TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
VẬN DỤNG VÀO VIỆC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
HIỆN NAY Ở TỈNH SÓC TRĂNG
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục Công dân
Mã ngành: 52140204
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
ThS. Đinh Văn Phương
Ngô Thị Chi
Mssv: 6064635
Khóa: 32
CẦN THƠ 05/2010
0
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Suốt cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mang trong mình hoài bão và chí
hướng kiên định đấu tranh vì độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Trong
suốt 30 năm tìm đường cứu nước, Người đã đọc nhiều tác phẩm của các triết gia lớn
như: Tolstoy, Dostoevky, Huygô, Dickens.... Mang theo tấm lòng yêu nước và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc cùng với vốn hiểu biết về văn hoá phương Đông và
phương Tây Hồ Chí Minh đã trở thành người Cộng sản duy nhất của một nước
thuộc địa ngay tại chính quốc Pháp. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu thể chế của các
nước Pháp, Mỹ và thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga, từ đó, Người đã
chọn con đường của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và vận dụng sáng tạo những bài học
của Cách mạng Tháng 10 Nga để lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng nền độc lập - tự do, đi lên chủ nghĩa xã hội vì
mục tiêu “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, xây dựng nên nhà
nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đó chính là hình thức nhà nước pháp quyền mà Hồ Chí Minh đã dày công
tìm tòi, xây dựng nên để nhân dân ta được sống tự do, độc lập như ngày nay.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của nước ta ngày càng được đẩy mạnh đặt ra những nhiệm vụ hết sức
cấp thiết, đòi hỏi Nhà nước ta cần có sự đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn
trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội.
Mặt khác, trong công cuộc đổi mới hiện nay, những yếu kém của bộ máy
Nhà nước ngày càng bộc lộ rõ: Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, việc thi hành pháp
luật chưa nghiêm, tổ chức bộ máy Nhà nước cồng kềnh, kém hiệu lực và hiệu quả
thấp, nạn quan liêu, lãng phí và tham nhũng nghiêm trọng, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ còn yếu, sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường đúng mức…
Trong tình hình đó thì việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay là việc làm hết sức cần thiết. Và
1
để hiểu rõ hơn tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, cũng như việc
vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng chính quyền cả nước và ở từng địa
phương mà cụ thể là ở Sóc Trăng thì việc vận dụng đó được thực hiện như thế nào?
Có ý nghĩa và kết quả ra sao? Đó cũng là lý do tôi chọn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước pháp quyền, vận dụng vào việc cải cách hành chính hiện nay ở tỉnh
Sóc Trăng” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về Nhà nước pháp quyền – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ đó làm cơ
sở tổng kết những thành tựu đạt được cũng như rút ra những mặt hạn chế, yếu kém
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay nói chung và
ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng, để từ đó đề ra những nhiệm vụ, phương hướng và giải
pháp cần thiết để xây dựng chính quyền tỉnh Sóc Trăng thực sự trong sạch, vững
mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho công cuộc đổi mới hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền là một vấn đề rộng. Trong
phạm vi luận văn, chỉ tập trung làm rõ các vấn đề sau:
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền - Nhà nước của
dân, do dân, vì dân.
- Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp
quyền – Xây dựng Quốc hộ, Hiến pháp, xây dựng Chính phủ, xây dựng cơ quan Tư
pháp và đội ngũ công chức trong Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Xây dựng chính quyền tỉnh Sóc Trăng trong sạch, vững mạnh dưới ánh
sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Thực trạng công tác cải cách hành chính tỉnh Sóc Trăng hiện nay, giải
pháp nhằm xây dựng và nâng cao hiệu lực quản lý trong lĩnh vực cải cách hành
chính của tỉnh.
2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của
Đảng cộng sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu. Đồng
thời trong quá trình nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề, luận văn còn sử dụng những số
liệu, nhận xét, đánh giá của một số công trình nghiên cứu của các tác giả có liên
quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các nguyên tắc có tính phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp logic – lịch sử
- Phương pháp diễn dịch
- Phương pháp quy nạp
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 2 chương, 5 tiết.
3
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp quyền và Nhà Nước pháp
quyền
1.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp quyền
Thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” do các chuyên gia về Hiến pháp và luật
người Đức và người Áo nêu ra lần đầu tiên vào đầu thế kỷ XIX. Từ đấy, thuật ngữ
“pháp quyền” được áp dụng tại nhiều nước theo một tiêu chí như một chế độ của
Nhà nước, và nó có thể so sánh được với quá trình phát triển của khái niệm “nhân
quyền”. Khi nói đến “Nhà nước” là nói đến một tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan
chuyên chính của một giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế. Khi nói đến “pháp
quyền” là nói đến hệ thống luật pháp tiêu biểu cho quyền lực của một Nhà nước,
cho bản chất của một chế độ.
Ở nước ta, có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi tiên phong, mở
đường cho nền pháp quyền Việt Nam. Ngay từ năm 1919, trong Yêu sách của nhân
dân An Nam gồm 8 điểm gửi đến Hội nghị Vécxây, đã có bốn điểm liên quan đến
pháp quyền:
1. Tổng ân xá cho tất cả những nguời bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lí ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được
quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người Châu Âu, xóa bỏ hoàn
toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung
thực nhất trong nhân dân An Nam;
7. Thay chế độ ra các sắc luật bằng chế độ ra các đạo luật
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị
viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
[12, tr.435 – 436]
Về sau, để dễ tuyên truyền và phổ biến được rộng rãi trong quần chúng,
Người đã chuyển bản yêu sách trên thành Việt Nam yêu cầu ca, trong đó có các câu:
4
Hai xin pháp luật sửa sang,
Người Tây, người Việt, hai phương cùng đồng.
....
Bảy xin Hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền [12, tr.438].
Tư tưởng về pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản yêu sách nói
trên chính là việc tôn trọng quyền con người, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật, chính quyền phải là chính quyền do dân lựa chọn. Trong bản Việt Nam yêu
cầu ca, chúng ta thấy Bác chỉ nói đến pháp quyền, chứ chưa nói đến một Nhà nước
pháp quyền. Pháp quyền trong “thần linh pháp quyền” được hiểu là pháp luật về
quyền. Ở đây là quyền tự nhiên của con người đã được Người khẳng định trong bản
Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa
ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...”. Như vậy, hệ
thống pháp luật được đề ra để bảo vệ các quyền “tạo hóa” ban cho con người được
gọi là pháp quyền. Thần linh pháp quyền là một cách nói theo ngôn ngữ ngày nay,
là ý thức, tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, họat động của bộ
máy Nhà nước, cơ quan Nhà nước, môi trường pháp lí phải bao trùm mọi mặt, mọi
lĩnh vực đời sống xã hội. Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh
nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp
luật. Đồng thời đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong họat động quản lí Nhà
nước của Người.
Một điểm khác đáng lưu ý trong tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và giáo dục đạo đức. Người nói:
Không xử phạt là không đúng nhưng chút gì cũng xử phạt là không đúng, Nhà nước
phải vừa giáo dục, vừa sử dụng pháp luật để cải tạo, giúp đỡ mọi người trở nên
lương thiện. Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là
công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Trong thực tế, Người đã kết hợp
chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo
5
dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách mạng
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trong quan niệm Hồ Chí Minh, đạo
đức là cơ sở xây dựng, thực hiện pháp luật. Nền pháp quyền của ta là nền pháp
quyền hợp đạo đức, có nhân tính. Hồ Chí Minh lý giải: nghĩ cho cùng, vấn đề tư
pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời
và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức.
Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc,
nhân loại khỏi đau khổ. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các
quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm
lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm
đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc
Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền
nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân
chủ sâu sắc.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Để Nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nhằm làm cho hoạt động của Nhà
nước đem lại hiệu quả xã hội thực sự.
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà mọi người được tôn trọng, dân chủ
được mở rộng, người dân sống và làm theo luật định. Nhà nước pháp quyền là nhà
nước phải thực hiện được việc điều hành và quản lý xã hội bằng pháp luật. Từ rất
sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của pháp luật trong điều hành và
quản lý xã hội.
Trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam, Người đã nêu ra 4 điều liên
quan đến pháp quyền. Tư tưởng pháp quyền này đã xuyên suốt tổ chức và hoạt động
của Nhà nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ. Luật phải tổ chức hoạt động, mọi
tổ chức, mọi người dân.
Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người đã nhấn mạnh: “Bảy xin Hiến pháp ban
hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực
6
của đời sống điều chịu sự chi phối của pháp luật. Pháp luật là cơ sở đảm bảo thực
hiện các quyền tự do dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.
Pháp quyền là phương tiện, còn hiệu quả quản lý xã hội làm cho đất nước ngày
càng tăng trưởng, ổn định chính trị, kinh tế, đời sống nhân dân càng cao mới là mục
đích của Người. Hồ Chí Minh nói rằng, có độc lập mà dân vẫn không có cơm ăn, áo
mặc thì độc lập, tự do cũng không có ý nghĩa gì. Nhà nước pháp quyền mà các chỉ
số phát triển về kinh tế, dân sinh không phát triển thì pháp quyền chỉ là hình thức.
Pháp luật của chúng ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người dân
lao động, bảo vệ lợi ích tập thể, lợi ích của Nhà nước. Pháp luật của ta thật sự dân
chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Theo Hồ Chí
Minh, luật pháp của ta phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực lượng lao động để
làm nền tản xây dựng Nhà nứơc, xây dựng xã hội. Đó là nội dung quyết định bản
chất của Nhà nước ta và pháp luật của Nhà nước ta dựa vào đó để xây dựng. Từ
việc xây dựng các thể chế dân chủ cộng hòa, xây dựng quân đội, bộ máy kinh tế
trên cơ sở của chế độ sở hữu toàn dân, đến các thiết kế văn hóa điều phải tuân thủ
các thể chế, quy định của pháp luật.
Luật pháp của chế độ dân chủ cộng hòa khác xa luật pháp của chế độ phong
kiến cũng như tư bản. Nó không phải là vũ khí của giai cấp công nhân thống trị xã
hội, dùng để trừng trị các giai cấp khác, nó cũng không vụ, không vì lợi ích riêng
của một tầng lớp người nào, mà nó phục vụ lợi ích của toàn dân. Hồ Chí Minh hiểu
sâu sắc về bản chất của Nhà nước, pháp luật. Vì vậy, Người quan tâm lớn đến việc
phải xây dựng Nhà nước hợp pháp, hợp hiến và trên cơ sở đó xây dựng một nhà
nước pháp quyền.
Theo Người, luật pháp là cần thiết là quan trọng của mỗi quốc gia. Khi
không có pháp luật dễ đẩy xã hội đến cảnh hỗn loạn, vô chính phủ. Khi luật được
ban hành, Nhà nước phải tổ chức triển khai phổ biến cho toàn dân học tập để cuối
cùng cho mọi người dân hiểu để thực hiện. Người không cho phép bất cứ một ai dù
cá nhân hay tổ chức Nhà nước mà đứng ngoài pháp luật. Trong quá trình thực thi
pháp luật, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đảm bảo tính khách quan, công bằng bình
7
đẳng. Luật pháp cho mọi người cùng thực hiện, luật pháp không chỉ bênh vực các tổ
chức nhà nước mà còn bênh vực quyền lợi của người lao động.
Nổi bật trong ý tưởng trị nước của Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”. Người nhận rõ: “Luật pháp phải dựa vào đạo
đức”. Chúng ta biết, do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội xuất hiện nên cần có
những quy tắc phù hợp; nhà nước phải ban hành các quy phạm. Nhà nước sử dụng
pháp luật để tổ chức xã hội và dùng quyền lực cưỡng chế đối với các hành vi vi
phạm pháp luật. Hồ Chí Minh đòi hỏi pháp luật của ta phải thẳng tay trừng trị kẻ bất
lương, bất kể kẻ ấy có địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Đồng thời, pháp luật làm căn
cứ để tổ chức và hoạt động Nhà nước là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội, là
phương tiện để nhân dân giám sát, kiểm tra hoạt động của Nhà nước. Thế nhưng,
bên cạnh giáo dục ý thức pháp luật, cần đẩy mạnh giáo dục đạo đức, nâng cao giác
ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, kết hợp chặt
chẽ cả đạo đức và pháp luật để “trị nước”.
Tư tưởng “đức trị” và “pháp trị” của Hồ Chí Minh không hề loại trừ nhau
mà thống nhất thành chỉnh thể, thường xuyên bổ sung hỗ trợ nhau. Hồ Chí Minh
dùng “Đức” để cảm hóa, ngăn cản những thói hư tật xấu. Người thưởng , phạt rõ
ràng, ai có công phải được khen thưởng, ai có tội phải bị pháp luật trừng trị. Có như
thế mới mở rộng được dân chủ, pháp luật mới nghiêm, mọi người điều bình đẳng
như nhau, mới ngăn chặn được cái xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ cái tốt, cái
thiện vốn có trong mỗi con người.
Nhà nước pháp quyền trong quan niệm của Hồ Chí Minh còn là Nhà nước
có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc
của Nhà nước; các cơ quan quyền lực của Nhà nước phải được tổ chức và vận hành
theo nguyên tắc thống nhất – phân quyền nhằm hạn chế sự chuyên quyền và lạm
quyền; đó là Nhà nước mà đội ngũ cán bộ, công chức phải đủ đức đủ tài, hết lòng
phục vụ nhân dân.
Trong Nhà nước pháp quyền, theo Hồ Chí Minh là Nhà nước phải quản lí
xã hội bằng pháp luật và pháp luật phải là pháp luật dân chủ, bảo vệ quyền tự do
dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động.
8
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh cũng là tư tưởng về
Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Người luôn căn dặn: “Nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ...”,[17, tr.515] “chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”[16, tr.698].
Nói một cách khái quát, Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của Hồ Chí
Minh là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức,
hoạt động của bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân.
1.2. Nhà nước của dân, do dân, vì dân là Nhà nước pháp quyền dân chủ
nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân và vì dân mang
rất nhiều nội dung. Theo Người, nhà nước của dân, do dân và vì dân đây là một Nhà
nước kiểu mới, do tổng tuyển cử tự do của nhân dân lập ra, là Nhà nước hợp pháp
dựa vào lực lượng và sức mạnh của nhân dân, dựa trên nền tảng là liên minh của
các giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản. Người cho rằng: sau khi dành cách mạng “đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến” phải “xây dựng ra chính phủ công, nông , binh”, lập
ra chính quyền của đa số người lao động.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một
Nhà nước dân chủ kiểu mới, Nhà nước do nhân dân lao động là chủ và do nhân dân
lao động làm chủ. Xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động là chủ là tư tưởng nhất
quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đây cũng là kết luận
có tính nguyên tắc mà Người rút ra được khi khảo cứu các cuộc cách mạng Mỹ,
Pháp, Nga và các kiểu Nhà nước được hình thành sau các cuộc cách mạng đó. Ngay
từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã khẳng định dứt khoát: “Chúng ta đã hy sinh làm cách
mệnh, thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần,
9
thế dân chúng mới được hạnh phúc” [13, tr.270]. Trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng – Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, được Hồ Chí
Minh soạn thảo và thông qua tháng 2 - 1930, khái niệm dân chúng số nhiều đã được
cụ thể hóa, bao gồm quần chúng công – nông – binh, những bộ phận đông đảo, chủ
yếu nhất trong cơ cấu dân cư. Nhà nước Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đoàn
kết dân tộc mà nồng cốt là công – nông – trí thức. Tất cả mọi người dân Việt Nam,
không phân biệt gái trai, giàu nghèo, nòi giống, dân tộc, giai cấp tôn giáo đều là
người làm chủ đất nước, có trách nhiệm xây dựng Nhà nước.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Tất cả
quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. “Nước ta là nước dân
chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân”.
1.2.1. Nhà nước của dân
Là chế độ Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhân dân bầu ra các
Hội đồng nhân dân, Ủy ban kháng chiến hành chính địa phương, và Quốc hội cùng
Chính phủ Trung ương. Điều 1 – Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban
soạn thảo đã khẳng định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Bên cạnh đó ở Điều 32 – Hiến pháp
1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân
dân phúc quyết…”. Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ
trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
Còn ở Điều 4 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Tất cả quyền lực trong nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực
của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Đó là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Từ đó nó trở thành
một nguyên tắc nền móng trong tổ chức, xây dựng Nhà nước mới của toàn Đảng
toàn dân ta và nó được quy định rõ trong các bản Hiến pháp của ta.
10
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân ủy quyền cho các đại diện do
mình bầu ra. Đồng thời, “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân” [20, tr.591].
Trong Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền
dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa
vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nổ lực, hình thành được
các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Trên cơ sở đó, các
vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc của
dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này.
Mệnh đề “dân là chủ Nhà nước” được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều lần, thể
hiện rõ nét nhất thực chất, bản chất và tính chất vượt trội của Nhà nước kiểu mới
Việt Nam: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ…” [17,
tr.515]. “Trong Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi
quyền lực đều là của nhân dân…” [18, tr.217]. “Chế độ của ta là chế độ dân chủ.
Nhân dân là chủ…” [18, tr.368]. “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người
lao động” [21, tr.310].
Cũng theo Người thì: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ”. Hay:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích điều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn điều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng điều thuộc nơi dân”.
Qua những điều được đề cập trên đây thể hiện rõ nội dung chính trị khi Hồ
Chí Minh nhấn mạnh về vấn đề Nhà nước. Người đã diễn đạt một cách rất ngắn gọn
11
về quyền lực của nhân dân trong việc cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước cũng như
toàn bộ hệ thống chính trị trong xã hội dân chủ. Và Người đã nhiều lần khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” [18, tr.452].
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta thì quyền làm chủ của
nhân dân càng trở nên cần thiết, toàn diện hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh và có ý
nhắc nhở:
Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy công nhân,
nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: hiện nay nhân dân lao động là
những người làm chủ nước nhà, chứ không phải là những người làm thuê cho giai
cấp bốc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình
xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc của mình [21, tr.310].
Quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân là một giá trị dân chủ, một thành
quả do cách mạng đem lại. Bởi thế:
Tất cả nhân dân ta phải hiểu sâu sắc rằng: nước nhà là nước nhà của nhân dân ta,
nhân dân ta là người chủ nước nhà. Quyền làm chủ đó là do cách mạng thành công
và kháng chiến thắng lợi đem lại cho nhân dân ta.
Dân làm chủ, thì mọi người, mọi dân tộc phải chung sức làm cho dân giàu, làm cho
đời sống nhân dân được cải thiện, làm cho con cháu ta ngày càng sung sướng [21,
tr.334].
Như vậy, Hồ Chí Minh muốn lưu ý hai mặt tác động lẫn nhau của quyền
làm chủ: làm chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là phương thức tiếp cận nội hàm dân chủ chủ yếu
của Người. Bản chất dân chủ của Nhà nước thể hiện trước hết ở vị thế của người
dân trong Nhà nước đó. Định nghĩa “dân chủ là dân làm chủ” rất súc tích, ngắn gọn,
nhưng lại có ý nghĩa khái quát cao, phản ánh quá trình phát triển tư tưởng tiến bộ
của loài người trong vấn đề dân chủ. Nó xuất phát từ một quan niệm truyền thống,
xác định rõ dân là gốc của nước. Đồng thời cho thấy, tính chất dân chủ là đặc trưng
nổi bật của chính quyền Nhà nước kiểu mới. Nó khẳng định nguồn gốc, sức mạnh,
và chủ thể quyền lực Nhà nước là ở nhân dân lao động. Trong nước ta, nhân dân là
người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan Nhà nước do nhân dân tổ chức ra,
12
nhân viên Nhà nước là người được ủy quyền, thực hiện ý chí, nguyện vọng của
nhân dân, trở thành công bộc của nhân dân. Thể chế dân chủ cộng hòa đã làm thay
đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị và thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở
vị trí cao nhất, Nhà nước không còn là công cụ thống trị, nô dịch như trong thời
phong kiến, tư bản nữa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh quyền làm chủ của nhân dân có nội dung rất
rộng với một cơ chế nghiêm ngặt và được cụ thể hóa trong các điều khoản của luật.
Vận dụng quan niệm của Nho giáo “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh”, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý
bằng nhân dân”[19, tr.276]. Chỉ có nhân dân, do địa vị tối cao của mình, mới có
quyền quyết định những vần đề quan trọng nhất của quốc gia dân tộc và đất nước;
chỉ có nhân dân mới trở thành chỗ dựa vững chắc của Nhà nước.
1.2.2. Nhà nước do dân
Đó là Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; Nhà
nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động; nhà
nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó Người yêu cầu: Tất cả các
cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. “Nếu
Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Nghĩa là cơ quan đó
không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn
nó. Khác với quan điểm duy tâm siêu hình cho rằng, sức mạnh của Nhà nước mang
tính siêu nhiên, do một lực lượng “đứng trên”, “đứng ngoài” Nhà nước để điều
khiển nó, Hồ Chí Minh là người duy vật biện chứng mác-xít đi tìm sức mạnh của
Nhà nước trong đời sống hiện thực. Hồ Chí Minh rất tâm đắc với quan niệm của cha
ông: Lật thuyền là dân mà chở thuyền cũng là dân và quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin: quần chúng nhân dân là động lực chủ yếu của mọi tiến trình lịch sử và
khẳng định: “Nhân nghĩa là nhân dân…Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân” [19, tr.276]. Hồ Chí Minh thấy rất rõ vai trò của Nhà
nước và sức mạnh của lực lượng nhân dân trong mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà
nước. Người cho rằng: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không có lực lượng,
13
nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ và
nhân dân phải đoàn kết thành một khối” [15, tr.56].
Nhà nước phải dựa vào nhân dân, sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ sức
mạnh của nhân dân, của quần chúng lao động – đó là nguyên tắc quan trọng nhất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Chân lý lịch sử có giá trị phổ biến cho
mọi thời đại đó thường được Người khẳng định trong một cách nói dân gian rất đơn
giản, mộc mạc, dễ nhớ.
Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân
Sự thành bại của cách mạng, sức mạnh của Nhà nước đều gắn với vai trò
của quần chúng nhân dân lao động. Trên thực tế, lực lượng của nhân dân rất lớn,
khả năng của nhân dân là phi thường. Trong mọi vấn đề cách mạng, nếu có dân là
có tất cả, ngược lại, không có dân thì thất bại trong tầm tay.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng một Nhà nước do dân. Nhà nước do dân là Nhà nước tin dân, thấy
được rằng mọi lực lượng ở nơi dân, “chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương
do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên” [16, tr. 698]. Nhà
nước do dân là nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Nhân dân phải sử dụng cơ quan quyền lực, người đại diện của mình để thực hành
chức năng quản lý Nhà nước.
Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm
của dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản
lý Nhà nước và xã hội. Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu
quả, nhất định phải dựa vào lực lượng của dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân.
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo thông qua các
mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo
thay cho dân. Chức năng của Nhà nước là quản lý, điều hành xã hội ở cấp vĩ mô.
14
Nhà nước do dân là Nhà nước tin dân. Nhà nước tin dân, dân tin Nhà nước thì việc
gì cũng làm được, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
Nhân dân làm chủ Nhà nước thông qua việc tổ chức, xây dựng nên các cơ
quan Nhà nước bằng con đường Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ
phiếu kín. Hồ Chí Minh nhận thức Tổng tuyển cử là một quyền chính trị mà nhân
dân giành được qua đấu tranh cách mạng, là hình thức dân chủ, thể hiện năng lực
thực hành dân chủ của nhân dân.
Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những
người có tài, có đức để gánh vác việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là
người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là người công dân thì đều
có quyền đi bầu cử… Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ
cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật sự là Chính phủ của nhân dân [15, tr.133].
Thông qua việc bầu cử Quốc hội và Chính phủ, nhân dân thực hiện quyền
lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp, xây dựng nên một Nhà
nước hợp pháp theo ý nguyện của toàn dân.
1.2.3. Nhà nước vì dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thật sự của dân, do dân tổ
chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là
nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không đặc quyền, đặc lợi,
thực sự trong sạch, cần kiệm, liêm chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cả đời tôi
chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc
dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự
hiểm nghèo – là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính
quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố
gắng – cũng vì mục đích đó”. Đó là một vị Chủ tịch hoàn toàn vì dân.
Theo Người trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc của
dân. Vì vậy:
“Việc gì lợi cho, dân ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh…”
15
Nhiều nhà nước của giai cấp thống trị khi còn ở giai đoạn tích cực và tiến
bộ cũng chủ trương thân dân, thậm chí cũng tuyên bố là nhà nước “vì dân”, nhưng
đó chỉ là một thiện chí hay một chiêu bài , bởi vì cái cơ bản là nếu chính quyền đó
không của nhân dân và không do nhân dân làm chủ mà do các ông quan làm chủ thì
không bao giờ nó có thể là nhà nước vì dân được. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa
là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kì ở cấp
nào và ngành nào – đều phải là đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Đến đây, nảy sinh mối quan hệ giữa chủ nhà nước là nhân dân với người
cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân ủy quyền.
Trong các chế độ cũ Nhà nước là bộ máy của giai cấp bóc lột dùng để thống trị và
áp bức nhân dân, đè đầu cởi cổ dân. Còn trong chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh đã lật
ngược mối quan hệ đó. Người nói: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ
trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là
làm quan cách mạng”.
Ở Hồ Chí Minh đã có một sự giác ngộ đến cao độ đạo lý tất cả vì độc lập
dân tộc, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân.
Trước đây, dưới thời phong kiến người dân bị lệ thuộc, đè nén, làm theo
mệnh lệnh của người cầm quyền; quan là “phụ mẫu chi dân”, là cha mẹ dân, vua là
“con trời”, thực hiện chức năng “thế thiên hành đạo”. Trong Nhà nước kiểu mới,
quan hệ giữa người dân với người cầm quyền, với cán bộ công chức Nhà nước đã
thay đổi triệt để, tận gốc, thể hiện rõ nhất bản chất của Nhà nước mới của ta. Dân là
chủ; còn cán bộ công chức, người cầm quyền chỉ là người được ủy quyền, là “công
bộc” của dân, thay mặt dân giải quyết các công việc chung của đất nước. Hồ Chí
Minh lưu ý rằng, xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân phải theo đúng phương
châm: “…Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như
trong thời kì dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” [16, tr.698]. Hồ Chí Minh là lãnh
tụ mác-xít duy nhất xem xét quan hệ giữa Nhà nước, Chính phủ, nhân viên Nhà
nước, người cầm quyền với nhân dân, từng người công dân theo kiểu một loại quan
16
hệ gia đình mở rộng, lấy tình thân ruột rà máu mủ làm bợ đỡ, chứ không phải lấy
các chuẩn mực pháp lý làm trụ cột. Chính ở loại quan hệ này, Hồ Chí Minh đã giải
quyết thật sự nhạy cảm vấn đề quá khứ, truyền thống với hiện đại. Nếu như C.Mác
sử dụng khái niệm “công bộc” ở giai đoạn rất phát triển của xã hội, nghĩa là trong
bước quá độ chuyển từ giai đoạn thấp (chủ nghĩa xã hội) lên giai đoạn cao (chủ
nghĩa cộng sản) của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh
đã chính thức sử dụng khái niệm đó ngay từ những bước đi đầu tiên của chính
quyền dân chủ nhân dân, nhưng điều đặc biệt là không xuất phát từ một ý muốn chủ
quan, nóng vội, không “hiện đại hóa” nó, mà được nhân dân chấp nhận, bởi lẽ, từ
lâu đời trong đời sống chính trị dân tộc và trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam,
“công bộc” là một từ mà dân quá quen thuộc. Hồ Chí Minh sử dụng một thuật ngữ
cũ để chỉ nội dung mới về bản chất dân chủ của kiểu Nhà nước đang được hình
thành và từng bước xác lập vững chắc ở nước ta.
Sau này, Hồ Chí Minh còn giải thích rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân. Người nói:
Chính phủ cộng hòa dân chủ là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc
đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là
để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại cho dân thì dân có quyền đuổi
Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính
phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi [16,
tr. 60].
Hoặc “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong
bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là sự
phân công làm đày tớ cho dân” [17, tr.515].
Hoặc “chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân
dân”. Ngay cả chức Chủ tịch mà Hồ Chí Minh đảm nhận cũng được Người nhận
thức rõ trên tinh thần dân chủ, vô tiền khoáng hậu. Hồ Chí Minh tuyên bố một cách
thật lòng trước các nhà báo nước ngoài: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công
danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì
tôi phải gắng sức làm, cũng như mọi người lính vâng lâng mệnh lệnh của quốc dân
17
ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tui lui, thì tui rất vui lòng lui. Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành, riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để
câu cá, trồng hoa, sớm chiều bầu bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không
dính líu gì tới vòng danh lợi”.
Theo Hồ Chí Minh, để quan hệ của dân với Nhà nước, người cầm quyền –
công bộc có thể thực hiện được theo đúng nghĩa của nó, cần có các điều kiện:
Trước hết, đối với dân, khi trao quyền, ủy quyền cho Nhà nước, cán bộ
công chức Nhà nước thì tin cậy, tin tưởng, phải cho họ có thực quyền thì mới thực
hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, mới làm lợi cho dân, trừ hại cho quần
chúng.
Còn đối với cán bộ công chức, người cầm quyền, muốn làm tròn bổn phận
“công bộc” của dân thì phải làm thế nào để dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn vậy,
phải biết gần dân, sát dân, hiểu dân, thương dân, biết sử dụng sức mạnh của nhân
dân.
Bản chất dân chủ của Nhà nước còn thể hiện một cách tập trung ở mục đích
tổ chức, hoạt động của nó; chăm lo cho dân về mọi mặt, vì hạnh phúc, cơm no, áo
ấm của nhân dân. Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ:
Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn
đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi
người ta đem tới. Phải chăm lo cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù
chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy mọi việc có thể nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân phải được chú ý [13, tr.47].
Như vậy, chức năng đối nội cơ bản của Nhà nước là hướng dẫn nhân dân tổ
chức tốt đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phân phối cho công bằng
theo phương châm: không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo chỉ sợ
lòng dân không yên, từng bước cải thiện đời sống vật chất, văn hóa tinh thần nhằm
thỏa mãn các nhu cầu tối cần thiết hằng ngày. Theo Hồ Chí Minh:
18
Chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự
do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà
dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn
2. Làm cho dân có mặc
3. Làm cho dân có chỗ ở
4. Làm cho dân có học hành
Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng
với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập [15, tr.152].
Đem lại lợi ích cho nhân dân, chăm lo mọi mặt đời sống và thỏa mãn các
nhu cầu thiết yếu hằng ngày của họ chính là cách thức tốt nhất để mở rộng, củng cố
cơ sở xã hội – lực lượng của Nhà nước, tăng cường tiềm lực để Nhà nước có đủ sức
để quản lý xã hội, chống lại kẻ thù. Hồ Chí Minh lấy việc đáp ứng và thỏa mãn nhu
cầu, lợi ích của nhân dân làm tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt
động của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống của nhân dân được Hồ
Chí Minh đề cập đến trên mọi bình diện, trong các mối quan hệ chủ yếu nhất.
Người quan niệm rằng: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là
Đảng và Chính phủ có lỗi… Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có
hay mấy cũng không thực hiện được” [18, tr.572].
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước phục vụ nhân dân còn bao hàm cả việc biết
điều chỉnh, kết hợp được các loại lợi ích của dân, của mọi giai cấp, tầng lớp xã hội.
Đó là lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích Trung
ương và lợi ích địa phương. Người dân, nhất là nông dân, do địa vị, tầm hạn chế của
mình chỉ thấy được lợi ích cục bộ, trước mắt, không thể nhìn xa, trông rộng. Nhà
nước phải giải thích, hướng dẫn cho dân hiểu để họ từng bước thực hiện đảm bảo sự
thống nhất lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Chẳng hạn, trong hoạch định và
19
thực hiện chính sách kinh tế phải làm sao để cho: Công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi;
Nhà nước phải đại diện cho lợi ích của mọi giai tầng xã hội. Đó chính là cơ sở thực
tế để Nhà nước lấy được niềm tin của dân, dân tin Nhà nước, coi Chính phủ, Nhà
nước là người nhà.
Nhà nước dân chủ nhân dân là Nhà nước phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của
nhân dân làm khuôn thước. Quan điểm này của ở Hồ Chí Minh được xây dựng trên
một triết lý phát triển mang đầy bản chất nhân văn: coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng, của sự phát triển xã hội.
Vì thế, Hồ Chí Minh xem việc được phục vụ nhân dân là một vinh dự cao
quý, vì Bác cho rằng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân” [19, tr.276].
và “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân” [15, tr.133], “Mọi công việc đều vì lợi ích của dân
mà làm”[16, tr.393]… “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi
ích của nhân dân”[19, tr.276].
Bác viết: “Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao tinh thần phụ trách
trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” [21, tr.311].,
nhất là trong lĩnh vực tài sản: “Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao tinh thần
phụ trách, nêu gương “cần kiệm liêm chính”, không xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc của Nhà nước, của nhân dân; phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh là nguồn
gốc sinh ra tham ô, lãng phí” [21, tr.314].
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Quần chúng chỉ quý mến những người có
tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người
ta bắt chước” [16, tr.552]. Vì vậy, cán bộ lãnh đạo phải xung phong gương mẫu đi
đầu trong phong trào, cái gì khó khăn, cực khổ, cán bộ phải xung phong làm trước.
Bác quan tâm đến mối quan hệ giữa chủ trương và cách làm. Thực hiện
bằng cách ép buộc, máy móc thì vẫn có thể gặp sự phản ứng và có khi cả sự chống
đối từ phía nhân dân; nếu công việc mà đụng chạm đến quyền lợi của dân thì
phương thức thực hiện, biện pháp tiến hành càng cần đến tính toán, cân nhắc kỹ.
Bác chỉ ra một tình trạng thường dẫn đến thất bại là: “Chính sách thì đúng, cách làm
thì sai”[16, tr. 234]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của
20
việc vận động, thuyết phục, giáo dục tất cả mọi người dân góp thành lực lượng để
thực hành những công việc cần làm.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ rằng
Nhà nước làm bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm
của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi
động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. [14, tr.698 – 699].
Tư tưởng Nhà nước của dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh là hoàn
toàn nhất quán trong mọi hoàn cảnh, trong suốt cuộc đời Bác. Khi miền Bắc tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có quan niệm rất thiết thực về mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là một xã hội không có người bóc lột người, nhân dân
thoát nạn bần cùng, mọi người có công ăn việc làm, đủ ăn, đủ mặc, ai nấy được học
hành, được bình đẳng, sống sung sướng, tự do, nói tóm lại là dân giàu, nước mạnh –
một xã hội mà ở đó con người được hưởng tự do, hạnh phúc thật sự.
1.3. Nội dung cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền
1.3.1. Xây dựng Quốc hội, hiến pháp và pháp luật
Xây dựng Quốc hội
C.Mác viết: “Quyền lập pháp là quyền lực phải tổ chức cái phổ biến” [t1.tr
389]. Cơ quan lập pháp là cơ quan quy định cái phổ biến, nâng ý chí phổ biến của
nhân dân lên thành pháp luật: “Tại Nghị viện, quốc dân nâng ý chí phổ biến của
mình lên thành pháp luật, nghĩa là làm cho pháp luật của giai cấp thống trị biến
thành ý chí phổ biến của quốc dân” [t.VI, tr.511-512]. Cơ quan lập pháp là một thiết
chế cấu thành chính thể nhà nước, có những tên gọi khác nhau như Nghị Viện,
Quốc hội, Xô viết tối cao, Hội đồng các dân tộc.
Nghị viện chính thức ra đời từ sau cách mạng tư sản. Trong cuộc đấu tranh
giành quyền lực với giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản đã đạt được sự hạn chế
quyền lực của vương triều phong kiến bằng cách thành lập bên cạnh nhà vua một cơ
quan gọi là nghi viện hoặc thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ thừa nhận quyền của
những người có của. Những cách thức này đựợc xác lập về mặt hình thức bởi Hiến
21
pháp. Nghị viện sinh ra cùng với sự xuất hiện của hiến pháp và tư tưởng quyền lực
thuộc về nhân dân.
Thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản là thời kì hoàng kim của nghị viện. “Nghị
viện có quyền làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”. Sau khi mục đích
của việc toàn bộ quyền lực của nghị viện đã đạt được, giai cấp tư sản lại “hoàn bị
quyền hành pháp”[t.II, tr.512]. Nghị viện dần dần bị bộ máy hành pháp thao túng,
chế độ đại nghị rơi vào trạng thái khủng hoảng. Nghị viện, do đó theo cách nói của
Lênin chỉ là “những cái máy nói”, “trong nghị viện người ta chỉ nói
suông…”[t.33,tr.57]. Cách mạng vô sản phải thủ tiêu chế độ đại nghị. Nhưng thủ
tiêu chế độ đại nghị không có nghĩa là trong nhà nước vô sản không có cơ quan đại
diện. V.I. Lênin viết: “Những cơ quan đại diện vẫn còn, nhưng chế độ đại nghị, với
tính cách là một hệ thống đặc biệt, một sự phân chia giữa công tác lập pháp với
công tác hành pháp, được coi như địa vị đặc quyền cho các nghị sĩ, thì không còn
nữa. Chúng ta không thể quan niệm một nền dân chủ, dẫu là một nền dân chủ vô
sản, mà lại không có cơ quan đại diện”[t.33, tr.59]. Xuất phát từ tư tưởng về nguồn
gốc quyền lực từ nhân dân, Hồ Chí Minh tất yếu phát triển đến tư tưởng về việc
thành lập Quốc hội trong chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân Việt nam. Quá trình
phát triển đó ở mức độ chung nhất, diễn ra theo một lôgíc phổ biến của sự hình
thành tư tưởng về việc thiết lập quốc hội trên thế giới: quyền lực thuộc về nhân dân;
nhà nước do nhân dân lập ra để đại diện nhân dân thực thi quyền lực của nhân dân;
phương thức để nhân dân ủy thác quyền lực của mình cho nhà nước là bầu cử;
thông qua bầu cử nhân dân thành lập ra Quốc hội. Tuy nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh
về việc thành lập Quốc hội có những yếu tố rất riêng, phản ánh điều kiện đặc thù
của cách mạng Việt nam.
Nhận thấy thời cơ của cách mạng sắp đến, tháng 10 năm 1944, Hồ Chí
Minh đã gởi thư cho quốc dân đồng bào, thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại
biểu quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành, đoàn kết và hành
động nhất trí của toàn thể quốc dân ta để tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và
tranh thủ ngoại viện của quốc tế, nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được
mục tiêu độc lập, tự do [20.tr.15]. Tháng 5 năm 1945, trước tình hình cao trào
kháng Nhật cứu nước đang dâng lên trong cả nước, toàn dân đang mong đợi một
22
Chính phủ cách mạng lâm thời của nhà nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã ra
chỉ thị gấp rút họp Đại hội đại biểu quốc dân. Tại Tân Trào, Quốc dân đại hội khai
mạc ngày 16 – 8 – 1945, đã thành lập ủy ban giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Sau cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đề nghị cải tổ Ủy ban
dân tộc giải phóng thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 27/8/1945, Chính phủ lâm thời ra lời Tuyên cáo, trong đó viết: “Chính phủ
lâm thời…thật là một chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách chỉ đạo cho
toàn thể, đợi ngày triệu tập Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hòa chính
thức”.[20.tr. 25].
Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 3/9/1945, trong phiên họp
đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu: “tôi đề nghị tổ
chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” [t.4,
tr.8]. Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số 14/SL về cuộc tổng
tuyển cử bầu Quốc hội. Sắc lệnh ghi rõ: “Xết thấy rằng trong tình thế hiện giờ sự
triệu tập Quốc dân đại hội không những có thể thực hiện được mà lại rất cần thiết
cho toàn dân tham gia vào công cuộc củng cố nền độc lập và chống nạn ngoại
xâm…”[20.tr.31].
Qua đó có thể thấy rằng, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự thành lập Quốc
hội trong chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân Việt Nam, không phải để hạn chế
hay chia sẻ quyền lực với bất cứ thế lực nào mà nhằm mục đích thống nhất ý chí
dân tộc, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân để giành và giữ vững
nền độc lập dân tộc. Đại hội quốc dân ở Tân Trào có thể coi là tiền thân của Quốc
hội sau này. Chủ trương của Hồ Chí Minh về việc gấp rút triệu tập Đại hội quốc dân
là để thống nhất hành động trong cả nước, phát huy sức mạnh của ý chí thống nhất
toàn dân để giành độc lập dân tộc. Sau Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời là một nhà nước độc lập, tự do, nhưng chưa một quốc gia
nào trên thế giới công nhận. Hơn nữa, các thế lực đế quốc và tay sai đang ráo riết
chống lại Đảng cộng sản và Việt minh, hòng lật đổ chính quyền cách mạng và thành
lập một chính quyền tay sai cho đế quốc. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã gấp
rút xúc tiến việc bầu Quốc hội, khẳng định tính hợp pháp của Nhà nước cách mạng
Việt nam, tạo cơ sở pháp lý cho nền độc lập dân tộc. Bên cạnh đó chủ trương thành
23
lập Quốc hội của Hồ Chí Minh còn nhằm mục đích phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập vừa giành được trước thế “ngàn cân treo
sợi tóc” của chính quyền cách mạng mới ra đời.
Nhìn chung, tính dân tộc là nét đặc thù trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
thành lập Quốc hội; Quốc hội là thể hiện sinh động ý chí đại đoàn kết dân tộc, Quốc
hội là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc; cho nên thành lập Quốc hội để phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc nhằm giành, khẳng định và củng cố nền
độc lập dân tộc.
Quốc hội Việt Nam ra đời, do điều kiện lịch sử ra đời muộn hơn so với các
nước trên thế giới. Nhưng, ngay khi ra đời, Quốc hội Việt Nam đã bầu với nguyên
tắc phổ thông đầu phiếu. Hồ Chí Minh đã sớm có quan niệm về chế độ phổ thông
đầu phiếu ngay trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên. Người nói: “Trong cuộc Tổng
tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước đều có quyền ra ứng cử; hễ là công
dân đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu, ngèo, tôn giáo, nòi giống,
giai cấp, đẳng phái, hễ là công dân Việt Nam đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên
Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết”.
Tư tưởng phổ thông đầu phiếu sớm hình thành ở Hồ Chí Minh không đơn
thuần chỉ là bắt nguồn từ tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân mà còn xuất phát từ
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện cách mạng kháng chiến, kiến quốc
ở nước ta, bầu cử là một hình thức chính trị huy động sức mạnh toàn dân đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lược, giữ vững nền độc lập dân tộc. Trong lời kêu gọi toàn dân
đi bỏ phiếu, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Về mặt chính trị thì nhân dân dùng lá
phiếu mà chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức mạnh như một viên đạn”.
Cho nên bất cứ ai là người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh dân tộc điều có quyền
đi bỏ phiếu để lựa chọn những người xứng đáng đảm nhận việc nước, hoặc ra ứng
cử để gánh vác việc nước.
Ngoài nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, những nguyên tắc dân chủ khác của
chế độ bầu cử như trực tiếp và bỏ phiếu kín cũng được Hồ Chí Minh nhận thức, áp
dụng vào cuộc bầu cử đầu tiên ở Việt Nam. Trong hai bản Hiến pháp mà Hồ Chí
Minh chủ trì việc soạn thảo, những nguyên tắc đó đã được nâng lên ở tầm hiến
24