1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
Chuyên ngành : Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành
: 52140204
Giảng viên hướng dẫn:
TS. Lê Ngọc Triết
Sinh viên thực hiện:
Huỳnh Phi Bảo
MSSV: 6088019
CẦN THƠ - 12/2011
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................... 2
1. Lý do chọ đề tài .................................................................................................. 2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ ........................................................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Kết cấu của luận văn ........................................................................................... 4
NỘI DUNG ........................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN TRIẾT HỌC
KHỔNG TỬ .............................................................................................................. 4
1.1 Hoàn cảnh ra đời triết học Khổng Tử .............................................................. 4
1.2 Nội dung cơ bản triết học Khổng Tử .............................................................. 11
1.3 Khái quát sự phát triển triết học Khổng Tử .................................................... 23
CHƯƠNG 2: SỰ KHÁC NHAU GIỮA MẠNH TỬ VÀ TUÂN TỬ TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ .................................... 26
2.1 Triết học Mạnh Tử và triết học Tuân Tử ........................................................ 26
2.2 Sự khác nhau giữa Mạnh Tử và Tuân Tử trong việc phát triển triết học Khổng
Tử. ......................................................................................................................... 38
2.3 Sự khác nhau giữa Mạnh Tử, Tuân Tử và Khổng Tử .................................... 46
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 60
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Được hình thành và phát triển trong một nền văn hóa phương Đông hết sức cổ
xưa, thâm trầm và rực rỡ, triết học Trung Quốc có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong
lịch sử nhân loại. Trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, triết học Trung
Quốc đã phản ánh tương đối đầy đủ tính chất sinh hoạt xã hội Trung Quốc qua các giai
đoạn phát triển khác nhau trong lịch sử và không ngừng được bổ sung, sáng tạo ra
những học thuyết, tư tưởng mới. Trong đó, nhân sinh quan, thế giới quan, các học
thuyết chính trị - xã hội và luân lý đạo đức, v.v…, là những vấn đề nổi bật có giá trị to
lớn đối với sự phát triển của tư tưởng nhân loại, đồng thời làm nên đặc sắc riêng của
triết học Trung Quốc.
Kể từ khi xuất hiện cho đến nay, tư tưởng triết học Trung Quốc, đặc biệt là
trường phái triết học Nho gia có tác động rất lớn đến đời sống xã hội Trung Quốc và
có ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống văn hóa tinh thần, chính trị - xã hội, luân lý, đạo
đức, đối với một số nước trong khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam. Nho gia là một
trong những học thuyết ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa và tư tưởng phương Đông
từ xưa đến nay. Ở Trung Quốc, đây là một trong những học thuyết lớn mạnh và có sức
lan tỏa sâu rộng nhất trong bách gia. Học thuyết này ra đời từ thời Xuân thu do Khổng
Tử sáng lập. Sau Khổng Tử, có hai nhà tư tưởng đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong
quá trình phát triển tư tưởng Nho giáo, đó là Mạnh Tử và Tuân Tử.
Tuy nhiên trong quá trình kế thừa và phát triển, giữa Mạnh Tử và Tuân Tử bên
cạnh những điểm tương đồng cũng có những khác biệt rất lớn. Mạnh Tử là người trau
chuốt thêm ý tưởng về Nhân, khai thông những bế tắc trong tư tưởng của Khổng Tử về
vũ trụ học, siêu hình học và đặc biệt là chính trị học. Tuân Tử trình bày tỉ mỉ và cặn kẽ
thêm ý tưởng về Lễ của Khổng Tử… Do vậy việc việc nghiên cứu và tìm hiểu sự khác
nhau giữa Mạnh Tử và Tuân Tử trong quá trình phát triển triết học Khổng Tử có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn hết sức sâu sắc, nó không chỉ có ý nghĩa trong việc có
được cái nhìn tổng quát về những hạn chế cũng như những giá trị lịch sử của triết học
Khổng Tử mà qua đó còn giúp chúng ta có được những đánh giá đúng đắn hơn về vai
trò của triết học Khổng Tử đối với sự phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, thấy
4
được nét tương đồng và sự khác biệt giữa các triết gia khi đưa ra những quan niệm về
chính trị, đạo đức, về bản tính con người... Đó là những lý do mà tác giả chọn đề tài:
“Sự khác nhau giữa Mạnh Tử và Tuân Tử trong việc phát triển triết học Khổng
Tử” làm đề tài luận văn tốt nghiệp đại học của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu làm rõ triết học Khổng Tử và điểm
khác nhau giữa Mạnh Tử và Tuân Tử trong việc phát triển triết học Khổng Tử.
Phạm vi nghiên cứu: một số nội dung tư tưởng triết học Khổng Tử, Mạnh Tử và
Tuân Tử.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích: Qua việc nghiên cứu đề tài luận văn này, nhằm tìm hiểu điểm giống
và sự khác nhau triết học Mạnh Tử và triết học Tuân Tử, tìm hiểu sự phát triển triết
học Khổng Tử trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Nhiệm vụ:
Thứ nhất: Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời triết học Khổng Tử
Thứ hai: Làm rõ nội dung cơ bản và sự phát triển triết học Khổng Tử.
Thứ ba: Làm rõ sự khác nhau giữa Mạnh Tử và Tuân Tử trong quá trình phát
triển triết học Khổng Tử.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn dựa trên thế giới quan, phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phương pháp cụ thể: phương pháp logíc - lịch sử, phương pháp phân tích tổng
hợp, quy nạp diễn dịch…
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương và 6 tiết.
5
NỘI DUNG
Chương 1:
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ
1.1 Hoàn cảnh ra đời triết học Khổng Tử
- Vài nét về lịch sử Trung Hoa cổ đại
Nếu phương Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại thì Ấn Độ và
Trung Quốc là những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ và phong phú nhất của
nền văn minh đó, trong đó, tư tưởng triết học có ý nghĩa quan trọng của nền văn minh
văn hóa ở Trung Hoa. Trung Quốc là một nước lớn ở miền đông Châu Á, là một quốc
gia rộng lớn, tình hình địa lý và khí hậu của Trung Quốc không đồng nhất. Miền tây là
miền đất cao, có nhiều núi, khía hậu khô hanh, còn miền đông thấp hơn, có nhiều đồng
bằng, lại gần biển nên khí hậu tương đối ôn hòa. Trung Quốc là một trong những cái
nôi rất sớm đã có loài người cư trú.
Sự phát sinh và phát triển tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại gắn liền với
quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế, xã hội, và sự phát triển của khoa học Trung
Hoa thời đó.
Trung Hoa cổ đại hình thành từ cuối thế kỷ II đầu thiên niên kỷ thứ I trước
công nguyên và phát triển rực rỡ ở thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc được chia thành hai
giai đoạn, giai đoạn Thương – Chu và giai đoạn Xuân thu – Chiến quốc.
Ở Trung Quốc nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên xuất hiện khoảng thế kỷ
thứ XXI trước công nguyên, đó là nhà Hạ, ở thời kỳ này người ta đã biết khai thác,
sáng chế, sử dụng công cụ bằng đồng, đã bắt đầu xuất hiện văn tự. Đây là những tiến
bộ có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử phát triển xã hội và nhận thức của con người. Phù
hợp với sự phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội của triều đại nhà Hạ, những quan
điểm tôn giáo triết học của thời kỳ này đã phát triển lên một bước mới. Theo các Thiên
Vũ Cống, Tam Thệ, Ngũ Tử Chi Ca, Duận Chính (sách Thượng Thư) và các di khảo
cổ, nói chung đã phát triển theo hai khuynh hướng:
+ Khuynh hướng thứ nhất: Khi nền sản xuất dưới chế độ nhà Hạ, bắt đầu
tiến lên giai đoạn chăn nuôi và trồng trọt thì săn bắn và đánh cá không còn là nghề
kiếm sống thứ yếu nữa. Khi đó đã tạo ra những bước chuyển từ những quan điểm sùng
6
bái sức mạnh của các sự vật hay những lực lượng tự nhiên mà con người không thể cắt
nghĩa được mang tính chất tín ngưỡng vật linh và Tô – tem sang những tín ngưỡng tôn
giáo thần bí và biểu tượng về “thượng đế”, “linh hồn tổ tiên” cùng với việc sùng bái
thần tự nhiên chi phối vạn vật và quyết định vận mệnh của con người.
+ Khuynh hướng thứ hai: Về mặt chính trị, xã hội và luân lý đạo đức, giai
cấp quý tộc nhà Hạ ra sức lợi dụng các biểu tượng tín ngưỡng tôn giáo như một
phương tiện quan trọng để ru ngủ, lừa mị nhân dân, xoa dịu mâu thuẫn trong xã hội,
củng cố sự thống trị của chúng. Chúng ra sức tuyên truyền rằng sự thống trị của chúng
với nhân dân chẳng qua là sự thể hiện mệnh lệnh và ý chí của “Trời”.
Ngay từ trong đời sống, giai cấp chủ nô cũng đã nhận thức được vai trò của
quần chúng nhân dân trong hoạt động xã hội. Họ biết rằng dù có thế lực , nhưng không
có nhân đức, không được sự ủng hộ của nhân dân thì nhất định sẽ bị lật đổ. Đây là
những bài học chính trị đầu tiên của người Trung Hoa cổ đại rút ra được từ cuộc sống.
Cuối thời Hạ mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, vua dâm loạn, thế nước suy, các bộ
lạc chư hầu nổi dậy chống Hạ.
Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII trước công nguyên người đứng đầu tộc
Thương là Thành Thang lật đổ vua kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương, đặt kinh đô tại
đất Bạc, tỉnh Hà Nam. Đến thế kỷ XIV trước công nguyên, Bàn Canh dời đô đến đất
Ân, huyện An Dương, Hà Nam nên nhà Thương thường được gọi là nhà Ân.
Dưới thời thống trị của nhà Ân – Thương tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
mặc dù còn ở trình độ thấp, đồ sắt chưa phổ biến. Nhưng nhờ vào những điều kiện
thiên nhiên thuận lợi, cả một vùng đất phì nhiêu của lưu vực các sông Hoàng Hà, Hắc
Thủy, Nhược Thủy, Lạc Thủy của vùng Hoàng Hà Lục Tỉnh, các bộ lạc người Ân đã
định cư ở đây và có một nền kinh tế sản xuất ổn định, với sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu, chăn nuôi và săn bắn phát triển ở trình độ cao.
Quan hệ thời Ân – Thương là chế độ gia trưởng kiểu phương Đông ở trình
độ thấp, chưa có sự phân biệt rõ rệt về khái niệm “sở hữu” đối với tư liệu sản xuất và
sức lao động. Vào thời Ân sự đối lập giữa thành thị và nông thôn có sự phân định, xác
lập bờ cõi nhưng ở trình độ thấp, chỉ ở thời kỳ manh nha của sự thành lập nhà nước.
Về tri thức khoa học, người Ân đã biết làm ra lịch, đây là một phát minh rất quan
trọng, nó có quan hệ khăng khít với việc phát minh ra chữ viết, là vũ khí quan trọng
của việc lợi dụng và chinh phục thiên nhiên của cư dân làm nông nghiệp, định cư ở lưu
7
vực các con sông lớn. Người Ân đã biết quan sát sự vận hành của mặt trăng, các vì
sao, tính chất chu kỳ của nước sông dâng lên, quy luật sinh trưởng của các cây trồng
và làm ra âm lịch để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Về tư tưởng đạo đức chính trị vào thời Ân, chưa có quan niệm rõ ràng, chưa
có ý thức về ý nghĩa đạo đức, tức là các thành viên trong thị tộc chưa có thứ quan hệ
được xác lập trên quan hệ quyền lợi, nghĩa vụ.
Thế kỷ XII trước công nguyên, bộ tộc Chu nổi lên ở lưu vực sông Vị, tỉnh
Thiểm Tây, ra sức phát triển nông nghiệp, chăn nuôi và tích cực chuẩn bị binh để
chinh phục các bộ tộc lân cận, mở rộng đất đai, bành chướng thế lực của mình, chuẩn
bị lật đổ triều Thương. Đến thế kỷ XI trước công nguyên, bộ tộc Chu đứng đầu là Chu
Vũ Vương từ phía Tây Bắc men theo sông Hoàng Hà tiến vào đất Ân, đã diệt vua Trụ
của nhà Thương, lập nên nhà Chu, đưa chế độ nô lệ Trung Quốc lên đỉnh cao.
Giai đoạn của nhà Chu gọi là Tây Chu, mặc dù đồ sắt chưa phổ biến, nhưng
do tiếp thu được những thành tựu của người Ân để lại, và điều kiện thiên nhiên thuận
lợi, có nguồn lao động dồi dào là các đơn vị thị tộc bị chinh phục, kết hợp với cách
thức tổ chức quản lý có tính kỷ luật cao của cư dân dân du mục, người Chu đã tiến xa
hơn người Ân trên con đường “dựng nước” chính thức bước vào xã hội văn minh. Do
“dựng nước” bước vào văn minh trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn thấp
kém nên tình hình kinh tế xã hội thời Tây Chu có những đặc điểm sau:
+ Nhà Chu cho thực hiện chế độ quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất và sức
lao động rất nghiêm ngặt. Về nguyên tắc ruộng đất, mọi thành viên đều thuộc quyền
quản lý của nhà Chu.
+ Thành lập thành thị - thị tộc đại quy mô đã có sự phân biệt đối lập giữa
thành thị và nông thôn. Thành thị là nơi ở của tầng lớp quý tộc, thị tộc của kẻ thống trị,
còn nông thôn là nơi ở của kẻ bị thống trị. Ở đây là nhà Chu đã phải giữ lại hình thức
tổ chức của thị tộc cũ, chế độ thị tộc thành thị và chế độ thị tộc nông thôn. Hệ quả dẫn
đến là trong phân tầng xã hội đã có sự phân biệt người “quân tử” và “tiểu nhân”.
+ Dưới thời Tây Chu, bọn quý tộc đã có đủ đặc quyền, đặc lợi, vua tự xưng
là “thiên tử”, chế độ chính trị nhà Chu là chế độ có tình thế tập “ thiên tử” phân đất
đai, chức tước cho anh em, họ hàng, công nhân và chư hầu để họ dựng nước và trị dân
ở các nơi. Chư hầu lại phong đất đai cho đại phu, quý tộc, tạo ra một hệ thống ràng
buộc nhau không chỉ về huyết thống mà cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Nông nô bị
8
thắt chặt vào ruộng đất của bọn quý tộc và bị chúng ra sức bóc lột sức lao động và vơ
vét của cải. Họ còn phải thường xuyên đi lao dịch, xây thành, đắp lũy, đi chiến trận,
lao động cực nhọc và đời sống cơ cực đã đẩy nông dân và nô lệ nổi lên đấu tranh
chống lại bọn vua chúa, quý tộc thống trị.
Dưới thời Ân – Thương và Tây Chu, thế giới duy tâm, tôn giáo trở thành
hình thái ý thức chiếm địa vị thống trị lúc bấy giờ. Bọn quý tộc và tăng lữ thời Ân –
Chu cho sự biến hóa của vạn vật, hiện tượng trong tự nhiên, và đời sống xã hội cũng
như số phận con người đều do ý thức của trời và quỷ thần chi phối. Họ tự cho là nhận
mệnh lệnh của trời để cai trị nhân dân, mọi người dân phải phục tùng mệnh lệnh của
vua chúa nếu không sẽ bị trời và quỷ thần trừng phạt. Với đời sống và trình độ nhận
thức còn thấp kém, người Trung Hoa cổ đại đã nhân cách hóa các hình tượng tự nhiên
thành các lực lượng có sức mạnh tối cao, thần bí cho mọi người sùng bái, cầu khẩn,
gởi gấm tâm tư nguyện vọng của mình vào đó. Sự mê tín tôn giáo và quan niệm duy
tâm đó đã ảnh hưởng rất lớn đến xã hội Trung Quốc thời đó và đã bị giai cấp thống trị
lợi dụng để mê hoặc, nô dịch quần chúng nhân dân lao động.
Đối lập với quan điểm duy tâm, tôn giáo thống trị thời Ân – Chu đã xuất
hiện những quan điểm triết học duy vật chất phát và những quan niệm có tính chất vô
thần tiến bộ khẳng định vị trí và tác dụng hoạt động của con người trong xã hội cũng
như quan hệ với tự nhiên. Họ tin rằng, con người có thể tự quyết định vận mệnh của
mình, họ còn ý thức được rằng quần chúng nhân dân còn quan trọng hơn quỷ thần, nếu
kẻ thống trị không được dân ủng hộ thì dù có sùng bái quỷ thần đến đâu chính quyền
sớm muộn cũng sụp đổ.
Đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại tư tưởng duy tâm, thần bí thống
trị đương thời, những quan điểm duy vật mang tính chất phát nguyên thủy, giải thích
tự nhiên từ chính những hiện tượng của tự nhiên nhờ sự hiểu biết về thiên văn, địa lý,
y học đã hình thành.
Nổi bật trong tất cả những tư tưởng duy vật sơ khai thời đó là quan điểm về
sự tác động phối hợp của “ngũ hành” cấu thành vạn vật: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, và
quan niệm về sự tương tác lẫn nhau giữa hai thế lực vật chất cơ bản, hai mặt đối lặp
“âm” “dương” trong “ thái cực”. Tư tưởng đó thể hiện rõ tính chất duy vật chất phát
trong tư duy người Trung Quốc cổ đại, được đánh dấu bằng tác phẩm vĩ đại nhất trong
9
thời trung cổ là “Kinh dịch”. Những tư tưởng duy tâm thời kỳ này đã mở đường cho sự
phát triển triết học trong giai đoạn Xuân thu - Chiến quốc.
- Sự phát triển của triết học Trugn Quốc trong giai đoạn Xuân thu – Chiến
quốc
Từ thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, xã hội Tây Chu bước vào một thời
kỳ có nhiều biến động lớn lao, toàn diện kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ III trước công
nguyên. Lịch sử gọi là thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc. Thời Xuân thu là giai đoạn đầu
của thời Đông Chu bắt đầu từ năm 770 trước công nguyên cho đến thế kỷ thứ 5 trước
công nguyên trước sau gần khoảng ba thế kỷ, giai đoạn này triết học cổ đại Trung Hoa
phát triển rực rỡ. Giai đoại suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ chế độ phong kiến sơ
kỳ đang lên.
Trong thời Xuân thu việc sử dụng công cụ sản xuất bằng sắt, dùng bò để
kéo cày khá phổ biến, tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất hoang, hoàn thiện kỹ thuật
canh tác ruộng đất và kỷ thuật “dẫn thủy nhập điền” góp phần nâng cao năng suất lao
động. Thủ công nghiệp đã có bước phát triển mới đặc biệt là sự phân công lao động,
chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra một loạt ngành nghề mới bên cạnh các ngành nghề cổ
truyền, cùng với sự phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp buôn
bán phát triển hơn. Trên cơ sở phát triển của sức sản xuất, các vùng đất do nhân dân
vỡ hoang trở thành vùng đất tư ngày càng tăng thêm, bọn quý tộc có quyền thế chiếm
đoạt ruộng đất công ngày càng một nhiều. Chế độ tư hữu tư nhân về ruộng đất đã hình
thành.
Thời Chiến quốc kinh tế phát triển mạnh, nghề luyện sắt hưng thịnh, đồ
dùng bằng sắt phát triển rộng rãi. Đô thành các nước và một số thành ấp lập bên những
đường giao thông chủ yếu, trở thành những trấn đô lớn. Thủy lợi và kỹ thuật canh tác
trong nông nghiệp ngày càng phát triển, kéo theo đó là sự phát triển của các ngành
nghề thủ công như: luyện kim, đồ gốm, tiền tệ bằng kim loại hình thành. Thành thị đã
có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc
của quý tộc, thị tộc thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên.
Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã phát triển đến hình thức
sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng xã hội. Nếu như vào thời Chu đất đai ở khắp
dưới gầm trời này không đâu không phải là của nhà vua, ở khắp mọi nơi không ai
10
không phải là thần dân của nhà vua, thì nay cái quyền sở hữu tối cao (về dân về đất) ấy
đã bị một lớp người mới lên có tiền tấn công và chiếm làm tư hữu.
Giai cấp quý tộc và thị tộc Chu đã mất đất, mất dân, địa vị kinh tế ngày
càng xa sút và đương nhiên vai trò chính trị thiên tử của nhà Chu chỉ còn là hình thức.
Sự phân biệt sang hèn dựa trên tiêu chuẩn của huyết thống thị tộc tỏ ra không còn phù
hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở tài sản. Các nước chư hầu của nhà Chu không
chịu phục tùng vương mệnh nữa, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn nhau,
tự xưng bá…kết quả của biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong giai tầng kết
cấu của xã hội. Nhiều giai cấp mới xuất hiện, mới cũ đan xen và mâu thuẫn ngày càng
gây gắt. Có thể tóm tắt mấy mâu thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này là:
+ Mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư hữu tài sản, có địa vị kinh tế trong
xã hội (Hiền tộc) mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quý tộc, thị tộc cũ
nhà Chu đang nắm chính quyền.
+ Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với giai
cấp quý tộc, thị tộc Chu.
+ Trong bản thân giai cấp quý tộc, thị tộc Chu có một bộ phận tách ra,
chuyển hóa lên giai tầng mới; một mặt họ bảo lưu nhà Chu; một mặt họ cũng không
hài lòng với trật tự cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con đường cải lương, cải
cách.
+ Tầng lớp tiểu quý tộc, thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên tấn
công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng lớp đại quý tộc,
thị tộc đang nắm chính quyền .
+ Mâu thuẫn nông dân công xã thuộc các thị tộc người Chu nô dịch với nhà
Chu và Tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột tận dụng sức lao động của họ. Đó là
những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ, thị tộc, tiến
nhập vào xã hội phong kiến; đòi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng (còn gọi là
Tông pháp), xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất,
mở đường cho xã hội phát triển.
Xã hội đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp dân tự do xuất
hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do phồn vinh và những thành quả đạt
được trên lĩnh vực khoa học tự nhiên là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển
có tính đột biến của tư tưởng thời kỳ này. Trong nước xuất hiện những trung tâm (như
11
Tắc hạ của nước Tề), những tựu điểm (như nhà Mạnh Thường Quân) mà ở đó “ kẻ sĩ
bàn ngang” hay “ bàn việc nước”. Nhìn chung họ đều đứng trên lập trường của giai
cấp mình, tầng lớp mình mà phê phán trật tự xã hội cũ, xây dựng xã hội tương lai, phê
phán đả kích lẫn nhau. Lịch sử gọi là thời kỳ “ Bách Gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy),
“Bách Gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng).
Chính trong thời đại biến chuyển sôi động đó, đã đặt ra một loạt những vấn
đề xã hội và triết học mới buộc các nhà tư tưởng phải quan tâm lý giải, làm nảy sinh
một loạt các trường phái đa dạng. Các trường phái triết học đó đã đấu tranh với nhau
hết sức quyết liệt tạo nên không khí sôi động trong đời sống tinh thần xã hội Trung
Quốc cổ đại.
Sự phong phú đa dạng của các hệ thống, các nhà tư tưởng triết học thời
Xuân thu – Chiến quốc đã thực sự trở thành điểm đỉnh của toàn bộ đời sống văn hóa
tin thần của xã hội Trung hoa cổ đại, như một cái mốc son chói lọi trong lịch sử văn
hóa Phương Đông.
- Sự ra đời của Nho giáo
Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt đầu từ chữ “Nho”. Theo Hán tự “
Nho” là chữ “ Nhân” đứng cạnh chữ “Nhu” có nghĩa là cần, chờ đợi. Nho gia còn
được gọi là nhà Nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo
người đời ăn ở hợp luân thường đạo lý… Trước thời Xuân thu nhà Nho được gọi là “
sĩ ”, chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị vì đất nước.
Đến đời mình, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng và tri thức trước
đây thành học thuyết, gọi là Nho gia hay Nho học. Người ta đã gắn học thuyết này với
tên tuổi của người sáng lập ra nó, gọi là Khổng học. Theo Hmaspero, nhà đông
phương học nổi tiếng người pháp cho rằng: trong các đạo giáo và tôn giáo Trung Quốc
thì từ nhiều năm trước công nguyên, các chư hầu phải sử dụng một số người học thức
để làm văn thư. Mặt chữ có chữ viết trên gỗ, trên lá, các vương hầu dốt nát, không chịu
khó cần phải nhờ những người hay chữ, những người này làm đủ các công việc quan
trọng nhưng không có chức vụ lãnh đạo trong triều chính vương hầu. Tình hình này
làm nảy sinh trong đầu óc những người đó ý muốn có một chế độ xã hội trong đó các
tể tướng, các quan to không được lựa chọn theo dòng họ mà bằng tài năng.
1.2 Nội dung cơ bản triết học Khổng Tử
- Thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử
12
Khổng Tử (551 – 479 tr. CN), (Chu Linh Vương năm 21 – Lỗ Tương Công
năm 22), tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh
Sơn Tây. Khổng Tử là người sáng lập ra phái Nho giáo ở thời Trung Hoa cổ đại.
Cha Khổng Tử là Thúc Lương Ngột, làm một chức quan nhỏ trong triều
đình, can đảm và rất mạnh mẽ có chút chiến công nhưng rất nghèo. Mẹ Khổng Tử là
Nhan Trưng Tại còn gọi là Nhan thị. Cha Khổng Tử mất lúc đó ông mới tròn ba tuổi.
Từ khi cha mất, gia đình Khổng Tử sống trong cảnh bần hàn, nhưng mẹ ông vẫn quyết
chí nuôi ông ăn học. Ngay từ nhỏ, Khổng Tử đã có hai tính cách khá đặc biệt: Một là
rất trọng lễ nghĩa, thể hiện qua việc ông rất thích chơi trò tế lễ và hai là hiếu học, siêng
năng bằng việc Khổng Tử suốt đời tự học, đi đâu cũng học, vào Thái Miếu thấy gì
không hiểu cũng hỏi, đi cùng với ai cũng có thể học người đó. Lớn lên, ngoài những
giờ học, ông phải giúp mẹ và có lẽ ngay từ nhỏ ông đã có cái vẻ nghiêm trang mà ông
giữ được suốt đời. Mặc dù vậy ông vẫn có thời gian học môn bắn cung và âm nhạc.
Nhà tuy ngèo, nhưng Khổng Tử vẫn được học một trường Công về lục nghệ
“Lễ”, “Nhạc”, “Sa”, “Ngự”, “Thư”, “Số”. Năm 15 tuổi, ông học hết chương trình đó
để trở thành một “Nho sinh”, tức một “Thuật sĩ”. Theo ghi chép của sách Tả truyện
(Chiêu Công thứ 19) thì Khổng Tử đã từng học đàn với Sư Tương, học âm luật với
Trành Hoằng, học tiếng nước ngoài với Đam Tử, …
Năm 19 tuổi, Khổng Tử lấy vợ, sinh được một người con trai đặt tên là Lý,
tự là Bá Ngư. Sau sòn sinh thêm một con gái và gã cho Công Dã Tràng một môn sinh
của ông.
Ông làm Ủy lại coi việc cân đong thóc ở kho và làm Tư chức lại coi việc
bò, dê để dùng vào việc cúng tế. Năm 22 tuổi, Khổng Tử bắt đầu dạy học, sau đó học
nhạc và học đạo.
Từ năm 30 tuổi đến 50 tuổi (từ 522 – 503): Năm 33 tuổi, Khổng Tử đến
nước Chu để khảo sát tế lễ ở Miếu đường. Từ Chu trở về danh tiếng ông càng tăng,
học trò càng đông. Năm 516, Lỗ Chiêu Công ghép Quí Bình Tử vào tội nhỏ, đem quân
hỏi tội Bình Tử, Quí Bình Tử cùng hai nhà Mạnh và Thúc liên kết với nhau tấn công
Chiêu Công, Lỗ Chiêu Công trốn sang Tề, nước Lỗ đại loạn. Khổng Tử cũng qua Tề ở
nhà Cao Chiêu Tử, hy vọng được tiếp xúc với vua Tề, nhưng không thành. Năm 510
ông về Lỗ.
13
Thời kỳ tham chính tại Lỗ (502 – 496): Năm 502, Khổng Tử 50 tuổi. Thời
gian này Công Tôn Phất Nhiễu, một gia thần của Quí Hoàn Tử, có chuyện bất bình với
Hoàn Tử theo Dương Hồ làm loạn ở Lỗ, chiếm đất phí, mời ông lại giúp nhưng Khổng
Tử từ chối. Cũng trong năm này Lỗ Định Công dùng ông làm Trung Đô tề. Được một
năm Trung Đô rất có trật tự, kỷ luật từ trên xuống dưới thành một thị trấn kiểu mẫu.
Năm 501 ông được cất chức Tư Không. Năm 500 làm Đại Tư khấu, rồi Nhiếp Chính
tướng coi việc hình in, ấn định luật lệ, phép tắc trong nước. Năm 497, Khổng Tử làm
Á tướng quốc thứ nhì. Cũng trong năm này, Khổng Tử khuyên vua Lỗ phá ba thành
của ba họ Quý, Mạnh, Thúc nhưng chỉ phá được hai thành. Trong thời gian nhậm chức
ở Lỗ, Khổng Tử đã thẳng tay trừng trị loạn quan, nịnh quan trong triều, đem lại cho
nước Lỗ cảnh “ban đêm ngủ không phải đóng cửa, ban ngày ra đường không nhặt của
rơi, luân thường đạo lý được coi trọng”. Song, vua nước Lỗ đam mê tửu sắc, đàn hát
ca múa xa hoa, bỏ bê việc triều đình nên Khổng Tử chán ngán, bỏ qua nước Vệ.
Bốn năm lưu lạc (496 – 492): Lúc này, Khổng Tử 56 tuổi, tham chính ở
nước Lỗ được sáu năm, giúp Lỗ được nhiều công. Sau sáu năm hành đạo ở Lỗ, thấy có
kết quả ông càng tin có thể lập được sự nghiệp như Chu Công, Lỗ không dùng ông thì
thiên hạ thế nào chẳng có nước dùng ông?. Qua Vệ, ông ở nhà anh vợ của Tử Lộ là
Nhan Thù Do, Vệ Linh Công muốn dùng ông nhưng triều đình dèm pha. Ông ở Vệ
được mười tháng kế đó qua Trần, nhưng mới tới thành Khuông, người thành đó vốn
ghét Dương Hổ, trang mạo Khổng Tử giống Dương Hổ nên họ bắt giam ông, sau đó
biết lầm, họ thả ông ra. Năm 1945, ông qua Bồ ở đó một tháng rồi về Vệ, ở nhà Cừ Bá
Ngọc, một đại phu tuổi cao đức lớn mà ông rất trọng. Ở Vệ, ông thấy Vệ Linh Công
hiếu sắc hơn hiếu đức. Buồn rầu ông rời Vệ, trước sau chỉ ở đó hơn một tháng. Ông
qua Tào rồi sang Tống. Năm 494, thầy trò Khổng Tử phiêu bạt tới nước Trịnh. Từ
Trịnh, Khổng Tử qua Trần, ở hơn một năm tại nhà Trịnh Tử, một viên Tư mã. Lúc
này, Ngô đánh Trần, Sở vây Thái đánh nhau. Vậy là cả khu vực đó chiến tranh liên
miên, Khổng Tử buồn rầu bỏ Trần mà quay lại đất Bồ. Bồ đương có loạn. Năm 493
ông quay lại Vệ, ở nhà Cừ Bá Ngọc, Vệ Linh Công không dùng ông nhưng ông không
nản chí. Sau đó rời Vệ qua Trần. Năm 492, Khổng Tử 60 tuổi, Khổng Tử lúc này còn
đang ở Trần, Lỗ Định Công chết (495), Hoàn Tử cũng chết, khi sắp mất, Hoàn Tử hối
hận vì đã không trọng dụng Khổng Tử, để nước Lỗ mất cơ hội thành một nước cường
thịnh nên dặn con là Quí Khang Tử vời Khổng Tử về giúp nước nhưng Quí Khang Tử
14
không nghe lời cha, lại mời Nhiễm Cầu về. Năm 491, Khổng Tử qua Thái. Năm 490,
Khổng Tử qua huyện Diệp thuộc Sở, sau đó Khổng Tử lại trở về Thái. Bị hai nước
Trần và Thái vây tuyệt lương. Khổng Tử bèn sai Tử Cống qua Sở, vua Sở sai một đạo
quân tới giải vây cho Khổng Tử và thầy trò Khổng Tử qua Sở. Mùa thu năm 489 Sở
vương chết, thầy trò Khổng Tử lại không được dùng. Ông rời Sở quay về Vệ, lúc này
Khổng Tử 63 tuổi, đời Lỗ Ai Công. Mùa hè năm 493, trong khi Khổng Tử ở Trần thì
Vệ Linh Công mất. Năm 484, Khổng Tử đã 69 tuổi, Quí Khang Tử mời ông về Lỗ.
Ông về Lỗ nhưng không tham chính mà sang dịch sách Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của
người đời trước để lại, viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình.
Năm 479, ông mất ở Lỗ, thọ 73 tuổi. Tương truyền rằng, học trò của ông
đến ba ngàn người và khi ông mất đã có người để tang đến sáu năm, hàng trăm người
làm nhà lập cứ bên phần mộ ông, tạo thành làng Khổng.
- Nội dung cơ bản triết học Khổng Tử
+ Quan niệm về thế giới
Quan điểm về thế giới của khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm về vũ trụ
của người Trung Quốc thượng cổ - những quan điểm được lưu truyền trong nhân gian
và được ghi trong sách Dịch. Đây là quan niệm cho rằng vũ trụ lúc đầu là cõi hỗn
mang mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái “lý” gọi là “Thái cực” vô hình, huyền
diệu chứa đựng hai mặt tiềm ẩn, đối lập liên hệ với nhau là âm và dương. Thái cực có
bản thể và động thể. Vì nó là vô hình nên không thể nhận biết được bản thể của nó,
song có thể biết được động thể của nó biểu hiện qua sự tương tác, chuyển hóa lẫn nhau
giữa âm và dương. Sự tương tác chuyển hóa giữa hai thế lực căn bản nhất của vũ trụ,
vạn vật trong một thể thống nhất là Thái cực tạo ra mọi sự biến đổi vô cùng tận, gọi là
“đạo”, hay “dịch”, đó là đạo biến hóa của trời đất. Theo đạo, âm dương tạo ra thanh
khí và trọng khí. Thanh khí làm trời, trọng khí làm đất, còn sự điều hòa giữa âm
dương, trời đất sẽ sinh ra vạn vật. Ngay từ trong tiềm ẩn, vạn vật đã bẩm thụ thanh khí
và trọng khí. Vật nào bẩm thụ nhiều thanh khí thì làm thần, vật nào bẩm thụ ít, tùy
theo độ đậm nhạt của thanh khí, trọng khí mà làm quỷ, làm người hay làm vật.
Quan niệm trên cho thấy người Trung Hoa cổ đại đã xếp ngôi thứ trong vũ trụ là: trời,
thần, quỷ, người và vạn vật. Cách hiểu về trời ở đây không giống cách hiểu về Thượng
đế của một số tôn giáo hay Thượng đế của triết học duy tâm. Trời không là một giới
15
siêu nhiên sáng tạo ra vũ trụ mà trời chỉ giữ ngôi cao nhất trong vũ trụ. Các thần cũng
không phải hoàn toàn hư vô, huyền bí mà chỉ là sự bẩm thụ khí âm dương mà ra.
Quan hệ giữa quỷ thần và người thì trong các bài văn tế ta thấy Thiên tử tự xưng với
trời là “Thần”, còn đối với quỷ thần thì Thiên tử xưng là “trẫm”. Nghĩa là Thiên tử cho
quỷ thần ngang hàng với mình hoặc dưới mình. Người Trung Hoa cổ đại còn quan
niệm con người là tinh khí của trời đất tối linh trong vạn vật, nên thiên ý, dân tâm là
một. Sách Thượng Thư nói: “Trời nhìn tự dân nhìn. Trời nghe tự dân nghe”, vì vậy
“dân muốn gì trời cũng thuận”
Như vậy, Khổng Tử chịu ảnh hưởng của quan niệm cho rằng vạn vật đều
có chung nguồn gốc và vận động không ngừng theo “đạo” của nó. Ông đã dẫn nhiều
lần để đề cập đến “một đầu mối” (nhất dĩ quán chi) để thể hiện tư tưởng này và thường
dạy học trò: “Cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi không có vật gì ngừng
nghỉ” hoặc “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành, vạn vật cứ sinh hóa mãi”.
[19, tr 104]
Khổng Tử rất tin ở trời. Với ông, trời như một quan tòa công minh cầm
cân nảy mực phán xét mọi việc. Trời quyết định sự thành bại trong hoạt động cũng
như cuộc sống của con người. Vì vậy, Khổng Tử khuyên mọi người nên phục tùng ý
chí của trời và coi việc hiểu biết nó như một điều kiện tất yếu để trở thành con người
hoàn thiện. “Không hiểu mệnh trời không thể là người lương thiện” [23, tr 321]
Quan niệm về trời của Khổng Tử như vậy tất yếu dẫn đến thuyết “ sống
chết có mạng, giàu sang tại trời”. Tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong tác phẩm
Trung Dung của Tư Tử, cháu nội Khổng Tử, rằng nếu cái mệnh trời đã sắp xếp con
người ở địa vị cao sang thì người đó phải hành động theo phận giàu sang; ở địa vị
nghèo hèn, người ăn ở phải theo phận nghèo hèn; làm thân kẻ di dịch phải ăn ở theo
đúng phận kẻ di dịch. Khổng Tử cũng không phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần nhưng
theo ông việc của quỷ thần là việc cao xa, u uẩn nên đối với quỷ thần con người phải
kính trọng song chẳng nên gần gũi làm gì [23, tr 103].
Về giới tự nhiên và trời – đất, đúng như các triết gia Trung Quốc nghiên
cứu về văn minh Trung Quốc cổ đại đã nhấn mạnh, quan hệ giữa trời và người là vấn
đề trung tâm trong cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học ở giai đoạn này…
Quyền lực và sức mạnh của trời là sự thần thánh hóa quyền lực và sức mạnh của thế
lực cầm quyền trên mặt đất. Với tư tưởng triết học này là duy tâm, muốn ru ngủ quần
16
chúng bằng niềm tin vào mệnh trời và số phận. Khổng Tử đã thể hiện rõ thái độ của
mình trong việc ủng hộ giai cấp chủ nô khi chế độ chiếm hữu nô lệ bước vào thời kỳ
suy tàn và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân khắp nơi đang nổ ra quyết liệt. Tuy nhiên,
cuộc sống thực mà Khổng Tử chứng kiến làm ông hoang mang. Quan niệm về quyền
lực vô hạn của trời cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của ông chứa đầy mâu thuẫn.
Một mặt truyền bá sức mạnh của trời, mặt khác ông nhấn mạnh đến hoạt động của con
người, coi hoạt động của con người như một địa vị quan trọng nhất trong cuộc sống.
Một mặt, ông công nhận có sự tồn tại của quỷ thần, nhưng mặt khác, ông lại khuyên
con người không nên đề cập đến và nên xa lánh nó. Chính vì vậy ông cố ý tránh né nói
đến cái chết, khuyên con người hãy quay trở về với cuộc sống thực, sống cho đúng đạo
làm người.
+ Quan niệm về chính trị
Lịch sử Trung Hoa cổ đại chỉ ra rằng, cuối thời Xuân thu sự thay đổi các
quan hệ sản xuất trong phương thức chiếm hữu nô lệ bắt đầu dẫn đến sự thay đổi kiến
trúc thượng tầng của xã hội. Một loạt những học thuyết khác nhau ra đời và kèm theo
đó là những luật lệ phép tắc khác nhau được giai cấp chủ nô quý tộc ban hành nhằm
duy trì địa vị của mình trong xã hội.
Từ quan điểm vạn vật đều chung nguồn, chung gốc, cái phức tạp biến
sinh từ cái bình dị, đơn sơ, Khổng Tử cho rằng sự thay đổi của xã hội làm thiên hạ rối
ren không phải là nguyên nhân một sớm một chiều mà là một quá trình bắt nguồn từ
một mối, đấy là sự sa đọa của thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính”,
tức là “danh” không phù hợp với “thực”. Vì vậy, để khôi phục trật tự xã hội, Khổng
Tử chủ trương thực hiện thuyết “chính danh”. Ông cho rằng trong xã hội, mỗi vật và
mỗi người đều có một công dụng nhất định. Nằm trong một mối quan hệ nhất định,
mỗi vật, mỗi người đều có một địa vị nhất định và tương ứng với nó là một “danh”
nhất định. Mỗi “danh” đều có tiêu chuẩn riêng. Vật nào, người nào mang “danh” nào
phải được thực hiện và phải thực hiện cho bằng được những tiêu chuẩn của danh đó,
nếu không phải gọi bằng “danh” khác. Đó là “chính danh”. Khổng Tử giải thích học
thuyết chính danh của mình rằng: “Chính là làm cho mọi việc ngay thẳng”. Chính
danh là: “vua cho ra vua, bề tôi phải ra bề tôi, cha phải ra cha, con phải ra con”. “ Nếu
danh bất chính thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn sẽ dẫn tới việc
làm sai. Khi đó, người với người trong xã hội sẽ không còn kính trọng nhau, không
17
còn hòa khí, luật pháp lỏng lẻo và người dân sẽ mất nơi trông cậy, nhờ vả”. [19, tr
211]. Khi “Dân không có chỗ trông cậy, nhờ vả thì dân sẽ không còn tin ở bậc cầm
quyền, lúc đó dù muốn hay không xã tắc cũng khó tránh bề suy sụp”. [19, tr 195]
Vì cho “chính danh” quan trọng nhất nên khi Tử Lộ hỏi nếu được vua Vệ
mời tham gia chính sự thì Khổng Tử sẽ làm gì, ông đáp: “ắt phải chính danh trước đã”.
Theo tư tưởng “chính danh” khi viết sách Xuân thu, Khổng Tử rất thận trọng dùng từ
ngữ, chữ nghĩa để phân biệt đúng đắn các hiên tượng xã hội. Chẳng hạn, cái chết của
Thiên tử được ông gọi là “băng”, cái chết của vua chư hầu ghi là “hoăng”, của vua
cướp ngôi ghi là “tồ”, của quan liêm chính là “tốt”, của kẻ nịnh thần là “tử”. v.v..
Như vậy, khi đề ra học thuyết “chính danh”, Khổng Tử đã cố gắng thể hiện qua hành
động của mình. Nó cũng phản ánh thái độ tôn trọng tôn ti trật tự, phép tắc của Khổng
Tử. Tôn ti này trong quan hệ giữa người với người , Nho gia gọi là “luân”.
Triết học Nho gia xác định năm mối quan hệ cơ bản và thông thường của
mỗi đời người trong thiên hạ, gọi là “ngũ luân”, gồm quan hệ vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ, anh - em, bè bạn. (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). Mỗi
quan hệ lại có những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng, như cha hiền, con thảo, anh
tốt em ngoan, chồng biết tình nghĩa vợ nghe lẽ phải, bề trên rộng rãi, bề dưới kính
thuận, vua nhân từ, tôi trung thành. Trong “ngũ luân” lại có ba mối quan hệ cơ bản
nhất, Nho gia gọi đó là “tam cương” (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê
cương). Vào thời mình, Khổng Tử đã đề cập đến những mối quan hệ và những tiêu
chuẩn này, song ông nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi và cha con.
Đối với quan hệ vua tôi, trước hết Khổng Tử chống ngôi vua duy trì theo
cha truyền con nối. Ông lên án việc chức tước truyền theo huyết thống, dòng dõi, mặc
dù trong xã hội đương thời vẫn có ba kiểu lên ngôi được thừa nhận, như: lên ngôi do
cha truyền lại, lên ngôi do vua trước truyền lại và lên ngôi do đổi mệnh vua. Ông cho
rằng người cầm quyền phải có đức, tài mà không cần tính đến đẳng cấp xuất thân của
người ấy. Tài đức ấy thể hiện : Vua phải đảm bảo cho dân được no ấm, phải xây dựng
được lực lượng quân đội hùng hậu và đặc biệt phải chiếm được lòng tin của dân; Vua
phải biết làm cho dân giàu và phải biết giáo hóa; vua phải biết trọng dụng người đức
độ, trọng dụng người có năng lực và phải biết rộng lượng với những người cộng sự
của mình v.v..Dân với vua phải như đối với cha mẹ mình. Trong quan hệ giữa dân và
vua, dân vì vua là “trung”, vua vì dân để được lòng dân tin cũng là “trung” vậy. Nội
18
dung “ Trung” trong quan hệ vua tôi của Khổng Tử đòi hỏi sự hết lòng và thành tâm
thật ý trong quan hệ với nhau. [19, tr 211]
Khổng Tử đề cập đến phạm trù “hiếu” trong quan hệ cha con. Theo ông
hiếu của con cái không phải chỉ là phụng dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết
phải là lòng thành kính. Chỉ nuôi cha mẹ không thôi không thể gọi là hiếu. Đặc biệt
quan điểm về chữ hiếu của Khổng Tử không phải là quan điểm một chiều, không phải
con cái nhất nhất nghe theo lời cha mẹ. Ông thường dạy rằng, phận làm con thấy cha
mẹ lầm lỗi phải can gián một cách nhẹ nhàng, hoặc quan điểm “cha phải ra cha, con
phải ra con” của ông cũng đòi hỏi cha mẹ phải đối xử với con cái cho đúng đạo của
mình. [19, tr 37]
Như vậy, Khổng Tử không chủ trương ngu trung, ngu hiếu, không bắt
buộc con người phải tùng bề trên vô điều kiện như nội dung trung, hiếu của Nho giáo
sau này. Đối với Khổng, trong xã hội, “chính danh” là quan hệ hai chiều: quân có nhân
thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu, v.v.. mà công cụ để thực hiện hai chiều
này là đạo đức của xã hội.
+ Quan niệm về con người
Khổng Tử là một trong những người đầu tiên nêu ra khái niệm về tính con
người. Con người trong tư tưởng của Khổng Tử là do trời sinh, trời dưỡng, trong đó,
tính là cái bẩm sinh tự nhiên nguyên sơ, ban đầu của con người có được từ trời, và bản
chất của tính vốn là lành, ai cũng có. Trong Luận ngữ, ông nói: “Con người ta khi sinh
ra, cái bẩm tính vốn ngay thật. Nếu họ tà khúc mà sống được, đó là họ may mắn khỏi
khỏi chết đó thôi” (Nhân chi sinh dã trực. Võng chi sinh dã, hạnh nhi miễn). Như vậy,
theo Khổng Tử, bản tính con người là không thiên lệch, là “trung dung”, “trung thứ”,
là thành thực với mình và đem lòng thành thực ứng xử với người là điều hòa không
thái quá… Đó chính là “đạo”, là “thiên lý”, “nhân”, là chí thiện, chí mỹ. Tuy Khổng
Tử không nói rõ bản tính con người là thiện như Mạnh Tử nhưng đằng sau triết lý sâu
xa đó, ông đề cao bản tính tốt đẹp, thiện của con người. Ông xây dựng một mẫu người
lý tưởng cho xã hội đó là các bậc thánh nhân, quân tử có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng,
hiếu, kính đễ… vui với đạo, nghe theo đạo, đạt đạo. Ông phê phán những kẻ bất nhân,
bất trung, bất hiếu, không giảng dạy “dũng”, “lực”, “loạn”, “thần”.
Để xây dựng mẫu người lý tưởng trong xã hội, Khổng Tử đã đưa ra quan
niệm về người “quân tử”. Khái niệm “quân tử” không xa lạ với người Trung Hoa cổ
19
đại. Nó có từ thời Chu (khoảng thế kỷ XI trước công nguyên) nhằm chỉ những người
nắm quyền hành trong xã hội. Đối lập với quân tử là tiểu nhân – khái niệm chỉ nhân
dân lao động.
Khổng Tử đã dùng hai khái niệm quen thuộc này để xây dựng mẫu người
lý tưởng của mình . Là người sáng lập ra học thuyết “chính danh” và khao khác con
người vươn đến “nhân”, để thực hiện được thuyết “chính danh” ấy nên mẫu người lý
tưởng của Khổng Tử chịu sự chi phối của “chính danh” nói chung và đức “nhân” nói
riêng.
Cũng như khi nói về “nhân”, đề cập đến mẫu người quân tử ở mỗi lúc, với
mỗi người, Khổng Tử đưa ra những tiêu chuẩn khác nhau. Song chung quy lại: “quân
tử” phải đạt được chín điều:
1. Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch.
2. Khi nghe phải nghe cho rõ ràng.
3. Sắc mặt phải ôn hòa.
4. Tướng mạo phải trang nghiêm.
5. Nói năng phải trung thực.
6. Làm việc phải trọng sự kính nể.
7 Điều gì còn nghi hoặc phải hỏi han.
8. Khi tức giận phải nghĩ đến hậu quả.
9. Khi thấy lợi phải nhớ đến điều nghĩa.” [26, tr 283]
Bằng chín điều, Khổng Tử đã đặt ra những yêu cầu từ hình dạng đến
thâm tâm, từ cách ứng xử đến với mình đến cách ứng xử đến với đời của người quân
tử. Những yêu cầu này, theo Khổng Tử phải có sự trung hòa mà ông gọi đấy là đạo
“trung dung”. Trung hòa là cái tính tự nhiên của trời đất mà trung dung là cái đức hạnh
của người ta. Trung là giữa, là không thiên lệch về bên nào. Dung là thường. Trung
dung có nghĩa là dùng đạo trung làm lẽ sống thường ngày vậy. Nghĩa là Trung dung
đòi hỏi con người đừng thái quá. Đừng thái quá về nội tâm cũng đừng thái quá về
ngoại hình: đừng thái quá về mình mà cũng đừng thái quá về người. Nó giống như mối
tương quan giữa “văn” và “chất”; “chất “ hơn “văn” trở nên khô kệch, quê mùa; còn
“văn” hơn “chất” thì lại hào nhoáng bề ngoài, ít thực. Giữ cho văn chất trung hòa mới
đạt đạo trung dung, mới là người quân tử.
20
Khổng Tử cho rằng trung dung rất gần gũi với con người, “dẫu cho hạn
ngu phu, ngu phụ, cũng biết chút ít về đạo ấy…dẫu cho đàn ông, đàn bà tầm thường và
lười biếng cũng thi hành được ít phần trong đạo ấy”. [26, tr 250]. Đạo Trung dung như
cái ăn, cái uống đối với cuộc sống. Ai mà chẳng ăn, ai mà chẳng uống, nhưng ăn, uống
mà nhận được mùi, được vị thật chẳng được mấy người; đạt được đỉnh cao của đạo
trung dung thật chẳng được mấy kẻ. Theo Khổng Tử: “ Mỗi vật đều có gốc, có ngọn,
mỗi việc đều có đầu, có đuôi. Có đi từ gốc đến ngọn, từ đầu đến đuôi mới mong thành
đạt”. Trở về với gốc, quay lại đạo trung dung là phải biết tường tận cái tính thiên nhiên
của mình, cái tính do trời phú cho rồi ráng sức học tập để mở mang tính ấy”. Tức là
phải biết về đạo trời đất mà người Trung Hoa thượng cổ gọi là “đạo trời”.
Có thể gom thiên đạo trọn trong một câu: “Trời đất có cùng một gốc mà
tạo ra vạn vật cho nên sức sinh hóa của vạn vật là vô lượng”. Nếu như nhân đạo dạy
con người biết hiếu, biết trung, biết tiết liệt, nhân hậu, biết liêm sỉ, thành tín thì thiên
đạo dạy cho con người biết nguồn sức mạnh của chí thành, chí thiện. Nguồn sức mạnh
ấy chẳng nằm đâu xa mà trời phú sẵn trong tâm trí của mình. Cho nên con người trước
hết phải xem lại lòng mình, tự tu dưỡng, rèn luyện để mở đường cho năng lực vô biên,
vô tận.
Như vậy, người quân tử trước tiên phải biết tu thân. Không tự tu được
thân không thể giúp được đời, không thể làm tròn bổn phận của mình với thiên hạ.
Khổng Tử nói: “Những vị vua, những vị thánh thưở xưa muốn cho đức của mình tỏa
sáng, trước hết phải lo sửa, trị nước mình. Muốn sửa, trị nước mình trước hết phải sửa
trị nhà mình. Muốn sửa trị nhà mình, trước hết phải tu tập lấy mình bằng cách thấu
suốt đạo trời đất, để giữ cho lòng ngay thẳng”. Cho nên ông nói học để tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ là đường đi của người quân tử.
Tiểu nhân cũng phải học song cái học của tiểu nhân để họ phục dịch và tuân lệnh kẻ
cầm quyền.
Xét một người nào đó thuộc loại quân tử hay tiểu nhân, Khổng Tử đòi hỏi
phải quan sát hành động của họ xem hành động của họ xem hành động ấy có phù hợp
với lời nói của họ hay không và để đánh giá con người ông khuyên phải nhìn vào
công việc của họ, phải xét lý do làm việc của họ và phải xem thái độ của họ. Mẫu hình
con người lý tưởng , việc phân xã hội thành quân tử và tiểu nhân phản ánh đậm nét
21
thái độ của Khổng Tử đối với nhân dân lao động và một số quan điểm khác của ông về
đạo đức.
+Tư tưởng giáo dục của Khổng tử
Vào cuối thời Xuân thu, Khổng Tử là người đầu tiên nêu lên khái niệm
tính người. Ông nói: “ tính tương cận, lập tương viễn” tức là con người mới sinh ra thì
cái “tính” đã có sẵn do trời phú cho là giống nhau nhưng do quá trình tiếp xúc học tập
làm cho tính khác nhau. Ông cho rằng con người hiện thực chịu tác động của nhiều
yếu tố, chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố của xã hội, thừa nhận vai trò to lớn của
giáo dục đối với con người. Đây là quan điểm tiến bộ của ông.
Ông lại cho rằng có một người không chịu tác động của giáo dục “dị
thương trí, dĩ hạ ngu bất di” (chí có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không thay đổi nết
của mình), ông cho rằng: người thật cao minh, dẫu chung hạ với bọn ác cũng chẳng sa
ngã theo họ, kẻ quá trị lạc dẫu gần với người hiền đức, cũng chẳng chịu cải hóa. Còn
kẻ tầm thường thì khí chất chẳng định, gần người hiền thì cảm hóa làm lành, gần kẻ dữ
thì nhiễm theo và làm ác, kẻ học đạo nên biết chọn bạn và chọn chỗ ăn ở.
Quá trình dạy học nhiều năm, lòng tận tụy vì nghề nghiệp “hành đạo”,
Khổng Tử đã đúc rút được kinh nghiệm: muốn đạt được hiệu quả cao trong giáo dục
cần phải cá biệt hóa đối tượng. Khổng Tử nói rằng: “từ người bậc trung sắp lên, mới
nên dạy đạo lý ở chỗ cao, từ người bậc trung trở xuống chớ nên giảng giải đạo lý cho
cao siêu”, tức là trong quá trình dạy đạo cho đệ tử, Ông tùy thuộc vào tư chất và tài
năng của mỗi người mà dạy.
Trong quá trình dạy học Khổng Tử đòi hỏi đệ tử mình phải ráng hết sức
mình nghiền ngẫm, suy xét, chớ đừng trông chờ vào thầy thì không bao giờ đạt kết quả
cao. Ông nói: “kẻ nào chẳng phấn phát lên hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu
thông được, kẻ nào không ráng lên để tỏ ý kiến mình, thì ta chẳng khai phát cho hiểu
thông được. Kẻ nào đã biết rõ một góc nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó biết luôn ba
góc kia thì chẳng dạy cho kẻ ấy nữa.
Khổng Tử không bao giờ sao nhãn dạy lễ nhạc cho mọi người. Bởi vì lễ
nhạc là một phạm trù cơ bản, nó là hình thức thể hiện trật tự, kỷ cương nề nếp, đẳng
cấp ở con người và xã hội. Lễ nhạc dạy cho con người ta, điều gì nên làm và điều gì
không nên làm. Khổng Tử nói: “Lễ quý ở chỗ dứt bỏ sự xấu đi khi nó chưa mọc mầm,
22
làm nảy nở lòng cung kính khi nó còn rất nhỏ bé, làm cho dân ngày càng gần với điều
lành, xa với điều ác mà không biết”. [17, tr 68].
Trong sự học cần phải lấy đạo làm đầu. Khổng Tử cho rằng đạo không
phải tự sẵn có sinh ra đã biết. Ông cho rằng: Ông tinh thông bởi vì Ông không ngừng
học tập từ nhỏ, muốn con người trở nên hữu đạo cần phải dạy bảo, khuyên răn ấy gọi
là giáo. “Đạo” nhờ có “giáo” mới vững vàng, sâu sắc, rộng khắp.
Trong giáo dục Khổng Tử chỉ quan tâm đến giảng dạy đạo đức nhân
nghĩa chứ không quan tâm dạy các ngành nghề lao động, ông cho rằng lao động sản
xuất là công việc của kẻ tiểu nhân, không đáng cho quân tử học và dạy. Chính vì vậy,
mà ông đã tách tri thức ra khỏi lao động sản xuất. Khi Phàn Trì xin đức Khổng Tử dạy
nghề ruộng. Ngài đáp rằng: “ta chẳng như lão nông phu rãnh việc cày cấy”. Ông Phàn
Trì xin dạy cách trồng cây, ngày đáp: “ta chẳng như lão làm vườn quen nghề trồng
trọt”. Khi Phàn ra rồi, đức Khổng Tử trách rằng: “Gã Phàn Tu (Phàn Trì) chí khí nhỏ
hẹp lắm thay! Nầy, nếu người bề trên chuộng lễ, thì dân chẳng dám tỏ niềm cung kính.
Nếu người bề trên hiếu nghĩa, thì dân chẳng bội lễ công chính. Nếu người bề trên biết
tín thật, thì dân chẳng dám sai ngoa trong tình giao ước. Nếu nhà cầm quyền ở đủ lễ,
nghĩa, tín như vậy thì dân chúng từ bốn phương xa sẽ đem con để phục dịch mình. Cần
chi phải học nghề cài cấy”. [17, tr 99 - 101]
Khổng Tử nhìn nhận rất rõ vai trò của giáo dục đối với cuộc sống của xã
hội nói chung và việc hình thành nhân cách con người nói riêng. Với xã hội, theo ông
giáo dục có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi lẽ công bằng, đến tôn ti trật tự
trong xã hội. Ông đã thấy được vai trò của giáo dục trong việc hình thành nhân cách
con người. Bởi vì Khổng Tử tin rằng dùng giáo dục có thể cảm hóa con người được.
Khi Quý Khang Tử hỏi Không Tử: “Muốn cho dân kính, trung thành với
mình thì nhà cầm quyền phải làm gì?, Khổng Tử đáp: “Lâm tri dĩ trang, tắc kính, hiếu
tử, tắc trung, cử thiện, nhi giáo năng, tăc nhuyến”. Lấy cách trang nghiêm thời đến dân
thì dân kính mình. Dạy cho dân hiếu tử mà bản thân mình hiếu tử thì họ trung thành
với mình. Người nào thiện để cử lên, người bất năng thì chớ bỏ họ, phải thiệt lòng dạy
bảo họ. Thế là người thiện đã vui lòng, người bất năng cũng cảm kích, tất nhiên bảo họ
làm gì họ cũng vui lòng làm.
Ông cũng đã trình bài rất thành công những vấn đề về giáo dục. Không
chỉ thấy vai trò của giáo dục đối với việc hình thành nhân cách, Khổng Tử còn chỉ ra
23
được ảnh hưởng của nó đến việc thực thi lẽ công bằng, đến tôn ti trật tự, đến cuộc sống
của mỗi cộng đồng. Nghĩa là ông xác định được vai trò của giáo dục trong mối quan
hệ của nó với chính trị, với pháp luật và với toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều triều đại vua chúa Trung Quốc đã phong Khổng Tử
là Thiên Sư, Thánh Sư, và nhân dân Trung Quốc gọi ông là Vạn Thế Sư Biểu (Ông
thầy của muôn đời).
1.3 Khái quát sự phát triển triết học Khổng Tử
Căn cứ vào những biến đổi trong nội dung học thuyết của Nho giáo, quá trình
phát triển của Nho giáo được chia làm 3 giai đoạn: Nho giáo trước thời Tần, ( Nho
giáo tiền Tần), Nho giáo dưới thời nhà Hán (Hán nho) và Nho giáo dưới thời nhà Tống
(Tống nho).
Thời Xuân thu Khổng Tử đã sang định và giải thích bộ lục kinh gồm: Kinh thi,
Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch, Kinh Xuân Thu, Kinh nhạc. Về sau, Kinh nhạc bị thất
lạc nên chỉ còn 5 bộ kinh được gọi là ngũ kinh: Ngũ kinh là bộ sách được Khổng Tử
hệ thống hóa những tư tưởng, tri thức đời trước và quan điểm của ông với những nội
dung chủ yếu sau:
Kinh dịch: Giải thích bản chất của thế giới từ quan điểm âm dương và ngũ
hành.
Kinh thư: Là bộ niên sử qua các triều đại.
Kinh thi: Là bộ siêu tầm tuyền thuyết, ca dao có tính chất văn học dân gian.
Kinh lễ: Gồm Chu lễ, nhi lễ, lễ kí.
Kinh Xuân Thu: Là toàn bộ niên sử tư tưởng của Khổng Tử thể hiện quan điểm
của ông về đường lối chính trị qua các triều đại lịch sử.
Bên cạnh những tư tưởng phục hưng lễ nhà Chu, Khổng Tử luôn suy nghĩ về
vấn đề là làm sao cho xã hội Trung Quốc bấy giờ được ổn định và biện pháp của ông
là khôi phục lại đức trị và lễ trị thời Tây Chu, để thực hiện lý tưởng đó, ông đã xây
dựng nên học thuyết nhân, lễ, chính danh.
Sau khi Khổng Tử mất các môn đệ của ông tiếp tục phát triển học thuyết Nho
giáo thành lập một trường phái lớn lúc bấy giờ, tiêu biểu là Tăng Tử, Mạnh Tư, Tuân
Tử… những người có công lớn trong việc bảo vệ Nho giáo và đưa nhiều tư tưởng mới
vào hệ tư tưởng của Nho giáo. Các học trò của ông tập hợp lời dạy của thầy là soạn ra
cuốn luận ngữ, trong luận ngữ, cũng một chữ Nhân, chữ Hiếu, chữ Chính nhưng mỗi
24
nơi có một cách giải thích mỗi khác vì cách dạy dỗ họ trò của Khổng Tử khác nhau ở
từng người.
Tiếp đó, học trò xuất sắc của Khổng Tử là Tăng Sâm còn gọi là Tăng Tử diễn
giải những lời dạy của thầy truyền lại mà soạn ra cuốn Đại học. Tăng Tử đem các lời
dạy trong Kinh thi và Kinh thư rồi diễn rõ ý của Khổng Tử mà dạy cho học trò. Sau
khi ông mất học trò của ông chép ra 10 chương nữa, 4 chương đầu gồm 3 cương lĩnh
là minh minh đức, thân dân, chỉ ư, chí thiện, còn 6 chương sau nói về 8 điều mục là
cách vật, trí thi, thành ý, chí tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Nói tóm lại, chủ đích của sự học của người ta là đem cái đức sáng của trời phú
mà sửa mình cho hoàn toàn rồi mới trị được người, muốn sửa mình thì phải chính tâm,
thành ý và trí tri. Đã trí tri là cách vật, khi đã trí tri và cách vật thì ý thành, tâm chính,
tức là sửa được thân, thân đã sửa được thì có thể tề gia, trị quốc bình thiên hạ. Vậy,
trước sau phải lấy sự sửa mình là làm gốc. Sửa mình để trị nước và bình thiên hạ [17,
tr 219].
Tiếp theo đó, học trò của Tăng Tử là Khổng Cấp (cháu nội Khổng Tử) còn gọi
là Tử Tư viết ra sách Trung dung. Sách Trung dung bàn về chủ nghĩa chấp trung của
thánh hiền đời xưa và thuật lại lời dạy của Khổng Tử.
Trung dung nói về đạo của thánh nhân căn bản của trời, rồi diễn giải hết mọi lý
lẽ khiến người ta phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động và khi lặng một
mình. Suy cái lý ấy và đến sự nhân nghĩa, để khiến cho cả thiên hạ được bình trị và lại
tán dương cái công hiệu của đạo lý ấy cho đến chỗ tinh thần vô danh, vô sắc mới thôi
[12, tr 244].
Sang thời Chiến quốc, trường phái triết học Nho gia xuất hiện nhà tư tưởng tiêu
biểu đó là Mạnh Tử, Mạnh Tử tên thật là Kha, Tự là Dư, người đất Châu nước Lỗ, ông
là học trò của Tử Tư. Mạnh Tử đã kế thừa trực tiếp tư tưởng của Tử Tư và Tăng Sâm,
ông đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở đạo nhân Khổng Tử và đề ra thuyết
tính thiện. Bàn về sự học của Mạnh Tử chủ yếu giữ bản tâm cho tinh thuần, không để
tư dục làm mai một mất cái tính chí thiện của trời đã phú cho. Kẻ học giả theo được
cái tông chỉ ấy là người quân tử có cái đức lớn, hiểu được thiện lý, cốt gây thành cái
tâm rất sâu xa, cái tính rất mạnh mẽ khiến người ta ở vào địa vị nào, hay cảnh ngộ nào
cũng giữ được phẩm giá tôn quý. Những tư tưởng của Mạnh Tử sau này được các học
trò của ông chép lại thành cuốn Mạnh Tử.
25
Sau Mạnh Tử khoảng 40 đến 50 năm, xuất hiện nhà triết gia Tuân Tử, ông tên
Huống, Tự là Khanh người nước Triệu. Theo ông bản tính con người vốn ác tính, ông
coi thế giới khách quan có quy luật riêng và theo ông sức người có thể thắng trời.
Năm 221 tr. CN nhà Tần diệt Tệ kết thúc cục diện Chiến quốc, theo đó nhà Tần
tiến hành chế độ cai trị hà khắc theo đường lối pháp gia, Tần Doanh Chính hoàn toàn
xóa bỏ nhà Chu, đồng thời xóa bỏ học thuyết Nho giáo, ông còn ra lệnh đốt sách, chôn
nho. Học thuyết của Khổng Tử bước vào thời gian bị chìm lắng.
Đến năm 206 tr. CN Lưu Bang giành chính quyền từ tay nhà Tần, lập ra nhà
Hán, tiếp tục duy trì chế độ quân chủ chuyên chế theo gương nhà Tần. Nhưng khác với
nhà Tần, các tầng lớp thống trị của nhà Hán đã thấy được khả năng to lớn của Nho
giáo trong việc bảo vệ triều đại mình, họ thấy rằng học thuyết của Khổng Tử có thể
giúp vua nhà Hán có sự trung thành tuyệt đối từ phía nhân dân. Do đó, nhà Hán rất coi
trọng học thuyết Nho giáo và đưa nó lên vị trí độc tôn.
Đổng Trọng Thư (180 - 105 tr. CN) là nhà triết học duy tâm tôn giáo thời Tây
Hán bằng sự tô vẽ thêm của ông, thời kỳ này là một tầng lớp quan liêu Nho giáo ra đời
để phục vụ cho chính quyền phong kiến nhà Hán. Có thể nói đến giai đoạn này Nho
giáo đã trở thành một trào lưu tư tưởng chủ đại của Trung Hoa, dưới bàn tay của Đổng
Trọng Thư học thuyết của Nho giáo được khuyếch trương và thậm chí bị xuyên tạc
những yếu tố duy tâm thần bí với những mặt hạn chế trong triết học Khổng Tử, Tử Tư,
Mạnh Tử, của phái Âm dương, Ngũ hành và các trường phái khác để nhào nặng nên
một trường phái Nho giáo mới mang nặng màu sắc chính trị, duy tâm, tôn giáo khắc
nghiệt nhằm phục vụ cho mục đích cai trị của giai cấp cầm quyền.
Đổng Trọng Thư phân chọn sách vở kinh điển thành 5 loại gọi là ngũ kinh
(Kinh thư, Kinh thi, Kinh lễ, Kinh dịch, Kinh Xuân Thu). Ngoài ra, ông còn nêu lên
thuyết Thiên nhân hợp nhất và cho rằng mọi vật trên thế gian đều do trời quyết định.
Kể từ đây Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung
Hoa suốt 2000 năm.
Năm 960 nhà Đường mất, nhà Tống lên thay, đây là thời kỳ mà học thuyết Nho
giáo được bổ sung nhiều nhân tố của đạo Phật và đạo Lão. Và cũng đến thời Tống thì
Đại Học và Trung Dung được tách khỏi Lễ ký cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử hình
thành nên tứ thư.