LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế thế giới đang từng bước phục hồi, bước ra khỏi cuộc khủng hoảng “dưới chuẩn”
bùng phát từ tháng 8 năm 2007. Chúng ta đã rút ra được không ít những bài học từ cuộc khủng
hoảng này, một trong số đó là việc rủi ro thanh khoản đã bị đánh giá thấp. Chúng ta đã tranh
luận nhiều về rủi ro vỡ nợ, khả năng thanh toán và các Hiệp định Basel trong những năm qua
mà giảm sự chú ý vào rủi ro thanh khoản. Giờ nhìn lại, rủi ro này cần được quan tâm hơn nữa.
Rủi ro thanh khoản thật sự là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với lĩnh vực tài chính. Một
trong những rủi ro thanh khoản đáng chú ý nhất là rủi ro của hệ thống ngân hàng.
Với việc tham khảo các mô hình tính thanh khoản ngân hàng của các nhà kinh tế học
trên thế giới, dùng những mô hình đó để xem xét, kiểm định cho tính thanh khoản của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam và kiến nghị những giải pháp cho hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam trong thời gian sắp đến. Với những mong muốn của bản thân trong việc tìm hiểu
về rủi ro thanh khoản ngân hàng, vận dụng những mô hình trên thế giới vào việc kiểm định
tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương hàng Việt Nam, điều đó đã thúc đẩy tôi quyết
tâm nghiên cứu, tìm hiểu sâu và hoàn thành đề tài “Thanh khoản ngân hàng thương mại: Định
lượng, giải pháp — Thực tiễn thị trường Việt Nam trong những năm gần đây”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những mô hình tính thanh khoản của các nhà kinh tế học trên thế
giới, tìm hiểu và kiểm định tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đề
tài đã nêu lên một cái nhìn tổng quan về tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam, tập trung nghiên cứu và làm rõ hơn những khó khăn trong việc quản lí tính
thanh khoản của ngân hàng thương mại, cũng như đề ra những kiến nghị cho việc nâng cao
tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng nước ta.
3. Phương pháp nghiên cứu
rss /M rss
Để nêu bật lên được những vấn đề quan trọng của đề tài, ngoài vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề
tài còn sử dụng những phương pháp như so sánh số liệu qua các năm (20052010), phương pháp
hồi quy bằng mô hình OLS trong excel để phân tích và rút ra được tình hình thanh khoản trong
hệ thống NHTM và những dự đoán trong tương lai.
4. Nội dung nghiên cứu
Nội dung đề tài được cơ cấu thành 4 chương:
- Chương
1: Tổng quan tính thanh khoản của ngân hàng thương mại.
- Chương
2: Mô hình tính thanh khoản ngân hàng.
- Chương
3: Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Chương
4: Giải pháp nâng cao tính thanh khoản của hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam.
5. Đóng góp của đề tài
Kết quả thu được từ đề tài là một sự tương quan chặt chẽ của khả năng thanh
khoản và lợi nhuận của NHTM. Mô hình cũng đưa ra một số giải pháp để nâng cao khả
năng thanh khoản của NHTM trong giai đoạn tới.
6. Hướng phát triền của đề tài
Trong tương lai với nguồn số liệu và kiến thức phong phú và sâu hơn chúng tôi
rất mong muốn hoàn thiện mô hình đo lường này với độ tin cậy cao. Và để từ đó có thể
đưa ra những giải pháp cụ thể và hiệu quả hơn để tăng khả năng thanh khoản cho hệ
thống ngân hàng. Bên cạnh đó chúng tôi cũng mong muốn tìm hiểu sâu hơn vai trò của
NHTW, chính sách lãi suất và các nhân tố kinh tế vĩ mô... tác động đến khả năng thanh
khoản của ngân hàng.
'"“' S
Chương 1
TỔNG QUAN TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1
Khái niệm:
1.1.1 Tính thanh khoản trong ngân hàng:
Trong ngân hàng thanh khoản bao gồm nhiều phương diện:
Trong ngắn hạn: Thanh khoản là khả năng ngân hàng có thể thực hiện nghĩa vụ thanh
toán ngay thời điểm chúng phát sinh ^ liên quan đến khả năng sinh lãi ^ đảm bảo thanh khoản.
Trong dài hạn: Thanh khoản là khả năng vay đủ vốn dài hạn với lãi suất hợp lý nhằm hỗ
trợ cho việc tăng tài sản (thanh khoản theo cấu trúc, hiện rất được các ngân hàng chú trọng).
Theo những nghiên cứu những năm 90 về khả năng thương mại thì thanh khoản là khả
năng trao đổi thường trực các sản phẩm trên thị trường vốn mà không làm giảm giá quá mức.
(Khả năng thanh khoản tài sản).
Thanh khoản thị trường là khả năng của thị trường trong việc tạo cơ sở cho hoạt động
vay mượn tại các thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Chính sách ngân hàng trung ương).
Vậy, thanh khoản là đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghiệp vụ thanh toán khi
đến hạn - đến mức tối đa và bằng đơn vị tiền tệ được quy định.
Do thực hiện bằng tiền mặt nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền
tệ. Việc không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khả năng hay mất
tính thanh khoản.
Do đó, thanh khoản không phải là một số tiền nào đó, cũng không phải là một tỷ lệ.
Thay vào đó, nó thể hiện phạm vi khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán của một ngân hàng.
Trái ngược với nó là “thiếu khả năng thanh khoản”, nghĩa là: ngân hàng thiếu khả năng thực
hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo nghĩa này thì thanh khoản đại diện cho yếu tố định tính về sức
mạnh tài chính của một ngân hàng. ( Duttweiler, 2008, trang 30).
1.1.2 Rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại:
Rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế,
đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế có không ít trường hợp, một tổ
chức kinh tế có tài sản nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố rủi ro thanh
khoản của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn,
rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh của tổ chức đó trong
một thời điểm cụ thể.
Rủi ro thanh khoản là trường hợp không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán;
việc không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đó sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn, thậm
chí có thể khiến công ty gặp thất bại.
Chúng ta có thể chia rủi ro thanh khoản làm bốn nhóm theo cấu trúc như sau:
Rủi ro thanh khoản rút tiền trước hạn: Điều này liên quan đến cả tài sản và nợ. Việc rút
tiền dựa trên cơ sở quyền chọn có thể được thực hiện. Những khoản tiền gửi có thể được rút
mạnh tay vào ngày sớm nhất thay vì đợi đến hạn.
Rủi ro thanh khoản có kỳ hạn: Điều kiện thanh toán theo đúng hợp đồng.
Rủi ro thanh khoản tài trợ: Nếu một tài sản không được tài trợ hợp lý, việc tài trợ theo
sau đó có thể phải được thực hiện trong những điều kiện bất lợi, nghĩa là với giá chênh lệch
cao hơn. Trong trường hợp xấu, thậm chí quỹ tiền có thể bị rút mạnh tay như trường hợp trên.
Rủi ro thanh khoản thị trường: Các điều kiện thị trường bất lợi có thể làm giảm khả
năng chuyển các tài sản khả nhượng thành tiền mặt hoặc để tài trợ cần thiết.
Hoặc theo nguồn gốc dẫn tới rủi ro thanh khoản ngân hàng, các nhà nghiên cứu thống
nhất có thể chia rủi ro thanh khoản thành 3 nhóm:
Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi
tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn, nhưng NHTM không sẵn có nguồn vốn để thanh toán,
để chi trả. Với một lượng tiền gửi được yêu cầu rút ra lớn và đột ngột buộc NHTM phải đi vay
bổ sung trên thị trường tiền tệ, phải huy động vốn đột xuất với chi phí vượt trội, hoặc bán bớt
tài sản để chuyển hoá thành vốn khả dụng đáp ứng nhu cầu chi trả.
Để đáp ứng nhu cầu ngay lập tức NHTM có thể phải bán tài sản với giá thấp hơn thị trường
hoặc vay trên thị trường với lãi suất cao để có lượng vốn khả dụng cần thiết.
~5~
Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có, chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các
cam kết tín dụng, cho vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất
cứ lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay yêu cầu
NHTM thực hiện cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng nếu không NH sẽ phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối
mặt với mất khả năng thanh toán. Tương tự, nguyên nhân rủi ro đến từ bên tài sản Nợ, khi đó
NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp.
Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các
công cụ tài chính phái sinh, rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng
tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh
toán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng quyền chọn. Các hợp đồng đó đến
hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó, NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh
khoản nếu không có kế hoạch chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, không có những tài sản
nhanh chóng hay dễ dàng chuyển thành tiền, những công cụ có thể giao dịch trên thị trường
tiền tệ.
Dấu hiệu ngân hàng đang phải đối mặt với rủi ro thanh khoản :
Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã có những diễn biến bất thường. Lãi suất
huy động vốn các kỳ hạn ngắn lại cao hơn lãi suất huy động các kỳ hạn dài, các ngân hàng chỉ
tập trung huy động vốn hạn ngắn. Xét về bản chất thì hiện tượng này phản ánh việc hệ thống
ngân hàng đang thiếu thanh khoản, mục đích huy động vốn của các ngân hàng lúc này chủ yếu
là nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản chứ không phải vì mục tiêu sinh lời.
Lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Ở Việt Nam có
những thời điểm lãi suất vay qua đêm lên đến 30-40%/năm, nhưng cũng không có ngân hàng
nào cho vay. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do các ngân hàng đều đang có vấn về
thanh khoản, trong điều kiện tình hình huy động vốn từ dân cư và doanh nghiệp không thuận
lợi buộc họ phải chấp nhận vay với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng để giải quyết nhu
cầu thanh khoản trước mắt.
1.2 Vai trò tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại:
Cũng giống như tất cả các chỉ tiêu khác gây ảnh hưởng và hình thành nên trạng thái
~6~
thanh khoản, thanh khoản không là yếu tố dẫn đầu mà chỉ là yếu tố đi theo. Như vậy chúng ta
đặt ra câu hỏi: thanh khoản có vai trò quan trọng như thế nào trong khuôn khổ mở rộng các vấn
đề và rủi ro.
Những nghiên cứu kinh nghiệm cho thấy thanh khoản luôn dồi dào. Có những giai đoạn
thanh khoản có phần thiếu thốn và do đó cái giá phải trả là khá đắt. Trong dài hạn, những biến
động chênh lệch giá không hề lạ lẫm gì với những ngân hàng đã từng trải qua giai đoạn thanh
khoản thiếu thốn trong nhiều phân khúc thị trường khác nhau. Ngân hàng có thể trả được khoản
chi phí này và đó là vấn đề tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vấn đề sống còn.
Tuy nhiên, một đặc tính của thanh khoản là nó phải luôn có mặt vào mọi lúc, không phải
trung bình và cũng không phải hầu như mọi lúc. Các khoản thanh toán phải được chi trả vào
ngày đến hạn, hoặc nếu không thể trả được, ngân hàng sẽ bị xem như không có khả năng thanh
khoản. Theo thống kê thì khả năng này xảy ra rất thấp. Nhưng nếu điều này xảy ra, ảnh hưởng
của nó sẽ rất nghiêm trọng và có thể khai tử ngân hàng. Không có nhà quản lý nào dám nhận
rủi ro như vậy, cũng không ai dám đùa giỡn với các khoản đầu tư của cổ đông.
Mặc dù, ta không nên chỉ tập trung vào những trường hợp tiêu cực khi thiếu khả năng
thanh khoản xảy ra. Nhưng đây là một trong những mối quan tâm chính của giám
đốc tài chính (hay giám đốc thanh khoản), vì:
Thứ nhất, trường hợp xấu nhất có thể xảy ra theo sau đó là không còn khả năng thanh
khoản. Thật khó tưởng tượng một giám đốc tài chính có thể bỏ qua việc này.
Thứ hai, nếu trường hợp này xảy ra thì việc kinh doanh sẽ gặp khó khăn, thu nhập giảm
sút. Một lần nữa chắc chắn các nhà quản lý không thích điều này.
-"O»//-"O»/
Và cuối cùng, những khó khăn thanh khoản vẫn thường xuyên xảy ra dù không quá
nghiêm trọng để giết chết ngân hàng nhưng vẫn đủ nguy hiểm để cản trở công việc kinh doanh
trong một thời gian, khiến doanh nghiệp phải thay đổi chiến lược kinh doanh, hoặc ít ra là thay
đổi các yếu tố cấu thành của chiến lược đó.
Những cá nhân và ban phụ trách đảm bảo trạng thái thanh khoản phù hợp trong ngân
hàng sẽ tìm cách duy trì các loại rủi ro ở mức có thể chấp nhận được, cũng như dưới hình thức
cân bằng. Nếu tính đến các mục tiêu này, bất kỳ chính sách thanh khoản nào cũng phải vừa cân
nhắc việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, vừa cho phép thực hiện một chiến lược kinh doanh có
liên quan đến lợi nhuận tiếp sau đó.
Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với ngân hàng. Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần
phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn.
Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về
nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi
ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên
ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn.
Ngoài ra thanh khoản còn ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền
Thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản
kém, chứ không phải là chất lượng tài sản có kém, mới là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các
trường hợp đổ vỡ ngân hàng.
1.3
Một số nguyên nhân làm giảm tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại:
1.3.1 Chạy theo lợi nhuận ngắn hạn:
Những bài học nhẵn tiền ở nước Mỹ, châu Âu mới đây là những bài học không hề rẻ
trong việc quản lý rủi ro, nhất là rủi ro thanh khoản. Lý do đơn giản giải thích cho khủng hoảng
vừa qua trong hệ thống ngân hàng là lòng tham. Vì lợi nhuận trước mắt, các nhà quản lý thay vì
đầu tư vào danh mục an toàn với lợi nhuận thấp như trái phiếu chính phủ để có thể trở thành
vật cầm cố tại ngân hàng nhà nước bù đắp tính thanh khoản khi cần thiết; lại lựa chọn những
~8~
danh mục rủi ro cao với tỷ suất sinh lợi cao tương đương, như các hợp đồng cho vay thế chấp
mua nhà tại thị trường Mỹ.
1.3.2 Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản:
Theo một số trường phái kinh tế, khủng hoảng ngân hàng do việc cho vay với số lượng
lớn và tài trợ vốn không hiệu quả trong giai đoạn mở rộng của chu kỳ kinh doanh; một cuộc
khủng hoảng xảy ra khi “bong bóng” bị nổ. Ba đặc điểm sau của những cuộc khủng hoảng gần
đây đã chứng minh cho quan điểm nói trên: cả bùng nổ cho vay của ngân hàng và giảm giá cổ
phiếu thường diễn ra trước khủng hoảng ngân hàng; những nước mới nổi có dòng vốn đầu tư
lớn là những nước mở rộng khu vực ngân hàng thương mại nhanh nhất; sự lạc quan quá mức về
hiệu quả của cải cách chính trị tại những nước mới nổi. Quan điểm này dựa theo giả thiết rằng
khó phân biệt những khoản tín dụng rủi ro thấp và những khoản tín dụng rủi ro cao khi nền
kinh tế mở rộng quá nhanh bởi vì người đi vay thường có lợi nhuận và tính thanh khoản tạm
thời rất cao; thay đổi đột ngột về giá tài sản cố định và cổ phiếu làm căng thẳng khủng hoảng,
bởi vì tập trung cho các khoản vay quá nhiều; và giảm giá tài sản đẩy giá trị thị trường của tài
sản thế chấp xuống. Tại Mỹ La Tinh cũng như một số nước công nghiệp phát triển như: Phần
Lan, Nauy, Thụy Điển, Nhật Bản và Mỹ, khủng hoảng ngân hàng xảy ra sau bùng nổ cho vay.
Bùng nổ cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính - ngân hàng năm
2008, và nghiêm trọng hơn đã lan rộng trên toàn cầu. Các ngân hàng đầu tư như Lehman
Brothers tại Mỹ và các ngân hàng bán lẻ như Northern Rock tại Anh đã phải đóng cửa vào năm
2008. Tháng 2/2009, một vài ngân hàng chính của Anh như Lloyds TSB và Barcllys Bank, đã
gần sụp đổ khi giá cổ phiếu giảm trầm trọng tại thị trường chứng khoán London.
1.3.3 Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém:
Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một
ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong tổng huy động có
một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ thì dẫn đến rủi ro thanh
khoản.
1.3.4 Mất cân đối trong cơ cấu tài sản:
Điều này xuất phát hầu hết từ áp lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban điều hành
~9~
mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị tài sản nợ và tài sản có. Trong danh mục tài sản
của mình, ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó quan trọng nhất là trái
phiếu chính phủ và/hoặc tín phiếu kho bạc. Trái phiếu chính phủ/tín phiếu kho bạc mặc dù lãi
suất không hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực kỳ quan trọng cho ngân hàng để nhận chiết
khấu từ ngân hàng nhà nước một khi thanh khoản có vấn đề. Điều này, bất cứ ngân hàng nào,
đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu nhưng với tiềm lực tài chính yếu thì khó có thể cạnh tranh
với các ngân hàng lớn hơn trong việc đấu thầu các loại tài sản trên.
1.3.5 Một số nguyên nhân khác:
Ngoài những nguyên nhân nêu trên, chúng ta còn có thể tìm thấy những yếu tố khác,
không kém phần quan trọng tác động ảnh hưởng đến tính thanh khoản ngân hàng thương mại,
như:
Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán yếu, tạo sự cạnh
tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá, tăng
lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ
thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi cho rằng, “do
sự yếu kém từ quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý
hữu hiệu.. .Ngân hàng Nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như
sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình”.
Xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến “các ngân
hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân
hàng”.
Chu kỳ kinh doanh là một tác nhân quan trọng. Theo thời vụ ở những tháng cuối năm
phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết
toán công nợ cho những doanh nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, thực
hiện cam kết giải ngân cho các đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng hóa...tạo nên
một chu kỳ căng thẳng nguồn vốn vào những tháng cuối năm. Năm nay, lại đặc biệt hơn khi mà
~ 10 ~
ngân hàng hạn chế cho vay vào thời điểm này nên có thể có một nguyên nhân tâm lý khác, đó
là việc găm giữ tiền mặt cũng như chậm thanh toán các khoản nợ đến hoặc sắp đến hạn, chấp
nhận trễ hạn để tận dụng nguồn vốn vay. Điều này làm cho dòng tiền quay trở lại ngân hàng
không cao mặc dù lãi suất tiếp tục tăng nóng.
Rủi ro từ tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có thể
mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này
đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự kiện nào đó
khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Tổ chức này
cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này có nguy cơ mất
khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối
tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những
nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng
không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân
hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín
dụng.
Và còn nhiều những nguyên nhân khác, tùy thuộc vào từng đặc điểm của từng thời kỳ
và ở mỗi quốc gia, mỗi ngân hàng khác nhau.
Chương 2
THƯỚC ĐO TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Thước đo tính thanh khoản đã được tập trung chú ý trong một thời gian dài bởi nhiều
nhà nghiên cứu. Friedman và Schwartz nghiên cứu cuộc chạy đua rút tiền ở các ngân hàng và
miêu tả vai trò ngân hàng thương mại trong việc chuyển đổi tài sản tiết kiệm thanh khoản thành
tài sản kém thanh khoản. Patinkin, Tobin và Niehans nghiên cứu thêm một số đặc điểm thanh
khoản của tài sản và tiết kiệm. Trước đó, mô hình rủi ro thanh khoản lấy biến động giá như là
cơ sở của rủi ro và vốn cổ phần là giải pháp duy nhất để chuẩn bị cho những mất mát và tiếp đó
là một cuộc chạy đua rút tiền gửi. Tuy nhiên, giá biến động ngẫu nhiên và khá năng động nên ít
tương quan với mô hình. Ví dụ, theo Basel
II, LTCM vẫn còn đầy đủ vốn cổ phần vào cuối quý II năm 1998. Nhưng nó đã mất hơn
~ 11 ~
2.3 tỉ đô la trong 3 tuần đầu tháng 9. Không khả thi để LTCM tăng vốn chủ sở hữu trong một
thời gian ngắn để chuẩn bị cho một cú sốc, cái hiếm khi mới xảy ra (Jorion). Vấn đề này một
lần nữa được đưa ra trong cuộc khủng hoảng dưới chuẩn vừa qua.
Chúng ta có thể đánh giá mức độ thanh khoản dựa trên khả năng của ngân hàng trong
việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của mình. Những yếu tố cần xem xét bao gồm mức
độ biến động của tiền gửi, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn nhạy cảm với rủi ro, khả năng sẵn
có của những tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt, khả năng tiếp cận đến thị
trường tiền tệ, mức độ hiệu quả nói chung của chiến lược, chính sách quản lý tài sản nợ và tài
sản có của ngân hàng, tuân thủ với các chính sách thanh khoản nội bộ ngân hàng, nội dung, quy
mô và khả năng sử dụng dự kiến của các cam kết cấp tín dụng.
Tuy nhiên, rất khó có thể xây dựng một thước đo duy nhất để định lượng hay bao quát
được tất cả các yếu tố về thanh khoản, mức độ đủ vốn, chất lượng tài sản có và lợi nhuận, do có
nhiều khác biệt về quy mô, hoạt động giữa các ngân hàng khác nhau, cũng như do ảnh hưởng
của điều kiện thị trường khu vực, quốc gia và quốc tế. Không có một tỷ lệ nào thực sự bao hàm
được các khía cạnh khác nhau của yếu tố thanh khoản đối với tất cả các ngân hàng với quy mô
và loại hình khác nhau.
2.1.
Tiền mặt và tương đương tiền:
Vì mục đích bảo toàn nghĩa vụ thanh toán, phần này chủ yếu tập trung vào các điều kiện
ngắn hạn. Để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong tương lai gần đòi hỏi tiền mặt phải có sẵn
hoặc có sớm. Chính vì thế, phạm vi thời gian ngắn hạn lại được chia nhỏ ra, xét đến các lượng
tiền mặt. Các chỉ số thanh khoản liên quan đến tiền mặt:
Thanh khoản cấp độ 1 = Tiền mặt / Nợ ngắn hạn Thanh khoản cấp độ 2 = Tiền mặt và
trái quyền ngắn hạn / Nợ ngắn hạn Chúng ta không kỳ vọng thanh khoản cấp độ 1 sẽ đạt được
một chỉ số mà trong đó tiền mặt có thể thỏa mãn 100% nợ ngắn hạn. Chỉ số này dao động trong
khoảng từ 20% trở lên. Thanh khoản cấp độ 2: Khi mà trái quyền ngắn hạn được cộng vào với
tiền mặt, được kỳ vọng sẽ thỏa mãn ít nhất 100% nợ ngắn hạn.
Cả hai chỉ số này đều liên quan đến công tác quản lý tiền mặt và được sử dụng cho mục
đích này. Chúng đưa ra dấu hiệu hiệu quả cho khả năng thanh toán nợ hiện hành và trong tương
lai gần. Tuy nhiên, giá trị của chúng đối với trạng thái cân bằng tài chính đang bị bỏ quên:
~ 12 ~
trong tổng tài sản và nợ, chúng chỉ thỏa mãn được một phần. Tuy nhiên, thế cân bằng tài chính
chứa đựng một góc độ nào đó của toàn bảng cân đối kế toán.
2.2.
Quy tắc tài trợ vàng:
Để thỏa mãn nhu cầu cân bằng tài chính, người ta phải nhìn vào các yếu tố chính của
một bảng cân đối kế toán; đó là, tham khảo lại công thức phần trình bày trên. Ý nghĩa đằng sau
nó là phân biệt thanh khoản ngắn hạn từ những lập luận thanh khoản dài hạn; hoặc nói theo
cách khác, phân biệt giữa một mặt là thanh khoản liên quan đến thanh toán hoặc thanh khoản
theo tình huống, mặt khác là thanh khoản theo cấu trúc. Các chỉ số phản ánh mặt này là:
Thanh khoản cấp độ 3: Tài sản dài hạn / Nợ ngắn hạn > 1
Quy tắc BS vàng: Tài sản cố định / (Vốn + Nợ dài hạn) < 1
~ 13 ~
Công thức trên, được gọi là công thức cân đối kế toán vàng, đại diện cho một dạng cụ
thể của quy tắc vàng trong tài trợ, hay còn được biết đến dưới tên gọi quy tắc vàng trong
nghiệp vụ ngân hàng.
Công thức này cho rằng tài sản phải được tài trợ một cách phù hợp. Nếu nó được tài trợ
dài hạn, phần quỹ đi kèm với những tài sản đó cũng sẽ có thời gian đáo hạn dài. Những tài sản
cố định không có khả năng chuyển thành tiền mặt trong thời gian ngắn hạn. Chính vì thế, việc
tài trợ những tài sản này trong thời gian ngắn hạn sẽ gặp phải rủi ro là không thể hoàn trả
khoản vay vào thời điểm đáo hạn do việc tài trợ đó không thể được kéo dài hay không thể thay
thế được.
Từ quan điểm chiến thuật, những quy tắc này đều hợp lý và rõ ràng, Những tài sản được
tài trợ ngắn hạn sẽ sớm ra khỏi bảng cân đối kế toán và tạo ra tiền mặt cần thiết kịp thời để chi
trả cho các khoản nợ đi kèm. Những tài sản còn lại có thể được tài trợ từ các nguồn vốn hay
thông qua việc vay mượn dài hạn từ các ngân hàng hay thị trường vốn. Thời gian đáo hạn cho
những tài sản và nợ này xảy ra đồng thời.
2.3.
Vốn cổ phần với vai trò là khoản dự phòng:
Có nhiều cách để xem xét vốn đầu tư. Nhìn chung, chúng ta đã sử dụng chúng một cách
tương đối thoải mái và thay thế bằng các thuật ngữ như: vốn cổ phần hoặc vốn chủ sở hữu.
Ngay khi thảo luận về vốn đầu tư với chức năng chống chọi rủi ro, chúng ta cần phải hiểu rõ về
những gì mà mình muốn nói đến. Những gì mà chúng ta đang tìm kiếm là một lượng tiền chính
xác, chứ không phải một thuật ngữ chung chung. Vốn đầu tư có thể được xem xét theo ba cách
khác nhau:
~ 14 ~
Năng lực chống chọi rủi ro
Lượng tiền vượt mức lợi nhuận tối thiểu
Mức độ nghiêm trọng
Rủi ro tiềm ẩn
1. Mức thông thường 1
2
Các khoản dự trữ chưa được tiết lộ
3
2. Mức tối thiểu
Lơi nhuận tối thiểu
Các khoản dự phòng dành cho Rủi ro
ngân hàng nói chung
Các khoản dự phòng theo công bố (theo
quy định và tự do)
Vốn tự có
3. Mức tối thiểu
Nợ dưới chuẩn
(Phỏng theo Schierenbeck, 2003b, trang 51f
Cơ sở để chống chọi với rủi ro chính là vốn pháp định. Nó bao gồm tất cả các nguồn
tiền chịu trách nhiệm trong trường hợp rủi ro do giảm giá biến thành những khoản thua lỗ
thật sự - thứ sau đó phải được bù đắp bằng các khoản dự phòng. Do đó, vốn pháp định cũng
là cơ sở cho khả năng thanh toán. Ta có thể nói thuật ngữ “năng lực chống chọi rủi ro” được
dựa trên kiến thức chung áp dụng cho những người điều chỉnh cũng như cho công tác xếp
hạng và đánh giá nội bộ của ngân hàng.
Các quy định về vốn pháp định đòi hỏi phải luôn duy trì mức vốn đầu tư để hỗ trợ cho
rủi ro tiềm ẩn, mức độ thua lỗ tối thiểu bù đắp cho khoản dự phòng được thiết lập ở mức 4%
cho Bậc 1 và mức 8% cho Bậc 1 và 2 kết hợp. Nếu chúng ta giả định một khoản thua lỗ tiềm
ẩn là 1000 đơn vị tiền tệ, mức tối thiểu cần là 40 và 80 đơn vị tiền tệ theo thứ tự tương ứng.
Kéo theo đó là Bậc 1 chất lượng cao có thể bù cho Bậc 2. Tuy nhiên, không có trường hợp
ngược lại. Bậc 3 liên quan đến hoạt động mua bán.
Allen N.Berger và Christa H.S.Bouwman đã kiểm tra tác động của cuộc khủng hoảng
và tỉ lệ cạnh tranh vốn của các ngân hàng và lợi nhuận của bản thân ngân hàng trong và sau
cuộc khủng hoảng. Bằng chứng cho thấy lượng vốn lớn giúp các ngân hàng tồn tại trong cuộc
khủng hoảng. Tỉ lệ vốn cao dường như đã giúp những ngân hàng nhỏ
cải thiện thanh khoản của cổ phiếu ngân hàng trong cuộc khủng hoảng, các thị trường liên quan
trong cuộc khủng hoảng.
~ 15 ~
Nghiên cứu tác động của cuộc khủng hoảng trước tỷ lệ vốn cổ phần trong cạnh tranh và
lợi nhuận ngân hàng tư nhân xung quanh cuộc khủng hoảng. Từ những tác động của vốn ngân
hàng đến khả năng tạo thanh khoản ( Diamond và Rajan 2000,2001, Berger và Bouwman ),
những ngân hàng với tỉ lệ vốn cổ phần khác nhau hành động khác nhau trong cuộc khủng
hoảng trong giới hạn khả năng thanh khoản của họ. Đặc biệt, chúng ta có thể hỏi: phải chăng
những ngân hàng có vốn cổ phần cao có thể tăng thị phần trên thị trường trong giới hạn khả
năng tạo thanh khoản do sự sụt giảm của các ngân hàng có tỉ lệ vốn thấp trong cuộc khủng
hoảng, và khuyến khích chuyển giao thị phần để thu lợi nhuận cao hơn? Nếu thế, những ngân
hàng có tỉ lệ vốn cổ phần cao có thể nâng cao vị thế cạnh tranh với các đối thủ trong cuộc
khủng hoảng? Những vụ mua lại gần đây của Countrywide, Bear Stearns, và Washington
Mutual cung cấp những trường hợp nghiên cứu thú vị trong vấn đề này. Tất cả ba công ty trên
đều có tỉ lệ vốn thấp và cần được giải cứu từ các ngân hàng với vị thế vốn lớn. Ngân hàng liên
bang Hoa Kỳ và J.P Morgan Chase có tỉ lệ vốn đủ cao để sáp nhập ( thâu tóm) một phần nhỏ
các đối thủ để mang lại lợi nhuận lớn tiềm năng. Kinh nghiệm hiện tại của IndyMac Bank cung
cấp một ví dụ thú vị khác. FDIC đã nắm giữ IndyMac Bank sau khi nó bị thiệt hại đáng kể và
người gửi tiền bắt đầu chạy đua rút tiền khỏi ngân hàng. FDIC dự định bán ngân hàng, tốt nhất
là bán như một khối nhưng nếu không thể, ngân hàng sẽ bán từng phần. Trong cách sáp nhập
thì người sáp nhập phải có nguồn vốn mạnh hơn. Nguồn quỹ khoản 700 tỉ đô là cần để giải cứu
cho ngân hàng. Ví dụ: ngân hàng PNC đang sử dụng gói cứu trợ để thâu tóm ngân hàng
National City.
Một cuộc khủng hoảng là một sự kiện tự nhiên để kiểm định tác động của nguồn vốn
đến vị thế cạnh tranh của các ngân hàng. Trong khoảng thời gian bình thường ( không có khủng
hoảng), vốn có nhiều tác động đến ngân hàng, một số trong đó chống lại những cái khác, làm
cho nó trở nên khó khăn để nghiên cứu. Ví dụ: vốn sẽ giúp các ngân hàng đối phó hiệu quả hơn
với các loại rủi ro, nhưng nó còn làm giảm giá trị bảo hiểm tiền gửi đặt trong những quyền
chọn (Merton 1977). Trong một cuộc khủng hoảng những rủi ro tăng cao và khả năng hấp thụ
rủi ro của vốn trở nên đặc biệt quan trọng. Các ngân hàng có tỉ lệ vốn cao có tấm đệm tốt hơn
để chống lại những cú sốc của cuộc khủng hoảng, do đó tiềm năng có thể đạt một lợi thế tiềm
năng.
~ 16 ~
2.4.
Khe hở thanh khoản:
Deep và Schaefer (2004) xây dựng một thước đo thanh khoản và áp dụng nó vào dữ
liệu trên 200 ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ từ năm 1997 đến năm 2001. Tác giả xác định khe hở
thanh khoản để đánh giá thanh khoản ngân hàng. Với khe hở thanh khoản được xác định:
k h o ản p hả í trả ng ắn han — tà í sản lưu đông
Khe hở thanh k hoản =---------------------------;-----:---------------------------t ổng tà í sản
Tác giả xem xét tất cả các khoản cho vay có kỳ hạn từ một năm hoặc ít hơn được là
thanh khoản, và họ một họ đã loại trừ các cam kết cho vay và các khoản mục khác ngoài bảng
cân đối kế toán ( các khoản mục ngoại bảng) vì bản chất của chúng. Họ thấy rằng các khe hở
thanh khoản là khoảng 20% tổng tài sản cho mẫu gồm của các ngân hàng lớn. Các tác giả kết
luận rằng các ngân hàng không sẵn sàng để tạo ra nhiều thanh khoản.
Khe hở thanh khoản là một bước tiến trực quan, nhưng chúng ta không thể tin rằng nó
là đủ toàn diện để có thể đánh giá thanh khoản ngân hàng và giúp ngân hàng đề phòng và tránh
né rủi ro hoàn toàn.
2.5.
Tỷ lệ LLSS (Tỉ lệ cho vay dài hạn trên tiết kiệm ngắn hạn):
Phần trình bày này giới thiệu tỉ lệ LLSS như một thước đo mới khả năng thanh khoản
ngân hàng. Thước đo này thể hiện khả năng của ngân hàng để đáp ứng những khoản vay dài
hạn bằng tiền gửi tiết kiệm ngằn hạn. Khả năng này được xác định bởi sự phân phối tài sản
thanh khoản và kém thanh khoản trong ngân hàng. Phần trình bày còn sử dụng ABCP và MBS
đại diện cho hoạt động thị trường liên ngân hàng, đây được xem như là nguồn tài trợ bên ngoài
để ngân hàng đối phó với những cú sốc thanh khoản. Sau đây, chúng ta đi sâu tìm hiểu tỉ lệ
LLSS, tính toán tỉ lệ LLSS tối ưu theo điều kiện thị trường và sử dụng thước đo này để đánh
giá khả năng thanh khoản ngân hàng.
Giới thiệu tỉ lệ LLSS:
Tỉ lệ LLSS O, thước đo tính thanh khoản, đo lường khả năng ngân hàng duy trì chức
năng cốt lõi của mình - vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.
Khi thực hiện chức năng vay mượn ngắn hạn và cho vay dài hạn, ngân hàng phải nắm
giữ tài sản của mình đến ngày đáo hạn mới có thể thu được toàn bộ giá trị. Do đó, việc bán tài
sản để đáp ứng nhu cầu rút tiền sẽ dẫn đến thiệt hại lớn cho các ngân hàng (Tobin[12]). Khả
năng phát hành các khoản vay dài hạn của ngân hàng là hữu hạn bởi giới hạn của nguồn vốn
~ 17 ~
hiện tại và sự bất ổn của lượng tiền gửi trong tương lai, và ngân hàng buộc phải nắm giữ một
lượng tài sản ngắn hạn, như tiền mặt và tín phiếu kho bạc. Do đó, tỉ lệ LLSS của ngân hàng <
1. Càng ít các khoản vay dài hạn được phát hành, càng làm giảm tỉ lệ LLSS, càng an toàn hơn
cho ngân hàng. Tỉ lệ LLSS còn xác định được lợi nhuận ngân hàng. Các ngân hàng tìm kiếm
lợi nhuận từ hai nguồn: Thứ nhất, ngân hàng đi vay giá rẻ và cho vay giá cao. Trong hai thập
kỷ trước, chênh lệch lãi suất huy động tiền gửi và cho vay của ngân hàng phổ biến từ 30 đến
200 điểm phần trăm. Thứ hai, ngân hàng kiếm lời từ việc huy động ngắn hạn và cho vay dài
hạn. Chênh lệch thời gian càng dài thì chênh lệch lãi suất càng lớn. Chênh lệch lãi suất nghiệp
vụ thứ hai cao hơn trong nghiệp vụ thứ nhất. Ví dụ, trong 30 năm, bình quân lãi suất thế chấp
tài sản cố định cao hơn LIBRA tối thiểu 400 điểm. Lợi nhuận ngân hàng bằng chênh lệch lãi
suất cùng kỳ hạn cộng thêm O lần chênh lệch lãi suất khác kỳ hạn. Tỉ lệ LLSS càng cao thì lợi
nhuận ngân hàng càng cao.
Tỉ lệ LLSS đo lường sự thỏa hiệp giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản mong đợi. Trong
trường hợp tối đa, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS O =1. Họ đầu tư tất cả tiền gửi tiết kiệm vào các
khoản vay dài hạn và hoàn toàn không đầu tư vào tài sản thanh khoản. Nếu thuận lợi, ngân
hàng có thể thu được lợi nhuận cao từ khoản cho vay dài hạn. Tuy nhiên, sự kiện rút tiền không
được mong đợi có thể gây ra hoãn loạn và sau đó là một cuộc chạy đua rút tiền. Trong trường
hợp ngược lại, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS O = 0 và đầu tư toàn bộ tiền gửi tiết kiệm để cho vay
ngắn hạn. Ngân hàng luôn đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền, nhưng chi phí cho sự an
toàn là lợi nhuận thấp.
2.5.1. Mô hình:
Trước khi đưa ra và giải thích mô hình, để mô hình đơn giản chúng ta cần làm rõ hai
vấn đề. Thứ nhất, hoạt động ngân hàng được chia làm hai nhóm: dịch vụ với khách hàng phi tài
chính và hoạt động thị trường liên ngân hàng như vay và cho vay thị trường qua đêm, bán và
mua ABCP và MBS... Vấn đề thứ hai, cú sốc thanh khoản được chia làm hai nhóm: cú sốc hệ
thống và những cú sốc đơn lẻ. Cú sốc hệ thống là việc rút riền ròng ra khỏi hệ thồng ngân hàng.
Cú sốc đơn lẻ là sự chuyển giao tiền gửi giữa các ngân hàng. Hãy tưởng tưởng, một người gửi
tiền có tài khoản ở 2 ngân hàng. Dòng tiền vào của anh ta không chắc chắn và sở thích của anh
ta vào các ngân hàng là ngẫu nhiên. Sự không chắc chắn của dòng tiền vào là một rủi ro hệ
~ 18 ~
thống, vì nó làm thay đổi tiền gửi ròng của toàn ngành ngân hàng. Sự không chắc chắn trong sở
thích của anh ta là một rủi ro đơn lẻ. Khi người gủi tiền chuyển tiền gủi của mình từ một ngân
hàng sang một ngân hàng được ưa thích hơn, cú sốc tiền gửi chỉ có tác động đến 2 ngân hàng
không có ảnh hưởng đến toàn ngành.
Mô hình hai khoảng thời gian đạt được như một thỏa hiệp và dự báo tỉ lệ LLSS tối ưu
của ngân hàng o*. Ngân hàng i với vốn chủ sở hữu mi, nhận tiết kiệm ngắn hạn si 0 và Sịj vào
thời điểm 0 và 1, khi đó Sịj là biến thiên ngẫu nhiên vào thời điểm G. Vốn vào ngắn hạn ci t từ
khu vực phi tài chính {s ijt}, hoặc từ nguồn vốn bên ngoài do hoạt động thị trường liên ngân
hàng. Dòng vốn vào ngắn hạn phải trả lại vào kỳ tiếp theo. Ngân hàng i đầu tư vốn ngắn hạn
của nó ci 0 vào khoản vay dài hạn qli , hoặc cho vay ngắn hạn qsi 0 vào thời điểm G. Khoản cho
vay dài hạn được hoàn trả lại vào cuối kỳ kế tiếp. Ngân hàng kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất
đi vay và cho vay a từ đầu tư ngắn hạn qsi,t ; và cả sự khác biệt chênh lệch lãi suất vay và đi vay
a với chênh lệch kỳ khoản ß từ đầu tư dài hạn qli. Giả sử a và ß là hằng số xác định. Giả định
này gần đúng với thực tế. Vay thế chấp nhà với lãi suất điều chỉnh (ARM) là một dạng hợp
đồng vay thế chấp nhà, về phía ngân hàng thu được lợi nhuận cố định là (a+ß). Chúng ta giả
định a và ß là hằng số là vì “việc xác định lãi suất không phải là vấn đề chính trong thị trường
thứ cấp”(Fooote[5]). Chúng ta còn giả định rằng lợi nhuận ngay lập tức được chia cho cổ đông.
Khi đó, tỉ lệ LLSS được định nghĩa như sự cân bằng
giữa hai quyết địnhđầu tư (
cho vay dài hạnvà ngắn hạn) trên tổng tiền gửi Oị^—^i—- . Tỉ lệ LLSS biếnthiên xác định
giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản.
-
Lợi nhuận ngân hàng là n = a ( Ci o + Ci 1 + 2 mi) + 2 ßO i ( Ci o + mi).Trong đó n
i
là hàm lợi nhuận theo Oị .
-
Khả năng xảy ra một cuộc chạy đua rút tiền vào thời điểm 1 là P(ci,1
1
Để đơn giản hóa mô hình, giả định rằng thiệt hại do một cuộc chạy đua rút tiền là vô
hạn, và lượng tiền gửi trong tương lai không chắc chắn ci,1 thấp hơn biên ci. Sự phân bổ tài
sản tối ưu của ngân hàng đạt được là do tối ưu hàm sau:
max a(Cị 0 + Ci, 1 + 2 mi) + 2 ßO (Ci, o + mi)
iO o}
V
~ 19 ~
Điều kiện:
q\ + qlo < cuo + Tĩiị
q\ + qsui < CU1 + lĩiị
0
0
Ở đây, di và dsi,t (t = 0,1) lần lượt là cầu khoản vay dài hạn và ngắn hạn từ bộ phận phi
tài chính. Khi tác động của một cuộc chạy đua rút tiền là vô hạn và cú sốc tiền gửi là hữu hạn
bởi Sj, thì giải pháp tối ưu cho vấn đề 6* là phải đạt được ngưỡng tỉ lệ LLSS an toàn ỡ l. Khi
tổng các khoản vay dài hạn vượt quá ỡ l .(c +m ), một cuộc chạy đua rút tiền là gần như chắc
i 0
i
chắn.
2.5.1.1.
Không có hoạt động thị trường liên ngân hàng và O:
Phần này thảo luận về sự lựa chọn tỷ lệ LLSS của ngân hàng trong một thị trường giản
đơn, nơi ngân hàng chỉ phục vụ những khách hàng phi tài chính mà không có hoạt
~ 20 ~
động của thị trường liên ngân hàng. M & A là một cách để các ngân hàng tránh né
những cú sốc tiền gửi, và tạo lợi thế do quy mô để ngân hàng đạt lợi nhuận cao.
Khi ngân hàng chỉ phục vụ những khách hàng từ bộ phận phi tài chính, thì dòng vốn
vào ngắn hạn của ngân hàng cit bằng tiền gửi tiết kiệm sit từ cư dân, tổ chức phi tài chính và
chính phủ. Do đó, khả năng cho vay dài hạn của ngân hàng được quyết định bởi sự biến thiên
ngẫu nhiên của si,1. Để có thể tồn tại qua những cú sốc tồi tệ nhất, tức s^s^thì ngân hàng phải
đạt o* theo định lý sau:
Định lý 1: không có hoạt động thị trường liên ngân hàng, để có thể tồn tại qua những cú
sốc tiền gửi, giải pháp tối ưu cho các ngân hàng giải quyết vấn đề tối đa hóa lợi
* Sị+mị
,
,
nhuận là o =—-------và các khoản cho vay ngắn, dài hạn lần lượt là:
Suo+m
qli = min{Sị+mi, dị}
qsi,t = min {Sị,t+mị - qlị, di,t }
Minh họa: ngân hàng A có vốn chủ sở hữu là mA = 1GG triệu USD lượng tiền gửi hiện
tại là sA,G = Si tỉ, tiền gửi kỳ kế tiếp s A1 có thể là S8GG triệu hoặc $1.2 tỉ. Như vậy, tổng tiết
kiệm thời điểm 1 không nhỏ hơn $900 triệu. Ngân hàng A có thể phát hành S9GG triệu nợ dài
hạn mà không phải lo sợ một cuộc chạy đua rút tiền. Trong trường hợp cú sốc tiền gửi xảy ra,
ngân hàng có thể chi trả S2GG triệu cho người gửi bằng cách thu hồi S2GG triệu nợ ngắn hạn.
Nếu ngân hàng phát hành nhiều hơn $900 triệu nợ dài hạn, ví dụ như $1 tỉ, như vậy ngân hàng
chỉ có S1GG triệu nợ ngắn hạn để thu hồi trả cho S2GG triệu tiền gửi bị rút ra, như vậy ngân
hàng A phải đối mặt với một cuộc chạy đua rút tiền.
Một khía cạnh khác, 0i cho thấy tối đa ảnh hưởng của thanh khoản đến ngân hàng. 0i
càng thấp, tài sản thanh khoản càng nhiều, ngân hàng càng an toàn để vượt qua những cú sốc
thanh khoản.
Theo quan điểm về rủi ro thanh khoản, o đo lường khả năng thanh khoản của tài sản
ngân hàng, cái không thể đo lường bằng tác động của đòn bẩy. Ý tưởng này có thể được áp
dụng cho các tổ chức tài chính khác. Ví dụ: những cú sốc thanh khoản với những quỹ đầu tư
dài, ngắn hạn được đo lường bằng khoản chiết khấu vào giá. Trong 2 thập kỉ trước, lãi suất
chiết khấu bình quân của trái phiếu hạng AAA phổ biến từ 4% đến 8%. Bảng 1 cho thấy sự
thay đổi của lãi suất chiết khấu lên khả năng tài chính của các quỹ.
~ 21 ~
Giả sử lãi suất chiết khấu hiện tại là 4%, và một quỹ đầu tư với vốn chủ sở hữu $1 tỉ, có thể
vay mượn $24 tỉ bằng bán khống. Miễn là quỹ này giữ tỉ lệ LLSS o <60%. Ví dụ, quỹ đầu tư
$9.33 tỉ vào tín phiếu kho bạc và phần còn lại vào cổ phiếu những công ty nhỏ. Quỹ đầu tư có
thể điều chỉnh vị thế tín phiếu kho bạc theo lãi suất chiết khấu, và giữ lượng cổ phiếu như
mong muốn. Quỹ đầu tư an toàn với đòn bẩy từ 25 đến 15.67 miễn nó giữ o thấp hợp lý. Nếu
không việc bán tháo cổ phiếu, là tài sản kém thanh khoản, có thể làm mất khả năng kiểm soát
quỹ. Ngay cả việc lựa chọn đòn bẩy thấp, như 17, thì sự mất mát từ việc bàn tháo cổ phiếu
cũng không thể tránh khỏi nếu quỹ đầu tư tất cả tiền mà quỹ vay mượn được vào cổ phiếu kém
thanh khoản. Trong 1998, LTCM đã phá sản vì tác động của lãi suất chiết khấu, khi tài sản của
chúng nhìn chung là khá kém thanh khoản.
Định lý 1 chỉ ra rằng khả năng phát hành nợ dài hạn của ngân hàng phụ thuộc vào {ci}.
M & A là một cách hiệu quả để làm giảm những cú sốc tiền gửi. Hãy tưởng tượng có 2 ngân
hàng A và B, cung cấp cùng một nhóm các dịch vụ. Kênh đầu tư mà người dân lựa chọn là gửi
tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Nếu A và B hoạt động riêng biệt, thì lượng tiền gửi của họ trong
tương lai phụ thuộc vào sở thích của cư dân. Giả sử A và B có vốn chủ sử hữu là mA=mB=$100
triệu và tiền gửi ban đầu là SAo= Bo=$1 tỉ. Sự chuyển giao tiền gửi một cách ngẫu nhiên giữa 2
ngân hàng là ±$100 triệu. Để chuẩn bị cho việc rút tiền $100 triệu, cả 2 ngân hàng đều xây
dựng tỉ lệ LLSS 0*=90.9% (=1/1.1). Cung tín dụng tổng cộng là $2.2 tỉ nhưng tổng khoản cho
vay là $2 tỉ. Nếu A và B sáp nhập thành ngân hàng C, C có vốn chủ sở hữu là $200 triệu, lượng
tiền gửi ban đầu là $2 tỉ, tỉ lệ LLSS 0* C=1 (không còn cú sốc tiền gửi đơn lẻ nữa). Tổng giá trị
các khoản cho vay lúc này là $2.2 tỉ. Ngành ngân hàng trong trường hợp này an toàn, không có
rủi ro thanh khoản.
Như vậy, M & A làm giảm những cú sốc tiền gửi đơn lẻ và làm tăng ngưỡng an toàn
của tỉ lệ LLSS o*. Ngành ngân hàng có thể cho vay dài hạn nhiều hơn mà không làm tăng rủi
ro thanh khoản nhờ M & A.
Trước 1990, thị trường vẫn chưa hoàn thiện, vì vậy tất cả các ngân hàng tập trung vào
khách hàng từ khu vực phi tài chính. Chúng ta sử dụng chỉ tiêu tổng khoản vay thế chấp nhà
trên tổng tiết kiệm làm đại diện cho tỉ lệ LLSS. Hình 2 cho thấy trước 1990, tỉ lệ này ở các
ngân hàng nhỏ trong vòng 15%, trong khi đó các ngân hàng lớn trong khoản 35% đến 4G%.
~ 22 ~
Khi phục vụ khách hàng từ khu vực phi tài chính, các ngân hàng tư nhân phải nắm giữ
thêm nhiều tiền mặt và tài sản thanh khoản để quản lý những cú sốc tiền gửi, là việc rút tiền
hoặc chuyển giao tiền gửi giữa các ngân hàng. Tổng tiền mặt và tài sản thanh khoản của ngành
ngân hàng trong giai đoạn này nhiều hơn cần thiết để đáp ứng rút tiền thuần. Do đó, ngành an
toàn, nhưng không hiệu quả vì tổng khoản vay dài hạn thấp hơn tiềm năng.
2.5.1.2.
Hoạt động thị trường liên ngân hàng và Oi:
Phần này thảo luận làm thế nào hoạt động thị trường liên ngân hàng có thể chia sẻ và
loại bỏ những cú sốc tiền gửi. Kết quả còn dự báo hạn mức thị trường liên ngân hàng. Những
ngân hàng tư nhân xem thị trường liên ngân hàng như nguồn lực bên ngoài để vượt qua những
cú sốc tiền gửi và làm giảm tài sản thanh khoản của mình. Ngân hàng trong trường hợp này
không phải gia tăng rủi ro, vì hoạt động của thị trường liên ngân hàng làm tăng tỉ lệ LLSS d l.
Chúng ta sử dụng ABCP và MBS để đại diện cho hoạt động của thị trường liên ngân
hàng. Đến năm 2007, MBS chiếm 76% công cụ tín dụng ở Mỹ có giá trị hơn $1G,GGG tỉ
(Randall Wray [33]), ABCP toàn cầu đạt $12,1GG tỉ trong đó 32% được phát hành ở Mỹ.
(Viral và Philipp [14]).
Định lý sau đây cho thấy ABCP và MBS cung cấp một nền tảng để các ngân hàng chia
sẻ và loại bỏ những cú sốc tiền gửi đơn lẻ, và tăng d l.
Định lý 2 : ngân hàng i đối mặt với cú sốc tiền gửi đơn lẻ Si và một phần pi của cú sốc
hệ thống S. Với ABCP và MBS, giải pháp tối ưu cho vấn đề tối đa hóa lợi nhuận là
*
H<
Oi = 0
qli = min{Sị,0 + ps + mị, di} qsi,t
= min{Si,t + mị - qlị,t, di,t}
Trong đó, 0* = ^(s/' 0+m ừ+ - là ngưỡng an toàn LLSS của ngành.
z(s i' 0 + m i)
~ 23 ~
Một ví dụ tương tự như phần 2.1.1 là một minh họa hữu ích cho định lý 2. Có 2 ngân
hàng A và B với vốn chủ sở hữu $100 triệu và tiền gửi ban đầu là sA=sB= $1 tỉ vào thời điểm 0.
Cú sốc chuyển giao tiền gửi giữa 2 ngân hàng ngẫu nhiên là ±$200 triệu. Khi những cú sốc hệ
thống bằng không, thì Q*=1, và tổng tiền gửi là $2 tỉ. Nếu không có ABCP, tiền gửi ngân hàng
A vào thời điểm 1 sA1 hoặc là $1200 triệu hoặc là $800 triệu. Ngưỡng an toàn tỷ lệ LLSS của
ngân hàng là 81.1% (=1 0 0 0+1 0 0 ~20 0). Ngành ngân hàng
giữ $400 triệu tài sản thanh khoản để tránh xa khỏi những cuộc chạy đua rút tiền. Tổng các
khoản vay của dân chúng là $1.8 tỉ, tổng cung vốn là $2.2 tỉ cũng không chắc chắn.
Khi có tài trợ bên ngoài, ABCP cải thiện ngưỡng tỉ lệ LLSS an toàn của A và B từ
81.8% lên Q. Vốn vào ngắn hạn của ngân hàng vào thời điểm 1 là cA 1=sA 1+aA 1 , trong đó aA 1 là
giao dịch ABCP và được ngân hàng kiểm soát. Khi sA 1 = $800 triệu, A bán 200 triệu ABCP để
đáp ứng nhu cầu rút tiền 200 triệu; khi sA =$1.2 tỉ, A có thể mua 200 triệu ABCP từ B. Do đó,
1
A và B loại bỏ những cú sốc tiền gửi đơn lẻ, và dòng vốn vào vào
thời điểm 1 là một số xác định cA1=cB1=$1 tỉ. Khi c =$1 tỉ, OA=——— = l o o %.
A 1
’
’
’
A
Sa,o+mA
Tương tự =1.
MBS tạo ra tính thanh khoản giữa hai ngân hàng để cho ra một kết quả tương tự. Nếu
không có MBS, rất tốn kém để các ngân hàng thu hồi các khoản cho vay dài hạn nếu chưa đến
hạn.
Với hoạt động của thị trường liên ngân hàng, tổng khoản cho vay vào thời điểm 0 tăng
lên đến $2.2 tỉ. Ngân hàng A và B không còn đối mặt với những cú sốc tiền gửi đơn lẻ nữa, và
ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS tăng lên đến mức tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng A và B tăng
cho vay dài hạn mà không gây thêm rủi ro thanh khoản.
Định lý 2 cũng cho thấy rằng thị trường ABCP và MBS là có giới hạn. Lưu ý:
Oí = Q và g =min{si,0+pis+mi,dli}. Những ngân hàng tư nhân nắm giữ tiền mặt và tài sản thanh
/
i
khoản để chuẩn bị đương đầu với những cú sốc hệ thống, và ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS của
từng ngân hàng o không thể vượt quá ngưỡng an toàn của ngành Q. Khi ngân hàng tin tưởng
sai lầm rằng thị trường ABCP và MBS vô hạn, thì họ có thể phát hành quá mức các khoản vay
dài hạn vào thời điểm đó. Trong trường hợp xấu xảy ra, ngân hàng không có đủ tiền mặt và tài
sản thanh khoản để vượt quá cú sốc hệ thống. Sau khi sử dụng hết tài sản thanh khoản, ngân
~ 24 ~
hàng bắt đầu thanh lý những tài sản ít thanh khoản để đáp ứng việc rút tiền không được mong
đợi này. Sau đó cầu ABCP và MBS vượt qua cung từ các ngân hàng khác, ảnh hưởng của việc
thanh lý các khoản vay dài hạn lên nền kinh tế không thể tránh khỏi. Và việc bán tháo tài sản
vào thời điểm xấu này làm mất niềm tin của nhà đầu tư, điều này có thể càng làm nguy hiểm
hơn cho ngành tài chính và nền kinh tế thực.
2.5.I.3.
Tấm đệm an toàn Minsky:
Phần này nghiên cứu tấm đệm an toàn tỉ lệ LLSS của ngành 0 và việc phân bổ tài sản
trong ngành 0. 0 được quyết định bởi những cú sốc tiền gửi hệ thống, và quyết định tối thiểu
hóa tài sản thanh khoản ngân hàng để đối phó với những cú sốc tiền gửi; 0 được xác định bằng
phân bổ tài sản hiện tại của ngân hàng. Khoảng cách giữa 0 và 0 cho biết liệu ngành ngân hàng
đầu tư có đủ linh động để ứng phó với những cú sốc thanh khoản.
0 và 0 còn quyết định sự thỏa hiệp giữa an toàn thanh khoản và hiệu quả hoạt động. Khi
0 << 0 toàn ngành an toàn nhưng không hiệu quả; 0 « 0 ngành an toàn và hiệu quả; 0 > 0 ngành
có lợi nhuận cao nhưng không thể tồn tại qua một cú sốc. Sự cải tiến tài chính đóng vai trò
quan trọng trong sự thay đổi 0, trong khi đó 0 tương đối ổn định.
Nếu không có hoạt động thị trường liên ngân hàng, những ngân hàng tư nhân cung cấp
dịch vụ cho khách hàng từ bộ phận phi tài chính. Mức lợi nhuận của ngành ngân hàng trong
trường hợp này an toàn cao. Trong trường hợp này ngân hàng tư nhân phải nắm giữ đủ tài sản
thanh khoản để đối phó với cả hai cú sốc hệ thống và đơn lẻ. Ngân hàng lựa
chon tỷ lệ LLSS thấp: ỚJ = - —9-——-—- ,và nợ dài hạn là sị n+os+ &ị+mị . Trong đó, & và
Si,o+m
’
-
s lần lượt là cú sốc đơn lẻ và hệ thống. Khi & và s độc lập, các khoản cho vay dài hạn của
s — £—M—£ &
ngành là S+s+M+Z &■ , và tỉ lệ LLSS ngành là 0 =-------------—. Toàn ngành ngân phải gia
tăng tài sản thanh khoản £ & để chuẩn bị cho cú sốc thanh khoản đơn lẻ, 0 thấp hơn ngưỡng an
toàn tỉ lệ LLSS của ngành 0.
~ 25 ~
Khi thị trường liên ngân hàng hoàn thiện, các ngân hàng chia sẻ và loại bỏ cú sốc đơn
lẻ thông qua ABCP và MBS. An toàn trong lợi nhuận của ngân hàng bằng 0. Trong trường hợp
này, giao dịch ABCP và MBS thực sự xóa cú sốc đơn lẻ, ai+bị+ậ=0. Tỉ lệ
— Sịo+PiE+mị
LLSS của ngân hàng 6 j = ———----- và khoản cho vay dài hạn của họ là s j 0 + p ị£ + m j.
Si,o+m
—-—
'
Do đó, khoản cho vay dài hạn của ngành ngân hàng là S+s+M. Và tỉ lệ LLSS ngành
0=5+~+M, bằng với ngưỡng an toàn LLSS 0. Toàn ngành giữ đủ tài sản thanh khoản để
ứng phó với cú sốc hệ thống và đứng vững trong trường hợp một cuộc chạy đua rút tiền tồi tệ
nhất diễn ra.
Với sự lạm dụng hoạt động của thị trường liên ngân hàng, ngân hàng giả định sai rằng
thị trường liên ngân hàng vô tận. Ngân hàng mong đợi vào ABCP và MBS để vượt qua cả cú
sốc hệ thống và đơn lẻ trong tương lai, và phát hành một lượng lớn các khoản vay dài hạn.
Khoản cho vay dài hạn của ngành cao hơn S+s+M, và tỉ lệ LLSS của ngành
cao hơn 0. An toàn trong lợi nhuận của ngành âm. Toàn ngành không giữ đủ tài sản thanh
khoản để đói phó với những cú sốc hệ thống, và cuộc chạy đua rút tiền là không thể tránh
khỏi.
Phần tóm tắt sau đây thể hiện tác động của thay đổi của an toàn lợi nhuận:
Ỡi
Không có ABCP
ABCP hoàn thiện
Lạm dụng ABCP
aị+bị=0
aị+bị= - ệi
aị+bị=- (Pi£+ ậ)
0ị = 1 +
Pi£ + ỉi
Si, 0 + mị
Pi£
Oi = 1+ —
Si, 0 + mị
Pi£
Oi > 1 + ———
Si, 0 + mị
0
0<0
0=0
0>0
An toàn lợi nhuận
Cao
0
Âm
Lợi nhuận
Thấp
Cao
Rất cao
2.5.2. Khủng hoảng nợ 1990 đến 2008:
2.5.2.1.
Tiến trình khủng hoảng nợ:
Cuộc khủng hoảng dưới chuẩn được kích hoạt bằng mất mát $500 tỉ cho vay thế chấp
nhà. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng có thể nhìn lại từ hoạt động của Bill Clinton năm
1997 là miễn thuế từ kinh doanh bất động sản. Những năm sau đó ngân hàng dự trữ liên bang