LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nợ xấu là một trong những nhân tố tác động xấu đến thị trường tài chính và ảnh hưởng
không nhỏ đến sức khỏe nền kinh tế. Trong những năm vừa qua do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng 2008 kéo theo sự suy giảm kinh tế toàn cầu, bong bóng bất động sản tan vỡ, hàng loạt doanh
nghiệp phá sản làm cho nợ xấu của Việt Nam gia tăng nhanh chóng và thực sự trở thành một thách
thức lớn của nền kinh tế.
Ngoài việc phải đối mặt với tính thanh khoản kém, huy động vốn khó khăn, sự cạnh tranh
quyết liệt giữa các ngân hàng trong nước và ngoài nước các ngân hàng còn phải đối mặt với sức ép
tăng trưởng tín dụng. Yếu tố này tác động không nhỏ làm nợ xấu không ngừng gia tăng và kết quả là
làm suy giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Bên cạnh đó, công tác xử lý nợ xấu hiện nay vẫn chưa đạt được hiệu quả cao. Do đó, đây là
vấn đề được Chính phủ và các ngân hàng đặc biệt quan tâm. Thêm vào đó, kinh nghiệm của các
quốc gia đi trước sẽ là nguồn tham khảo vô cùng quý giá cho Việt Nam học tập và áp dụng. Nhằm
đánh giá tổng quát thực trạng, các phương pháp xử lý nợ xấu trong NHTMCP cũng như tìm ra các
nhân tố tác động mạnh đến nợ xấu, nhóm nghiên cứu chọn đề tài: “ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÓ TRỤ
SỞ CHÍNH Ở ”. Nhóm mong rằng với nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu của nhóm có thể đóng góp thêm
một số kiến nghị để hoàn thiện công tác xử lý nợ xấu cho các ngân hàng.
2. Câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu nhằm mục đích giải đáp các câu hỏi:
-
Việt Nam có thể học hỏi những kinh nghiệm xử lý nợ xấu nào từ các nước trên thế giới?
- Thực trạng nợ xấu tại các NHTMCP có trụ sở chính tại như thế nào?
- Công tác xử lý nợ xấu hiện nay còn hạn chế nào cần khắc phục?
- Nhân tố nào tác động mạnh đến nợ xấu?
- Những đề xuất nào cho công tác xử lý nợ xấu hoàn thiện và hiệu quả hơn?
3. Phương pháp nghiên cứu.
ii
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê mô tả dựa trên số liệu thu thập từ Internet, báo cáo tài chính, báo cáo
thường niên của các NHTMCP trụ sở chính tại .
- Phương pháp định lượng với số liệu thứ cấp, từ mô hình này tìm ra các nhân tố tác động mạnh
đến tình hình nợ xấu hiện nay
4. Mục tiêu nghiên cứu.
Bài nghiên cứu đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới, học
hỏi từ những thành quả mà họ đạt được. Sau đó, tiếp tục phân tích thực trạng nợ xấu hiện nay cũng
như những phương pháp xử lý đang được các ngân hàng áp dụng để tìm ra các mặt còn hạn chế. Tiếp
theo, dựa vào phân tích định lượng các nhân tố được tiến hành nhằm tìm ra các nhân tố nào có tác
động mạnh. Từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần tăng cường công tác xử lý nợ xấu cho hệ thống
NHTM Việt Nam.
5. Kết cấu.
Chương 1: Cơ sở lý luận về NHTM và nợ xấu.
Trong chương này khái quát về khái niệm của NHTM và nợ xấu, nên bật các đặc trưng cũng
như ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động của các ngân hàng. Các bài học kinh nghiệm xử lý nợ xấu
của một số nước như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc được tìm hiểu rõ với mục đích tìm ra những kinh
nghiệm quý báu áp dụng cho Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng nợ xấu và công tác xử lý nợ xấu của các NHTM trên địa bàn Tp.HCM.
Chương 2 đi vào phân tích tình hình thực trạng nợ xấu của các NHTMCP có trụ sở chính tại
cũng như các phương pháp xử lý nợ xấu đang được áp dụng hiện nay. Qua đó đưa ra những tồn tại,
hạn chế cần phải hoàn thiện hơn trong công tác xử lý nợ xấu.
Chương 3: Phân tích các nhân tố tác động đến nợ xấu của các NHTM có trụ sở chính tại
Tp.HCM
Sử dụng mô hình kiểm định một số nhân tố tác động đến nợ xấu theo nghiên cứu của Xiaofen
Chen, xác định các nhân tố nào thực sự tác động đến nợ xấu của các NHTMCP tại Tp.HCM và tính
mạnh yếu của các tác động đó.
Chương 4: Một số kiến nghị đối với công tác xửiiilý nợ xấu
Dựa trên kinh nghiệm các nước trên thế giới, thực trạng nợ xấu cũng như công tác xử lý hiện
nay và qua mô hình tìm ra ảnh hưởng của các nhân tố nhóm nghiên cứu đưa ra một số đề xuất biện
pháp quản lý vả xử lý nợ xấu cho các NHTMCP.
6. Ý nghĩa của đề tài.
Đề tài đạt được mục tiêu tìm hiểu thực trạng nợ xấu và công tác xử lý nợ xấu tại các
NHTMCP có trụ sở chính tại TPCHM hiện nay, đánh giá những tồn tại cần phải khắc phục. Và đề tài
cũng đã rút ra được một số bài học xử lý nợ cho Việt Nam từ các nước trên thế giới. Qua đó đề xuất
một số phương pháp quản lý và xử lý nợ xấu cho Chính phủ, NHNN và các NHTMCP Việt Nam.
1
2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NỢ XẤU
1.1.
SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1.
Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự
phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn
và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại nền kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó - kinh tế thị trường - sẽ làm cho
hệ thống NHTM càng hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được.
1.1.1.1.
Định nghĩa của các nước trên thế giới.
Ở Mỹ, NHTM được định nghĩa là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Theo Đạo luật ngân hàng Pháp (1941): NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà
nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc
dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về
chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Ở Ản Độ, NHTM là nơi nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
1.1.1.2.
Định nghĩa của Việt Nam
Ở Việt Nam, Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990: NHTM là một tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng
với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán.
Theo điều 20 Luật các TCTD (luật số 02/1997/QH 10), NHTM được định nghĩa là
loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan
đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm... cho vay và cung cấp
các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
3
Nghị định của Chính phủ số 49/2001NĐ-CP ngày 12/09/2000 định nghĩa: “NHTM là
ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước".
Theo Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009: NHTM là ngân hàng được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục
tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật.
Như vậy, NHTM là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong
nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động,
tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.
1.1.2.
Đặc điểm của NHTM
NHTM là một dạng định chế tài chính trung gian và là một dạng ngân hàng. NHTM
giao dịch với các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế lớn về tín dụng và các khoản vay. NHTM
là một tổ chức với những đặc điểm sau:
- NHTM là một định chế tài chính trung gian đặc biệt, quan trọng trong nền kinh tế thị
trường.
- Chấp nhận tiền gửi, cho vay vốn kinh doanh, và cung cấp dịch vụ liên quan. NHTM
tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
- Tài khoản tiền gửi đa dạng như: tài khoản séc, tiết kiệm, và tài khoản tiền gửi có kỳ
hạn.
- Kinh doanh để tạo ra lợi nhuận bằng cách thu phí của khách hàng sử dụng dịch vụ của
ngân hàng, cũng như vay vốn của họ để tạo lợi nhuận.
- Chúng được quản lý bởi Chính phủ và phải tuân theo pháp luật có liên quan. Các
NHTM thường chịu trách nhiệm về các quyết định lớn.
- NHTM cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cá nhân, doanh nghiệp.
Có thể nói hệ thống NHTM đóng vai trò trung tâm trong nền kinh tế quốc gia.
4
1.1.3.
-
Vai trò của hệ thống NHTM
Là trung gian thanh toán.
•
NHTM là trung gian thanh toán giữa các khách hàng với nhau, là cầu nối giữa
những chủ thể thừa vốn và thiếu vốn thông qua nghiệp vụ cấp tín dụng, trung gian
giữa người trả tiền và người nhận tiền thông qua nghiệp vụ thanh toán...
•
NHTM giúp cho NHTW thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền của mình thông qua
kênh tín dụng cho nền kinh tế vì NHTW chỉ giao dịch với NHTM và các TCTD,
không giao dịch với công chúng.
-
Tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế với các sản phẩm như: sản phẩm
huy động vốn, sản phẩm tín dụng cho doanh nghiệp, các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ.
và các dịch vụ: dịch vụ chuyển tiền, thanh toán quốc tế. Đây là những sản phẩm và dịch
vụ không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại. Qua các sản phẩm này NHTM đóng vai
trò trung gian thanh toán, thực hiện các giao dịch thanh toán cho khách hàng. Các chủ
thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại
qua ngân hàng cho dù các đối tác giao dịch ở bất cứ quốc gia nào. Do vậy, các chủ thể
kinh tế sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian, và đảm bảo an toàn khi giao dịch. Chức năng
này đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, lưu chuyển vốn, từ đó
góp phần phát triển kinh tế.
-
Tạo tiền cho nền kinh tế, sáng tạo ra bút tệ làm gia tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế bằng
số nhân tiền tệ. Đây là vai trò quan trọng của NHTM. Thông qua chức năng trung gian
tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao
dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ. Với chức năng này, hệ
thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu
cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.4.
Các nghiệp vụ của NHTM
1.1.4.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là nghiệp vụ rất quan trọng của NHTM tạo nguồn vốn cho NHTM thực hiện câc
5
hoạt động kinh doanh như cung cấp tín dụng và các dịch vụ khác. Trong nhóm nghiệp vụ
này có các nghiệp vụ như:
-
Nghiệp vụ huy động tiền gửi:
Là hình thức huy động vốn cổ điển và mang đặc thù riêng có của NHTM. Với nghiệp
vụ này NHTM có các sản phẩm như: huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán, huy
động vốn qua tài khoản tiền gửi cá nhân, qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có
kỳ hạn, tiết kiệm tiện ích,...
-
Nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành giấy
tờ có giá:
Bằng cách huy động vốn ngắn hạn thông qua
phát
hành kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi; huy động vốn dải hạn bằng phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
1.1.4.2. Nghiệp vụ tín dụng doanh nghiệp
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ NHTM chuyển nhượng quyền sử dụng vốn sang cho
khách hàng trong thời hạn nhất định với chi phí xác định trước. Trong nhóm này có các
nghiệp vụ:
-
Nghiệp vụ cho vay khách hàng doanh nghiệp:
Cung cấp các nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trên cơ sở phân tích tín dụng, đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp.
-
Nghiệp vụ cho thuê tài sản (cho thuê hoạt động, cho thuê tài chính):
Được thực hiện thông qua công tác tư vấn cho khách hàng về các lợi ích của
thuê tài sản; tư vấn cho khách hàng, phân tích ngân lưu khi quyết định thuê hay mua tài sản.
-
Nghiệp vụ bao thanh toán:
NHTM sẽ tài trợ cho những khoản thanh toán chưa đến hạn phát sinh từ các hoạt động sản
xuất kinh doanh, cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Nhờ sự chuyên môn hóa
6
nên việc thu hồi nợ của NHTM sẽ đạt hiệu suất cao và giảm chi phí. Gồm có bao thanh toán
trong nước và bao thanh toán xuất-nhập khẩu.
-
Nghiệp vụ chiết khấu chứng từ có giá (thương phiếu, trái phiếu, tín phiếu
kho bạc Nhà nước):
Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách nhận chứng từ có giá và trao
cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà
ngân hàng được hưởng.
-
Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu-xuất khẩu:
Ngân hàng hỗ trợ về tài chính cùng với thủ tục liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu,
xuất khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Giá trị
khoản tài trợ thường vừa và lớn.
-
Nghiệp vụ thấu chi:
Là một hình thức cấp tín dụng khác bên cạnh cho vay. NHTM thỏa thuận cho khách
hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản. Số tiền này sẽ do ngân hàng bù đắp hay ứng trước
cho khách hàng.
-
Nghiệp vụ cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Ngân hàng sẽ cho khách hàng vay thêm trong một hạn mức tín dụng nhất định ngoài
hạn mức tín dụng đã ký ban đầu. Áp dụng trong trường hợp khách hàng muốn đảm bảo đầy
đủ số vốn đầu tư cho dự án do mức vốn đầu tư cho dự án có khả năng tăng lên hoặc do nhu
cầu tài chính trong tương lai khách hàng không dự kiến chính xác được.
-
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng:
NHTM cam kết bằng văn bản với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện
hay thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
1.1.4.3.
Nghiệp vụ đầu tư và kinh doanh chứng khoán
7
-
Nghiệp vụ đầu tư vào các doanh nghiệp:
NHTM dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ góp vốn và mua cổ phần của các doanh nghiệp
và các TCTD trong nước, cũng có thể mua cổ phần, liên doanh với NHNNg để thành lập
ngân hàng liên doanh.
-
Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
NHTM mua và bán các loại tài sản tài chính trên thị trường tài chính nhằm mục tiêu
sinh lời, đây là hoạt động đầu tư gián tiếp, ngân hàng không trực tiếp tham gia vào hoạt động
quản lý, điều hành doanh nghiệp. NHTM sẽ tiến hành đầu tư vảo chứng khoán phi rủi ro hay
tín phiếu kho bạc, chứng khoán có thu nhập cố định hay trái phiếu, chứng khoán có thu nhập
không cố định hay cổ phiếu.
-
Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán:
Ngân hàng gián tiếp kinh doanh chứng khoán bằng cách lập công ty chứng khoán
hạch toán độc lập như công ty con của ngân hàng để tránh rủi ro cho người gửi tiền, tránh
ngân hàng mất khả năng chi trả và sụp đổ ngân hàng.
-
Nghiệp vụ kinh doanh tài chính phái sinh:
NHTM thực hiện giao dịch các công cụ tài chính phái sinh (chứng khoán phái sinh)
trên thị trường chứng khoán như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hợp
đồng hoán đổi.
1.1.4.4.
-
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ:
Đây là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. NHTM mua bán ngoại tệ
nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu
và đem lại một khoản thu nhập cho ngân hàng. Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này với
khách hàng nội địa và trên thị trường thế giới.
-
Nghiệp vụ kinh doanh vàng:
Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng và góp phần
mang lại thu nhập. NHTM thực hiện các hoạt động: mua bán vàng miếng, kinh doanh tài
khoản vàng, kinh doanh quyền chọn vàng.
8
1.1.4.5.
-
Nghiệp vụ quản lý rủi ro của NHTM
Nghiệp vụ quản lý rủi ro tín dụng:
Ngân hàng sẽ hỗ trợ cho khách hàng trong việc quản lý rủi ro tín dụng gián tiếp thông
qua hoạt động tư vấn và cung cấp công cụ phòng ngừa rủi ro tín dụng cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó ngân hàng cũng tiến hành quản lý rủi ro tín dụng cho chính mình để hạn chế tối
đa thiệt hại khi khách hàng không trả được nợ, tối đa hóa lợi nhuận và giá trị cho cổ đông.
Ngân hàng tiến hành phân tích và thẩm định tín dụng, xếp hạng tín dụng, chấm điểm tín
dụng, mua bảo hiểm tín dụng và lập dự phòng rủi ro tín dụng.
-
Nghiệp vụ quản lý rủi ro lãi suất:
Ngân hàng tư vấn quản lý rủi ro lãi suất cho khách hàng và quản lý rủi ro lãi suất của
chính ngân hàng thông qua các giao dịch hoán đổi lãi suất.
-
Nghiệp vụ quản lý rủi ro tỷ giá:
Ngân hàng cung cấp các giao dịch phái sinh ngoại tệ như là giải pháp giúp doanh
nghiệp phòng ngừa rủi ro ngoại hối, phòng ngừa tổn thất nếu nội tệ xuống giá.
1.1.4.6.
-
Nghiệp vụ thanh toán và chuyển tiền
Nghiệp vụ thanh toán và chuyển tiền trong nước:
Thanh toán bằng ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ ngân hàng, thư tín dụng vả nghiệp vụ
chuyển tiền trong nước.
-
Nghiệp vụ thanh toán và chuyển tiền quốc tế:
Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến hối phiếu (chấp nhận, bảo lãnh),
phương thức thanh toán chuyển tiền, thanh toán nhờ thu, thanh toán tín dụng chứng từ và
chuyển tiền quốc tế.
1.1.4.7.
-
Các nghiệp vụ khác của NHTM
Nghiệp vụ ngân hàng dành cho khách hàng cá nhân hay nghiệp vụ ngân
hàng bán lẻ: NHTM sẽ tiến hành huy động vốn đối với khách hàng cá nhân
thông qua các sản phẩm tiền gửi, tiết kiệm, cho vay...
9
-
Nghiệp vụ ngân hàng điện tử:
NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng các sản phẩm và dịch vụ qua phương tiện thông
tin, truyền thông, tận dụng sức mạnh của mạng toàn cầu để phục vụ khách hàng tốt nhất. Các
sản phẩm cung cấp qua nghiệp vụ này như: tiền điện tử, séc điện tử, thẻ thông minh và các
dịch vụ : call center, phone banking, internet banking...
-
Nghiệp vụ kinh doanh bất động sản:
NHTM tiến hành cho vay mua bất động sản, tài trợ cho các dự án phát triển nhà ở,
thanh toán giao dịch mua bán bất động sản. Bên cạnh đó, cùng với lợi thế về chuyên môn,
vốn, thông tin và nguồn nhân lực, NHTM liên kết với công ty khác thành lập công ty chuyên
kinh doanh bất động sản cung cấp các dịch vụ tư vấn thiết kế, thi công, cung cấp vật liệu xây
dựng, môi giới giao dịch và quảng cáo mua bán bất động sản. Ngân hàng cũng có thể trực
tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh các dự án bất động sản.
1.2.
LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1.
Khái niệm
Theo Oxford dictionary for the Business World, Nợ xấu (bad debt) là nợ khó có thể
thu hồi. Chẳng hạn như một khoản tiền có thể được xử lý như là một khoản thiệt hại và được
xóa sổ trong phần lợi nhuận và tài khoản nợ phải thu. Những khoản nợ khó đòi có thể xuất
hiện trong các tài khoản của một tổ chức như một khoản dự phòng cho nợ xấu.
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc: “về cơ bản một khoản
nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa
trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các
khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả
năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Theo IMF: “Một khoản vay là nợ xấu khi lãi và vốn gốc bị trả quá hạn 90 ngày trở
lên hoặc ít nhất 90 ngày của việc trả lãi vay đã được thỏa thuận vốn hóa, tái cấp vốn hoặc trì
hoãn, hoặc việc hoàn trả ít hơn 90 ngày quá hạn nhưng có những lý do khác tốt hơn để nghi
ngờ về sự hoàn trả đầy đủ.”
10
Xét theo tiêu chuẩn của hệ thống kế toán quốc tế-IAS thì “ một khoản nợ được coi là
nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày
trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải
thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng
khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS và IAS 39 thì việc xét đâu là một
khoản nợ xấu chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của người đi vay thông qua phương pháp
chiết khấu dòng cổ tức hoặc xếp hạng tín dụng bất luận thời gian quá hạn đã trên 90 ngày
hay chưa.
Một cách định nghĩa khác về nợ xấu, theo giáo trình Quản trị NHTM hiện đại
PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn: nợ xấu là những khoàn nợ quá hạn 1, nhưng ở cấp độ nghiêm
trọng hơn, do đó được gọi là nợ xấu.
Còn theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN quy định về
việc phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của TCTD, định nghĩa: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3 (nợ dưới chuẩn), nợ
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
Như vậy, nợ xấu là các khoản tiền cho khách hàng vay, mà không thể thu hồi lại được
do khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc phá sản..., là một khoản tiền cho vay đã quá hạn mà xác
định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu.
Tóm lại, nợ xấu có các đặc trưng:
-
Khả năng thu hồi thấp, khả năng mất vốn cao, gây thiệt hại cho ngân hàng.
-
Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết hết
hạn.
-
Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng
ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
-
Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) có giá trị được đánh giá không đủ trang
1Nợ quá hạn là những khoản nợ không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia
hạn nợ (PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn (2010) giáo trình Quản trị NHTM hiện đại). Theo Quyết định 493/2005/QĐNHNN nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và hoặc lãi đã quá hạn.
11
trải nợ gốc và lãi.
1.2.2.
1.2.2.1.
Tiêu chí phân loại nợ xấu
Theo các nước trên thế giới
Theo định nghĩa của IAS, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố chính:
(i)
Quá hạn trên 90 ngày,
(ii)
Khả năng trả được nợ của khách hàng.
về cơ bản, đa số các nước cũng xác định nợ xấu dựa trên 2 yếu tố này.
Tuy nhiên, tiêu chí phân loại nợ là không hoàn toàn đồng nhất giữa các quốc gia trên
thế giới. Theo cuộc khảo sát thực tiễn tại các nước đại diện trong nhóm liên kết các nguyên
tắc cơ bản Basel (the Basel Core Principles Liaison Group 2) thì ở một số quốc gia có thêm
các tiêu chuẩn khác như:
-
Tại Mexico, các ngân hàng còn dựa trên giá trị có thể thu hồi của tài sản thế chấp.
-
Hệ thống phân loại của Mỹ dựa trên một số tiêu chí như: kinh nghiệm thanh toán, môi
trường khách nợ hoạt động.
-
Tại một số quốc gia như Anh và Hà Lan không có yêu cầu cụ thể cho việc phân loại nợ
vì thế các ngân hàng tự xây dựng quy tắc cho mình.
Bên cạnh đó, tiêu chí phân loại các khoản nợ khác nhau (trong đó có một khoản nợ
xấu) của một khách hàng cũng có sự khác biệt giữa các quốc gia như:
- Ở Brazil, Cộng hòa Séc, Pháp, Ản Độ, và Nam Phi: khi có một khoản nợ phân loại là
xấu, tất cả các khoản nợ khác của cùng một khách hàng cũng được phân loại là xấu.
- Ở Hàn Quốc, Mexico, Ả Rập Saudi có cách tiếp cận linh hoạt hơn: quyết định của
các ngân hàng dựa trên sự xem xét lại của họ về việc hình thành của từng khoản
nợ, bất kể những khoản nợ khác được xếp hạng như thế nào.
- Ở Mỹ: các khoản vay khác nên được đánh giá lại để xác định liệu một hoặc nhiều
các khoản vay nên được đánh giá tương tự. Việc xác định này nên dựa trên việc
đánh giá khả năng thu hồi độc lập của mỗi khoản vay, khả năng thanh toán của
2Nhóm liên kết các nguyên tắc cơ bản Basel (Basel Core Principles Liaison Group) được thành lập như một sợi dây
liên kết trực tiếp giữa Ủy ban Basel- BIS và WB/IMF để đánh giá các mảng khác nhau của lĩnh vực tài chính và để
đưa ra các tiêu chuẩn an toàn mới về vốn.
12
khách nợ.
1.2.2.2.
•
Theo Việt Nam
Căn cứ trên thời gian quá hạn hoàn trả.
Với tiêu chí này nợ xấu được phân làm s loại theo quyết định 493/2005/QĐ-
NHNN của quốc hội:
*
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến iso ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản s và khoản
4 điều này.
*
Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến is0 ngày theo
thời hạn cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 và
khoản 4 điều này.
*
Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên is0 ngày theo thời
hạn đã được cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 và khoản 4
điều này.
• Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng:
Theo điều 7 quyết định 493/2005/QĐ-NHNN nợ xấu thuộc các nhóm:
* Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ được TCTD đánh giá là không
có khả năng thu hồi cả vốn gốc và lãi khi đến hạn, có khả năng tổn thất một phần nợ
gốc và lãi.
13
* Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả năng
tổn thất cao.
* Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không có khả năng thu hồi, mất vốn.
Ngoài ra còn có các trường hợp sau:
* Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với TCTD mà có bất kỳ
khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc phải phân loại
các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng
với mức độ rủi ro (Theo khoản 3-Điều 6 QĐ 493/2005/QĐ-NHNN).
* Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để
đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết
định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức
độ rủi ro.
* Khi khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD dụng chủ động tự quyết
định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức
độ rủi ro (Theo khoản 4-Điều 6 QĐ 493/2005/QĐ- NHNN).
1.2.3.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của NHTM
Nợ xấu có thể gây ảnh hưởng rất nặng nề đến kết quả kinh doanh của các NHTM nếu
như ngân hàng không kiểm soát được. Sau đây là một số tác động của nợ xấu:
Thứ nhất, Ngân hàng không thu hồi được vốn và lãi cho vay trong khi vẫn phải hoàn
trả cho các khoản vốn huy động dẫn đến mất cân đối thu chi, rơi vào vòng quay vốn tín dụng
giảm, chi phí của ngân hàng sẽ tăng lên ^ Ngân hàng hoạt động không hiệu quả.
Thứ hai, Ngân hàng có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, rủi ro thanh
khoản vì phải sử dụng nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền thay cho khoản thu hồi
từ khách nợ. Do đó ngân hàng phải thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút,
uy tín và sức cạnh tranh giảm, kết quả kinh doanh xấu. Điều này dễ dẫn đến nguy cơ thua lỗ
hoặc phá sản.
14
1.3.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA CÁC NƯỚC
TRÊN THÉ GIỚI.
1.3.1.
Kinh nghiệm của Mỹ:
Tổng quan về hệ thống ngân hàng ở Mỹ
Nước Mỹ có hệ thống ngân hàng lớn nhất thế giới. Vào năm 2010, hệ thống ngân
hàng Mỹ có khoảng l 135 NHTM, khoảng 85 000 chi nhánh. Đứng đầu trong hệ thống ngân
hàng Mỹ là Cục dự trữ Liên bang (NHTW của Mỹ) FED (thành lập năm 1913) gồm một hệ
thống 12 Ngân hàng dự trữ liên bang.
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Mỹ
*
Cuộc đại suy thoái kinh tế năm 1932
Nhằm giảm nợ xấu trong các ngân hàng, Chính phủ thành lập Tổng công ty tái thiết
tài chính vào năm1932 với số vốn ban đầu Quốc
hội cung cấp 500 triệu USD,
được quyền vay đến 2 tỷ USD. Công ty này tiến hành
chuyển các khoản nợ xấu của
các ngân hàng thành cổ tức ưu đãi. Việc làm này nhằm có hiệu quả nhưng cũng còn hạn chế
vì yêu cầu công khai số lượng vay và tên tổ chức đi vay nên gây ảnh hưởng đến uy tín của tổ
chức đi vay. Bên cạnh đó Chính phủ cũng tiến hành quốc hữu hóa một số ngân hàng và để
các ngân hàng yếu kém phá sản.
*
Khủng hoảng kinh tế năm 1980
Khủng hoảng nợ và tiết kiệm (Saving & Loan) tại Mỹ trong thập kỷ 1980 có nguyên
nhân từ các khoản vay được định giá thấp và chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nếu khoản tín dụng
rủi ro trở thành nợ xấu, phần lỗ sẽ nhận được bảo lãnh từ Chính phủ.
Sau khi khủng khoảng xảy ra, để xử lý số nợ khó đòi liên quan đến các khoản vay thế
chấp mua nhà, công ty xử lý nợ (RTC) mua các khoản nợ khó đòi, thực hiện nghiệp vụ
chứng khoán hóa với các sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bởi tài sản cầm cố và bán lại
cho các nhà đầu tư. RTC cũng đã tiến hành mua lại các ngân hàng nhỏ, các khoản nợ xấu,
các tài sản thiếu thanh khoản với tổng chi phí là 400 tỷ s.
*
Khủng hoảng kinh tế năm 2008
Chính sách tiền tệ nới lỏng của Mỹ đã tạo ra bong bóng bất động sản và thị trường
chứng khoán. Sự bùng nổ cho vay dưới chuẩn, các công cụ tài chính mới và sự bãi bỏ các
15
quy định liên quan đến hoạt động của ngân hàng làm gia tăng nợ xấu, làm xói mòn niềm tin
của các nhà đầu tư, từ đó dẫn đến vấn đề thanh khoản trong lĩnh vực ngân hàng. Cuộc khủng
hoảng bắt đầu với sự sụp đổ của Lehman Brothers và một số ngân hàng, tổ chức tài chính
khác, sau đó nhanh chóng lan rộng ra nền kinh tế toàn cầu.
*
Cách xử lý nợ xấu của Mỹ trong cuộc khủng hoảng kinh tế 2008
Để phục hồi nền kinh tế, giải quyết hậu quả nặng khủng hoảng Chính phủ Mỹ nỗ lực
điều tiết nền kinh tế vĩ mô và kết hợp các chương trình như: Chương trình mua vốn (PPP),
Chương trình hỗ trợ vốn (CAP), Kế hoạch Ổn định Tài chính, Quỹ công - tư cho việc mua
lại tài sản ( PPIP).
Những hành động của Chính phủ:
NHTW Mỹ cắt giảm lãi suất để khơi thông dòng vốn, giảm lãi suất cơ bản từ 5%
xuống 0.25%, tiếp quản một số TCTD lớn như Freddie Mac và Fannie nhằm giúp những tổ
chức này tránh khỏi nguy cơ phá sản, nỗ lực bảo lãnh cho các TCTD với con số lên đến 1
300 tỷ s đầu tư vào nhiều tài sản rủi ro khác nhau. Chính phủ bơm tiền hỗ trợ thanh khoản
cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích tiêu dùng và cho vay. Tập đoàn bảo hiểm lớn
nhất thế giới AIG đã được chính phủ Mỹ bơm vào 85 tỷ S. FED quyết định dùng 700 tỷ đôla
để mua lại nợ xấu của các Ngân hàng.
Một loạt các chương trình được triển khai đồng thời với các chính sách vĩ mô để đưa
nền kinh tế Mỹ vượt qua khủng hoảng như;
Đầu tiên, chương trình mua vốn CPP (Capital Purchase Program) thực hiện vào tháng
10/2008 trong khuôn khổ Chương trình Cứu trợ Tài sản có vấn đề TARP: CPP được phân bổ
hơn 250 tỷ S để mua những cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng như Citigroup, JP Morgan
Chase, Wells. Các cổ phiếu ưu đãi của ngân hàng sẽ được trả 5%/cổ phần trong 5 năm đầu,
và 9%/cổ phần những năm sau đó. Các cổ phiếu có kỳ hạn thanh toán không giới hạn và dễ
bị mua lại trong vòng 3 năm (hoặc sớm hơn). Và để mua cổ phần ưu đãi, Chính phủ Mỹ đã
đạt được một quyền chọn trong việc mua cổ phần phổ thông có trị giá không quá 15% cổ
phần ưu đãi.
Tiếp sau chương trình mua vốn, vào tháng 2/2009, chương trình hỗ trợ vốn và kế
hoạch ổn định tài chính được thực hiện đồng thời nhằm tăng cường hiệu quả.
16
Chương trình hỗ trợ vốn (CAP): là giai đoạn thứ hai của chương trình tái cơ cấu vốn
ngân hàng (sau CPP). Trong giai đoạn đầu tiên, tài chính sẽ được cung cấp thông qua các cổ
phiếu ưu đãi. Cổ tức là 9% mỗi cổ phần, cổ phiếu ưu đãi có thể được chuyển đổi thành cổ
phần thường ở mức giá được thiết lập (90% giá trị đóng cửa trung bình cho thời kỳ từ ngày
20/01 đến ngày 09/02). Khi cổ phiếu ưu đãi không được chuyển đổi hoặc mua lại, 7 năm sau
nó sẽ được tự động chuyển đổi thành cổ phần thường.
Cùng với CAP đầu tháng 2/2009, một gói các biện pháp tài chính để hỗ trợ nền kinh
tế Mỹ đã được phê duyệt. Chương trình được đề ra nhằm giúp giảm nợ xấu trong lĩnh vực
bất động sản. Kế hoạch này gồm cuộc kiểm tra đầy căng thẳng tất cả các ngân từng ngân
hàng (mở rộng của chương trình CPP). Thiết lập quỹ đầu tư tư nhân để mua lại những tài sản
có vấn đề. Mở rộng chương trình cho vay TALF3.
Bên cạnh đó 3/2009 với mục đích thu hút đầu tư 500-1000 tỷ$ để mua tài sản có
vấn đề từ các ngân hàng và khôi phục lại thị trường trong các khoản vay và chứng khoán
tài sản tài chính, Quỹ công - tư cho việc mua lại tài sản (PPIP) được thành lập, vốn 15 100 tỷ USD của quỹ TARF và các quỹ bổ sung từ các nhà đầu tư tư nhân.
Trong lĩnh vực cho vay, một số ngân hàng lớn của Mỹ (JPMorgan, Bank of
American) tiến hành hoãn các vụ tịch thu tài sản, nỗ lực làm việc với người
đi vay
nhằm tạo điều kiện cho họ có thể trả nợ với các biện pháp như giảm lãi suất, giảm giá trị
các khoản chi trả.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua tìm hiểu về công tác xử lý nợ xấu của Mỹ, một số giải pháp được rút ra cho
Việt Nam như sau:
-
Chính phủ hỗ trợ và cung cấp tiềm lực vốn đủ lớn thành lập công ty xử lý nợ xấu
tiến hành xử lý nợ xấu tại các ngân hàng trong toàn bộ nền kinh tế, tạo dựng một
tiềm lực vững mạnh về tài chính cũng như pháp lý cho công ty này.
-
Cũng có thể xử lý nợ bằng cáchtiến hành mua lại các khoản nợ khó đòi, thực hiện
nghiệp vụ chứng khoán hóa với các sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bởi tài
3TALF (Term Asset-Backed Securities Loan Facility) là Chương trình Tài trợ Bảo chứng định kỳ. TALF được thiết
kế để tạo tín dụng sẵn có đến khách hàng và doanh nghiệp với những điều kiện dễ dàng nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát hành chứng khoán dựa trên tài sản tài chính (ABS) và cải thiện thị trường ABS.
17
sản cầm cố và bán lại cho các nhà đầu tư.
-
Thêm vào đó, cần hạ lãi suất và hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài
chính,
cũng như kích thích tiêu dùng và cho vay
-
Các ngân hàng cần có các biện pháp hỗ trợ khách hàng như gia hạn nợ, giảm lãi
suất, giảm giá trị các khoản cho vay giúp khách hàng có khả năng trả nợ.
1.3.2.
Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Năm 1948, Ngân hàng nhân dân Trung Hoa với vai trò là NHTW được thành lập.
Đến năm 2011, tổng tài sản của các tổ chức tài chính-ngân hàng Trung Quốc năm 2011
lên tới 113,28 nghìn tỷ nhân dân tệ. Hiện nay, Trung Quốc có 4 NHTM lớn nhất là: Ngân
hàng Trung Quốc, Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, Ngân hàng Công thương Trung
Quốc và Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc. Trong năm 2011,
4 đại ngân hàng này chiếm 55% tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân hàng Trung
Quốc và ảnh hưởng lớn đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc xử lý nợ xấu
Từ cuối thập kỷ trước, nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấu trong các NHTM quốc
doanh Trung Quốc đã trở thành một quả bom hẹn giờ đặt trong lòng ngành tài chính nước
này, với ước tính mức nợ khó đòi lên tới khoảng 10-25% tổng dư nợ cho vay, mà chủ yếu là
các khoản vay của các DNNN. Điều này đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh tại các
ngân hàng. Tuy vậy NHTW và các NHTM đã có những quy định và cải tổ nhằm giảm bớt số
nợ xấu trong hệ thống:
•
Ban hành các quy trình thẩm định tín dụng sát sao, chặt chẽ ngay từ đầu nhằm hạn
chế nợ xấu:
Theo quy định của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (với tư cách là NHTW), bộ phận
tín dụng của NHTM cần phải có các quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, kịp
thời thu thập thông tin để phân loại, kịp thời đề xuất kiến nghị kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ
phân loại, kịp thời đề xuất kiến nghị kiểm tra lại, chịu trách nhiệm về tính chân thực, tính
chuẩn xác, tính hoàn chỉnh của các dữ liệu phân loại đã cung cấp, tiến hành phân loại sơ bộ
tài sản theo tiêu chuẩn phân loại đề xuất ý kiến và lý do phân loại, định kỳ báo cáo cho bộ
18
phận quản lý rủi ro tín dụng những thông tin phân loại tiến hành quản lý các khoản tín dụng,
căn cứ vào kết quả phân loại tiến hành quản lý các khoản tín dụng có sự phân biệt trong
quản lý đối với từng khoản tín dụng, thực hiện các biện pháp cải tiến, loại trừ và xử lý rủi
ro.
•
Ban hành những quy định chặt chẽ về phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng để
phòng ngừa được các tổn thất:
Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã ban hành các Hướng dẫn trích lập dự phòng tổn
thất cho vay và Công văn liên quan, yêu cầu các NHTM kiểm tra định kỳ đối với các loại tài
sản dựa trên nguyên tắc thận trọng dự kiến một cách hợp lý các khoản tài sản có khả năng
phát sinh tổn thất và trích lập dự phòng giảm giá tài sản đối với các tài sản có khả năng phát
sinh tổn thất như dự phòng tổn thất cho vay... Đồng thời, phân loại tín dụng thành 5 nhóm:
nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú ý (nhóm 2), nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi
ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5), trong đó nợ nhóm 3, 4, 5 được gọi là nợ
xấu. Việc trích lập dự phòng tổn thất cho vay bao gồm: dự phòng chung và dự phòng cụ thể:
-
Dự phòng chung được trích hàng tháng và được xác định bằng 1% số dư cuối kỳ của
các khoản tín dụng.
-
Dự phòng cụ thể: Vào cuối tháng, dựa theo kết quả phân loại nợ và sau khi khấu trừ
giá trị tài sản thế chấp, NHTM trích lập dự phòng cụ thể theo số dư các khoản tín
dụng với tỷ lệ như sau: nhóm 1: 0%; nhóm 2: 2%; nhóm 3: 25%; nhóm 4: 50%;
nhóm 5: 100%.
* Thành lập các AMC để xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng
Năm 1999 Trung Quốc đã thành lập 04 công ty quản lý tài sản với vốn điều lệ khoảng
05 tỷ USD (tương đương 1% tổng số nợ xấu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc hiện nay).
Bốn công ty quản lý tài sản được thành lập để xử lý toàn bộ số nợ dưới chuẩn ước tính lên
đến 670 tỷ nhân dân tệ (NDT), những công ty này được được thành lập theo mô hình của tổ
chức Resolution Trust and Corporation của Mỹ, được trao quyền ngoại lệ đặc biệt để xử lý,
mua lại nợ xấu, thậm chí đầu tư và sinh lời từ đó. Các tổ chức này có một nhiệm vụ lớn:
“dọn dẹp” các khoản nợ khó đòi làm trong sạch bảng cân đối tài sản của các NHTM.
về nhân lực, đội ngũ nhân viên của các tổ chức AMC chủ yếu là từ các ngân hàng mẹ
19
chuyển sang. về vốn, chúng được chính phủ cấp cho một khoản vốn ban đầu để hoạt động
(Bộ Tài chính cấp 10 tỷ NDT, tương đương 1,2 tỷ đôla, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
cấp 500 tỷ NDT), còn lại là phát hành 800 tỷ NDT trái phiếu cho các ngân hàng để thu hút
vốn hoạt động. Các tổ chức này có thể khởi xướng thanh lý tài sản, hoán đổi nợ sang cổ
phần, tổ chức đấu giá các khoản nợ, và kể cả tham gia trực tiếp vào quản lý các doanh
nghiệp có nợ của họ. Tuy nhiên, chỉ có các khoản nợ trước năm 1996 mới thuộc phạm vi
quản lý của họ.
* Tái cấu trúc PBC nhằm tăng cường tính tự chủ và khả năng giám sát Năm
1998, Chính phủ Trung Quốc tiến hành tổ chức lại Ngân hàng Nhân dân
Trung Hoa (PBC) nhằm tăng cường khả năng giám sát và tính độc lập, tự chủ trong
quản lý, điều hành các chính sách tiền tệ của NHTW này. Tiếp theo là củng cố và tăng
cường hệ thống giám sát tài chính bằng việc thành lập Ủy ban Giám sát Ngân hàng
Trung Hoa, tập trung vào công tác quản trị rủi ro ở các ngân hàng. Ban hành hàng loạt
văn bản và quy định mới, áp dụng những chuẩn mực kế toán và kiểm toán độc lập khắt
khe hơn và những thông lệ quản trị công ty hiện đại nhằm nâng cao tính minh bạch, khôi
phục, duy trì niềm tin của khách hàng, nhận diện những ngân hàng có vấn đề để kịp thời
có biện pháp hỗ trợ, xử lý. PBC đã tiến hành áp dụng các quy tắc, quy định, định mức và
tỷ lệ an toàn theo chuẩn mực của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tỷ lệ an toàn vốn
(CAR) được nâng lên mức 8%; những quy định mới về phân loại khoản vay. Nhờ
đó,
bức tranh toàncảnh về số nợ dưới chuẩn trở nên
ràng hơn và hình thành kế hoạch
rõ
làm sạch bảng cânđối kế toán của các NHTM nhà
nước.
ĩ
rri r
_Ạ
•
ĩ
ĩ
_ ĩ
. Á _____, __________/ ______________1 Ạ i | Á _
___ Ạ _______________1 _ 5 . _______________
1 1 __Ạ _____f
1 _ 5 . __________
________» Ạ ___________________ Ạ ,
* Tái câu trúc hệ thong ngân hàng, khuyên khích các ngân hàng niêm yêt
Đối với vấn đề thanh khoản, kế hoạch tái cấp vốn cho các NHTM nhà nước được
triển khai song song. Số vốn yêu cầu được huy động theo cơ chế ngoài ngân sách, nghĩa
là bằng công cụ trái phiếu chính phủ được phát hành với thời hạn 30 năm.
Trong khi đó, Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các NHTM nhà nước xúc tiến
kế hoạch niêm yết trên TTCK. Điều này buộc các ngân hàng phải xây dựng cơ chế quản
trị theo chuẩn quốc tế, kinh doanh theo định hướng thương mại nhiều hơn, nâng cao hiệu
20
quả quản lý, điều hành, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động, kế hoạch đầu tư và
trên sổ sách kế toán. Nhằm tạo ra môi trường lành mạnh để tránh cho các ngân hàng rơi
vào vòng luẩn quẩn của làn sóng nợ dưới chuẩn mới phát sinh, PBC kiên quyết yêu cầu
các ngân hàng cải thiện chất lượng công tác quản trị doanh nghiệp, vì đó là bước đầu
tiên trong việc quản trị rủi ro ngân hàng. Từng ngân hàng được yêu cầu lập kế hoạch với
những chỉ tiêu cụ thể về chuyển đổi mô hình kinh doanh, giới thiệu dịch vụ khác biệt, kế
hoạch quản trị rủi ro tổng thể, ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân
lực...
Trung Quốc đã vạch ra được kế hoạch tổng thể và đồng bộ, gắn việc tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng với tiến trình tái cấu trúc hệ thống các DNNN, tái cơ cấu các khoản
nợ của những doanh nghiệp này, chuyển đổi mô hình kinh doanh ngân hàng, tăng cường
chất lượng quản trị, giám sát tổng thể thị trường tài chính, tiếp thu, áp dụng kinh nghiệm
của nước khác một cách có chọn lọc.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Để cải thiện tình hình nợ xấu trong khu vực ngân hàng, PBC đã ban hành nhiều
quy định chặt chẽ về quy trình thẩm định tín dụng sát sao để qua đó nhằm kiểm soát nợ
xấu trước, trong và sau khi cho vay. Việc làm này là kinh nghiệm rất hay để Việt Nam
học tập khi mà công tác thẩm định tín dụng của nước ta chỉ dừng lại ở khâu đầu tiên.
Tiếp theo Trung Quốc tiến hành cải cách PBC, điều này nhằm tăng cường tính tự
chủ và khả năng giám sát của PBC. Bên cạnh đó, PBC thành lập 4 AMC trực thuộc 4
NHTM lớn của Trung Quốc với sự hỗ trợ vốn từ Bộ tài chính. Việc này không chỉ giúp
các AMC có nguồn vốn lớn mà còn giúp hoạt động hiệu quả nhờ có sự giám sát và trợ
giúp của PBC. Trong khi đó các mô hình AMC ở Việt Nam, nguồn vốn chủ yếu dựa vào
nguồn vốn của NHTM mẹ, vốn điều lệ chỉ trong khoảng 50-100 tỷ đồng. Ở Việt Nam có
khoảng 27 AMC hoạt động trực thuộc các NHTM, nhưng hoạt động của các AMC còn
mờ nhạt, phần lớn là chỉ thành lập cho có nên chưa phát huy hết tác dụng trong công tác
xử lý nợ xấu.
PBC còn tiến hành tái cấu trúc hệ thống NHTM và khuyến khích các ngân hàng
này niêm yết. Việc làm này đang được Việt Nam học hỏi khi mà ngày càng nhiều NHTM
21
Việt Nam tiến hành IPO ra TTCK.
Việc cải cách các DNNN cũng được thực hiện, bởi vì phần lớn nợ xấu của NHTM
là cho các DNNN vay. Vì thế những việc làm này không chỉ giúp cải thiện triệt để tình
hình nợ xấu của NHTM từ gốc mà còn giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển khỏe
mạnh hơn.
1.3.3.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc:
Hàn Quốc là quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh. Đầu năm 2011, Hàn Quốc
được xếp thứ 11 trong bảng xếp hạng các nền kinh tế hàng đầu 2011 của HSBC.
Hiện nay hệ thống ngân hàng của Hàn Quốc có 24 NHTM. Trong đó 4 NHTM lớn nhất là:
Kookmin Bank, Shinhan Bank, Hana Bank, và Korea Exchange Bank.
Tình hình kinh tế Hàn Quốc năm 1997
Những năm 1990, Chính phủ Hàn Quốc đã tập trung đầu tư và hỗ trợ tài chính vào
nhiều tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế chẳng hạn như
các NHTM Hàn Quốc phải cho các chaebol vay với lãi suất thấp, Chính phủ sẵn sàng đứng
ra bảo lãnh cho những khoản vay này trong những trường hợp doanh nghiệp phá sản hay
thua lỗ. Vì thế, sự lớn mạnh của các chaebol lại phụ thuộc rất lớn vào Chính phủ.
Sự sụp đổ của thị trường Thái Lan và Hồng Kông vào tháng 7 năm 1997 đã ảnh
hưởng đến kinh tế Hàn Quốc dẫn đến cảnh thua lỗ và phá sản sản và của nhiều Chaebol lớn
và tiếp đó ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực ngân hàng. Kết quả là, 7 trong số 30 chaebol đã ra
đi và nền kinh tế Hàn Quốc phải đối mặt với khủng hoảng tiền tệ và kinh tế.
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính ở Hàn Quốc
Từ tình hình kinh tế Hàn Quốc đã cho thấy những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
tài chính trong những năm 90 đó là:
Thứ nhất, các chaebol được nhận nhiều chính sách cũng như sự bảo trợ của chính
phủ và sự hỗ trợ vốn từ hệ thống NHTM nên đã tạo sự ỷ lại rất lớn. Hơn nữa, hệ thống quản
trị còn yếu và thiếu sự giám sát nhằm duy trì tính trách nhiệm và minh bạch đã làm cho các
chaebol không thể đứng vững trước cuộc khủng hoảng kinh tế.
Thứ hai, Chính phủ can thiệp quá sâu vào quá trình kinh doanh từ đó làm giảm đi khả
22
năng cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng như hạn chế khả năng tự xây dựng chính sách tín
dụng hợp lý. Rủi ro đến với hệ thống ngân hàng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba, Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á được lan truyền nhanh chóng đã làm
mất lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Dòng vốn đầu tư nước ngoài đột
ngột rút khỏi Hàn Quốc trong khi dự trữ ngoại tệ của quốc gia đang bị thiếu hụt đã làm mất
tính thanh khoản của hệ thống tài chính làm cho nền kinh tế càng khó hơn. Cách xử lý nợ
xấu của Chính phủ và ngân hàng ở Hàn Quốc Để giải quyết tình trạng trên, đầu tiên Chính
phủ Hàn Quốc tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Khi hệ thống ngân hàng được lành
mạnh thì các ngân hàng sẽ đi đầu trong việc tái cơ cấu các doanh nghiệp.
Vào tháng 12/1997, Chính phủ Hàn Quốc quyết định chuyển sang chế độ tỷ giá thả
nổi đồng thời tăng lãi suất ngắn hạn lên 30% để ổn định giá trị đồng Won và duy trì sự cân
bằng trong dự trữ ngoại tệ.
Vào đầu năm 1998, Chính phủ đã đình chỉ hoạt động của một số ngân hàng. Sau đó,
Chính phủ đã chỉ đạo 5 ngân hàng khác tiếp quản 5 ngân hàng nhỏ. Nếu có sự định giá quá
cao của những tài sản có vấn đề, các ngân hàng thanh toán sẽ có ó tháng để bán chúng cho
Công ty xử lý tài sản KAMCO. Các ngân hàng có thể tiếp tục hoạt động lên kế hoạch cải tổ
phục hồi và được tái cấp vốn. Chính phủ kích thích sáp nhập bằng cách hỗ trợ tài chính và
lợi ích về thuế cho các ngân hàng. Chính phủ yêu cầu hai ngân hàng lớn gặp khó khăn đánh
giá lại vốn được ủy quyền gần bằng 80% và quốc hữu hóa cả hai sau đó. Bên cạnh đó, Chính
phủ tham gia vào tái cơ cấu vốn ngân hàng bằng cách cung cấp những khoản vay lệ thuộc,
mua cổ phiếu ưu đãi hoặc bán trái phiếu chính phủ. Vào cuối năm 1998, Chính phủ Hàn
Quốc đã nắm giữ 75% vốn trong khu vực ngân hàng.
NPLs đã trở thành vấn đề nghiêm trọng nhất trong suốt cuộc khủng hoảng 1997-1998
ở Hàn Quốc. Cuối năm 1998, chúng được ước tính vào khoảng 27% GDP. Chính phủ đã
thành lập công ty quản lý tài sản KAMCO để xử lý những khoản nợ này; và cả công ty quản
lý nguồn vốn. Chính phủ cũng quyết định các ngân hàng nên làm sạch 85% tổng nợ xấu
(NPLs) trong bản cân đối kế toán của họ ngay lập tức. Điều này đã được thực hiện bằng
những cách sau:
1) Ngân hàng phải tống khứ 50% NPLs của họ bằng cả việc bán các tài sản thế chấp