Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC NỮ Ở TỈNH LONG AN
HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn:
Ths. GVC - Trần Thị Tuyết Hà
Sinh viên thực hiện:
Phạm Thành Nam
MSSV: 6088034
Chuyên ngành: SP GDCD K34
CẦN THƠ, 05/2012
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 1
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................4
Lý do chọn đề tài......................................................................................................5
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn......................................................5
Phạm vi nghiên cứu của luận văn.............................................................................5
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn..........................................5
Kết cấu của luận văn................................................................................................5
B. NỘI DUNG......................................................................................................6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
NỮ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC PHÁT HUY NGUỒN
NHÂN LỰC NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................6
1.1 Quan niệm về nguồn nhân lực nữ và những nhân tố tác động đến việc phát huy
nguồn nhân lực nữ.........................................................................................................6
1.1.1 Quan niệm về nguồn nhân lực nữ........................................................................6
1.1.2 Những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ............................8
1.2 Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ và yêu cầu mới đối với nguồn
nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay.................................................................................12
1.2.1Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay........12
1.2.2 Yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay..........................19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NỮ Ở LONG AN TRONG
THỜI GIAN QUA ......................................................................................................23
2.1 Những thành tựu trong việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Long An trong thời gian
qua ..............................................................................................................................23
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 2
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
2.2 Những hạn chế trong việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Long An trong thời gian qua
.....................................................................................................................................29
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY NGUỒN
NHÂN LỰC NỮ Ở LONG AN HIỆN NAY ..........................................................39
3.1 Đẩy nhanh phát triển kinh tế; đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực nữ ở Long
An hiện nay .................................................................................................................39
3.2 Đổi mới chính sách sử dụng lao động nữ; giải quyết tốt việc làm phù hợp đặc điểm
lao động nữ Long An hiện nay .....................................................................................40
3.3 Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, tăng cường chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ
tạo điều kiện phát huy nguồn nhân lực nữ ở Long An hiện nay .....................................45
3.4 Nâng cao tính tích cực xã hội của phụ nữ, xác lập đồng bộ cơ chế thực hiện bình đẳng
giới nhằm phát huy quyền làm chủ của phụ nữ ở Long An hiện nay ..............................52
C. KẾT LUẬN....................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................59
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 3
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xu thế chung của thế giới hiện nay là chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế tri thức. Vì vậy, vấn đề nguồn nhân lực
ngày càng giữ vị trí trung tâm đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Con người đang được coi là động lực đồng thời là mục tiêu cuối cùng trong
quá trình phát triển của các quốc gia.
Phụ nữ là người đảm nhiệm vai trò kép : vừa là lực lượng lao động cơ bản của
xã hội, vừa có trách nhiệm trực tiếp tái sản xuất ra con người. Quan tâm đến sự phát
triển của phụ nữ nói chung, khai thác và bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ nói riêng không
chỉ là vấn đề nhân đạo của một quốc gia, một xã hội mà còn là đòi hỏi thiết yếu, ảnh
hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong chiến lược chung về phát triển nguồn nhân lực, xuất phát từ những nhu
cầu khách quan và quan điểm Mácxít về vai trò của phụ nữ, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn coi phụ nữ là động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước
đã có nhiều biện pháp và chính sách sử dụng nguồn nhân lực nữ và đã huy động được
sức mạnh to lớn của phụ nữ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Định hướng
chiến lược của Việt Nam hiện nay là đổi mới và phát triển. Những cơ hội và thử thách
đặt ra đã và đang đòi hỏi hơn bao giờ hết mọi tiềm năng quốc gia phải được khai thác
hợp lý, trong đó có nguồn nhân lực nữ.
So với cả nước, Long An là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng
cao với mức tăng GDP bình quân trên 12%/năm. Đóng góp cho sự phát triển chung
của Long An không thể không kể đến vai trò quan trọng của phụ nữ - chiếm 52,9%
dân số và 49,9% lực lượng lao động toàn tỉnh (17, tr.3). Chủ trương phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN đã tạo cơ hội cho sự phát triển của phụ nữ, song cũng
đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho phụ nữ trong việc tiếp cận với các cơ hội về việc
làm, giáo dục - đào tạo, trong hưởng thụ các thành quả của sự phát triển. Trong khi đó,
sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở Long An đang yêu cầu ngày càng cao đối với
nguồn nhân lực nữ về trình độ chuyên môn, thể lực, kỹ năng lao động...
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 4
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
Vấn đề đặt ra là phải biết khai thác và phát huy tiềm năng của nguồn nhân lực
nữ tạo động lực cho sự phát triển của Long An. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ thực
trạng phát huy nguồn nhân lực nữ, tìm giải pháp để phát huy nguồn lực này là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Vì thế, tôi chọn vấn đề “Phát huy nguồn
nhân lực nữ ở tỉnh Long An hiện nay” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng phát huy nguồn nhân lực nữ ở Long
An và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ ở Long An
hiện nay.
Để đạt mục đích đó, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
Một là nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực nữ, những nhân
tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ .
Hai là làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ ở Long An trong thời gian qua.
Ba là đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ ở
Long An hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh Long An
- Về thời gian: đề tài bao quát nghiên cứu từ năm 2006 đến nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, nguồn lực con người,
quan điểm về vai trò của phụ nữ và giải phóng phụ nữ.
Phương pháp thực hiện đề tài là các nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong phân tích những vấn đề
thực tiễn xã hội, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp lịch sử và lôgíc, phân tích tổng hợp, trừu tượng - cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê,
thu thập xử lý thông tin và áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu bình đẳng giới.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 5
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN
LỰC NỮ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC PHÁT HUY
NGUỒN NHÂN LỰC NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Quan niệm về nguồn nhân lực nữ và những nhân tố tác động đến việc
phát huy nguồn nhân lực nữ
1.1.1 Quan niệm về nguồn nhân lực nữ
Nếu con người là nguồn lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tếxã hội thì phụ nữ là bộ phận cơ bản cấu thành nguồn lực ấy.
Hiểu theo nghĩa rộng: nguồn nhân lực nữ bao gồm tổng hoà các tiêu chí của bộ
phận dân số nữ đang có khả năng tham gia vào quá trình lao động xã hội và các thế hệ
phụ nữ nối tiếp sẽ phục vụ xã hội. Nói cách khác, nguồn nhân lực nữ được hiểu không
chỉ đơn thuần là lực lượng lao động nữ đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh trí
tuệ, thể chất, tinh thần của các cá nhân nữ trong một cộng đồng, quốc gia được đem ra
hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Nguồn nhân lực nữ - theo nghĩa hẹp - với tư cách là lực lượng lao động của xã
hội, bao gồm nhóm phụ nữ đến tuổi lao động trở lên có khả năng lao động. Pháp luật
Việt Nam quy định độ tuổi lao động đối với nữ trong khoảng nhỏ hơn của độ tuổi lao
động nam (nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi, nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi) nên mặc dù dân
số nữ thường xuyên cao hơn thường chiếm trên 51% dân số, song lực lượng lao động
nữ lại thường chiếm tỷ lệ nhỏ hơn khoảng 49% lao động xã hội (20,tr.8).
Nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ cần chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc quan niệm nguồn nhân lực nữ chỉ mang tính chất tương đối, phụ
thuộc vào phạm vi điều chỉnh của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Còn với tư
cách là phần nửa dân số và lực lượng lao động xã hội, vừa là người trực tiếp tái sản
xuất ra nguồn nhân lực cho đất nước, phụ nữ luôn là vấn đề lớn đối với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Vì thế, nguồn nhân lực nữ phải
được đề cập đến theo nghĩa rộng, có nghĩa là các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
hướng tới khả năng lao động của các thế hệ phụ nữ.
Thứ hai, nghiên cứu về phụ nữ và nguồn nhân lực nữ đòi hỏi phải có phương
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 6
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
pháp tiếp cận đúng đắn. Phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu ở đây là xem
xét mối quan hệ giữa cái chung (con người) và cái riêng (giới nam, giới nữ). Đó là
quan điểm tiếp cận về giới. Điều này là do chính đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
quy định.
Là con người, nam giới và phụ nữ giống nhau - đều vừa là thực thể tự nhiên
vừa là thực thể xã hội - nhưng họ có khác biệt về mặt tự nhiên - sinh học của cơ thể.
Những đặc điểm sinh học về giới tính là bẩm sinh và không thể thay đổi được. Từ
những đặc điểm sinh học, xét về mặt xã hội, phụ nữ đảm nhiệm chức năng xã hội khác
nam giới, đó là chức năng trực tiếp tái sản xuất ra con người. Từ đó nảy sinh những
khó khăn, thuận lợi khác nhau giữa giới nam và giới nữ trong học tập, làm việc, sinh
sống. Phụ nữ thường gắn với con cái và gia đình. Họ có những nhu cầu cấp thiết hơn
nam giới về những dịch vụ y tế, dịch vụ gia đình, về điều kiện làm việc gần gia đình...
Sự phân biệt về giới tính giữa nam và nữ có tính tự nhiên, bẩm sinh không tất
yếu dẫn tới sự phân biệt về giới có tính xã hội. Tuy nhiên, từ trong lịch sử kéo dài đến
ngày nay đã tồn tại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong đời sống xã hội và gia đình.
Phụ nữ thường được coi là người hiển nhiên phải chịu trách nhiệm và thích hợp với
việc chăm sóc con cái, gia đình. Những công việc này thường ít được nhìn nhận ở góc
độ kinh tế. Sự đánh giá thấp của xã hội về khả năng, giá trị của lao động nữ trong lao
động sản xuất đã giam hãm người phụ nữ ở địa vị thấp kém trong xã hội và gia đình
với tất cả những bất công và thiệt thòi.
Tóm lại, việc nghiên cứu về người phụ nữ nói chung và nguồn nhân lực nữ nói
riêng không thể tách rời việc nghiên cứu về giới tính và giới, về sự bình đẳng giới và
hậu quả đem lại cho sự phát triển chung khi lực lượng phụ nữ bị kìm hãm, không phát
huy được đầy đủ những tiềm năng cho việc cải tạo thiên nhiên, xã hội. Vấn đề đặt ra
trước hết đối với việc phát huy nguồn nhân lực nữ là phải xác định được những nhân
tố cơ bản tác động đến nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển.
1.1.2 Những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ
Việc phát huy nguồn nhân lực nữ thực chất là quá trình một mặt dựa vào năng
lực chủ quan của con người, một mặt dựa vào những nhân tố khách quan tác động tới sự
tồn tại và phát triển của con người. Có thể thấy những nhân tố cơ bản sau đây thường
xuyên tác động đến việc phát huy nguồn nhân nữ:
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 7
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
Thứ nhất, nhân tố tự nhiên - sinh học có tác động rất lớn đến thể lực và trí lực
của nguồn nhân lực nữ. Do cấu tạo cơ thể của phụ nữ khác với nam giới phụ nữ
thường thấp, bé, nhẹ cân hơn và do đặc điểm sinh lý của phụ nữ cũng khác nam giới
phụ nữ phải sinh con và nuôi con nên nhìn chung sức khoẻ của phụ nữ thường yếu hơn
so với nam giới. Phụ nữ gắn liền với việc sinh con duy trì sự tồn tại và phát triển của
nhân loại. Việc sinh con vì thế là hiện tượng xã hội, nhưng trước hết cũng là hiện
tượng tự nhiên, sinh học. Song, chức năng sinh học đó được thực hiện trong mối liên
hệ chặt chẽ và chịu sự tác động của nhiều nhân tố như gia đình, môi trường kinh tế,
môi trường giáo dục, môi trường cộng đồng. Không quan tâm đúng mức đến các nhân
tố tự nhiên - sinh học của phụ nữ sẽ không chỉ mất mát hiện tại về năng suất, hiệu quả
lao động, tác động tiêu cực đến việc phát triển trí lực của phụ nữ mà còn là những cái
giá phải trả trong một vài thế hệ tương lai của dân tộc xét về mặt giống nòi và phát
triển bền vững đất nước. Phát huy nguồn nhân lực nữ vì thế cần thấy được những đặc
điểm riêng về mặt tự nhiên - sinh học của phụ nữ để có những giải pháp và chính sách
xã hội hợp lý.
Thứ hai là nhân tố giáo dục - đào tạo. Do vai trò quan trọng trong sự hình
thành và phát triển trí tuệ và nhân cách của con người nên nhân tố này đang được coi
là phương thức phát triển nhanh chất lượng nguồn nhân lực. Các quốc gia hiện nay đều
coi đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư trực tiếp vào nguồn
lực con người. Đối với nguồn nhân lực nữ, sự tác động của giáo dục - đào tạo có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng vì không chỉ liên quan đến 1/2 nguồn nhân lực mà còn ảnh
hưởng đến sự phát triển trong tương lai của lực lượng lao động. Điều này xuất phát từ
mối liên hệ giữa học vấn của phụ nữ với sự phát triển của xã hội theo tác động dây
chuyền giữa trẻ em gái - người mẹ - thế hệ tương lai. Các nghiên cứu cho thấy việc
học tập của phụ nữ mang lại những lợi ích đặc biệt quan trọng cho gia đình và xã hội.
“Giáo dục cho các em gái có sức tác động mạnh mẽ đối với mọi khía cạnh của sự phát
triển - từ việc hạ tỉ lệ sinh đến việc tăng năng suất lao động và quản lý sử dụng môi
trường” (20, tr.43). Theo khảo sát của Ngân hàng thế giới năm 2010: Số lần khám thai
của phụ nữ tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, tỉ lệ trẻ sơ sinh chết ở các bà mẹ có học
vấn bậc trung học cơ sở giảm hơn 75% so với các bà mẹ không đi học, học vấn của
người mẹ cũng góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng qua cách chăm sóc và khả
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 8
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
năng quản lý của các bà mẹ. Những nghiên cứu về sức khoẻ ở Việt Nam cũng cho thấy
người mẹ có học vấn càng cao thì sinh ít con hơn. Quan trọng hơn, học vấn của mẹ
còn có tác động trực tiếp đến việc học của con. Con của người mẹ có học vấn cao hơn
có nhiều cơ hội được đến trường hơn với tỉ lệ cứ ba năm học cao hơn của mẹ tạo ra
10% khả năng đi học cao hơn cho con. Mối liên hệ giữa khả năng đi học của con với
học vấn của cha cũng có xu hướng tương tự nhưng thấp hơn.(24)
Việc nâng cao địa vị phụ nữ và tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững
đất nước phụ thuộc rất nhiều vào sự kiên trì thực hiện quốc sách giáo dục và đào tạo.
Giảm khoảng cách về giới trong giáo dục - đào tạo sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện
nguồn nhân lực trước mắt cũng như lâu dài.
Thứ ba, việc sử dụng lao động là một nhân tố rất quan trọng để phát huy tiềm
năng tri thức và kỹ năng của người lao động. Sử dụng đúng ngành nghề và trình độ thì
người lao động sẽ phát huy được tài năng trí tuệ, tay nghề và ra sức phấn đấu vươn lên
về mọi mặt. Sử dụng lao động hợp lý sẽ tạo ra môi trường phù hợp cho người lao động
phát triển nhanh chóng. Ngược lại, nếu sử dụng lao động không hợp lý sẽ làm cho
người lao động bị hạn chế thậm chí thui chột khả năng lao động của mình.
Sử dụng lao động nữ hợp lý không chỉ đơn thuần dựa vào kỹ năng, trình độ
chuyên môn nhằm đạt hiệu quả kinh tế trước mắt mà còn phải đảm bảo được sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững và sự bình đẳng giới. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, việc sử dụng lao động nữ sao cho hợp lý và hiệu quả là một trong những vấn
đề rất phức tạp. Có ý kiến cho rằng, đã là nền kinh tế thị trường thì hãy để cho thị
trường lao động quyết định việc lựa chọn và sử dụng các loại lao động. Không ít ý
kiến đã đặt niềm tin vào sự chi phối của cơ chế thị trường trong việc tự động đem lại
sự công bằng xã hội và bình đẳng nam - nữ. Theo chúng tôi, đó là một sự công bằng
máy móc, lạnh lùng, vì trên thực tế bên cạnh chức năng là người lao động như nam
giới thì phụ nữ còn đảm nhận chức năng sinh con. “Khi thực hiện chức năng này
người lao động nữ chẳng những phải tiêu hao sức vóc, một phần khả năng lao động mà
còn mất hàng thập kỷ về thời gian lao động, hơn thế nữa lại là thời gian vàng ngọc, trẻ
khoẻ, sung sức nhất” (23,tr.8)
Vì vậy, sử dụng lao động nữ phải chú ý đến đặc điểm của phụ nữ, vừa có chức
năng lao động như nam giới, vừa có chức năng tái sản xuất dân số và nguồn lao động,
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 9
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
phải tính đến tiêu hao sức lực và thời gian của phụ nữ trong việc thực hiện chức năng
thứ hai một cách hợp lý để phụ nữ có điểm xuất phát ngang bằng về mặt sức lao động
với nam giới trong nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, chính sách xã hội là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến
việc phát huy nhân tố con người, phát huy nguồn nhân lực. Chính sách xã hội là một
công cụ quan trọng của quản lý nhà nước nhằm thực hiện và điều chỉnh các mối quan
hệ của con người xoay quanh mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Chính sách
xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn khơi dậy tiềm năng của
con người, tạo điều kiện thuận lợi để con người lao động phát huy năng lực sáng tạo
của mình đóng góp cho sự phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Ngược lại, nếu
hệ thống chính sách không phù hợp, thiếu đồng bộ thì nó sẽ trở thành rào cản kìm hãm
năng lực và tư duy sáng tạo của mỗi con người. Như vậy, trong đời sống xã hội, việc
tạo động lực hoạt động cho người lao động thực chất là thiết lập được môi trường pháp
lý thuận lợi cũng như những điều kiện thích hợp để con người có thể phát huy tối đa
tính tích cực và khả năng sáng tạo của mình. Do những đặc điểm về giới tính và giới
nên phụ nữ thường chịu những thiệt thòi hơn so với nam giới. Vì vậy, chính sách xã
hội đối với phụ nữ phải phản ánh được lợi ích và nguyện vọng của nữ giới. Chính sách
xã hội phù hợp với phụ nữ khi nó tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển năng lực của
mình trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, đảm bảo công bằng xã hội và bình
đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
Thứ năm, nhân tố truyền thống văn hoá dân tộc có tác động rất lớn đến chất
lượng nguồn nhân lực - nhất là về mặt tinh thần. Các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
là nhân tố quan trọng, là môi trường lành mạnh để hình thành và phát triển nguồn lực con
người. Một dân tộc, một quốc gia có truyền thống tốt, những tập quán lành mạnh, có nền
văn hoá phát triển cao thì đó chính là cơ sở điều kiện tốt để xây dựng một nguồn nhân lực
vừa có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, vừa có thái độ, tinh thần, tác phong làm việc tốt.
Ngược lại, nếu một dân tộc, một quốc gia có những phong tục, tập quán lạc hậu thì sẽ kìm
hãm sự vươn lên của chính quốc gia, dân tộc đó. Mặt khác, những đặc trưng văn hoá - xã
hội của một dân tộc còn là cơ sở cho việc sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và hiệu quả
cao.“Yếu tố văn hoá và truyền thống dân tộc như tinh thần lao động, tính kỷ luật cao, tinh
thần học tập và niềm tự hào dân tộc đã đưa Hàn Quốc vươn lên vị trí xứng đáng trong
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 10
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
chưa đầy 1/2 thế kỷ qua (15, tr.125)
Chúng ta thường hay nhắc tới truyền thống yêu nước, cần cù, thông minh, sáng tạo
trong lao động và những phẩm chất trung hậu, đảm đang, kiên cường... của phụ nữ Việt
Nam. Những truyền thống quý báu và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam chính là
sức mạnh, là điểm tựa tinh thần để phụ nữ vươn lên đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự phát
triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Liên quan đến việc phát triển
nguồn nhân lực nữ hiện nay, bên cạnh việc phát huy các giá trị văn hoá, truyền thống dân
tộc đề cao vai trò của phụ nữ, quan tâm đến sự phát triển của phụ nữ, thì phải loại bỏ
những phong tục, tập quán lạc hậu, lối tư duy theo kiểu “trọng nam, khinh nữ” để tạo điều
kiện cho sự phát triển mọi mặt của phụ nữ vì mục tiêu phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Thứ sáu, gia đình là nhân tố liên quan mật thiết và tác động thường xuyên đến
việc phát huy nguồn nhân lực nữ.
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến cùng là
sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai
loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt…; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân
con người, là sự truyền nòi giống.. Những trật tự xã hội... là do hai loại sản xuất đó
quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ
phát triển của gia đình (13, tr.44 )
Có thể khẳng định rằng gia đình là tổ chức xã hội đầu tiên có khả năng nhất
trong việc chăm lo cho sự phát triển của mỗi con người trên cả ba phương diện: thể
chất, trí tuệ và tình cảm tâm lý. Sự tác động của gia đình được diễn ra ngay từ khi đứa
trẻ còn trong bào thai đến khi ra đời và sự tác động này tồn tại trong suốt quá trình
sinh trưởng.
Do chức năng sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái mà phụ nữ luôn luôn gắn liền với
gia đình. Đề cập đến sự tác động của gia đình đến nguồn nhân lực nữ cần phải hiểu
đây là sự tác động hai chiều. Gia đình là nơi phụ nữ thực hiện chức năng tái sản xuất
ra con người, nuôi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đồng thời là nơi phụ nữ tiếp
nhận những nguồn lực cho sự phát triển của chính mình. Không thể nói đến phát huy
vai trò phụ nữ chỉ căn cứ vào sự tham gia hoạt động xã hội mà coi nhẹ vai trò to lớn
của họ trong gia đình. Cũng như không thể chỉ đề cao vai trò của phụ nữ trong gia đình
mà quên đi trách nhiệm của gia đình trong việc chăm lo cho sự phát triển của phụ nữ.
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 11
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
Khi gia đình tái sản xuất ra nguồn nhân lực nữ có chất lượng cao cũng chính là điều
kiện cơ bản để gia đình thực hiện tốt chức năng của mình. Do vậy, phụ nữ được tạo
các điều kiện phát triển toàn diện ngay từ trong gia đình thì chính gia đình cũng sẽ có
những biến đổi tích cực.
Tóm lại, việc phát huy nguồn nhân lực nữ chủ yếu chịu sự tác động của các
nhân tố trên. Mỗi một nhân tố tác động đến từng mặt của nguồn nhân lực nữ. Tuy
nhiên, do các đặc điểm về giới tính và giới nên phụ nữ thường phải chịu những tác
động tiêu cực nhiều hơn nam giới. Vì thế khi xem xét, đánh giá, xây dựng chiến lược
phát triển, phát huy nguồn nhân lực nữ cần phải phân tích đầy đủ và sử dụng tổng hợp
tất cả các nhân tố này.
1.2 Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ và yêu cầu mới
đối với nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay
1.2.1Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện
nay
Là bộ phận cơ bản của nguồn lực con người, nguồn nhân lực nữ có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của các quốc gia. Vấn đề phát huy nguồn nhân lực nữ đã
được Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng ngay từ ngày đầu mới thành lập. Một trong
những luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh là phụ nữ được nhìn nhận như một lực
lượng cơ bản của cách mạng và nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào
các cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi được. Phụ nữ còn
được coi là nguồn lực to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. "Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải làm gì ? Nhất định phải tăng gia sản xuất thật nhiều. Muốn
sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức lao động. Muốn có nhiều sức lao động phải giải
phóng sức lao động của phụ nữ" (7, tr.33).
Xuất phát từ vai trò to lớn của phụ nữ, Hồ Chí Minh xác định một cách nhất
quán rằng giải phóng phụ nữ là một trong những nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam.''…Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.." (7,
tr.167)
Có thể khẳng định rằng: xuất phát từ nhu cầu khách quan về các nguồn lực,
trước hết là nguồn lực con người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi phụ nữ là
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 12
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Để phát huy nguồn lực phụ
nữ, các chính sách của Đảng và Nhà nước đã có một cách nhìn nhận tương đối toàn
diện về các vai trò khác nhau mà người phụ nữ gánh vác trong gia đình và ngoài xã
hội. Nhờ kiên trì quan điểm phát huy nguồn lực phụ nữ mà Đảng ta đã động viên
được các tầng lớp phụ nữ tham gia vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Vai
trò và địa vị xã hội của phụ nữ Việt Nam được nâng cao qua từng giai đoạn phát
triển. Điều này chứng tỏ rằng một trình độ mới về tiến bộ xã hội thể hiện ở mức độ
bình đẳng giới có thể được tạo lập ngay trong điều kiện kinh tế còn kém phát triển.
Ngày nay, phát huy nguồn nhân lực nữ càng có ý nghĩa quyết định đối với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn
nhân lực nữ thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phụ nữ là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc tái sản xuất con
người. Phát huy nguồn nhân lực nữ sẽ tác động trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển
kinh tế - xã hội và phát triển con người.
Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng: sản xuất ra của cải vật
chất, tinh thần và tái sản xuất ra bản thân con người. Hai mặt này của sản xuất xã hội
có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau trong sự thống nhất biện chứng. Sản xuất
vật chất, tinh thần là cơ sở của tái sản xuất con người. Ngược lại, tái sản xuất con
người lại là tiền đề của sản xuất vật chất, tinh thần. Vai trò hay ảnh hưởng của phụ nữ
đối với xã hội được xét trên hai phương diện chủ yếu: thứ nhất, phụ nữ tác động đến
sự phát triển của xã hội thông qua các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần
của họ; thứ hai, phụ nữ tác động đến xã hội thông qua việc thực hiện chức năng trực
tiếp tái sản xuất ra bản thân con người. Chiếm phần nửa trong lực lượng lao động xã
hội, nên đương nhiên phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Tôi muốn bàn thêm về vai trò của phụ nữ trong việc tái sản xuất ra con người đối với
sự phát triển của xã hội.
Khái niệm tái sản xuất ra con người bao gồm hai nội dung cơ bản, đó là tái sản
xuất về mặt thể chất và tái sản xuất về mặt tinh thần. Cho dù khoa học kỹ thuật phát
triển đang mở ra khả năng có thể tiến hành việc sinh sản ra con người một cách nhân
tạo thì sự tái sản xuất con người vẫn phải được thực hiện thông qua người phụ nữ. Xét
cả trên phương diện sinh học và phương diện xã hội, người phụ nữ vẫn giữ vai trò
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 13
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
không thể thay thế được. Bởi tái sản xuất ra con người không đơn thuần chỉ là tạo ra
một con người sinh học mà điều quan trọng và chủ yếu hơn là sự giáo dục, nuôi dưỡng
để hình thành và phát triển một con người xã hội, trở thành những công dân hữu ích
cho xã hội. Đối với mỗi con người điều đó lại được bắt đầu chủ yếu và trước hết bởi
người mẹ, không một công nghệ, kỹ thuật thuần tuý nào có thể thay thế được.
Sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay không chỉ chú ý đến vấn đề số lượng dân
số - như một lực lượng lao động chủ yếu, mà điều quan trọng hơn là nâng cao chất
lượng dân số như là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Con người là nhân tố hàng đầu,
quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngay cả khi khoa học công nghệ, kỹ
thuật phát triển như hiện nay, nhân tố con người lại càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã đặt con người vào quá
trình lao động hết sức phức tạp, đòi hỏi một năng lực sáng tạo, một trình độ kỹ thuật
cao và ý thức trách nhiệm rất lớn. Có như vậy, lực lượng vật chất to lớn, đồ sộ của xã
hội mới được sử dụng một cách tốt nhất, hiệu quả nhất và đồng thời chính con người
lại đạt đến một bước phát triển mới, tăng thêm sức mạnh chinh phục thiên nhiên, tăng
thêm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Điều đó càng cho thấy, chức năng tái sản sinh ra con người ở người phụ nữ là
nhu cầu tự nhiên tất yếu đối với gia đình và xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính người,
tính xã hội. Đây là chức năng đặc biệt dành cho phụ nữ, trải qua các thời đại, chức
năng này ngày càng có vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội. "Chất lượng của tái sản xuất xã hội được thực hiện thông qua người phụ nữ là yếu
tố chủ yếu của phát triển nguồn nhân lực và hơn nữa là nguồn đầu tư đặc biệt dài hạn"
(20, tr.26)
Thứ hai, phụ nữ là chủ thể sáng tạo, đổi mới và hoàn thiện quá trình phát triển
kinh tế- xã hội. Phát huy nguồn nhân lực nữ sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế
và tăng cường tiến bộ xã hội.
Khi nói tới khả năng lao động sáng tạo của con người C.Mác đã cho rằng cái gọi là
lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo của con người thông qua lao động.
C.Mác đã tổng kết : "Con người không chỉ làm biến đổi hình thái những cái tự nhiên cung
cấp…con người cũng đồng thời thực hiện các mục đích tự giác của mình, mục đích ấy
quyết định phương thức hành động của họ, giống như một quy luật và bắt ý chí của họ
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 14
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
phải phục tùng nó" (11,tr.321).
Như vậy, trong tiến trình phát triển của nhân loại, con người không chỉ là yếu tố
hàng đầu, năng động quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn là chủ thể
sáng tạo, đổi mới và hoàn thiện toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Sự sáng
tạo của con người được thể hiện không chỉ ở mặt sáng tạo ra của cải vật chất mà còn
sáng tạo ra đời sống tinh thần và sáng tạo ra chính bản thân con người. Nhu cầu vật
chất, tinh thần ngày càng cao đã thúc đẩy con người sáng tạo không ngừng để thoả
mãn nhu cầu của chính mình. Chính trong quá trình đó, con người sáng tạo ra lịch sử,
sáng tạo ra chính bản thân mình, đưa xã hội loài người phát triển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác.
Con người vừa là sản phẩm lịch sử vừa là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch
sử. Xã hội dưới mọi hình thức đều chỉ là quan hệ giữa người với người, giữa nam và
nữ. Người phụ nữ trước hết là sản phẩm lịch sử và cũng là chủ thể sáng tạo. Sự ra đời
của loài người gồm có nam và nữ, họ cùng xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài
người. Nhưng ở phương Tây truyền tụng câu chuyện coi phụ nữ - Eva, là cái xương
sườn của Adam do Chúa nặn ra, nữ là một bộ phận cơ thể của nam và phụ thuộc vào
nam. Ở phương Đông, người ta quan niệm rằng vũ trụ hợp nhất bởi âm và dương. Con
người cũng vậy, nam giới là khí dương - biểu tượng cho sức mạnh, quyền năng, thống
trị.. còn nữ giới là khí âm với đặc trưng là sự mềm yếu, nương tựa, phụ thuộc...Câu
chuyện khởi thuỷ và những quan niệm ngây thơ đó được hậu thuẫn bởi sự áp bức, nô
dịch phụ nữ về mặt kinh tế đã trở thành nguyên cớ làm nảy sinh những phong tục tập
quán, thiên kiến xã hội đề cao nam giới, chỉ coi nam giới là chủ thể sáng tạo còn phụ
nữ chỉ là đối tượng bị sai khiến và phải phục tùng. Từ đó đã hình thành và củng cố
những quan niệm về địa vị thấp hèn của phụ nữ suốt bao thế kỷ, đòi hỏi ở người phụ
nữ chỉ có trách nhiệm và hy sinh. Người ta sinh ra không phải là phụ nữ mà trở thành
phụ nữ, do kết quả của những định kiến, những phân biệt đối xử trong lao động và
hưởng thụ, trong học hành và nghỉ ngơi .
Ngay cả khi vai trò hết sức to lớn, quan trọng, cần thiết của phụ nữ trong quá
trình phát triển được thừa nhận thì địa vị chủ thể của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội cũng chưa được nhận thức một cách toàn diện. Điều đó thể hiện ở chỗ phụ nữ
được coi là động lực và là lực lượng cần thu hút vào quá trình phát triển kinh tế - xã
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 15
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
hội, nhưng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khi được xác định lại thường ít tính
đến nhu cầu của phụ nữ. Các vấn đề của phụ nữ mới được nhắc tới, tính đến hay lồng
ghép vào các chương trình, dự án phát triển. Trên thực tế quan điểm này chưa đặt vấn
đề phụ nữ là chủ thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Điều này không chỉ hạn
chế khả năng phát huy tính chủ động, sáng tạo của phụ nữ mà có thể làm giảm hiệu
quả xã hội của các quá trình kinh tế. Việc phát triển kinh tế - xã hội một cách lâu bền
vì thế khó có thể thực hiện một cách triệt để.
Được coi là hợp lý trong việc đánh giá vai trò của phụ nữ hiện nay là quan điểm
khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa phụ nữ và phát triển, giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội, đồng thời nhấn mạnh vai trò chủ thể của phụ nữ trong quá trình
hoạch định, thực hiện và đánh giá các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Công cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội hiện nay đang cho thấy rõ ràng là chỉ có thể nói tới phát triển
với nghĩa sâu rộng nhất của từ này nếu phụ nữ có cơ hội phát huy hết năng lực của
mình và có điều kiện phát triển một cách toàn diện và bình đẳng với nam giới (1,
tr.93).
Nghiên cứu về vai trò chủ thể sáng tạo của phụ nữ không thể dừng lại ở việc
nhấn mạnh ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn của việc phụ nữ tham gia vào hoạt động
kinh tế - xã hội. Ở một đất nước như Việt Nam khi mà hơn 70% phụ nữ trong độ tuổi
lao động tham gia hoạt động kinh tế và lao động nữ chiếm gần 50% lực lượng lao
động xã hội thì nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ lại càng không thể giới hạn ở việc
nhấn mạnh vai trò quan trọng của lao động nữ, vấn đề đặt ra là cần phân tích và phát
hiện những cơ chế góp phần cải thiện công bằng xã hội nâng cao bình đẳng nam - nữ
trong chính hoạt động kinh tế - xã hội của phụ nữ.
Thứ ba, phụ nữ có vai trò quan trọng trong việc sáng tạo, giữ gìn và phát triển
văn hoá dân tộc. Phát huy nguồn nhân lực nữ sẽ góp phần khơi dậy tiềm năng, sức
sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển.
Văn hoá tạo nên mặt cơ bản của chất lượng đời sống con người và trình độ phát
triển xã hội. Nhấn mạnh văn hoá trong quá trình phát triển chính là nhấn mạnh yếu tố
con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hoá là nền tảng tinh
thần của đời sống ấy, và vì thế, hai lĩnh vực đó luôn luôn giữ vị trí quan trọng và quyết
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 16
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
định đối với sự vận động và phát triển của xã hội. Với vai trò là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá có khả năng to lớn trong việc khơi dậy, nhân lên
mọi tiềm năng, phát triển sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết
định sự phát triển của CNH, HĐH. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi mà
nguồn gốc của sự giàu có và phát triển toàn diện của một đất nước ngày càng phụ
thuộc vào nguồn lực con người, tiềm năng và năng lực sáng tạo của con người.
Phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong việc sáng tạo, truyền thụ, giữ gìn và phát triển
văn hoá. Điều này xuất phát từ vai trò trọng yếu của họ trong nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo
tồn và phát triển giống nòi đất nước. Phụ nữ là những người giữ gìn, truyền thụ những giá
trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng những lời ru, những
truyện cổ dân gian, những khúc đồng dao đến những tục lệ tốt đẹp. Chính trong cuộc sống
đa dạng thường ngày, trong sản xuất, trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong nuôi dạy con
cái, người phụ nữ đã sáng tạo, truyền đạt, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của
văn hoá Việt Nam. Họ đóng góp, làm giàu nền văn hoá đó cho dù họ không biết hay ít
biết làm thơ, viết chuyện, họ bảo vệ nền văn hoá đó trước mọi mưu đồ đồng hoá của các
kẻ thù xâm lượt … Họ đã giữ gìn, xây dựng nhân cách con người Việt Nam qua tấm
gương sống và làm việc của bản thân .
Con người Việt Nam đến nay còn lưu giữ được những phẩm chất, đạo đức tốt
đẹp như tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, thông minh,
sáng tạo trong lao động, tình nghĩa chung thuỷ giữa vợ và chồng, lòng hiếu thảo của
con cái đối với cha mẹ, lòng kính trọng biết ơn người già, sự tương trợ, đùm bọc nhau
trong họ hàng làng xóm... Ở đây có công lao to lớn của những người phụ nữ, người mẹ
trong việc dạy dỗ con cái. Họ còn đóng vai trò quan trọng đối với việc xây dựng, củng
cố những quan hệ tốt đẹp giữa người với người, nhờ đó xã hội Việt Nam còn giữ được
nếp sống có nghĩa, có tình, có trước, có sau, quan tâm giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn
nạn…
Tóm lại, phụ nữ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Nhìn nhận
về vai trò của phụ nữ, nghị quyết 04/BCT (khoá VIII) đã khẳng định một quan điểm
mới và khá toàn diện:'' Phụ nữ vừa là người lao động, vừa là người công dân, vừa là
người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả năng và điều kiện lao động, trình
độ văn hoá, vị trí xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ có ảnh hưởng sâu
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 17
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
xa đến sự phát triển của thế hệ tương lai"(3, tr.121). Việc phát huy nguồn lực phụ nữ vì
thế, sẽ tạo ra động lực phát triển xã hội, thúc đẩy bước tiến của dân tộc cả về cơ sở vật
chất và cuộc sống văn hoá tinh thần.
Không chỉ đối với Việt Nam, việc phát huy nguồn nhân lực nữ để tạo động lực
phát triển kinh tế bền vững và đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội đã và đang được đặt
ra trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ
XX, người ta chủ yếu đề cập đến mô hình phát triển hướng vào tăng trưởng kinh tế và
cho rằng tăng thu nhập quốc dân là biện pháp cần và đủ đối với sự phát triển của một
đất nước. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng việc tập trung quá cao cho
mục tiêu tăng trưởng đã khiến cho các mục tiêu xã hội, vốn gắn chặt với người phụ nữ
như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục không được đầu tư phát triển một cách tương xứng
với tầm quan trọng của nó. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn nhân lực và
đến lượt nó lại có tác động tiêu cực trở lại đối với tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển
kinh tế vì thế không thể duy trì tính bền vững như mong muốn. Quan điểm mới về
phát triển đòi hỏi trong việc phát huy nguồn nhân lực nữ không chỉ chú ý đến việc khai
thác tối đa tiềm năng của nguồn lực này mà phải đồng thời quan tâm đầy đủ đến lợi
ích và nhu cầu phát triển của phụ nữ.
Nghiên cứu của tổ chức tài chính như Ngân hàng Thế giới hay của tổ chức phát
triển như UNDP trên phạm vi quốc tế hiện nay đều nhấn mạnh ý nghĩa của việc đầu tư
cho phụ nữ và đảm bảo lợi ích của giới nữ đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển nói
chung. Đầu tư nâng cao khả năng của phụ nữ và tạo cho họ quyền lựa chọn các cơ hội
không chỉ đem lại lợi ích cho phụ nữ mà còn là cách chắc chắn nhất để đóng góp vào
sự tăng trưởng kinh tế và phát triển chung.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước có nhịp độ tăng trưởng cao
trong nhiều năm liền, các nhà kinh tế của Ngân hàng Thế giới đã đi đến kết luận ''Tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc cải thiện giáo dục và sức khoẻ toàn dân.
Những nước đã rút ngắn khoảng cách giữa nam và nữ trong việc học tập cũng chính là
những nước đã đạt sự tăng trưởng nhanh chóng và ổn định nhất trong vòng 50 năm
qua" (20, tr.17) Và nghiên cứu này đã nhấn mạnh rằng: đầu tư vào sự phát triển của
phụ nữ mang lại lợi ích cao hơn bất kỳ sự đầu tư nào khác ở các nước đang phát triển.
''Phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ và công bằng giới'' đã được Liên Hợp Quốc
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 18
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
đưa ra bằng chỉ số phát triển liên quan đến giới viết tắt là GDI bên cạnh chỉ số phát
triển con người HDI khi đánh giá mức độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Điều đó có nghĩa là mô hình phát triển xã hội tốt đẹp hiện nay không chỉ là mô hình
tăng trưởng kinh tế mà là mô hình phát triển con người trong đó nhấn mạnh giới. Năm
2006, Báo cáo phát triển con người của UNDP xếp Việt Nam ở vị trí 112/177 quốc gia
được xếp hạng với chỉ số 0,691 cao hơn quốc gia có cùng thu nhập GDP theo đầu
người như Pakistan hoặc có thu nhập GDP theo đầu người cao hơn như Ấn Độ,
Gabon. Chỉ số GDI của Việt Nam là 0,689 xếp thứ 87/144 quốc gia năm 2005 xếp
89/144. Như vậy ở Việt Nam không có chênh lệch giữa chỉ số GDI và HDI. Việt Nam
hiện dẫn đầu châu Á và xếp thứ 13 thế giới về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội với 27,31%
và thuộc nhóm có thành tựu tốt nhất về bình đẳng giới ở khu vực Đông Nam Á ( 13,
tr.157). Điều đó cho thấy trong khi đời sống còn nhiều khó khăn nhưng sự bình đẳng
giới ở nước ta đã được thực hiện tốt hơn.
Vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn nhân lực nữ không chỉ biểu hiện số lượng
lớn trong dân cư và lực lượng lao động xã hội, mà chất lượng của nó quyết định sự
phát triển hiện tại và tương lai của một dân tộc, quốc gia. Nhưng nguồn nhân lực nữ
chỉ đem lại sự phát triển bền vững khi việc phát huy nó dựa trên cơ sở công bằng và
hiệu quả, do đó bình đẳng giới cần được coi là một trong những mục tiêu của chiến
lược phát triển nguồn nhân lực.
1.2.2. Yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay
Có thể khẳng định rằng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cho phép
khai thác mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tạo ra những khả năng để phát huy cao
độ trí tuệ và trình độ phát triển mọi mặt của nguồn lực con người song, cũng đặt ra
những đòi hỏi rất cao. Yêu cầu mới đòi hỏi ở mỗi con người không chỉ về năng lực,
trình độ học vấn, phẩm chất lao động mà cả về mặt sức khoẻ, tình cảm, tư tưởng, tâm
trạng thích hợp. Đó không phải là một mẫu người duy nhất, rập khuôn giống nhau mà
là những con người đa dạng cụ thể, có cá tính và chuyên môn, tài năng khác nhau đáp
ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trên tất cả các lĩnh vực. Đất nước đang đòi hỏi
có những chuyên gia giỏi, những nhà quản lý sáng suốt, những chủ kinh doanh tài ba,
những nhà khoa học sáng tạo và có đầu óc thực tế, đồng thời cũng cần một đội ngũ
đông đảo những người lao động có tay nghề thành thạo, có lương tâm nghề nghiệp,
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 19
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
trình độ và năng lực đối phó kịp thời với những biến động trong sản xuất và trong hoạt
động nghề nghiệp. Đất nước cũng không thể thiếu những nhà hoạt động nghệ thuật
xuất sắc đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá và định hướng thị hiếu thẩm mỹ của nhân
dân, bảo tồn và phát triển những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam.
Người lao động nói chung không chỉ cần có sự cần cù, chịu khó, chịu đựng gian
khổ vốn là đức tính truyền thống của nhân dân ta, đặc biệt của người phụ nữ mà quan
trọng hơn là cần sự thông minh, nhạy bén với cái mới, sự tháo vát năng động, quyết
đoán, chủ động và tự tin.
Việc phát huy nguồn nhân lực là phải hướng tới mục tiêu hình thành và phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu
của phân công lao động quốc tế, thích ứng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
yêu cầu phát triển của khoa học công nghệ.
Những yêu cầu nêu trên đặt ra đối với mọi người lao động với mức độ khác
nhau tuỳ công việc, ngành nghề, vị trí xã hội. Phụ nữ có những đặc điểm riêng do chức
năng mang thai, sinh nở và gánh nặng trong việc giáo dục con cái, chăm sóc gia đình
nên những đòi hỏi đó càng trở nên khắt khe.
Hiện nay, phụ nữ chiếm khoảng 50,8% dân số và 48% lực lượng lao động xã
hội. Phụ nữ có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, chiếm tỷ lệ cao trong các
ngành giáo dục - đào tạo, thương mại, y tế - cứu trợ xã hội, nông - lâm nghiệp, công
nghiệp chế biến ... Nhưng trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH,HĐH chất
lượng lao động nữ đã tỏ ra có nhiều bất cập. Phụ nữ chiếm 70% tổng số người mù chữ,
càng lên các cấp học cao thì tỷ lệ nữ càng giảm. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nữ
cũng kém hơn, 90% không được đào tạo.(20, tr.18) Cùng với sự phát triển khoa học
công nghệ, xu hướng lao động giản đơn giảm dần là một tất yếu trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Nhưng điều đó lại gây ra sự bất lợi đối với lao động nữ, vốn yếu
thế trong điều kiện cạnh tranh của thị trường lao động. Khả năng thất nghiệp của phụ
nữ cao hơn, phụ nữ tập trung ở các ngành có thu nhập thấp, kĩ thuật thô sơ và là khu
vực sản xuất không phù hợp khi xã hội phát triển theo hướng hiện đại hoá.
Tuy nhiên, CNH, HĐH cũng đem lại một số lợi thế cho phụ nữ. Sự phát triển
các khu công nghiệp, các doanh nghiệp có khả năng tạo ra nhiều việc làm mới, linh
hoạt về không gian và thời gian. Nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, khoa học, văn hoá,
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 20
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
dịch vụ công cộng phù hợp với sở trường của phụ nữ. Nhiều ngành công nghệ phát
triển mạnh trong thế kỷ cần thu hút lực lượng lao động nữ với ưu thế về sự khéo léo và
tỉ mỉ như tin học, điện tử, công nghiệp thực phẩm, chế biến, may mặc, thương mại…
Phụ nữ có điều kiện tham gia vào quá trình lao động sản xuất dựa trên công nghệ cao,
hao tốn ít sức lực. Sự mở rộng dân chủ về kinh tế và tri thức, các tiến bộ của khoa học
- kỹ thuật và dịch vụ gia đình tạo cơ hội cho phụ nữ không ngừng học tập nâng cao
trình độ, kỹ năng nghề nghiệp. Khi năng suất lao động phát triển, mức sống được nâng
cao, phụ nữ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế mà còn đóng vai
trò to lớn trong phát triển văn hoá của cộng đồng, địa vị chính trị - xã hội của phụ nữ
được nâng lên. Các tiềm năng sáng tạo của phụ nữ được phát huy cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra
dự báo rằng phụ nữ là nguồn nhân lực có khả năng phát huy cao trong thế kỷ XXI.
Yêu cầu đối với việc phát huy nguồn nhân lực nữ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội là vừa khai thác tối đa tiềm năng nguồn nhân lực này, vừa phải quan tâm bồi
dưỡng nguồn nhân lực quý giá đó cho sự phát triển bền vững của đất nước. Điều đó
đòi hỏi phải có chính sách hợp lý đối với phụ nữ, trong đó chính sách đào tạo nguồn
nhân lực và chính sách sử dụng lao động có ý nghĩa quyết định.
Với những khó khăn và hạn chế nhiều mặt so với nam giới, bên cạnh sự hỗ trợ
bằng các chính sách của nhà nước, bản thân phụ nữ buộc phải nỗ lực nhiều hơn mới
đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực. Phụ nữ phải
nỗ lực học tập ngay từ khi còn trẻ tuổi bởi họ có ít thời gian để chờ đợi và nghỉ ngơi,
thường xuyên nâng cao trình độ và tích luỹ các kiến thức cần thiết để đáp ứng nhu cầu
năng động của sự phát triển kinh tế - xã hội. Phải biết sắp xếp công việc, cuộc sống
của mình một cách khoa học, biết san sẻ trách nhiệm nuôi dạy con cái và công việc gia
đình. Phải suy nghĩ độc lập, sáng tạo, khắc phục cách suy nghĩ, làm việc thụ động.
Làm việc cần cù chịu khó nhẫn nại là ưu điểm thường có ở phụ nữ nhưng lại
phải biết sáng tạo, thông minh, nhạy bén với cái mới, cần tự tin vào năng lực bản thân,
rèn luyện một tác phong làm việc nhanh nhẹn và tháo vát phù hợp với yêu cầu CNH,
HĐH.
Tóm lại, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đặt con người vào
trung tâm của sự phát triển đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ bộc lộ tiềm
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 21
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
năng, tài năng mọi mặt của mình, song, cũng đặt ra nhiều thách thức lớn cho mục tiêu
phát triển trong bình đẳng của phụ nữ. Ngày nay, sự phát triển của mỗi địa phương,
quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực nữ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NỮ Ở LONG AN
TRONG THỜI GIAN QUA
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 22
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
2.1 Những thành tựu trong việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Long An trong
thời gian qua
Thứ nhất, sự chuyển đổi cơ chế quản lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá
trình đổi mới đất nước đã có những tác động rất lớn đến tình hình việc làm của lao
động nữ. Tỉnh Long An đã có nhiều chủ trương, biện pháp giải quyết việc làm cho
người lao động nữ. Số lượng việc làm mới được tạo ra hàng năm tăng nhanh năm
2010 giải quyết việc làm cho hơn 150.000 lao động, trong đó tạo việc làm mới cho
70.000 lao động trong đó nữ chiếm trên 50%; xuất khẩu lao động gần 2.500 người.
Lao động nữ đã có thể nắm bắt được những cơ hội mới để tạo ra việc làm ( 21, tr.2).
Chủ trương khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đã đóng vai trò
rất quan trọng trong thu hút lao động. Trong khối doanh nghiệp ngoài nhà nước thì tự
tạo việc làm của bản thân lao động nữ với cách thức để sinh tồn, kinh doanh cá thể và
siêu nhỏ thuộc khu vực phi chính thức đóng vai trò chủ đạo thu hút lao động nữ ở
Long An. Đây là khu vực hoạt động với đặc trưng là trình độ tổ chức và công nghệ
thấp, là tầng trung gian giữa lao động giản đơn và lao động có kỹ thuật tay nghề cao,
góp phần ổn định đời sống nhân dân, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, đáp ứng nhu
cầu tăng thu nhập.
Chương trình vay vốn quỹ quốc gia, các nguồn vốn ủy thác Ngân hàng chính
sách xã hội,vốn tiết kiệm tín dụng, vốn các dự án phi Chính phủ về giải quyết việc làm
được thực hiện hiệu quả trong những năm qua đã có tác dụng lớn trong tạo việc làm
cho lao động nữ. Trong thời gian từ năm 2006 – 2010 số vốn tín dụng tiết kiệm được
trên 58 tỉ đồng, với trên 100.000 thành viên tham gia; nguồn vốn của các tổ chức phi
chính phủ ủy thác qua ngân hàng chính sách xã hội trên 3 tỉ đồng giúp cho 580 hộ gia
đình có thu nhập thấp được hỗ trợ phát triển kinh tế. Ngân hàng Chính sách xã hội còn
hỗ trợ vai trên 665 tỉ đồng cho gần 55.000 lượt hộ phụ nữ vai . Ngoài ra, tỉnh cũng đã
xét duyệt nhiều dự án với tổng số vốn cho vay trên 200 tỉ đồng; thu hút hàng chục
ngàn lao động, trong đó lao động nữ được giải quyết việc làm chiếm gần 48% tổng số
lao động được sắp xếp việc làm (9 tr. 5). Nguồn vốn này đã góp phần chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, lao động khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, kinh tế hộ gia đình
có sự chuyển dịch rõ nét, tận dụng được nội lực trong mỗi gia đình và doanh nghiệp
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 23
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
trong phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao mức sống và ổn định xã hội.
Hoạt động tạo việc làm của hệ thống dịch vụ việc làm tỉnh Long An đã và
đang thu được những kết quả nhất định.Trong đó số lượng phụ nữ được tư vấn, dạy
nghề, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động chiếm tỷ cao 46,81% - 53,28% (21, tr.
2). Khả năng nắm bắt thông tin thị trường và hoạt động của các trung tâm, nhất là các
trung tâm dành riêng cho nữ đã và đang có tác dụng thiết thực tạo việc làm cho lao
động nữ ở Long An.
Thứ hai, trong việc phát huy hiệu quả nguồn lực con người thì việc quản lý
nguồn nhân lực nữ với những cơ chế chính sách tuyển dụng, bố trí sắp xếp, đánh giá,
đãi ngộ có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường khai thác và phát huy khả năng
sáng tạo của người lao động. Việc theo dõi, quản lý nguồn nhân lực nữ trên địa bàn
tỉnh tương đối chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp cho ngành chuyên môn theo từng
khu vực, đối tượng như: lao động ở khu vực hành chính, sự nghiệp, lao động ở khu
vực sản xuất kinh doanh, khu vực tập thể và cá thể...Lực lượng lao động nữ ở khu vực
hành chính, sự nghiệp được quản lý cụ thể đến từng người, việc tuyển dụng công chức
được thực hiện theo chế độ thi tuyển. Đây cũng là khu vực mà các quyền lợi, nghĩa vụ
của lao động nữ được đảm bảo và giải quyết đầy đủ theo quy định của Nhà nước.
Việc quản lý lao động nữ ở khu vực sản xuất kinh doanh là do các doanh nghiệp
tự chủ cả về tuyển dụng và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật và có trách
nhiệm báo cáo định kỳ với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Việc kiểm tra, giám
sát việc thực hiện quyền lợi và chế độ chính sách cho người lao động do đoàn kiểm tra
liên ngành Lao động - Thương binh - Xã hội, Liên đoàn lao động, Bảo hiểm xã hội
chịu trách nhiệm chính.
Tình hình quản lý nguồn nhân lực nữ ở Long An đã cho thấy những chuyển
biến tích cực về nhận thức và hành động của các cấp, ngành đối với việc phát huy
nguồn lực con người, trong đó có nguồn nhân lực nữ.
Thứ ba, Công tác giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ với việc phát huy
nguồn nhân lực nữ ở Long An đạt được nhiều thành công nhất định
- Về giáo dục - đào tạo, Long An với việc phát huy nguồn nhân lực nữ đã có
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 24
Luận Văn Tốt Nghiệp
GVHD: Ths. GVC Trần Thị Tuyết Hà
bước phát triển. Lực lượng lao động nữ trong ngành giáo dục và đào tạo chiếm trên
50% cán bộ công chức của ngành, không ngừng được rèn luyện nâng cao trình độ
chuyên môn, cải tiến phương pháp giảng dạy, đóng góp quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đào tạo.
Việc giảm khoảng cách bất bình đẳng giới trong giáo dục - đào tạo đã đạt được
những kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục phổ thông. Những năm gần đây, tỷ lệ
nữ tốt nghiệp ở các cấp học trên tổng số học sinh tốt nghiệp ở cùng trình độ đạt mức
cao. Năm 2009 - 2010, tỷ lệ nữ trên tổng số học sinh tốt nghiệp tiểu học là 50,5%, ở
cấp trung học cơ sở là 48,2% và cấp trung học phổ thông là 50,8%. Việc đảm bảo tỷ lệ
tốt nghiệp các cấp cao và cân bằng của cả nam và nữ là rất quan trọng, đặc biệt là đối
với nữ (19,tr.7) . Đây không chỉ là cơ sở nâng tỷ lệ nữ ở bậc cao đẳng, đại học mà còn
là điều kiện để phụ nữ tham gia vào các hình thức đào tạo nghề, đào tạo CNKT sau
này, giúp phụ nữ nắm bắt được cơ hội và tham gia vào đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn lành nghề để tìm việc làm và có vị thế trong xã hội .
- Về vấn đề chăm sóc sức khoẻ với mỗi cộng đồng và mỗi quốc gia, sức khoẻ
thể lực của các thành viên là một nguồn lực đặc biệt. Mặc dù chúng ta thường nhấn
mạnh khía cạnh nguồn vốn tri thức khi đề cập đến nguồn vốn con người song, không
thể coi nhẹ khía cạnh sức khoẻ, vì một lẽ đơn giản là nếu thiếu sức khoẻ thì không thể
phát huy vốn tri thức, thậm chí không thể thực hiện nhu cầu lao động sản xuất thông
thường của con người. Mối liên hệ giữa sức khoẻ của phụ nữ với sự phát triển kinh tế xã hội được thể hiện ở ba điểm sau:
Sức khoẻ của phụ nữ liên quan mật thiết đến sức khoẻ của trẻ em và có ảnh
hưởng đến khả năng lao động của thế hệ tương lai.
Sức khoẻ của phụ nữ có quan hệ chặt chẽ với năng suất lao động của lực lượng
lao động nữ.
Sức khoẻ của phụ nữ có tác động đến sức khoẻ của các thành viên trong gia
đình, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của lực lượng lao động. So
với nam giới thì mối quan hệ giữa sức khoẻ của phụ nữ với các thành viên khác trong
gia đình mật thiết hơn, một mặt là do đặc điểm sinh sản chi phối, mặt khác do phụ nữ
thực hiện nhiều công việc chăm sóc gia đình hơn.
SVTH: Phạm Thành Nam
Trang 25