Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

TÌM HIỂU tác ĐỘNG của KINH tế THỊ TRƯỜNG đối với GIÁO dục GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.87 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

-------- O0O --------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

TÌM HIỂU TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Sư phạm GDCD
Mã ngành: 52140204

Sinh viên thực hiện:
Trần Thị Lam
MSSV: 6064655
Lớp: SP GDCD- K32

Giáo viên hướng dẫn:
ThS.GVC Trần Thanh Quang

C ần Thơ: 05/ 2010

0


Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Qua hơn hai thập kỉ thực hiện đường lối đổi mới của đảng, chúng ta đã
đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống – xã
hội. Cùng với các lĩnh vực khác, kinh tế có bước phát triển vượt bậc với những
thành tựu hết sức lớn lao, đó chính là nhờ vào đường lối, chính sách đúng đắn


của Đảng, Nhà nước ta đồng thời không thể không nhắc đến vai trò tích cực
chủ đạo của giáo dục gia đình đã góp phần làm nên thắng lợi vẽ vang đó. Giáo
dục gia đình đã được áp dụng một cách phù hợp, nhạy bén, thích ứng và ngày
càng hiệu quả hơn với cơ chế mới của nền kinh tế - cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên,đó chỉ là những thành quả bước đầu mà chúng ta đạt được, nó
còn rất khiêm tốn so với những hạn chế mà nó để lại. Do đó chúng ta cần phải
phấn đấu và nổ lực liên tục trong một thời gian dài mới có thể đưa giáo dục gia
đình trong nền kinh tế thị trường như hiện nay đạt hiệu quả như các nước tiên
tiến khác.
Trong những năm gần đây chiến lược phát triển của các quốc gia đã có
những thay đổi lớn. Thế giới đang chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nguồn tài nguyên hạn hẹp sang nền kinh tế trí tuệ, trong đó đầu tư phát triển
giáo dục gia đình được coi là quan trọng hơn so với các dạng đầu tư khác. Có
thể nói toàn bộ bí quyết phát triển thành công của các quốc gia xét đến cùng
đều nằm ngay trong chân lí giản đơn: chiến lược trồng người.
Đối với Việt Nam, từ nhiều năm nay đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần
thứ VI, Đảng ta luôn khẳng định nguồn lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị
trường là con người sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lấy việc phát
huy giáo dục con người làm yếu tố để phát triển nhanh và bền vững. Nên giáo
dục nói chung và giáo dục gia đình nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với
việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trên
cơ sở nắm vững về thực trạng kinh tế thị trường nước ta, từ đó có những biện
pháp phù hợp để phát huy vai trò giáo dục gia đình thực hiện thắng lợi sự

1


nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thiết nghĩ đây là vấn đề bức
xúc đang đặt ra.

Để hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường tác
động đối với giáo dục gia đình, tác giả chọn đề tài “ Tìm hiểu tác động của kinh
tế thị trường đối với giáo dục gia đình Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp đại
học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục gia
đình nhằm tìm ra giải pháp để hạn chế mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực
của nó.
-Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, cần tập trung giải quyết ba nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và giáo dục gia đình ở Việt Nam; vai trò của giáo dục gia đình đối với sự phát
triển của kinh tế thị trường ở nước ta.
+ Làm rõ thực trạng tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục gia đình
ở nước ta.
+ Tìm ra phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục gia đình ở nước
ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu “ tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục gia đình ở
Việt Nam”.
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu phạm vi cả nước, từ khi nước ta đổi mới chủ trương
kinh tế kế hoạch tập trung sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa cho đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

2



Quá trình nghiên cứu của tác giả sử dụng những phương pháp cơ bản:
Lịch sử và logic, khảo sát, thống kê phân tích và tổng hợp…
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Kinh tế thị trường và giáo dục gia đình ở Việt Nam
Chương 2: Tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục gia đình ở
Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đối với giáo dục gia đình ở Việt Nam.

3


Chương 1
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH Ở VIỆT
NAM
1.1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường và lịch sử phát triển của nền
kinh tế thị trường
Để hiểu kinh tế thị tế thị trường, trước tiên phải hiểu như thế nào là
kinh tế hàng hóa.
Theo kinh tế chính trị Mác-lê nin, kinh tế hàng hóa là hình thức kinh tế
mà người ta sản xuất ra sản phẩm không phải để tiêu dùng mà là để trao đổi
hay mua bán với người khác. Trong đó mối quan hệ giữa những người sản xuất
được thực hiện qua thị trường-qua việc trao đổi, mua bán sản phẩm cho nhau.
Kinh tế hàng hoá đã xuất hiện trong thời kỳ tan rã của xã hội công xã

nguyên thủy chuyển dần sang xã hội chiếm hữu nô lệ để thay thế cho kinh tế tự
nhiên ( tự túc tự cấp) phát triển chủ yếu trong xã hội công xã nguyên thủy.
Kinh tế hàng hóa đã có lịch sử hàng ngàn năm, phát triển qua các xã hội như:
xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa và đến chủ
nghĩa xã hội – gia đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng như trong thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội nó vẫn còn điều kiện để tiếp
tục tồn tại, phát triển.
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại dựa trên hai điều kiện:
Phải xuất hiện phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là
sự chuyên môn hóa sản xuất, sự phân chia lao động xã hội vào các ngành các
lĩnh vực sản xuất khác nhau. Trong đó mỗi ngành chỉ sản xuất một hay một số
sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại nhiều hơn cái mà mình sản xuất
ra nên phải trao đổi, mua bán sản phẩm cho nhau. Như vậy, phân công lao động
xã hội đã làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu cho nên nó là cơ sở
của sản xuất hàng hóa.

4


Phải có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế, giữa những chủ thể trong
nền sản xuất. Sự tách biệt được biểu hiện trước tiên ở sự xuất hiện của chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, trong lịch sử đó là sự xuất hiện của chế độ tư hữu nô
lệ. Điều này đã giải thích những nguyên nhân tại sao kinh tế hàng hóa lại ra đời
trong thời kỳ chuyển hóa từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu
nô lệ. Sự tách biệt tương đối về kinh tế đã làm cho những người sản xất trở
thành những chủ thể sản xuất độc lập nhất định, họ có quyền sản xuất hoặc
quyền chi phối sản phẩm nên có quyền mang sản phẩm của mình ra trao đổi,
mua bán với người khác.
Ở hai xã hội nô lệ và phong kiến, kinh tế hàng hóa chỉ phát triển ở qui
mô nhỏ, sản xuất hàng hóa nhỏ hay kinh tế hàng hóa giản đơn. Đặc điểm của

nó là phát triển dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sử dụng lao
động cá nhân và gia đình của người sản xuất. Tức là giữa tư liệu sản xuất và
sức lao động chưa tách rời nhau, nó thuộc về người sản xuất.
Đến xã hội tư bản chủ nghĩa, việc xóa bỏ chế độ nô lệ và nông nô đã làm
cho phần lớn người lao động tự do về thân thế nhưng lại không có tư liệu sản
xuất nên phải tự làm thuê để sống tức là bán sức lao động, từ đó sức lao động
đã trở thành hàng hóa.
Sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã tạo ra một bước tiến lớn
trong sự phát triển của kinh tế hàng hóa, đó là bước chuyển từ kinh tế hàng hóa
giản đơn sang nền kinh tế hàng hóa qui mô lớn, còn được gọi là kinh tế thị
trường.
Như vậy, có thể hiểu kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của
kinh tế hàng hóa, là nền kinh tế hàng hóa phát triển trên qui mô lớn. Ở đó quan
hệ hàng hóa-tiền tệ thâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi chức năng của đời sống
xã hội; hàng hóa trở thành “ hình thái tế bào kinh tế” của của cải xã hội; thị
trường được hình thành và phát triển mạnh mẽ cả ở đầu ra lẫn đầu vào của sản
xuất; tất cả mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động theo mệnh lệnh của thị trường.
Trong chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường là phương thức làm giàu của
các nhà tư bản, sản xuất giá trị thặng dư không giới hạn bởi động lực mạnh mẽ
thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển đến đỉnh cao của nó. Cho nên có thể coi

5


kinh tế thị trường là một trong những thành tựu to lớn của xã hội tư bản. Nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có đặc điểm là dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ( tư hữu lớn) và sử dụng lao động làm
thuê trên qui mô lớn, tức là nó phát triển dựa trên sự hợp tác giữa tư liệu sản
xuất và sức lao động. Mác cho rằng, tư hữu tư bản hợp pháp đã dẫn đến chiếm
đoạt lao động làm thuê một cách hợp pháp. Đây là nguồn gốc làm phát sinh

những mâu thuẫn nội tại trong lòng của xã hội tư bản. Cách thức giải quyết
mâu thuẫn trong lòng của xã hội tư bản là sự ra đời của xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin, đến chủ nghĩa xã hội và thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chẳng những là điều kiện mà còn phải phát triển
kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường mới tạo đủ động lực thúc đẩy kinh tế, xã
hội phát triển. Sự thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung ở các nước xã
hội chủ nghĩa vào thập niên 80 thế kỷ 20 đã chứng minh cho tính đúng đắn của
luận điểm đó. Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại muốn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đều phải cải cách hay
đổi mới theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội là chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường như ở Trung Quốc gọi là kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam gọi là kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa
phát triển dựa trên cơ sở kế thừa những thành tựu và khắc phục những hạn chế
của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường có cơ cấu
nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc doanh
và ngay từ đầu đã xác lập vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mô hình đó nhằm đảm bảo kết hợp thực hiện đồng thời hai mục tiêu: phát triển
kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong tình hình phát triển. Với mô
hình như thế các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã đạt được những thành tựu vô
cùng to lớn trong sự nghiệp đổi mới và bước đầu đã khẳng định được tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

6


So với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kinh tế thị trường có nhiều ưu

thế:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh, doanh nghiệp
muốn đứng vững trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ
chức quản lý. Do vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo ra sự dư
thừa hàng hóa để cho phép thỏa mãn nhu cầu ở mức tối đa.
Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm
cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công
hay thất bại để phát triển không ngừng.
Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản
lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu
quả.
Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong
kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có nhiều mặt tiêu cực sau:
Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán,
không chú ý đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến
những nhu cầu cơ bản của xã hội.
Kinh tế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm,
không có lãi thì thôi làm nên nó không giải quyết được cái gọi là “ hàng hóa
công cộng” ( đường xá, các công trình văn hóa, y tế và giáo dục…)
Trong nền kinh tế thị trường có sự phân hóa giàu nghèo khá rõ rệt: giàu
thêm giàu, nghèo thêm nghèo, bất công xã hội.
Do tính tự phát cao, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến
bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can
thiệp cả Nhà nước.
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị
trường được ổn định, nhằm tối đa hóa hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng
chính trị của sự phát triển kinh tế, sữa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có
của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở
tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh


7


tế thị trường, đồng thời kích thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hóa
dưới hình thức thương mại.
1.1.2. Sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường và đặc điểm của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.2.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được
sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực
tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông
qua việc trao đổi, mua bán.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam tồn tại, phát triển dựa trên hai điều kiện
và đảm bảo những lợi ích cơ bản sau:
Thứ nhất: Phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự
chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các
lĩnh vực sản xuất khác nhau
Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa.
Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa
càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội,
chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên,
xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng
địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở
lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn
hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng
trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ,
lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng

lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và
trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế
của các quốc gia với nhau.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn
bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ

8


sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và
nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng
những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển
Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất: những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với
nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản
xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... buộc
người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí
sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao
hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và
giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ
làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng
cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt
trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa,

tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh thái, xã hội,
v.v..
Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho những
người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế
giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là
một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán
sản phẩm của nhau.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều
kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường sẽ ngưng hoạt động.

9


1.1.2.2. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa nền kinh tế
nước ta không phải quản lý theo kiểu tập chung quan liêu, bao cấp; nhưng cũng
không phải là bê nguyên xi mô hình kinh tế thị trường các nước tư bản chủ
nghĩa. Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan
xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, các yếu tố của chủ nghĩa xã hội đã có
nhưng chưa có đầy đủ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một số
đặc điểm cơ bản sau đây:
Đặc điểm thứ nhất là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của Việt Nam xuất phát từ một trình độ thấp hơn rất nhiều so với các nước
trong khu vực và thế giới. Do vậy, trong hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế Việt
Nam tất nhiên sẽ gặp phải những trở ngại không nhỏ. Để vượt qua được những
trở ngại nhiều khi phải chịu những chi phí lớn về thời gian và công sức. Ngay
tại một “sân chơi khu vực” như AFTA, dù có được khoảng thời gian ba năm để
chuẩn bị song chắc chắn là không đủ để các doanh nghiệp Việt Nam có thể

nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh của mình. Sự đổ vỡ, phá sản của một
bộ phận đáng kể trong số các doanh nghiệp là không thể tránh khỏi khi hàng
rào bảo hộ bằng thuế được dỡ bỏ. Những hậu quả kinh tế - xã hội khó có thể
lường trước nếu không chủ động đối phó bằng cách thiết lập sớm những cơ chế
bảo đảm an ninh xã hội đủ cần thiết.
Đương nhiên trong quan hệ có tính hai chiều của hội nhập kinh tế quốc
tế, một bộ phận đáng kể trong nền kinh tế Việt Nam sẽ có thêm những cơ hội
để tăng sức cạnh tranh ngay tại thị trường của những nước phát triển. Triển
vọng trong cuộc đấu tranh đòi công bằng của các nước xuất khẩu nông sản và
hàng dệt may đang ngày càng rõ dần cùng với sự tiến triển của vòng thương
lượng mới của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) - Vòng Đôha, trong thời
gian gần đây. Một cường quốc xuất khẩu nông sản và còn có nhiều tiềm năng
về hàng dệt may như Việt Nam sẽ không thu được mấy lợi ích nếu không trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trước khi vòng

10


đàm phán Đôha - kết thúc (1-1-2005). Đến khi đó nếu Việt Nam vẫn chỉ là
quan sát viên của tổ chức này thì đời sống của hàng chục triệu nông dân, thợ
dệt, thợ may có thể bị giảm sút. Xét ở khía cạnh này thì việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam sẽ khó khăn hơn
rất nhiều. Do vậy, hội nhập kinh tế quốc tế được coi là bước phát triển tất yếu,
là vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với chính nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Cái logic chặt chẽ: hội nhập - phát triển - định hướng xã hội chủ nghĩa
thể hiện như một mục tiêu nhất quán trên con đường phát triển của Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế.
Đặc điểm thứ hai là, trình độ khoa học - công nghệ của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam thuộc loại thấp so với hầu

hết các đối tác. Đất nước mới chỉ đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Khó khăn trở nên lớn hơn nhiều khi
quan hệ hợp tác kinh tế với các đối tác quốc tế có trình độ phát triển cao hơn
gấp bội. Việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ phụ thuộc vào năng lực tiếp thu
và khả năng nội sinh công nghệ nhập khẩu. Tiềm lực công nghệ và khoa học
yếu kém lẽ đương nhiên phải gặp những khó khăn, rủi ro nhiều hơn trong các
hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như trong các dự án góp vốn đầu tư
hoặc nhập khẩu thiết bị. Sự khống chế của các đối tác nước ngoài sẽ có thể duy
trì lâu hơn so với khoảng thời gian dự tính ban đầu. Ngoài ra, Việt Nam vẫn
còn bị nhiều nước phương Tây coi là đối tượng cần phải kiểm soát chặt chẽ
việc chuyển giao công nghệ. Do vậy, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
vấn đề trở nên phức tạp hơn khi phải đấu tranh để vượt qua những di sản của
thời chiến tranh lạnh. Những khó khăn đó đang tăng lên trong bối cảnh phát
triển ngày càng nhanh của “công nghệ số”, với loại hình công nghệ này, lợi thế
phần nhiều thuộc về các xu thể muốn duy trì sự kiểm soát, khống chế và bất lợi
cho các chủ thể muốn được tiếp nhận, chuyển giao. Đặc điểm này là không thể
không tính đến đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đặc điểm thứ ba là, về mục tiêu phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế. Để

11


phân biệt nền kinh tế thị trường ở nước này hay nước khác trong quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, phải dùng đến tiêu thức quan trọng nhất là
mục tiêu phát triển mà nền kinh tế đó xác định phải đạt đến. Nó được quy định
bởi chế độ chính trị - xã hội mà nước đó đã lựa chọn. Khác hẳn với một số
nước khi tham gia vào toàn cầu hóa đã coi trọng vấn đề tăng trưởng kinh tế
trước mà coi nhẹ việc giải quyết công bằng xã hội hoặc ngược lại, có nước dựa
vào viện trợ và vai nợ nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi mới thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta là giải phóng lực lượng sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước
và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở
vật chất -kỹ thật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội , cải
thiện từng bước đời sống của nhân dân.
Lựa chọn mục tiêu đó chính là thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh “nước
dâng, thuyền lên”, sản xuất và đời sống của nhân dân như nước với thuyền,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm
giàu hợp pháp, gắn liền với xóa đói, giảm nghèo. Tất nhiên, là một nước chậm
phát triển như Việt Nam, muốn thực hiện mục tiêu đó không những không thể
coi nhẹ sự hợp tác quốc tế rộng rãi với các nước mà còn phải coi đó là một tất
hách quan để có thể thực hiện được sự kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại -một trong những bài học được rút ra từ chính lịch sử chiến
đấu và chiến thắng của cách mạng Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh nhằm thoát
khỏi tình trạng của một nước kém phát triển bằng con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay, thì hội nhập kinh tế quốc tế là hướng đi đúng
và hầu như không có con đường khác. Cuộc đấu tranh để bảo vệ sự lựa chọn
con đường phát triển xã hội chủ nghĩa của mình trong hội nhập kinh tế quốc tế
là một nhiệm vụ có tính chất lâu dài.
Đặc điểm thứ tư là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
coi phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng các hình thức
sở hữu là một đường lối chiến lược song nhấn mạnh vai trò nền tảng của sở
hữu công cộng với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Kinh tế nhà nước
phải vươn lên làm tốt vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền

12


tảng của nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là yếu tố
quan trọng trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần định hướng

xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế.
Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ trong hội nhập kinh tế, nền kinh tế Việt Nam
sẽ phải hợp tác và cạnh tranh với hàng loạt các đối tác rất mạnh mẽ về tiềm lực
vốn và công nghệ, nắm giữ phần lớn thị trường tiêu thụ trên thế giới, nhất là
các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs). Khi làm ăn với những đối tác mạnh đó,
nếu Việt Nam không có những doanh nghiệp nhà nước mạnh sẽ khó có thể vừa
hợp tác có hiệu quả lại vừa giữ vững sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trên
mỗi bước đường đi đến chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước phải đủ sức để tạo
thực lực cho Nhà nước “của dân, do dân, và vì dân” điều tiết nền kinh tế Việt
Nam tiếp tục phát triển trong quá trình hội nhập vì lợi ích của đại đa số nhân
dân, đảm bảo thống nhất giữa phát triển kinh tế thực hiện công bằng xã hội tiêu chí cao nhất của nền knh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa không thể có hiệu quả nếu không có các thành phần kinh tế khác
ngoài kinh tế nhà nước và tập thể. Mặc dù chưa là thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa, nhưng trong điều kiện của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, sự tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các thành phần
kinh tế khác đều có thể phù hợp với lợi ích của công cuộc xây dựng kinh tế mà
Nhà nước xã hội chủ nghĩa điều tiết và quản lý chúng theo định hướng chung
trong khuôn khổ của hệ thống pháp luật.
Với một hệ thống pháp luật có hiệu lực cao mang tính chất xã hội chủ
nghĩa, việc điều tiết các thành phần kinh tế như: tư bản tư nhân, tư bản nhà
nước, có vốn đầu tư nước ngoài…, hoạt động sản xuất – kinh doanh đúng pháp
luật tự nó đã là một thành công của chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế đó
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở những lĩnh vực đặc thù có thể mang lại hiệu
quả cao hơn so với kinh tế nhà nước và tập thể, thậm chí là những phương thức
tiếp cận duy nhất trong quan hệ với một số đối tác nước ngoài.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
“mở”. Nó không nhằm tới một kiểu tổ chức kinh tế “khép kín” mà là một nền

13



kinh tế dựa trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường với những nguyên tắc và bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội
nhập kinh tế quốc tế không gây cản trở cho sự kết hợp đó. Ngược lại còn mở ra
những cơ hội mới làm tăng tính khả thi của những phương án kết hợp giữa kinh
tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình Liên
Xô và Đông Âu và những thành tựu bước đầu của cải cách, đổi mới ở các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại cho thấy một cách rỏ ràng là không thể có chủ nghĩa
xã hội nếu không phát triển kinh tế thị trường. Nói một cách khác là, không
chấp nhận kinh tế thị trường thì sẽ không thể thực hiện hóa được chủ nghĩa xã
hội
1.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể nói, đây là thành
quả to lớn và quan trọng của nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mới mẻ chưa
từng có trong lịch sử nhân loại. Tư duy lý luận và nhận thức về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, thường xuyên và
qua nhiều bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước.
Về quá trình phát triển, từ sau đổi mới, có thể tính từ năm 1991 đến
2002 là một thời kỳ tăng trưởng cao, đáng ghi nhận, chỉ đứng sau Trung Quốc.
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới
(1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm.
Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ
tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm
sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ
289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang
từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và

14


đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước
chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang
phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến
3.385 USD).
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu
vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm
2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều
lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã
hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp
tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối
quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế.
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa,
tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế
mới. Từ một quốc gia bị phong tỏa, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển
và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh
thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế
quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được
cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10
năm với mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
So với trước đây đời sống vật chất của phần lớn nhân dân ta được cải thiện rõ
rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm
xuống, mặc dù mức sống của nhân dân ta so với nhiều nước trong khu vực nhìn
chung còn thấp. Tính chung trong cả nước mỗi năm chúng ta đã tạo ra 1,2 - 1,3

15


triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ trên 30% xuống 11%. Tỷ lệ tăng
dân số giảm từ 2,31% xuống 1,53%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 65 lên 68 tuổi.
Đã có thêm nhiều nhà ở và đường giao thông được cải tạo, xây dựng;
nâng cấp và xây dựng mới nhiều hạng mục cơ sở hạ tầng cả nông thôn và thành
thị. Công tác phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu ngăn chặn dịch bệnh có
nhiều tiến bộ.
Trình độ dân trí và mức độ hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin đại
chúng và mạng lưới điện đã về đến phần lớn các vùng nông thôn. Công tác kế
hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động khác có nhiều tiến bộ.
Năm 2009, mặc dù chịu tác động nặng nề của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Vương quốc Anh vẫn giữ được đà
phát triển. Từ những chuyến thăm cấp cao đến các cuộc tiếp xúc doanh nghiệp,
chương trình xúc tiến thương mại diễn ra nhộn nhịp với khoảng 60 đoàn Việt
Nam thăm và làm việc tại Vương quốc Anh ở các cấp độ khác nhau. Trong báo
cáo mới đây của Cơ quan Xúc tiến Đầu tư và Thương mại Anh (UKTI), Việt
Nam được đánh giá là một trong 17 thị trường trọng điểm các doanh nghiệp
Anh đang hướng tới.
Ở một báo cáo thăm dò khác đối với các doanh nghiệp về sự lựa chọn

thị trường cho hoạt động đầu tư, thương mại của họ thời gian tới, Việt Nam có
tên trong danh sách 15 thị trường được quan tâm.
Theo Đại sứ Việt Nam tại Anh, ông An Thế Dũng, hiện giá trị đầu tư
của Anh tại Việt Nam đạt xấp xỉ 2 tỷ USD, đưa Anh trở thành một trong những
nhà đầu tư lớn nhất thuộc các nước Liên minh châu Âu đầu tư ở Việt Nam với
126 dự án.
Ngoài những công ty Anh có tiếng trên thế giới như BP, Shell, BAT,
GlaxoSmithKline, Tate & Lyle, Prudential, Ngân hàng HSBC, Ngân hàng
Standard Chartered Bank, Coats, Unilever, ICI, Castrol đã có mặt tại Việt Nam,
hiện còn rất nhiều các công ty Anh khác đang mở rộng hoạt động tại ViệtNam.
Mục tiêu hoạt động 2009-2010 của Bộ Ngoại giao Anh trong phát triển kinh tế
thương mại với Việt Nam là doanh số năm đạt 117% so với năm trước; đồng

16


thời giữ nguyên mục tiêu cung cấp dịch vụ; tập trung vào vấn đề tiếp cận thị
trường và chính sách thương mại.
Từ các mặt của sự chuyển biến trong nền kinh tế, ta thấy, đổi mới đã đặt
nền kinh tế vào tiến trình kinh tế thị trường – công nghiệp và tiến trình phát
triển hiện đại của nền kinh tế toàn cầu, nhờ vậy kinh tế đang được chuyển động
trên đường băng của quá trình cất cánh. Nói cách khác, hệ kinh tế thị trường và
sự hội nhập vào tiến trình phát triển hiện đại của nền kinh tế toàn cầu đã đang
giải quyết và hứa hẹn giải quyết thành công sự phát triển ở Việt Nam. Trên cơ
sở này, Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản đưa ra quyết tâm, tới năm 2020
đưa Việt Nam cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên,bên những mặt thuận lợi, kinh tế thị trường có những mặt hạn
chế. Nghiên cứu về kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản, C.Mác nêu rõ
những mặt tích cực của kinh tế thị trường đối với sự phát triển lực lượng sản
xuất xã hội. Song C.Mác cũng nhấn mạnh sự phát triển của kinh tế thị trường

dưới chủ nghĩa tư bản vì đeo đuổi và đề cao mục tiêu lợi nhuận nên đã bất chấp
tất cả “biến phẩm giá con người thành những giá trị trao đổi đơn thuần, nó đã
đem lại tự do buôn bán độc nhất và tàn nhẫn thay cho nhiều tự do đã giành
được bằng một giá rất đắt”, “Giai cấp tư sản đã xé toang những tấm màng tình
cảm che đậy các quan hệ gia đình, biến những quan hệ đó thành những mối lợi
lạnh lung và sự trả tiền ngay không tình nghĩa”. Kinh tế thị trường, tự bản thân
nó có những mặt trái, mặt hạn chế, song dưới chủ nghĩa tư bản thì những mặt
hạn chế và những mặt trái của sự phát triển của kinh tế thị trường chẳng những
không được khắc phục mà còn thể hiện đậm nét hơn. Sự phát triển kinh tế thị
trường dưới chủ nghĩa tư bản càng làm tăng thêm mâu thuẫn cơ bản vốn có của
chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của
lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản, trong lòng chủ nghĩa tư bản còn hàm
chứa nhiều mâu thuẫn khác, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động
được biểu hiện ở sự phân cực giàu nghèo và tình trạng bất công trong xã hội
tăng lên. Cùng với những mâu thuẫn trong xã hội, giai cấp, sự phát triển của
kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản cũng tác động mạnh đến những vấn đề

17


xã hội, các hiện tượng bất công trong xã hội, tệ nạn xã hội…,và những rối ren
trong đời sống kinh tế cũng ngày càng gia tăng do chính phủ của các nước tư
bản không gắn kết chặt chẽ việc phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã
hội.
Hiện nay, kinh tế thị trường, đặc biệt là kinh tế thị trường hiện đại ,
những mặt tiêu cực mà bản thân nó không tự giải quyết được. Do có tính chất
trái ngược nhau từ trong bản chất nền kinh tế thị trường, nên trong khi làm cho
sự phát triển của đời sống xã hội đạt tới những tiến bộ vượt bậc, nó cũng
thường xuyên có tác động tiêu cực đến sản xuất nói riêng và sự phát triển xã

hội nói chung.
Đối với nước ta, bên cạnh những ưu điểm, những thành tựu đã đạt
được, kinh tế thị trường cũng có nhiều hạn chế, tác động xấu đến nhiều mặt
kinh tế, xã hội. Tuy nhiên chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước do vậy có khả năng
ngăn chặn và hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường diễn ra trong
đời sống xã hội. Những hạn chế của kinh tế thị trường biểu hiện cụ thể qua các
mặt sau:
Thứ nhất, trong kinh tế thị trường do có sự hoạt động của các quy luật
kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị, nên tất yếu dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội. Đối với nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường sự
phân hóa giàu nghèo đã diễn ra nhưng so với nhiều nước khác trên thế giới thì
mức độ phân hóa chưa đến mức quá sâu sắc nhưng nó có chiều hướng ngày
một tăng lên. Phân hóa giàu nghèo là hiện tượng xã hội không bình thường, nó
tác động xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, chúng ta không thể xóa bỏ
triệt để được nhưng hoàn toàn có khả năng ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp
nhất. Nhà nước ta khuyến khích mọi cá nhân làm giàu hợp pháp nhưng đồng
thời tăng cường các giải pháp để ngăn chặn các hiện tượng làm ăn phi pháp đi
liền với việc thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, cứu trợ xã hội
nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo diễn ra trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường.

18


Thứ hai, kinh tế thị trường đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh đều bị chi phối bởi lợi nhuận. Đương nhiên, mục tiêu
lợi nhuận có mặt tích cực của nó, song vì quá quan tâm theo đuổi lợi nhuận đã
không có ít người lãng quên đi trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã
hội…Con người ngày càng bận rộn trong công việc sản xuất kinh doanh làm

cho vấn đề gia đình ít được quan tâm. Những bậc phụ huynh ngày càng sao
nhãng công tác giáo dục con cái, họ phó mặc cho nhà trường và xã hội. Vì lợi
ích đồng tiền mà tình trạng tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp
chưa được ngăn chặn hiệu quả. Tình trạng đó đã dẫn tới việc truyền bá tư tưởng
trọng tiền cho lớp trẻ, làm cho các em ít thiết tha học hành, trở nên thực dụng,
sa ngã.
Thứ ba, vấn đề cơ cấu xã hội trong dân cư cùng thay đổi nhanh chóng,
không ổn định. Những ngành nghề truyền thống của gia đình,của quê hương có
khi phải bỏ để chuyển sang nghề mới. Trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp,
cũng làm đời sống của nhiều người trở nên khó khăn khốn đốn. Những nghề
nào trong kinh doanh thuận lợi, có lợi nhuận cao sẽ thu hút nhiều người tham
gia kinh doanh, từ đó tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi cơ cấu ngành nghề
trong xã hội. Truyền thống “ nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” bị phá vỡ nhường
chổ cho xu hướng “ nhất nghề dễ làm ra tiền”. Đó cũng là một hiện tượng làm
mai một các ngành nghề truyền thống của địa phương, ảnh hưởng rất lớn đến
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị trường cùng với việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy nhanh chống quá trình đô thị hóa dẫn đến
sự phá vỡ cấu trúc xã hội. Quá trình di dân từ khu vực nông thôn về các đô thị
ngày càng trở thành phổ biến, gây áp lực lớn về vấn đề việc làm, vấn đề môi
trường, vấn đề an ninh trật tự. Do sự di chuyển ồ ạt của dân số từ nông thôn về
thành thị không kiểm soát nổi dẫn đến tình trạng làm ăn trái phép, làm cho trật
tự đô thị thêm rối ren, kẻ xấu và các thế lực phản động rất dễ có cơ hội hoạt
động gây rối làm cho tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội không
đảm bảo. Mặt khác, sức ép về kinh tế đối với các đô thị ngày càng tăng, nhất là
sự dư thừa lao động làm cho quá trình tìm kiếm việc làm đối với người lao

19



động khó được giải quyết, buộc các đô thị phải đối phó với hàng loạt vấn đề xã
hội phức tạp.
Thứ năm, kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế với những mặt
trái của nó làm cho nhiều tệ nạn của xã hội như nghiện hút ma túy, cờ bạc, mại
dâm, buôn lậu…Sự gia tăng của các loại tệ nạn xã hội ở nước ta trong những
năm gần đây đã gây ảnh hưởng không tốt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
và cũng tác động trực tiếp đối với việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh quốc gia.
Thứ sáu, sự phát triển của kinh tế thị trường cùng với việc mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế ở nước ta cũng tạo điều kiện cho các loại tội phạm dễ
dàng hoạt động hơn. Kinh tế thị trường phát triển làm cho các mối quan hệ kinh
tế trở nên đa dạng, phong phú nhưng cũng rất phức tạp, những mặt trái của nó
là cơ hội tốt cho nhiều loại tội phạm hoạt động. Trong những năm nền kinh tế
nước ta chuyển sang cơ chế thị trường vừa qua, một số loại tội phạm, nhất là tội
phạm kinh tế, có chiều hướng gia tăng, bên cạnh đó các loại tội phạm phá hoại
an ninh quốc gia, hình sự, môi trường…cũng có cơ hội hoạt động mạnh gây ra
nhiều khó khăn trong xây dựng, phát triển kinh tế cũng như trong việc bảo đảm
an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Thứ bảy, kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây nên những
ảnh hưởng xấu đối với vấn đề môi trường.
Trong kinh tế thị trường, mọi cá nhân, mọi chủ thể kinh tế được tự do kinh
doanh, phát triển sản xuất, mục đích của mị hoạt động kinh tế là nhằm đạt lợi
nhuận tối đa, vì vậy vấn đề môi trường ít được quan tâm. Môi trường bị tàn phá
nặng nề dưới tác động của sản xuất, của việc săn đuổi lợi nhuận, của hoạt động
tội phạm và của các hành vi thiếu ý thức do con người gây nên.
Điều đáng quan tâm là khi kinh tế thị trường phát triển, vấn đề lợi
nhuận được đặt lên trên hết. Tất cả các ngành, các đơn vị sản xuất thuộc mọi
thành phần kinh tế đều phải quan tâm đến lợi nhuận, vì vậy người ta không
hoặc ít quan tâm đến việc phải bỏ tiền ra đầu tư cho việc bảo vệ môi trường –
một lĩnh vực mà dù họ cố gắng cũng không thể thấy được những lợi nhuận trực

tiếp như sản xuất.

20


Khi môi trường bị ô nhiễm, bị tàn phá thì hậu quả của nó đối với sản
xuất và đời sống sẽ rất nghiêm trọng, đặc biệt nó còn tác động xấu đối với sức
khỏe con người, gây nên nhiều căn bệnh hiểm nghèo trong xã hội. Vì vậy, bảo
vệ môi trường, giữ cho mội trường luôn trong sạch là vấn đề cần phải đặc biệt
quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế thị trường.
Năm 2009 là năm thành công nhất của chúng ta trong điều hành kinh tế,
trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những biến động xấu
- đặc biệt là kinh tế thế giới đã rơi vào một cuộc suy thoái, khủng hoảng thực
sự - điều quan trọng là Chính phủ đã rất nhạy bén nắm bắt tình hình, từ đó đã
điều chỉnh những mục tiêu tổng quát theo hướng từ ưu tiên chống lạm phát
sang chống suy giảm kinh tế.
Đương nhiên vẫn có một số vấn đề chưa đạt được như mong muốn. Việc
thực hiện gói kích cầu của Chính phủ nói chung là rất tốt, nhưng vẫn còn một
vài thủ tục gây cản trở làm cho công tác triển khai chưa suôn sẻ ở một số
nơi.Trong đầu tư xây dựng cơ bản, mặc dù chúng ta đã kịp thời cải tiến nhưng
tốc độ giải ngân vẫn chưa cao, kể cả vốn trái phiếu Chính phủ đến vốn ODA,
vốn FDI - đây là một tồn tại nhiều năm. Các thủ tục hành chính khác như thủ
tục hải quan, thuế vẫn còn nặng nề… Tại kỳ họp QH cuối năm 2009, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phân tích rất cặn kẽ những nhược điểm này.
Những điều nêu trên, về sơ bộ cho thấy, kinh tế thị trường Việt Nam vừa
kém phát triển, vừa bị méo mó, bị cản trở nặng bởi các yếu tố của mô hình kinh
tế cũ còn đang được duy trì, đồng thời thể chế còn chưa được điều chỉnh cho
thích ứng với thể chế của hệ kinh tế thị trường hiện đại của nền kinh tế toàn
cầu. Với những yếu kém và những trở ngại trong kinh tế thị trường như vậy,
kinh tế thị trường Việt Nam giờ đây về cơ bản chưa phải là một hệ kinh tế thích

ứng cho sự phát triển kinh tế, hơn nữa là sự phát triển hiện đại. Đây là một điều
lo ngại nhất đối với tiến trình phát triển kinh tế của Việt Nam, khi tiến trình
kinh tế đó đang ở đường băng của sự cất cánh, để đến năm 2020, nền kinh tế cơ
bản trở thành nền kinh tế công nghiệp phát triển.
1.2. Giáo dục gia đình ở Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường

21


1.2.1. Khái niệm gia đình và giáo dục gia đình ở Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm về gia đình và đặc điểm của gia đình Việt Nam
Có thể nói gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại. Đặc biệt trong
vài năm trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một tiêu điểm trọng yếu được
cả giới hàn lâm và giới chính trị quan tâm. Ở châu Á và Đông Nam Á nói
chung ở Việt Nam nói riêng, người ta nói nhiều đến gia đình, văn hóa gia đình
như một giải pháp để ngăn trở sự xâm lăng của văn hóa phương Tây. Và không
chỉ có thế, các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam đang trải nghiệm trong
một cuộc chuyển mình vĩ đại: thực hiện công nghiệp hóa - đô thị hóa với quy
mô và tốc độ ngày càng gia tăng. Đồng thời với quá trình này ở Việt Nam là sự
chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường. Cố nhiên, những biến chuyển kinh tế
- xã hội mạnh mẽ đó không thể không tác động sâu sắc đến thiết chế gia đình,
một thiết chế lâu đời và bền vững song cũng hết sức nhạy cảm với mọi biến đổi
xã hội.
Trước khi tìm hiểu về gia đình Việt Nam truyền thống hay gia đình
Việt Nam hiện đại, chúng ta hãy thống nhất với nhau về khái niệm gia đình.
Nói như thế là bởi vì có rất nhiều quan niệm khác nhau về gia đình ở các hệ
thống chính trị - xã hội và văn hóa khác nhau và có rất nhiều định nghĩa về gia
đình đã được đưa ra. Bởi thế, để có thể tìm hiểu về gia đình Việt Nam, ta tạm
đưa ra một định nghĩa mang tính cổ điển như sau: gia đình là một tập hợp

những người cùng chung sống với nhau dựa trên quan hệ hôn nhân được chính
thức thừa nhận bởi pháp luật hay luật tục và huyết thống. Họ có trách nhiệm
đạo đức đối với nhau, có chung tài sản và cùng có trách nhiệm xã hội hóa thế
hệ mai sau. Đó là các quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái, anh chị em ruột.
Gia đình Việt Nam truyền thống được các nhà nghiên cứu cho là loại
gia đình chứa nhiều yếu tố dường như bất biến, ít đổi thay, ra đời từ nôi văn
hóa bản địa, được bảo lưu và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy,
gia đình Việt Nam truyền thống là sản phẩm của nền văn minh lúa nước và tồn
tại ở địa bàn nông thôn. Cố nhiên, điều này không có nghĩa là ở các đô thị
không tồn tại kiểu gia đình truyền thống. Về vấn đề này tác giả Đỗ Thái Đồng
có viết: "Gia đình truyền thống chắc hẳn là gia đình ở nông thôn, là gia đình ở

22


những xã hội nông nghiệp á Đông đã tồn tại lâu đời và gần như bất biến trên
nhiều khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là một định
chế gắn liền với nền nông nghiệp cổ truyền".
Trong dân gian, gia đình truyền thống được coi là đại gia đình mà các
thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống. Trong gia đình
này có thể cùng chung sống từ 3 thế hệ trở lên: ông bà - cha mẹ - con cái mà
người ta quen gọi là "tam, tứ, ngũ đại đồng đường". Kiểu gia đình này khá phổ
biến và tập trung nhiều nhất ở nông thôn Bắc Bộ. Nền kinh tế tiểu nông là cơ
sở phát sinh và tồn tại của nó. Về mặt tâm lý, người Việt Nam luôn có xu
hướng quần tụ con cái xung quanh mình. Bởi thế, các đại gia đình cùng sống
dưới một mái nhà hoặc vài nhà kế nhau cũng là hình thức tổ chức gia đình phổ
biến ở đô thị. Vào những năm 60 trở về trước ở Hà Nội kiểu đại gia này vẫn
còn thường thấy. Gia đình truyền thống có các ưu điểm như có sự gắn bó cao
về tình cảm theo huyết thống, bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục,
nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia

đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và
giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình mà
chúng ta cần kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại gia đình này
là ở chỗ trong khi giữ gìn các truyền thống tốt đẹp thì cũng bảo trì luôn cả
những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi tác,
lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa
các thế hệ: giữa ông bà - các cháu, giữa mẹ chồng - nàng dâu... Bên cạnh việc
duy trì được tinh thần cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng hạn chế
sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.

Gia đình Việt Nam hiện đại.Trong

điều kiện của xã hội hiện đại "1 ngày bằng 20 năm", gia đình Việt Nam hiện
đại đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và lợi thế của nó. Trước hết
gia đình hiện đại tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả
năng thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội. Gia đình hiện đại có sự độc lập
về quan hệ kinh tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên trong gia đình
khoảng không gian tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân.Trong xã
hội hiện đại, mức độ độc lập cá nhân được coi là một yếu tố biểu hiện chất

23


lượng cuộc sống gia đình. Tính độc lập cá nhân được gia đình tạo điều kiện
nuôi dưỡng, phát triển sẽ tạo ra phong cách sống, tính cách, năng lực sáng tạo
riêng khiến cho mỗi người đều có bản sắc. Đó cũng chính là con người mà sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đang cần đến.
Cố nhiên, gia đình hiện đại cũng có những điểm yếu nhất định. Chẳng
hạn, do mức độ liên kết thuyết minh giảm sút và sự ngăn cách không gian, giữa
các gia đình nên khả năng hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế.

ảnh hưởng của thế hệ tới nhau ít đi cũng làm giảm khả năng bảo lưu các giá trị
văn hóa truyền thống trong gia đình. Dù vậy, gia đình hạt nhân vẫn là loại hình
khá phổ biến ở nước ta hiện nay và đó cũng là loại gia đình thịnh hành trong
các xã hội công nghiệp - đô thị phát triển. Có nghĩa - đó cũng là kiểu gia đình
của tương lai.
Gia đình là một tế bào của xã hội, là một nhóm xã hội cơ sở kiến tạo nên
xã hội rộng lớn. Do đó, sự trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều
vào sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình. Gia đình phải là điểm xuất phát và
trở về của mọi chính sách xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, đã đặt gia đình vào tiêu điểm quan
trọng, phấn đấu sao cho "xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh
phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi
người
1.2.1.2. Khái niệm về giáo dục gia đình và truyền thống giáo dục gia
đình Việt Nam
Giáo dục gia đình là toàn bộ những tác động của gia đình đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách con người, trước hết của lớp trẻ.
Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên góp phần quyết định vào sự hình
thành nhân cách trẻ em, hay nói đúng hơn, vào sự hình thành cấu trúc nhân
cách. Các nhà tâm lý học lớn của thế kỷ này (Piaget, Mead, Moreno, Linton,
Vygotsky, Leontiev... và chắc chắn là không thể bỏ qua Freud) đã chứng minh
khá vững chắc điều đó. Ở phương Đông, dù không chứng minh theo lối thực
chứng, các nhà hiền triết cũng đặc biệt nhấn mạnh tới sự hình thành nhân cách
từ thuở ấu thơ, thậm chí từ khi còn nằm trong bào thai (thai giáo).

24


×