôn sử dụng đồ dùng dạy
học.
- Tôi tin rằng với những biện pháp đó cùng với lòng yêu nghề mến trẻ, giáo
viên chúng ta sẽ góp phần nhỏ bé vào việc đưa nền giáo dục của trường sánh vai
ngang tầm với các trường bạn trong huyện và tỉnh. Để thực hiện được đề tài tôi
đã tự học hỏi, nghiên cứu nhiều thông qua sách, báo giáo dục thời đại, tìm hiểu
thông tư 30 cảu BGD&ĐT năm 2014, các tài liệu tham khảo ( sách hướng dẫn,
sách thiết kế), trên các trang web và các đồng nghiệp trong và ngoài trường. Từ
đó chuyên môn nghiệp vụ của bản thân cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc
giảng dạy học và việc hướng dẫn học sinh giảỉ toán nói riêng.
Dạy giải toán có lời văn là một bộ phận quan trong của chương trình Toán Tiểu
học. nó kết hợp chặt chẽ với nội dung của các kiến thức về số học, các yếu tố đại
lượng, các yếu tố hình học.
10
Để dạy tốt bản thân giáo viên cần phải tâm huyết với nghè cùng với tình yêu
trẻ. Thường xuyên học tập nâng cáo chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân với
nhiều hình thức khác nhau. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ thông tư 30 của
BGD&ĐT để vận dụng tốt nhằm phát huy được tính tự giác, tích cực và chủ
động cuả các em . Bản thân giáo viên chỉ là người định hướng và chỉ đạo, hoạt
động của thầy và trò luôn diền ra đồng bộ song song với nhau.
Trong khi dạy giáo viên cần sử dụng lời nói ngắn gọn súc tích dễ hiểu, gần gũi
với các em để học sinh dễ nhận biết các dạng bài toán và giải bài toán một cách
thuận lợi.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài bản thân tôi mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp nhỏ, rất mong sự góp ý giúp đỡ của quý cô thầy đồng nghiệp
để đề tài hoàn chỉnh hơn và có sức lan tỏa nhân rộng hơn
Sín Chéng, ngày…tháng ….năm 2016
11