BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BOUN THAVY SIVILAI
TỘI GIẾT NGƯỜI – SO SÁNH GIỮA BỘ LUẬT HÌNH SỰ LÀO VÀ
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG VĂN HÙNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin được sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực của luận văn.
Tác giả luận văn
Boun Thavy Sivilai
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận, được sự quan tâm giúp đỡ,
hướng dẫn, giảng dạy của quý thầy cô cùng với sự đóng góp của bạn bè Việt
Nam, tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sĩ luật học. Qua đây, tôi xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng các thầy cô trường Đại học Luật Hà Nội đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt kiến thúc, kinh nghiệm quý báu, tạo điều kiện trong
suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Hoàng Văn Hùng,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận
văn.
Tội xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá
trình du học tại Việt Nam.
MỤC LỤC
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỘI GIẾT NGƯỜI THEO QUY ĐỊNH CỦA BLHS VIỆT NAM
HIỆN HÀNH.......................................................................................................... 5
1.1. Định nghĩa tội giết người theo Luật hình sự Việt Nam ............................... 5
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội giết người theo quy định của BLHS Việt Nam .... 6
1.2.1. Khách thể của tội giết người.................................................................... 6
1.2.2. Mặt khách quan của tội giết người ........................................................ 10
1.2.3. Chủ thể của tội giết người ..................................................................... 16
1.2.4. Mặt chủ quan của tội giết người ............................................................ 20
1.3. Đường lối xử lý đối với tội giết người......................................................... 23
1.3.1. Trường hợp giết người thông thường (Khoản 2 Điều 93 BLHS.............. 23
1.3.2. Các trường hợp giết người có tình tiết định khung tăng nặng (Khoản 1
Điều 93 BLHS). ............................................................................................... 23
1.3.3. Hình phạt bổ sung ................................................................................. 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 34
CHƯƠNG 2. TỘI GIẾT NGƯỜI THEO QUY ĐỊNH CỦA BLHS LÀO – SO
SÁNH VỚI BLHS VIỆT NAM. ........................................................................... 36
2.1. Định nghĩa tội giết người theo BLHS Lào. ................................................ 38
2.2. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội giết người theo BLHS Lào – So sánh
với Việt Nam ...................................................................................................... 39
2.2.1. Khách thể của tội giết người theo BLHS Lào – So sánh với Việt Nam ... 39
2.2.2. Mặt Khách quan của tội phạm giết người theo BLHS Lào – so sánh với
Việt Nam. ........................................................................................................ 39
2.2.3. Chủ thể của tội giết người theo BLHS Lào – So sánh với Việt Nam. ...... 45
2.2.4. Mặt chủ quan của tội giết người trong BLHS Lào – so sánh với Việt Nam . 46
2.3. Đường lối xử lý đối với tội giết người theo BLHS Lào – So sánh với Việt
Nam ................................................................................................................... 49
2.3.1. Trường hợp giết người thông thường – So sánh với BLHS Việt Nam ..... 49
2.3.2. Các trường hợp giết người có tình tiết định khung tăng nặng – So sánh
với BLHS Việt Nam ......................................................................................... 50
2.3.3.Trường hợp giết người có tình tiết định khung giảm nhẹ ........................ 54
2.4. Hình phạt bổ sung ...................................................................................... 55
2.5. Trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ................................ 57
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 66
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 69
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLHS 1999
Bộ luật hình sự năm 1999
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là vấn nạn của mọi quốc gia, xâm hại trực tiếp đến sự ổn định
chính trị và sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Hiện nay trong xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập, thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…Đi đôi với sự phát triển
đó, tình hình tội phạm đang diễn biến theo chiều hướng hết sức phức tạp trong
những năm gần đây. Trong đó, diễn biến phức tạp của các tội phạm xâm
phạm tính mạng sức khỏe của con người là một điều đáng lưu tâm.
Trong số các tội xâm phạm nhân thân, tội giết người là loại tội phạm đặc
biệt nguy hiểm và xảy ra khá phổ biến trong xã hội, nó xâm phạm trực tiếp
đến tính mạng của con người, tàn phá những giá trị đạo đức truyền thống, gây
tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, kéo theo sự mất ổn định trật
tự an toàn xã hội. Ở mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước đều có những quy
định về tội giết người và biện pháp xử lý đối với loại tội này trong các chế
định pháp lý hình sự. Mặc dù những năm gần đây, hoạt động xét xử của
ngành tòa án về tội phạm này từng bước được nâng cao, song bên cạnh đó vẫn
tồn tại những hạn chế, mà một trong những nguyên nhân là các cơ quan bảo
vệ pháp luật không đánh giá đúng bản chất của hành vi phạm tội dẫn đến xác
định sai tội danh, hoặc xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Để khắc phục tình
trạng trên thì vấn đề cốt lõi đầu tiên là phải nắm vững các quy định của pháp
luật về tội phạm, nhận thức đúng bản chất của hành vi phạm tội, từ đó có
đường lối xử lý đúng đắn, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
Có thể nói, trong số các tội phạm xảy ra thì tội giết người là tội phạm “nổi
cộm” về tính chất phức tạp, đa dạng cũng như tỷ lệ ngày càng gia tăng. Vì
vậy, nghiên cứu các quy định về tội giết người là một trong những nghiên cứu
có tính cấp thiết trong khoa học hình sự hiện nay.
2
Hiện nay, Lào đang trên con đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực
của đời sống, xây dựng nhà nước pháp quyền theo con đường xã hội chủ
nghĩa, đó là xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do vậy tăng cường pháp
chế, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể luôn luôn được coi là nhiệm vụ cấp
bách của toàn xã hội. Tuy nhiên hiện nay, tình hình tội giết người xảy ra tại
Lào ngày càng phổ biến, thủ đoạn ngày càng nguy hiểm, tinh vi xảo quyệt. Do
nhận thức chưa đúng về mặt pháp luật nên tình trạng oan sai còn xảy ra ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của người dân.
Từ những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Tội giết người – So sánh giữa Bộ
luật hình sự Lào và Bộ luật hình sự Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Tội giết người là một trong những loại tội nguy hiểm và phổ biến cả ở
Việt Nam và Lào. Vì vậy đã có không ít các công trình nghiên cứu khoa học
về loại tội này.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về tội giết người khá nhiều, có
thể kể đên như:
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tội giết người trong Luật hình sự Việt
Nam” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà năm 2001;
- Luận văn tiến sỹ Luật học “Tội giết người trong luật hình sự Việt Nam
và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này” của tác giả Đỗ Đức Hồng
Hà.
Đây là một công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống tất
cả các vấn đề liên quan đến tội giết người dưới góc độ Luật Hình sự và Tội
phạm học.
3
Một số bài nghiên cứu về tội giết người trên các tạp chí: “Tội giết người
và một số vướng mắc qua thực tiễn xét xử loại tội phạm này” của tác giả Lê
Hồng Quang đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2009; “Phân biệt dấu
hiệu cơ bản của tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”
của tác giả Phạm Văn Cần, tạp chí Kiểm sát số 2/2010; “Phân biệt tội giết
người và cố ý gây thương tích (trường hợp dẫn đến chết người)” của Th.s
Nguyễn Nông trên tạp chí Kiểm sát số 21/2005.
Ở Lào, các công trình nghiên cứu về tội giết người chưa nhiều, nổi bật
chỉ có luận văn thạc sĩ “Tội giết người trong BLHS Lào” của Khít Nạ Pha
Xay Sẻng Xúc và bài viết “So sánh tội giết người và tội xâm phạm thân thể
người khác” của Nang Kham My.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài “Tội giết người – So sánh giữa Bộ luật hình sự
Lào và Bộ luật hình sự Việt Nam” nhằm mục đích sau:
- Phân tích và làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa quy định
về tội giết người ở BLHS Lào và BLHS Việt Nam.
- Từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định về tội giết người theo
BLHS Lào dựa trên những kinh nghiệm của Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những quy định hiện hành về tội giết người của BLHS Việt
Nam;
- Nghiên cứu quy định hiện hành về tội giết người của BLHS Lào và so
sánh với Việt Nam, tìm ra điểm giống và khác nhau.
- Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định về tội giết người theo BLHS
Lào dựa trên kinh nghiệm của việt Nam.
4
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và so sánh luật . Tác
giả tập trung tìm hiểu tội giết người theo BLHS Việt Nam hiện hành, tội giết
người theo BLHS Lào, sau đó đưa ra những nét giống và khác nhau tương
ứng.
4.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo của đề tài là so sánh luật. Ngoài ra
trong luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa
học khác như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
chứng minh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp…
5. Đóng góp mới của luận văn.
Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống về tội giết người trong
BLHS Việt Nam với BLHS Lào, từ đó đưa ra những điểm tương đồng và
khác biệt giữa hai Bộ luật của hai quốc gia. Đây là luận văn đầu tiên ở cấp độ
luận văn thạc sĩ nghiên cứu về tội giết người dưới góc độ so sánh luật của
Việt Nam và Lào.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được kết cấu thành hai chương.
Chương 1: Tội giết người theo quy định của BLHS Việt Nam hiện hành.
Chương 2: Tội giết người theo quy định của BLHS Lào – So sánh với BLHS
Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1. TỘI GIẾT NGƯỜI THEO QUY ĐỊNH CỦA BLHS
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Trong BLHS Việt Nam năm 1985 và các văn bản pháp luật hình sự
trước năm 1999 thì tội giết người bao gồm tất cả các trường hợp giết người
được luật hình sự quy định. Vì vậy nghiên cứu tội giết người trong các văn
bản đó cũng đồng thời là nghiên cứu tội giết người trong nói chung. Tuy
nhiên, tội giết người được đề cập trong luận văn này chỉ là trường hợp giết
người được quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999. Những trường hợp giết
người khác như giết con mới đẻ (Điều 94 BLHS), giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 BLHS) và giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96 BLHS) chỉ được nghiên cứu ở từng khía
cạnh nhất định để so sánh với tội giết người tại Điều 93.
1.1. Định nghĩa tội giết người
BLHS Việt Nam không quy định định nghĩa tội giết người trực tiếp
trong Bộ luật. Tuy nhiên trong khoa học pháp lý hình sự cũng có nhiều cách
định nghĩa khác nhau.
Theo quan điểm của tác giả tại cuốn “Hệ thống hóa luật lệ về hình sự”
thì: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người
khác”. Theo các tác giả này, tội giết người được hiểu rất đơn giản, đó là hành
vi “tước đoạt tính mạng của người khác”. Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt
“tước đoạt tính mạng” là “tước và chiếm lấy sự sống của con người”. Như
vậy “tước đoạt” đã bao hàm cả sự cố ý nên việc quy định thêm cả cụm từ “cố
ý” là không cần thiết.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tội giết người là hành vi trái pháp luật
của người đủ năng lực TNHS cố ý tước bỏ quyền sống của người khác”. Theo
quan điểm này, hành vi giết người là hành vi “cố ý tước bỏ quyền sống của
người khác”, tương tư quan điểm trên, cụm từ tước bỏ cũng đã bao hàm sư cố
6
ý. Quan điểm này đã đề cập đến dấu hiệu năng lực TNHS và dấu hiệu tuổi.
Một quan điểm khác lại cho rằng: “Tội giết người là hành vi làm chết người
khác một cách cố ý và trái pháp luật”. Như vậy, cả ba quan điểm trên đều đã
nêu được bản chất của tội giết người, đó là hành vi cố ý và hậu quả của hành
vi phải là làm chết người khác. Tuy nhiên, xuất phát từ khái niệm tội phạm
theo Điều 8 BLHS 1999 Việt Nam “ tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một
cách cố hoặc vô ý, xâm phạm….”, có thể thấy các khái niệm về tội giết người
đưa ra trên chưa đầy đủ và chưa chính xác. Quan điểm thứ nhất và quan điểm
thứ ba chưa đề cập đến dấu hiệu năng lực TNHS và dấu hiệu tuổi.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa tội giết người như sau: Tội
giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp
luật, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực
hiện.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội giết người theo quy định của BLHS Việt
Nam
1.2.1. Khách thể của tội giết người
1. “ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại” [20, 78].
Tội giết người trực tiếp xâm phạm đế một khách thể rất quan trọng đó là
quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền sống của con người. Trong số các
quyền nhân thân, quyền sống của con người là một trong những quyền cơ
bản, tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất, được ghi nhận tại Điều 20 của
Hiến Pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2013) : “Công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự” [15, 22]
7
Thực tiễn ngày nay đã khẳng định vị trí, vai trò của con người trong
tiến trình phát triển lịch sử nhân loại. Con người được coi là chủ thể của mọi
sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải, vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của
các quốc gia. Khi quyền sống của con người bị xâm phạm thì mục tiêu, động
lực của sự nghiệp xây dựng xã hội sẽ bị triệt tiêu, sẽ không còn tồn tại.
Chính vì vậy mà mục tiêu bảo vệ quyền sống của con người luôn được
đặt lên hàng đầu đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời kỳ và mọi chế
độ. Từ ý nghĩa đặc biệt quan trọng của quyền sống con người mà tội giết
người được coi là tội nguy hiểm nhất trong các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh sự của con người được quy định tại Chương XII
BLHS 1999 và được đặt ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Tội giết người xâm phạm quyền sống của con người thông qua sự tác
động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động – con người
đang sống. Việc xác định đúng đối tượng tác động của tội giết người có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ nếu hành vi nào đó tác động vào đối tượng
không phải hay chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống
của con người nên không phạm tội giết người.
Khái niệm con người đang sống là đối tượng tác động của loại tội phạm
này bao gồm tất cả mọi người tồn tại với tư cách là một thực thể sống độc lập.
Vậy thế nào là con người đang sống?
Hiện nay trong BLHS cũng như các văn bản dưới luật khác chưa quy
định cụ thể về vấn đề này. Do đó trên thực tế, quan niệm về thời điểm bắt đầu
và kết thúc sự sống của con người còn nhiều vấn đề bàn cãi và tranh luận.
Quan niệm về thời điểm bắt đầu sự sống của con người
Do cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về thời điểm sinh ra đứa trẻ nên
có nhiều quan điểm xung quanh về vấn đề này như sau:
8
“Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cuộc sống của một con người được bắt
đầu khi người mẹ đang đẻ, vào thời điểm một phần cơ thể của thai nhi được
nhìn thấy từ bên ngoài cửa mình của người mẹ. Theo quan điểm này thì thời
điểm bắt đầu sự sống của con người là thời điểm bắt đầu quá trình sinh đứa
trẻ.
Quan điểm thứ hai cho rằng: chỉ được coi là con người khi thai nhi đã
hoàn toàn được sinh ra khỏi cơ thể người mẹ và tồn tại độc lập bên ngoài thế
giới khách quan. Theo quan điểm này thì thời điểm bắt đầu sự sống của con
người lại là thời điểm kết thúc quá trình sinh.
Trong hai quan điểm trên người viết đồng tình với quan điểm thứ nhất,
bởi vì kể từ thời điểm bắt đầu sinh ra, đứa trẻ đã tách khỏi bào thai của cơ thể
mẹ. Lúc này, đứa trẻ chỉ còn dính với cơ thể người mẹ qua nhau thai. Tất cả
mạch máu, dây chằng, đường dẫn khí và dinh dưỡng từ mẹ vào con đều đã bị
“cắt đứt”. Do đó có thể coi thời điểm này là thời điểm đứa trẻ đã “tách khỏi
cơ thể người mẹ”, chuẩn bị “chui” ra ngoài để trở thành một thực thể tự nhiên
độc lập. Như vậy có thể cho rằng thời điểm bắt đầu sự sống của con người là
từ thời điểm người mẹ bắt đầu sinh đứa trẻ. Quan điểm thứ hai cho rằng chỉ
được coi là con người khi thai nhi đã hoàn toàn được sinh ra khỏi cơ thể
người mẹ, khi đó quyền sống của con người mới được bảo vệ thì sẽ là quá
muộn. Thực tế có trường hợp đứa trẻ đang được sinh ra thì đã bị người khác
cố ý tước đoạt tính mạng. Vụ án sau đây là một ví dụ: y tá Nguyễn Thị H phải
đỡ đẻ cho một sản phụ khó sinh, H nhận ra sản phụ này chính là người đã
“cướp” chồng mình. Để trả thù, H đã dùng dụng cụ y tế cố kẹp mạnh vào đầu
đứa trẻ làm đứa trẻ chết…Nếu theo quan điểm thứ nhất “ cuộc sống của con
người được bắt đầu khi người mẹ đang đẻ, vào thời điểm một phần cơ thể của
thai nhi được nhìn thấy từ bên ngoài cửa mình của người mẹ thì H đã phạm
tội giết người, nhưng nếu theo quan điểm thứ hai cho rằng: chỉ được coi là
9
con người khi thai nhi đã hoàn toàn được sinh ra khỏi cơ thể mẹ và tồn tại đôc
lập trong thế giới khách quan” thì H lại không phạm tội giết người” [3, 16].
Xét về tính chất nguy hiểm của hành vi thì việc cho rằng hành vi của H không
phạm tội là không thỏa đáng vì rõ ràng H đã cố ý tước đoạt quyền sống của
đứa trẻ.
Con người đang sống là đối tượng tác động của tội giết người, quyền
sống của con người là khách thể của tội giết người nói chung. Tuy nhiên hành
vi xâm phạm quyền sống của con người mới được sinh ra trong vòng 7 ngày
tuổi trở lại khi chủ thể của tội phạm là người mẹ và thỏa mãn một số dấu hiệu
do luật định lại cấu thành tội phạm khác – Tội giết con mới đẻ được quy định
tại Điều 94 BLHS Việt Nam năm 1999.
Quan điểm về thời điểm kết thúc sự sống của con người.
Về thời điểm kết thúc sự sống của con người, đa số quan điểm cho rằng:
đó là khi con người đã chết sinh vật, bởi vì đây là giai đoạn cuối cùng của sự
chết. Ở giai đoạn này, sự sống của con người không có khả năng hồi phục
[25, 11]
Còn theo cuốn giáo trình Giám định pháp y của Trường đại học Y Hà
Nội, thì một người bị coi là đã chết sinh vật khi:
(1)
“ Hệ thần kinh bị mất hết tri giác, cảm giác và các phản xạ;
(2)
Lồng ngực không di động, đặt bông vào hai lỗ mũi không thấy
bông di động, để gương trước mũi không thấy gương mờ và nghe
phổi không thấy rì rào phế nang;
(3)
Đặt tay lên ngực trái không thấy tim đập, bắt mạch không thấy
mạch nẩy và nghe tim không thấy tiếng tim;
(4) Ghi điện tâm đồ: trên băng giấy sóng điện tim cho một đường
thẳng;
10
(5) Kiểm tra điện não đồ: trên băng giấy hoàn toàn mất dao động, chỉ
còn một đường thẳng “[23, 11]
Như vậy kể từ thời điểm sự sống của con người kết thúc thì hành vi
xâm phạm không bị coi là phạm tội giết người. Đối tượng tác động của tội
giết người chỉ bao gồm là con người đang sống. Tuy nhiên, trong trường hợp
người đó đã chết nhưng người thực hiện hành vi tấn công tin rằng người đó
vẫn sống thì vẫn bị truy cứu TNHS về tội giết người nếu các yếu tố khác của
cấu thành tội phạm thỏa mãn (trường hợp chưa đạt vô hiệu). Ví dụ: A và B có
mâu thuẫn từ trước, để trả thù B, A đã lên kế hoạch lẻn vào nhà B vào buổi
đêm và sẽ bất ngờ dùng dao đâm chết B trong khi B đang ngủ. Đêm hôm ấy,
A đã thực hiện trót lọt kế hoạch của mình. Nhưng cơ quan giám định lại kết
luận rằng, B bị cảm và tử vong trước khi A có hành vi phạm tội. Tuy nhiên ý
thức chủ quan của A vẫn cho rằng B đang còn sống, lỗi của A trong trường
hợp này là lỗi cố ý trực tiếp với mục đích là phải giết bằng được B. Do đó, A
vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người ở giai đoạn phạm tội
chưa đạt.
Như vậy để thống nhất trong nhận thức và áp dụng các cơ quan có thẩm
quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này theo hướng: thời
điểm bắt đầu sự sống của con người là thời điểm bắt đầu quá trình sinh đứa
trẻ, khi một phần cơ thể của thai nhi đã được nhìn thấy từ bên ngoài cửa mình
của người mẹ; thời điểm kết thúc sự sống của con người là thời điểm chết
sinh vật – khi hoạt động của bộ não đã hoàn toàn chấm dứt [3, 25].
1.2.2. Mặt khách quan của tội giết người
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm, bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả (QHNQ) giữa hành vi và hậu quả . Bất cứ tội
phạm cụ thể nào cũng đều phải có những biểu hiện bên ngoài, không có
11
những biểu hiện bên ngoài thì không có những yếu tố khác của tội phạm và
do vậy cũng không có tội phạm [20, 72]. Dấu hiệu hành vi khách quan là dấu
hiệu cơ bản, là nguyên nhân gây thiệt hại cho quyền sống của con người.
Hành vi khách quan của tội giết người
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước bỏ tính mạng của
người khác trái pháp luật. Hành vi tước bỏ tính mạng (quyền sống) của con
người được hiểu là hành vi đó có khả năng gây ra cái chết cho con người,
chấm dứt sự sống của họ. Những hành vi không có khả năng này không được
coi là hành vi khách quan của tội giết người. Ví dụ: X (12 tuổi) bằng lời nói
đã xúc phạm ông nội mình khiến ông A ức uất bỏ ăn, bỏ uống và ốm chết.
Hành vi xúc phạm nghiêm trọng ông A của X không thể tước bỏ tính mạng
của ông A được nên X không phạm tội giết người.
Hành vi khách quan của tội giết người được thực hiện dưới hình thức
hành động hoặc không hành động. Dạng hành vi giết người bằng hành động
có thể là một hành động diễn ra trong một thời gian ngắn như: dùng dao để
đâm, dùng súng để bắn…nhưng cũng có thể bằng nhiều động tác khác nhau
như vừa đấm vừa đá, vừa bóp cổ nạn nhân cho đến chết,…hoặc thể hiện dưới
dạng không hành động. Đó là trường hợp người phạm tội có nghĩa vụ phải
thực hiện một công việc nhất định và có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ đó
của mình. Ví dụ: Người mẹ không cho đứa con bú làm đứa trẻ chết.
“Hành vi khách quan của tội giết người phải thỏa mãn ba dấu hiệu:
(1) Hành vi này phải có tính nguy hiểm cho xã hội (khi hành vi đó gây ra hoặc
đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ;
(2) Hành vi này phải là hoạt động có ý thức và có ý chí (khi sự biểu hiện ra
bên ngoài thế giới khách quan là kết quả hoạt động ý chí của chính họ
chứ không do sự tác động trực tiếp của sức mạnh bên ngoài);
12
(3) Hành vi khách quan này phải là hành vi trái pháp luật hình sự (là hành
vi thỏa mãn đầy đủ những dấu hiêu của hành vi khách quan của tội giết
người được quy định trong BLHS)”
Những hành vi tuy có khả năng gây ra cái chết cho người khác nhưng
không trái pháp luật như hành vi phòng vệ chính đáng, thi hành án tử
hình,…thì đều không phải là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi
khách quan của tội giết người phải được biểu hiện ra ngoài thế giới khách
quan dưới những hình thức cụ thể, có sự kiểm soát của ý thức và sự điều
khiển của ý chí. Những biểu hiện không được ý thức kiểm soát hoặc tuy được
ý thức kiểm soát nhưng không được ý chí điều khiển thì không phải là hành vi
khách quan của tội phạm. Ví dụ như phản xạ không điều kiện; “biểu hiện”
trong tình trạng bộ não mất khả năng kiểm tra, điều khiển mặt thực tế của
“biểu hiện” do rối loạn ý thức…là những biểu hiện thuộc loại này.
Về phạm vi tính trái pháp luật của hành vi gây ra cái chết cho người
khác, hiện nay trên thế giới còn có nhiều quan điểm khác nhau. Theo pháp
luật hình sự Việt Nam, người có hành vi gây ra cái chết cho người mắc bệnh
hiểm nghèo trong mọi trường hợp vẫn bị coi là trái pháp luật hình sự. Cụ thể
là:
- Nếu hành vi của người phạm tội có tính chất quyết định đối với cái
chết của nạn nhân thì định tội danh là tội giết người. Ví dụ: Chị A là một bệnh
nhân bị ung thư giai đoạn cuối. Nghĩ cảnh gia đình mình khó khăn lại thương
chồng con suốt ngày phải lo vay mượn tiền chữa bệnh nên chị đã đề nghị với
bác sỹ N (người trực tiếp theo dõi bệnh tình của chị A) tiêm thuốc độc vào cơ
thể của chị để chấm dứt sự đau đớn của bản thân và sự vất vả của chồng con.
Nghe thấy cảm động, bác sỹ N đã tiêm thuốc cho chị A. Hậu quả là chị A đã
chết. Ở đây, việc tiêm thuốc độc vào cơ thể của chị A là hành vi trực tiếp và
13
cũng là quyết định dẫn đến cái chết của chị A. Do đó trong tình huống này
bác sỹ N phạm tội giết người.
- Nếu hành vi của người phạm tội chỉ là tạo điều kiện về mặt vật chất
hoặc tinh thần cho người mắc bệnh hiểm nghèo tự tước đoạt tính mạng của họ
thi phạm tội giúp người khác tự sát. Ví dụ: Cũng là nội dung ví dụ trên, nhưng
bác sỹ N không tiêm thuốc độc trực tiếp vào cơ thể của chị A mà lại đưa
thuốc độc cho chị uống. Hậu quả là sau khi uống chị A đã chết. Trong trường
hợp này, quyền quyết định uống thuốc hay không uống là thuộc về nạn nhân,
bác sỹ N chỉ là người tạo điều kiện về mặt vật chất là đưa thuốc cho chị A mà
thôi. Do đó bác sỹ N chỉ phạm tội giúp người khác tự sát.
Như vậy nếu như pháp luật một số nước như Bỉ, Hà Lan cho rằng người
có hành vi (cố ý) gây ra cái chết cho người mắc bệnh hiểm nghèo trong một
số trường hợp không phạm tội giết người thì pháp luật Việt Nam lại quy định
mọi trường hợp vẫn bị coi là trái pháp luật, vẫn (có thể) phạm tội giết người.
Hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính mình không thuộc hành vi
khách quan của tội giết người. Những hành vi gây ra cái chết cho người khác
được pháp luật cho phép cũng không phải là hành vi khách quan của tội giết
người. Ví dụ: Hành vi tước đoạt tính mạng người khác trong trường hợp
phòng vệ chính đáng (Điều 15 BLHS) hay trong trường hợp thi hành bản án
tử hình.
Hậu quả của tội giết người
Tính nguy hiểm của tội phạm là ở chỗ, tội phạm gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Sự gây thiệt hại
này là một nội dung biểu hiện của mặt khách quan của tội phạm, chính là hậu
quả của tội phạm. Hậu quả trong cấu thành tội giết người là sự thiệt hại về
tính mạng do hành vi phạm tội gây ra. Vì giết người là tội phạm có cấu thành
vật chất nên thời điểm hoàn thành của tội phạm là thời điểm nạn nhân chết
sinh vật – giai đoạn cuối cùng của sự chết mà ở đó sự sống của con người
14
không có khả năng hồi phục [3, 29]. Nếu hậu quả chết người đã xảy ra thì tội
phạm được coi là đã hoàn thành.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội giết người
Quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội không phải là biểu hiện độc lập so với biểu hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nó là mối quan hệ khách
quan luôn luôn tồn tại giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội mà hành vi đó gây ra. Trong việc áp dụng luật hình sự, để
buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
cơ quan áp dụng pháp luật phải chứng minh hậu quả nguy hiểm cho xã hội đó
là do hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể gây ra. Để chứng minh điều
này, cơ quan áp dụng pháp luật phải xác định sự tồn tại mối quan hệ nhân quả
[4, 73]. Chính vì vậy, việc định tội theo cấu thành tội giết người không chỉ đòi
hỏi phải xác định hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà còn đòi hỏi phải xác định
cả mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của tội giết người và hậu
quả nguy hiểm cho xã hội. Một người chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy
hiểm cho xã hội (hậu quả chết người) nếu hậu quả nguy hiểm đó do chính
hành vi khách quan của họ gây ra. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả có thể thấy mối quan
hệ nhân quả của hành vi khách quan của tội giết người và hậu quả của tội giết
người thể hiện như sau:
Thứ nhất, hành vi khách quan của tội giết người xảy ra trước hậu quả về
mặt thời gian. Ví dụ sau khi bị bắn, nạn nhân chết. Tuy nhiên không phải bất
cứ hành vi nào xảy ra trước hâu quả chết người đều là nguyên nhân mà chỉ
những hành vi có mối quan hệ nội tại, tất yếu với hậu quả thì mới là nguyên
nhân. Mối quan hệ nội tại tất yếu đó thể hiện ở chỗ: khi cái chết của nạn nhân
có sơ sở ngay cả trong hành vi người phạm tội; hành vi của người phạm tội đã
15
mang trong đó mầm mống sinh ra hậu quả chết người; hành vi của người
phạm tội trong những điều kiện nhất định phải dẫn đến hậu quả chết người
chứ không thể khác được. Ví dụ một người dùng súng có đạn bắn vào đầu
người khác, tất yếu sẽ dẫn đến cái chết của người này [13, 24].
Thứ hai, hành vi khách quan của tội giết người độc lập hoặc trong mối
liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng
thực tế làm phát sinh hậu quả chết người. “Khả năng này chính là khả năng
thực tế làm phát sinh hậu quả chết người, hay nói cách khác là làm biến đổi
tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm - con người đang
sống” [3, 30]. Ví dụ, khả năng gây chết người của hành động dùng súng bắn
vào đầu nạn nhân hay của không hành động không cho trẻ ăn, uống…
Thứ ba, hậu quả chết người đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan của tội giết người
hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng
tác động – con người đang sống. Căn cứ này phải được đặt ra và đòi hỏi phải
được kiểm tra vì trong thực tế không phải hành vi nào, dù chứa đựng khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người cũng đều gây ra hậu quả đó và
trong nhiều trường hợp hậu quả chết người đó xảy ra lại là kết quả của hành
vi trái pháp luật khác. Ví dụ, A đâm vào vùng ngực của B. Trên đường đưa đi
bệnh viên, B bị ô tô do C lái cán tiếp vào làm giập sọ não và B đã chết ngay.
Giám định pháp y khẳng định: Việc B chết không phụ thuộc vào vết thương
do A đã gây ra; vết thương do A gây ra tuy nguy hiểm đến tính mạng nhưng
vẫn có thể cứu chữa được. Trong trường hợp này hành vi của A có khả năng
thực tế làmphát sinh hậu quả chết người nhưng khả năng này chưa phát huy
thì hành vi trái pháp luật của C đã xen vào phá vỡ khả năng đó và tạo ra một
mối quan hệ mới [4, 75].
16
Như vậy, quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của tội giết người
và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội giết người tồn tại dưới hai dạng:
quan hệ nhân quả trực tiếp và quan hệ nhân quả kép trực tiếp. “Quan hệ nhân
quả trực tiếp là dạng quan hệ nhân quả trong đó chỉ có một hành vi khách
quan của tội giết người đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả chết người.
Quan hệ nhân quả kép trực tiếp là dạng quan hệ nhân quả trong đó có nhiều
hành vi khách quan của tội giết người đóng vai trò là nguyên nhân gây ra hậu
quả chết người. Trong dạng quan hệ nhân quả này, có thể mỗi hành vi khách
quan của tội giết người đều có khả năng trực tiếp làm phát sinh hậu quả,
nhưng cũng có thể mỗi hành vi đều chưa có khả năng này. Khả năng này chỉ
hình thành khi các hành vi đó kết hơp với nhau” [3, 30].
Việc xác định mối quan hệ nhân quả của hành vi khách quan của tội giết
người và hậu quả chết người là rất quan trọng. Xác định đúng nguyên nhân
dẫn đến hậu quả chết người không những giúp cơ quan tiến hành tố tụng làm
sáng tỏ vấn đề có hành vi giết người xảy ra hay không mà còn có thể kết luận
ai là người đã thực hiện hành vi đó. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm giết người trong những năm gần đây cho thấy, không ít trường hợp, do
xác định không đúng mối quan hệ nhân quả nên đã xử oan hoặc bỏ lọt tội
phạm. Ngoài ra việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người còn
có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh và phân biệt tội giết người với
các tội phạm khác cùng dấu hiệu hậu quả chết người.
1.2.3. Chủ thể của tội giết người
Chủ thể của tội phạm là chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội được
quy định trong luật hình sự. Theo pháp luật hình sự thì chủ thể của tội phạm
nói chung và chủ thể của tội giết người nói riêng là con người có thỏa mãn hai
điều kiện: có năng lực trách nhiệm hình sự (NLTNHS) và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
17
NLTNHS là năng lực chủ quan của chủ thể, là năng lực nhận thức được
đòi hỏi của xã hội và năng lực điều khiển được xử sự của mình phù hợp với
đòi hỏi đó. NLTNHS không phải là năng lực bẩm sinh mà nó là năng lực của
tự ý thức được hình thành trong quá trình phát triển của cá thể về mặt tự nhiên
và xã hội. BLHS Việt Nam không quy định trong luật thế nào là người có
năng lực TNHS mà chỉ gián tiếp quy định các trường hợp không có năng lực
TNHS tại Điều 13 BLHS 1999, đó là trường hợp người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Như vậy có hai dấu
hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS – dấu hiệu y học (mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động thần kinh) và dấu hiệu
tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển). Chỉ khi thỏa mãn
cả hai dấu hiệu này thì người phạm tội mới được xem là không có năng lực
TNHS. Vì vậy trong thực tế có những trường hợp người phạm tội giết người
mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi (hoặc có thể bị hạn chế) vẫn
phải chịu TNHS. Người say rượu mặc dù lúc say rượu họ thực hiện hành vi
phạm tội b rường hợp bình thường, chỉ từ 3
đến 5 năm tù.
2.4. Hình phạt bổ sung
Một điều rất đặc biệt ở BLHS Lào, đó là việc quy định luôn mức hình
phạt tiền là hình phạt bổ sung tương ứng với từng trường hợp phạm tội. Hình
phạt tiền là hình phạt về mặt tài chính, do Tòa án áp dụng cho phạm nhân theo
mức độ của hành vi phạm pháp của phạm nhân và trong phạm vi luật quy
định. Số tiền phạt phải phù hợp với sự xâm hại của hành vi phạm pháp và căn
cứ vào tình hình kinh tế của người phạm pháp.
Đối với tội giết người thì luật, Điều 88 đã quy định hình phạt tiền được
đưa ra với các mức khác nhau tương ứng với từng trường hợp phạm tội.
56
Đối với các trường hợp giết người thông thường người phạm tội sẽ bị
phạt tiền từ 1.000.000 Kip đến 5.000.000 Kip.
Đối với các trường hợp giết người trong cấu thành tăng nặng, người
phạm tội sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 Kip đến 10.000.000 Kip.
Đối với trường hợp giết người trong cấu thành giảm nhẹ, người phạm
tội sẽ bị phạt tiền từ 500.000 Kip đến 2.000.000 Kip.
Theo BLHS Lào, hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước quy
định trong luật để áp dụng cho người phạm tội, do Tòa án quyết định. Cũng
giống như luật hình sự Việt Nam, mục đích chính của hình phạt theo BLHS
Lào cũng là để cải tạo hoặc giáo dục người phạm tội để họ có ý thức tốt, có
hành động tích cực đối với xã hội và những người xung quanh. Hình phạt còn
có mục đích trừng trị, răn đe người phạm tội nhưng không có mục đích làm
khổ, giẫm đạp danh dự của cá nhân (ngoài tội tử hình, bởi tội tử hình là một
loại tội đặc biệt đạt cho người vi phạm trong trường hợp phạm tội cấp nặng)
Hình phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng phổ biến ở rất nhiều
tội phạm trong BLHS Lào. Cùng với hình phạt chính khác, hình phạt tiền tăng
cường hiệu quả của hình phạt đối với người phạm tội. Hình phạt tiền đánh
vào tài chính của cá nhân, vì vậy nó tác động đến tâm lý, thái độ của người
phạm tội. Từ đó có tác dụng răn đe, trừng trị và giáo dục người phạm tội. Như
vậy việc quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung của tội giết người là cần
thiết.
BLHS Lào chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung của tội giết
người. Điều này rất khác biệt so với Việt Nam. Điều 93 BLHS Việt Nam quy
định hình phạt bổ sung tại khoản 3, các hình phạt bổ sung gồm: cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ một năm
đến năm năm; phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
57
BLHS Việt Nam không quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung của tội
giết người. Hình phạt tiền trong BLHS Việt Nam có thể là hình phạt chính
hoặc hình phạt bổ sung, chủ yếu ở các nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế, tội phạm môi trường; tội phạm xâm phạm trật tự an toàn, công cộng;
tội phạm ma túy; các tội phạm chức vụ…Như vậy, quy định hình phạt bổ
sung của tội giết người của BLHS Lào và BLHS Việt Nam hoàn toàn khác
nhau.
2.5. Trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
BLHS Lào quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt của tội giết người phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo Điều 13 BLHS Lào, chuẩn bị phạm tội là việc chuẩn bị các điều
kiện, hoàn cảnh hoặc các yếu tố khác để thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi
chuẩn bị phạm tội chỉ bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị trừng phạt
nếu được quy định tại các tội cụ thể của Bộ luật hình sự.
Theo Điều 14 BLHS Lào, phạm tội chưa đạt là việc đã thực hiện hành
vi phạm tội nhưng tội phạm không hoàn thành vì những hoàn cảnh bên ngoài
sự kiểm soát của người phạm tội.
Giết người là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm đến khách
thể vô cùng quan trọng của luật hình sự, vì vậy hành vi chuẩn bị phạm tội hay
phạm tội chưa đạt đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 42 BLHS
Lào, việc quyết định hình phạt cho người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt phải xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức
độ thực hiện ý định của người phạm tội và nguyên nhân của hành vi phạm tội
dẫn đến việc tội phạm không hoàn thành. Tòa án áp dụng hình phạt nhẹ hơn
quy định của điều luật về tội phạm ấy trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt.