Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

PHÁ THUY NGUỒN lực NGƯỜI dân tộc KHƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.39 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
-----  -----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

PHÁT HUY NGUỒN LỰC NGƯỜI DÂN TỘC KHƠ

GVHD:
Cô: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

Cần Thơ, 11/2009

SVTH: Đoàn Thị Thúy Hằng
MSSV: 6075695
Nhóm 1


A. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài:
Trong xã hội văn minh hiện đại, con người được khẳng định là nguồn lực
của mọi nguồn lực là nguồn tài nguyên lớn của mỗi quốc gia. Hiện nay các nước trên
thế giới đang thực hiện với những cách rất khác nhau để phát triển nguồn nhân lực của
đất nước mình, xem đây là động lực chủ yếu của sự phát triển. Tuy khác nhau trong
phương thức nhưng các chiến lược đó đều có điểm chung là: “ đặt con người vào trung
tâm của sự phát triển kinh tế xã hội”
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra
nhiều chính sách nhằm phát triển nguồn lực con người. Đại hội lần thứ VIII của Đảng
trong tổng kết 10 năm đổi mới đã khẳng định: “lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Việt Nam là một quốc gia với nhiều dân tộc đang sinh sống. Sự đoàn kết của


các dân tộc với nhau sẽ là nguồn nhân lực quan trọng cho sự phát triển.
Sóc Trăng là tỉnh với nhiều dân tộc sinh sống ngoài người Kinh chiếm tỷ lệ
khoảng 65,28% dân số, còn lại có nhiều dân tộc khác cùng chung sống, trong đó người
Khơmer chiếm 28,9%. Từ 1986 đến nay, tỉnh Sóc Trăng có nhiều thay đổi theo chiều
hướng tích cực trong đời sống kinh tế - xã hội. Những kết quả đó có được là nhờ vào
sự đóng góp công sức của lực lượng các dân tộc đang chung sống trên đại bàn tỉnh Sóc
Trăng trong đó có lực lượng lao động có trí tuệ của người dân Khơmer. Vì vậy, việc
nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực người dân tộc Khơmer tỉnh Sóc Trăng trong
công cuộc đổi mới hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Do vậy, tôi chọn đề tài “Phát huy nguồn lực người dân tộc Khơmer tỉnh Sóc Trăng
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" làm đề tài nghiên cứu luận văn của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1.Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phat huy nguồn lực người dân
tộc Khơmer của tỉnh Sóc Trăng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
1


- Làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực, luận giải một cách khoa học
nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực thúc đẩy quá trình công nghiêp hóa, hiện
đại hóa rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng về chất lượng sử dụng và phát huy nguồn
nhân lực người dân tộc Khơmer của tỉnh Sóc Trăng, đề xuất những phương hướng
nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy tối đa lợi thế nguồn nhân lực người dân
tộc Khơmer trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
- Lý luận về tầm quan trọng của việc phát huy nguồn lực người dân tộc Khơmer

- Thực trạng và những giải pháp nhằm phát huy nguồn lực người dân tộc
Khơmer tỉnh Sóc Trăng theo yêu cầu phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Phạm vi nghiên cứu:
Phát triển nguồn nhân lực đang là một trong những vấn đề đáng quan tâm
hàng đầu của toàn thế giới nói chung và Việt nam nói riêng thì nguồn nhân lực đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng ở đây, đề tài chỉ đi sâu
nghiên cứu việc phát huy nguồn nhân lực người dân tộc Khơmer tỉnh Sóc Trăng trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp lý luận chung của quan điểm Triết học duy vật biện chứng về việc
phát huy nguồn nhân lực.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgic và lịch sử.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 06 tiết

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:

PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC NGƯỜI DÂN TỘC KHƠMER Ở SÓC
TRĂNG.
1.1 Quan điểm duy vật biện chứng về phát huy nguồn nhân lực
1.1.1 - Vấn đề con người
Có thể nói vấn đề con người, nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
là một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia và toàn thế giới. Đó là vấn
đề mà luôn được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất.
Không những thế trong nhiều đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học xưa và nay thì
đề tài con người là một trung tâm của các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý. Có rất nhiều

lĩnh vực nghiên cứu về vấn đề con người như tâm lý học, y học, xã hội học… hơn bất
cứ lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận
thức và nó đã gây nên làn song đấu tranh tư tưởng không biết khi nào dừng. Những lập
trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau
do đó có nhiều tư tưởng và hướng giải quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà Triết học tự hỏi: thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời cho câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
trong chính con người. Khi phân tích các nhà Triết học duy vật cổ đại coi con người là
mục tiêu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là
bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài,
chỉ đứng sau thần linh. Các nhà Triết học tìm ra được bản chất của con người và không
ngừng khắc phục những lý luận trước đó.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, con người là khái niệm chỉ những cá thể
người trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người là sản
phẩm của sự tiến hóa lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy, để tồn tại với tư
cách là một con người trước hết con người phải ăn, phải uống…Điều đó giải thích vì
sao Mác cho rằng con người phải ăn, uống, mặc, ở rồi mới làm chính trị. Nhưng chỉ
dừng lại một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản
chất con người. Mác và Ănghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà
3


Triết hoc đi trước rằng: Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật
xã hội, nhưng khác với họ, Mác – Ănghen xem xét mặt tự nhiên của con người như ăn,
ngủ, đi lại, yêu thích…không còn hoàn toàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã
được xã hội hóa. Mác viết “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng
hòa những mối quan hệ xã hội”, con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã
hội nên Mác nhiều lần so sánh con người và con vật, so sánh con người với con vật có
những bản năng gần giống con người… và để tìm ra sự khác biệt đó, Mác đã chỉ ra sự

khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con
người biến đổi tự nhiên theo quy luật tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con
người sản xuất ra công cụ sản xuất…luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo
ra công cụ sản xuất, được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Luận điểm Mác coi “Bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã
hội”. Khi xác định bản chất của con người, trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không
thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người.
Để khẳng định cho tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người là sự
thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát
triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển kinh tế xã hội, Mác
cho rằng xu hướng phát triển chung của lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội bao gồm con người và những công cụ lao động do con người
sáng tạo ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội nói lên trình độ phát triển của
xã hội qua việc con người chiếm lĩnh xã hội và sử dụng càng nhiều lực lượng tự nhiên
với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định
quan hệ giữa người với người trong hoạt động sản xuất. Việc tiến hành sản xuất tập thể
bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do nó mang lại sẽ
cần đến những con người hoàn toàn mới. Những con người có năng lực phát triển toàn
diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những con người mới làm nên xã hội có
khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển của mình theo Mác : “ Phát
triển sản xuất vì sự phồn vinh của xã hội,vì cuộc song tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên
trong cộng đồng xã hội và phát triển con người toàn diện là một quá trình thống nhất
để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội” để sản xuất ra những con người phát triển toàn

4


diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợp chặc chẽ giưa phát triển sản xuất và phát triển con
người là một trong những biện pháp mạnh để cải biến xã hội.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố

hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn
nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động
sản xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã hội loài người.
Từ đó, Mác khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự
phát triển bản chất con người, coi như là mục đích tự thân. Mác ý nghĩa lịch sử mục
đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng
lực và phẩm giá con người. Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của
tiến trình phát triển lịch sử xã hội cũa loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn cho con người, phát triển con người toàn diện. Đó là quá trình mà
nhân loại dạ tạo ra cho mình những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm
đem lại sự phát triển toàn diện, tự do và hài hòa cho mỗi con người trong cộng đồng
nhân loại tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của mình.
Quan niệm của Mác về định hướng xã hội lấy sự phát triển của con người
làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử của xã hội loài
người. Ngày nay, loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động,
cộng đồng thề giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng trong các hình thức phát
triển của xã hội loài người kể từ thời tiền sử cho đến nay bao giờ cũng là một hệ thống
thống nhất nhưng là một hệ thống hết sức phức tạp và chính vì sự phứa tạp đó đã tạo
nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các khu vực
khác nhau. Đến lượt mình, tính không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành
nên một bức tranh nhiều màu sắc về định hướng nào, thì mọi định hướng phát triển
vẫn phải tới giá trị nhân văn của nó – tới sự phát triển con người. Trong công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay đang bước vào giai đoạn mới, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức
một cách sâu sắc, đầy đủ giá trị và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Trong
cương lĩnh xây dựng đất nước Đảng ta khẳng định chủ trương: phát huy nhân tố con
người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công
dân.
1.1.2 - Vấn đề về nguồn nhân lực

5



Trong thời đại ngày nay, sự phát triển vượt bậc của tiến trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa, và quá trình toàn cầu hóa thì con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong nhiều thế kỷ, nhân loại đã bị ám ảnh
bởi cảnh nghèo đói và mong muốn thoát khỏi nguy cơ này, vươn tới cuộc sống no đủ,
hạnh phúc hơn, đó là nguyện vọng chính đáng. Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại
đây, sự phát triển con người và nguồn nhân lực được Liên Hiệp Quốc thừa nhận là
vấn đề trung tâm và là thước đo để đánh giá, xếp loại mức độ phát triển của mỗi quốc
gia.
Hơn 100 năm trước, khi xem xét tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài
người là sự phát triển nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội, những nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử
được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, bao gồm con người và
những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất phản
ánh trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh, sử dụng ngày càng
nhiều nguồn lực tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính
con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong hoạt động sản xuất. Sản
xuất vật chất ngày càng phát triển, tính chất xã hội của sản xuất ngày càng gia tăng,
việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của
nền sản xuất do việc đó sẽ mang lại, sẽ cần đến con người hoàn toàn mới, những con
người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất.
Đến lượt mình nền sản xuất đó “sẽ tạo nên những con người mới”, sẽ làm cho những
thành viên trong cả cộng đồng xã hội “có năng lực phát triển toàn diện”. Hơn nữa C.
Mác còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người là
“một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biền xã hội”.
Trong học thuyết duy vật lịch sử của mình, những nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác – Lênin coi con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là
yếu tố hàng đầu trong lực lượng sản xuất, mà hơn thế nữa, con người còn là chủ thể
của lịch sử. Con người vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm mục tiêu, vừa là trung tâm

cho mọi biến đổi lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra
lịch sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài người. Cũng trong quá trình hoạt động
sản xuất của cải vật chất, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình. Theo C. Mác
và Ph.Ăngghen, các lĩnh vực hoạt động cơ bản đó là cơ sở để phát triển con người. Do
6


vậy, “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại… là sự tồn tại của những cá nhân
con người sống”, đó là những con người hiện thực “bằng xương bằng thịt” [25, tr.29]
với hoạt động sản xuất vật chất của họ và trong những điều kiện vật chất của họ. Từ
quan niệm đó các nhà sang lập chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: sự phát triển lực
lượng sản xuất, trước hết phải có nghĩa là “phát triển sự phong phú của bản chất con
người, coi như là một mục đích tự thân”. Theo đó ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của
sự phát triển và tiến bộ xã hội là sự phat triển con người, nâng cao năng lực và phẩm
giá con người.
Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vần đề con người trong
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đảng và nhân dân ta đã và đang
xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó
phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược con người: “Cần đào tạo con người một cách có
chiều sâu lấy tư tưởng và chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng”, cũng như trên thế
giới, ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát
triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người đó là “con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tràng về thể chất phong phú về tinh thần, trong
sang về đạo đức”. Ngày nay khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa
nhận như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng trưởng thì
một trong những yêu cầu để hòa nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới là
phải có được một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng những yêu cấu của trình độ phát
triển của khu vực, của thế giới, của thời đại.
Nguồn nhân lực là toàn bộ những người lao động có khả năng tham gia vào
các quá trình lao động và các thế hệ nối tiếp phục vụ cho xã hội.

Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế -xã hội
là khả năng lao động của cả xã hội bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguốn lao
động.
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần
được huy động vào quá trình lao động. Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ số
lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua chi tiết quy
7


mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với các chỉ
tiêu quy mô và tốc độ tăng dân. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao
thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Khi tham gia
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người đóng vai trò chủ động, là chủ thể
sang tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó, hướng nó tới mục tiêu nhất định. Vì vậy
nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có và sẽ có mà nó còn
phải bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc, thái độ và
phong cách làm việc… tất cả các yếu tố đó ngày nay đều thuộc chất lượng nguồn nhân
lực và được đánh giá là chỉ tiêu tổng hợp là văn hóa lao động. Ngoài ra, khi xem xét
nguồn nhân lực, cơ cấu của lao động – bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành
nghề cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng. Cũng như các nguồn lực quan trọng khác, số
lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong
việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những
người lao động phải được đào tạo, phân bố và sử dụng theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo
tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo, nhưng
nếu phân bố không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo không phù hợp
với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông đảo đó không những không trở thành
ngưồn nhân lực mà nhiều khi còn là gánh nặng cản trở sự phát triển của xã hội.

1.2. Tầm quan người trọng của việc phát huy nguồn lực người dân tộc
Khơmer
1.2.1 Nguồn nhân lực của người dân tộc khơmer.
Nước ta gồm nhiều dân tộc anh em, có truyền thống đoàn kết, đấu tranh
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Mỗi dân tộc có những đặc thù và bản sắc văn
hóa riêng của mình góp phần làm phong phú đa dạng văn hóa dân tộc Việt Nam.
Đồng bào dân tộc Khơmer với trên một triệu người, được phân bố trong 13
tỉnh thành của Nam bộ là An Giang, Bạc Liêu, Bình Phước, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng
Nai, TP. Hồ Chi Minh, Kiên Giang, Sóc Trăng, Tây Ninh, Trà Vinh,Vĩnh Long, Bà
Rịa-Vũng Tàu. Phật giáo Nam tông Khơmer hiện nay có 445 ngôi chùa, chư Tăng:
8.574 vị.

8


Tỉnh Sóc Trăng Tỉnh Sóc Trăng thuộc vùng châu thổ sông Cửu Long,
nằm cuối cửa Nam sông Hậu, tiếp giáp Biển Đông với 72 km bờ biển; diện tích tự
nhiên 3.310 km2, cách thành phố Hồ Chí Minh 231 km, cách Cần Thơ 62 km. Diện
tích tự nhiên 3.310,03 km2, xấp xỉ 1% diện tích của cả nước và 8,3% diện tích của khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long. Sóc Trăng tiếp giáp 3 tỉnh trong vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. ở phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang, ở phía Tây Nam giáp
tỉnh Bạc Liêu, ở phía Đông Bắc giáp tỉnh Trà Vinh và giáp biển Đông ở phía Đông và
Đông Nam. Sóc Trăng nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền các tỉnh Cần Thơ, Hậu
Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng với các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre
và Tiền Giang.
Sóc Trăng gồm 10 huyện và 1 thành phố với 109 xã, phường, thị trấn.
Thành phố Sóc Trăng là trung tâm hành chính của tỉnh. Toàn tỉnh hiện có 1.289.441
người; trong đó, thành thị chiếm 251.328 người, nông thôn 1.038.113 người. Mật độ
dân số trung bình hiện nay của tỉnh là 389 người/km2, thấp hơn mức trung bình ở
Đồng bằng sông Cửu Long (434 người/km2). Dân số phân bổ không đều, tập trung

đông ở vùng ven sông Hậu và các giồng đất cao, nơi có điều kiện thuận lợi cho giao
lưu kinh tế. Cơ cấu này sẽ thay đổi theo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chiến
lược phát triển của tỉnh trong tương lai. Ở Sóc Trăng, ngoài người Kinh chiếm tỷ lệ
khoảng 65,28% dân số, còn lại có nhiều dân tộc khác cùng chung sống, trong đó người
Khơmer chiếm 28,9%, người Hoa chiếm 5,9%, ngoài ra còn có người Nùng, Thái,
Chăm... nên đời sống và sinh hoạt văn hóa của người dân Sóc Trăng rất đa dạng phong
phú và thống nhất trong bản sắc văn hoá của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.Sóc
Trăng có hệ thống giao thông hết sức thuận lợi nhờ vị trí địa lý nằm trên trục quốc lộ
1A, quốc lộ 60 tuyến Nam sông Hậu, quản lộ Phụng Hiệp nối các tỉnh phía Nam và
phía Bắc trong đó có cả thành phố Hồ Chí Minh; thông qua sông Hậu đến các tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long và các nước Lào, Căm Pu Chia.
Từ lâu đời, người Khơmer với tinh thần rộng mở và thấm nhuần triết lý
Phật giáo luôn sẵn lòng tiếp nhận và chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Họ thường
chọn những vùng đất yên lành mà sinh cơ lập nghiệp. Những nơi ấy thường là vùng
đất giồng, gò cao, vùng ngập mặn, ven biển, vùng sâu, vùng núi và biên giới, thường

9


sống xa các trục giao thông lớn, trung tâm dịch vụ thương mại, điều kiện sản xuất và
sinh hoạt còn rất khó khăn.
Từ đấy, trong lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất họ đã học tập lẫn
nhau. Từ những tấm chân tình giữa tình làng nghĩa xóm đã tạo cho họ xích lại gần
nhau hơn, tiến tới mối quan hệ hôn nhân gia đình giữa người Khmer, Kinh, Hoa, tạo ra
mối quan hệ huyết thống, càng thắt chặt tình đoàn kết trong xây dựng cuộc sống kinh
tế, xã hội. Thế là có sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc, các quan niệm giá trị đạo
đức học tập lẫn nhau như: có người Khơmer tuy mang họ Việt, họ Tàu nhưng sống
theo văn hóa, đạo đức của người Khơmer, cũng xuất gia tu học theo truyền thống dân
tộc Khơmer. Mặt khác, trong nền kinh tế phục vụ cho cái ăn cái mặt, người Khơmer
Nam Bộ có nhiều thay đổi, nền sản xuất chăn nuôi trồng trọt được mở rộng, vừa mang

tính tự cung tự cấp, vừa mang tính hàng hóa nghĩa là sản xuất không phải chỉ để ăn tất
cả hay bán tất cả, mà làm để ăn và sản xuất ra xã hội bên ngoài như lúa thóc, rau quả.
Đặc biệt người Khơmer còn có nghề trồng dâu nuôi tằm dệt vải rất nổi tiếng trước đây
ở vùng Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang… Hiện nay, nghề này chỉ còn được duy trì ở
Tịnh Biên, nhưng chỉ dệt lúc rảnh rỗi khi qua mùa vụ nông nghiệp, và sản phẩm
thường là những tấm khăn choàng, làm xà - rông, làm khăn địu trẻ trên lưng. Tuy
nhiên, cũng tùy vào vị trí địa lý ở từng vùng thuận lợi cho nghề nghiệp tồn tại, phát
triển khác nhau.
Ngày nay, đất nước ta đang trên đà tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thì người dân Khơmer Nam Bộ cũng không nằm ngoài làn sóng ấy. Người Khơmer
Nam Bộ nhận thức rằng việc học tiếng phổ thông (tiếng Việt) là cần thiết cho nhịp
sống mới, cho nền sản xuất công nghiệp để cải thiện đời sống vật chất, thay vì trước
đây chỉ chú trọng học tiếng dân tộc mình để gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Chính vì
thế, xu hướng học tập được mở rộng, ngày càng phát triển. Với lại, Đảng và Nhà nước
đã mở ra chính sách nâng cao dân trí cho toàn dân nói chung và quan tâm ưu đãi cho
con em dân tộc Khơmer, về phần Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng rất quan tâm đến
việc tu học sinh hoạt của Phật giáo Nam tông Khơmer như tạo điều kiện mở học viện
Phật giáo Nam tông Khơmer và đã in ấn nhiều tài liệu kinh sách phân phát cho các
chùa Phật giáo Nam tông Khơmer. Từ đó, để chư Tăng và Phật tử người dân tộc có

10


điều kiện học tập phát triển kịp với nhịp độ chuyển mình của đất nước và sự phát triển
tiến bộ của Phật giáo Việt Nam.
Đặc thù xã hội Khơmer Nam bộ đã in đậm bản sắc văn hóa Phật giáo. Phật
giáo Theravada được coi trọng là đạo truyền thống trong lòng mỗi người dân tộc
Khơmer. Chùa làm trung tâm sinh hoạt tập thể, mỗi chùa chia ra nhiều Vên (khu) gồm
vài chục nóc gia do một Mêvên trông nom. Chùa có Trụ trì và bổn chùa có Ban quản
trị để phối hợp nhau trông coi công việc đạo Pháp kết hợp với công việc xã hội như tổ

tương tế và mỗi Vên (khu, tổ) có tổ vần công trong công việc đồng án và công tác xã
hội khác. Mỗi chùa hoặc bổn chùa có nhà hỏa táng, có xe tang. Khi có công việc đột
xuất sinh hoạt hội họp thì chùa nổi trống lên, Ban quản trị và Phật tử đến ngay. Mọi
việc xích mít, mất đoàn kết nội bộ Phật tử thì Trụ trì và ban quản trị chùa đứng ra hòa
giải. Mọi công việc của Nhà nước có liên quan đến dân thì chính quyền xã ấp đến bàn
với vị Trụ trì và Ban quản trị để phối hợp giải quyết. Con cái của Phật tử nào bướng
bỉnh, ngang ngược làm nhiều điều sai trái như trộm cắp, quậy phá, vô lễ với người lớn
tuổi, hất hủi cha mẹ, ông bà… nhiều lần giáo dục nếu không hối cải thì cũng được
công khai hành động và có biện pháp trừng phạt bằng cách cô lập như: Sư sãi không
đến khất thực, đình đám trong Phum, trong chùa không ai mời, có việc gì xảy ra không
ai can thiệp. Nếu tiếp tục tái phạm thì vị Trụ trì và Ban quản trị chùa đưa ra chính
quyền can thiệp.
Dân tộc Khơmer Nam Bộ có quá trình lịch sử lâu dài đã chung vui chia
buồn với đại gia đình các dân tộc Việt Nam và có nền văn hóa phong phú, đa dạng.
Mặt khác, Phật giáo được truyền vào dân tộc Khơmer Nam Bộ rất lâu đời, nền văn hóa
Khơmer mang đậm sắc thái của Phật giáo đã đóng góp phần rất lớn trong việc bảo tồn,
bổ sung và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Hầu hết các lễ hội, dân
gian dân tộc Khơmer Nam bộ đều gắn bởi triết lý Phật giáo, nhằm giáo dục con người
hướng thiện giữ đạo lý trong quan hệ cuộc sống, giữa con người với tự nhiên và con
người với nhau, trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Các lễ hội ấy phần lớn được tổ
chức tại chùa. Chư Tăng tại mỗi chùa là người hướng dẫn hoặc chứng minh cho Phật
tử thực hiện những cuộc lễ ấy.

11


Sóc Trăng có nền văn hóa cộng cư độc đáo, được hun đúc nên từ sự hòa
quyện của bốn dòng văn hóa Việt - Hoa - Khơmer. Mỗi nền văn hóa trên với nét
truyền thống riêng biệt của mình, được lưu giữ theo dòng chảy lịch sử, trở thành một
bộ phận không thể tách rời trong nền văn hóa chung, thống nhất của Sóc Trăng.

Người Khơmer ở Sóc Trăng sống tập trung ở huyện Ngã Năm, Vĩnh
Châu, Kế Sách Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, phần lớn theo đạo Phật giáo Nam tông và sống
bằng lao động nông nghiệp. Đồng bào dân tộc Khơmer là một bộ phận máu thịt trong
cộng đồng những dân tộc cùng chung sống trên mảnh đất Sóc Trăng. Trải qua các thời
kỳ lịch sử, đồng bào luôn gắn bó với các dân tộc khác, có nhiều đóng góp, hy sinh cho
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như xây dựng đất nước.
Trong những năm qua, kinh tế - xã hội của tỉnh Sóc Trăng có tốc độ tăng
trưởng khá, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là đồng bào Khơmer
được cải thiện một bước đáng kể. Từ năm 2006 đến nay, nhiều chính sách, chương
trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc được ban hành như:
Chương trình 135, 134 của Chính phủ, Chương trình Dân tộc của tỉnh... Thông qua các
chương trình này, hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch sinh
hoạt, trường học, nhà ở cho người nghèo... được đầu tư khá tập trung, tạo nên một diện
mạo mới trong đời sống của đồng bào dân tộc Khơmer ở tỉnh. Ở Sóc Trăng hàng năm
đều có tổ chức các lễ hội cho đồng bào Khơmer như :
- Lễ Chol Chnam Thmey đây là Tết cổ truyền của dân tộc Khơmer được
diễn ra tại chùa và các Phum Srók. Cụm từ Chol Chnam Thmey nghĩa là Mừng năm
mới. Hằng năm cứ vào giữa tháng tư dương lịch, theo lịch Khơmer là Khe Chet (tháng
3 ÂL), toàn thể dân Khơmer Nam Bộ dù đi làm ăn nơi đâu cũng quay về mái ấm gia
đình thăm viếng ông bà cha mẹ, trang trí nhà cửa và cùng nhau mua sắm lễ vật nhang
đèn và hoa quả vào chùa làm lễ đón năm mới.
- Lễ Sene Đol-Ta: đây là lễ cúng ông bà, gần giống như lễ Vu Lan báo hiếu
của người Kinh. Hằng năm cứ vào tháng 9 dương lịch, theo lịch Khơmer là Khe
Bhatrobut (tháng 8 ÂL), ở đây trong văn hóa dân tộc Khơmer Lễ Sene Đol-Ta nhằm
nói lên ý nghĩa hồi hướng phước báu (lễ xá tội vong nhân). Trong bổn phận làm con

12


mà đức Phật đã dạy là phải biết đền ơn báo hiếu phụng dưỡng cha mẹ, làm phước hồi

hướng đến ông bà cha mẹ khi người đã quá vãng.
- Lễ Ok-Om-Bok: là một trong ba lễ hội truyền thống trong năm của dân
tộc Khơmer Nam Bộ. Hằng năm cứ vào đầu tháng 12 dương lịch tức theo lịch Khơmer
là Khe Katdâk (Rằm tháng 10 ÂL) nhằm tưởng nhớ và tạ ơn mặt trăng vốn được họ
coi như một vị thần vận hành mùa màng trong năm. Lễ vật cúng chủ yếu là cốm dẹp
nên gọi là Ok-Om-Bok có nghĩa là đút cốm dẹp và các loại củ, trái cây,. Khi nhắc đến
lễ Ok-Om-Bok thì chúng ta không thể nào quên lễ hội tưng bừng nhộn nhịp là Lễ đua
ghe ngo, thả đèn nước, lòng đèn gió.
Cũng trong thời gian trước ngày lễ Ok-om-bok, (từ ngày 16 tháng 9 ÂL
đến Rằm tháng 10 ÂL). Các chùa Nam tông Khơmer đều chọn lấy một ngày trong
vòng 29 ngày để tổ chức Lễ dâng y Kathina truyền thông Phật giáo. Tất nhiên lễ này
cũng rất long trọng, bởi nhân dịp này các chàng trai và cô gái Khơmer ăn mặc đẹp đẽ
với bộ trang phục dân tộc truyền thống tay cầm cây bông làm bằng sợi len, bằng giấy,
hoặc đóa hoa tươi, kết thành đoàn theo người chủ lễ dâng y vào chùa nhiểu Phật ba
vòng chánh điện và cúng dường đến chư Tăng, số tiền có được từ cây bông ấy được
dùng để xây dựng hoặc tu sửa chùa.
Lễ hội dân tộc là những ngày lễ bắt nguồn từ cuộc sống lao động của dân
chúng. Các lễ hội ấy đã có từ ngàn xưa trước khi Phật giáo chưa thâm nhập. Nhưng
qua quá trình phát triển những nghi lễ truyền thống ấy nay được pha lẫn nhiều yếu tố
triết lý Phật giáo. Song ở đây cũng tồn tại khá rõ nét nguồn gốc nghề nông nghiệp của
cư dân chuyên canh lúa nước, đó là đặc điểm chung của lễ Chol Chnam Thmey, lễ
Sene Dol-Ta, lễ Ok-Om-Bok.
Khi nói đến các lễ hội dân tộc thì chúng tôi không thể lược qua chùa
Khơmer, ngoài chức năng tôn giáo, chùa còn gồm cả chức năng giáo dục, chức năng
giao lưu văn hóa phong tục mà đồng bào Khơmer đã “ký gửi” cả tâm hồn, tài sản và cả
công sức của mình vào đó. Qua đó, ngôi chùa Khơmer còn có cách quản lý khá chặt
chẽ là không chỉ có vị trụ trì mà còn có ban quản trị. Nên mọi việc sửa chữa chùa
chiền đều phải có cuộc họp thống nhất ý kiến chung giữa Trụ trì và Ban quản trị, vào
những dịp lễ hội truyền thống dân tộc Trụ trì và Ban quản trị đứng ra hướng dẫn tổ
13



chức lễ. Chùa Khơmer không những là nơi diễn ra các sinh hoạt tôn giáo xã hội mà
còn là nơi tồn trữ và phổ biến những Đại tạng kinh, giáo lý, sách báo, tác phẩm văn
hóa nghệ thuật Khơmer, chùa còn là trường đào tạo nữa. Nơi đây, có các lớp giáo lý
Pali - Vinaya, cho Tăng sinh và cả lớp dạy chữ Khơmer cho con em dân tộc. Thầy dạy
lớp giáo lý Pali - Vinaya thường là các sư sãi được Hội đoàn kết sư sải yêu nước các
cấp đào tạo. Mỗi ngôi chùa Khơmer là một Trung tâm sinh hoạt văn hóa giáo dục xã
hội của địa phương. Nơi đây, người dân Khơmer được lớn lên trong nếp sống đạo đức
Phật giáo. Các nhà sư vừa là thầy hướng đạo vừa là thầy dạy chữ nghĩa đạo đức cho
dân chúng. Nên tín đồ Phật tử rất mực ngưỡng mộ và tôn kính Nhà sư. Cho nên chỉ có
các sư sãi trong chùa là những người được học nhiều chữ nghĩa và mở lớp đào tạo giáo
lý để duy trì đạo đức, văn hóa, Phật pháp. Với hoài bảo và tâm quyết bảo tồn văn hóa
dân tộc mình mà các lớp học được duy trì từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Kiến trúc chùa Khơmer được cấu tạo bởi một số nét mang đặc tính gần gũi
với thiên nhiên và đặc trưng là có nhiều cây cổ thụ như sao, dầu được trồng thẳng hàng
luôn được bảo dưỡng tươi tốt. Vì thế cảnh quang ngôi chùa đã được xem như danh lam
thắng cảnh, nơi để đồng bào xa gần hành hưong thưởng ngoạn. Với bản tính chất phát,
thật thà, đôn hậu vốn có ở người Khơmer điều đó đã chứng minh ở triết lý sống của
Phật giáo là: từ - bi - hỷ - xã, tinh thần vị tha và càng tin tưởng vào quy luật nhân quả,
nghiệp báo. Chính sự thích hợp đó đã tạo thế đứng vững chắc cho Phật giáo truyền
thống Theravada tồn tại trong đồng bào Khơmer Nam Bộ. Thế là, ngôi chùa đã trở
thành trường học, trung tâm văn hóa giáo dục đào tạo và diển ra nhiều hoạt động nhân
văn xã hội của dân tộc Khơmer.
Ngày nay, trên đà phát triển của đất nước, người Khơmer Nam Bộ cũng
đồng hành và tiến kịp với xã hội. Trên cơ sở hiện nay, theo báo cáo tổng kết công tác
Phật sự năm 2009 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam các tỉnh thành có Phật giáo Nam
tông Khơmer, đều có mở các lớp sơ và Trung cấp Phật học Pali, giáo lý như : Sóc
Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang, Bạc Liêu, An Giang. Tổng số
liệu lớp và tăng sinh chung là: 1.276 phòng, có 6.806 vị tăng sinh. Lớp ngữ văn

Khơmer bậc tiểu học (lớp 1-5) ở tỉnh Trà Vinh mở được 815 phòng, có 19.845 học
viên là thanh thiếu nhi Phật tử.

14


Ngoài ra, còn có nhiều chư Tăng Phật giáo Nam tông Khơmer theo học
các Trường đại học tại thành phố Hồ Chi Minh, Cần Thơ, Trà Vinh, với chuyên ngành
như: tin học, kế toán, du lịch, Anh văn, trên 50 vị đang du học tại các trường Đại học
Phật giáo Myanmar, Thái Lan, Ấn Độ. Đây là thành quả giáo dục đáng được khích lệ
dành cho Phật giáo Nam tông Khơmer.
1.2.2 Vai trò của việc phát huy nguồn nhân lực người dân tộc Khơner ở Việt
Nam
1.2.2.1. Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc.
Đại gia đình dân tộc Việt Nam thống nhất hiện có 54 dân tộc anh em, dân
số giữa các dân tộc không đồng đều nhau. Theo các tài liệu chính thức, nước ta có 54
dân tộc. Dân tộc Kinh ( Việt ) là dân tộc đa số, chiếm hơn 86,2% dân số. Các dân tộc
thiểu số có số dân khá đông, trên một triệu người là Tày, Thái, Mường, Khơmer; trên
50 vạn là người Hoa, Nùng, Mông, Dao… Trong những năm gần đây, một số dân tộc
thiểu số có ít dân, nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã khắc phục được tình
trạng suy giảm, số dân của các dân tộc này đã tăng lên. Tuy số dân có sự chênh lệch
đáng kể, nhưng các dân tộc luôn luôn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương
yêu đùm bọc lẫn nhau.
Cộng đồng dân tộc Việt Nam có quá trình hình thành và phát triền lâu dài
trong lịch sử.
Trong 54 dân tộc anh em, có những dân tộc vốn sinh ra và lớn lên trên
mảnh đất Việt Nam ngay từ thưở ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư
đến nước ta. Do vị trí nước ta nằm trên ngã ba đường giao lưu của châu Á, nhiều dân
tộc ở các nước xung quanh, do nhiều nguyên nhân, đã di cư đến Việt Nam, từ Bắc
xuống (là chủ yếu), từ Nam lên, từ Tây sang, rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những

đợt di cư noí trên kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thậm
chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta cả sau năm 1945. Đây là những đợt di
cư lẻ tẻ, bao gồm một số hộ gia đình đồng tộc.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân tộc Kinh là dân tộc đa số, các dân
tộc còn lại là dân tộc thiểu số.
15


Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát
triển cao hơn, là lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu
tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và
phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các dân tộc thiểu số nước ta gắn bó với dân
tộc đa số và gắn bó với nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả khi thuận lợi
cũng như lúc khó khăn, ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng
hóa, thôn tính các dân tộc thiểu số. Do đó, cũng không có tình trạng các dân tộc thiểu
số chống lại dân tộc đa số.
Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, dân tộc Kinh cũng
như toàn thể các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt
đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
- Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Trong 54 dân tộc anh em của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhiều dân tộc
có chung cội nguồn. Nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã có nhiều truyền thuyết
như truyện “ Quả bầu mẹ” giải thích dân tộc có chung một nguồn gốc; truyện “ Đôi
chim” đẻ ra hàng trăm, hàng nghìn trứng nở ra người Kinh, người Mường, người
Thái, người Khơ mú…; truyện của dân tộc Bana, Êđê kể rằng người Kinh, người
Thượng là anh em một nhà; đặc biệt là truyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một
bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con, một nửa theo cha xuống biển trở thành

người Kinh, một nửa theo mẹ lên núi thành các dân tộc thiểu số. Vua Hùng được coi
là Tổ chung của cả nước. Ngày 10 – 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ Hùng vương
của toàn dân tộc.
Các tài liệu lịch sử thì cho thấy Người Việt, người Mường là con cháu của
người Lạc Việt (người Việt cổ), là chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn. Theo nhiều
nhà nghiên cứu, việc tách nhóm Việt – Mường thành các dân tộc là một quá trình lâu
dài, bắt đầu vào cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Người
Tày, Thái, Nùng là những bộ phận của người Tày – Thái cổ, trong quá trình lịch sử đã
tách thành các dân tộc Tày, Thái, Nùng.
16


Người Mông, Dao xưa kia có cùng nguồn gốc, sau tách thành các dân tộc
Mông, Dao và Pàthẻn. Các dân tộc cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều nhiều điểm
tương đồng là điều kiện thuận lợi dễ gần gũi, gắn bó với nhau. Song, điều quan trọng
là các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đều là người trong một nước, con
trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau. Trong suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc
nước ta luôn luôn kề vai sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Truyền thống đoàn kết của các dân tộc nước ta được hun đúc qua mấy
ngàn năm lịch, cùng nhau chung lưng đấu cật, xây dựng đất nước và chống giặc ngoại
xâm. Trong nền văn minh lúa nước, đất và nước là hai yếu tố cơ bản, có ý nghĩa sống
còn. Xa xưa, trên lãnh thổ nước ta hiện nay, hầu như còn là một vùng núi cao, sông
sâu, rừng rậm, đầm lầy, nhiều thú dữ, khí hậu ẩm thấp, nóng nực. Những chủ nhân tự
nhiên ở đây và sau đó là cộng đồng dân cư các dân tộc Việt Nam đã hợp sức lại để
khai phá đất đai, tạo nên những đồng bằng rộng lớn. Nước ta ở vào khu vực địa lý có
nhiều thuận lợi nhưng cũng rất khắc nghiệt, khi thì mưa thuận gió hòa; khi thì dồn dập
bão táp, lụt lội. Để chống đỡ thiên tai, nhất là lũ lụt, nhân dân các dân tộc đời này qua
đời khác đã liên kết lại, đắp đê, xây đập… Hệ thống đê điều đồ sộ trên đất nước ta là
công trình vĩ đại được xây dựng nên bằng sức mạnh đoàn kết của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam trong suốt chiều dài mấy ngàn năm lịch sử.

Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn
cầu, cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của
khối đoàn kết dân tộc và thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc Việt
Nam càng thêm gắn bó chặt chẽ.
Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống
ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Đất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao
thông Bắc – Nam, Đông - Tây của thế giới, có tài nguyên phong phú và vị trí địa lý chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm lược trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc chiến tranh chống
lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có và hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy
mà mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn luôn sát cánh bên nhau, tiến hành các
cuộc kháng chiến oanh liệt chống giặc ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược Hán,
Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trong thời kỳ chúng cường thịnh nhất, đánh
thắng thực dân Pháp, mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế
17


giới và đặc biệt là đánh thắng Mỹ, đế quốc to nhất, hùng mạnh nhất trong thời đại
ngày nay. Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết, nhu cầu chống giặc ngoại xâm để giành
và giữ nền độc lập dân tộc đã tập hợp toàn thể dân tộc Việt Nam thành một khối.
Trong quá trình lịch sử chống giặc ngoại xâm lâu dài, khối đoàn kết dân tộc không
ngừng được cũng cố, mở rộng và nâng cao, đoàn kết trở thành truyền thống cực kỳ
quý báo của cả dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, mở ra thời đại Hồ Chí Minh, nhân dân các dân tộc trên đất nước ta đã phát
huy cao độ tin thần đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đoàn kết là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tháng 4 – 2001,
một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng

định “ Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đảng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp đở nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”.
Những thành tựu to lớn và rất quan trọng đạt được trong quá trình đổi
mới cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới,
là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách
mạng nước ta ngày càng được tăng cường. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
càng đòi hỏi nhân dân ta có sự thống nhất và đồng thuận xã hội cao. Giữ gìn và tiếp
tục phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc hiện nay vẫn là một nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược. Tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và
hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người dân
Việt Nam.

18


- Các dân tộc Việt Nam sống đan xen nhau
Việt Nam “ là một trong những cái nôi của loài người”. Tổ tiên của dân
tộc ta là cư dân bản địa, đồng thời có giao lưu, tiếp xúc với nhiều luồng nhân chủng
khác nhau thuộc vùng Đông Nam Á . Những cư dân bản địa đã cùng với các tộc người
từ các nước láng giềng chuyển đến, gắn chặt vận mệnh với nhau, tạo dựng nên cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
Địa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du;
còn các dân tộc thiểu số sống ở vùng núi phía Bắc, vùng núi Thanh – Nghệ - Tĩnh,
Trường Sơn – Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ; người Hoa sống tập trung ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không

cư trú thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi
của tỉnh, huyện, xã và cả các ấp, bản, mường. Sau giải phóng miền Bắc năm 1954 và
sau năm 1975, với kết quả của các cuộc vận động xây dựng và phát triển các vùng
kinh tế, tình trạng sống đan xen giữa các dân tộc trở nên phổ biến trên phạm vi cả
nước.
Đến nay, nét nổi bật nhất về tình hình là hầu như không có tỉnh, huyện
nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân tộc như: Lai Châu, Lào
Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Đồng… Riêng tỉnh Đăk Lắk có 46 dân
tộc anh em. Phần lớn các huyện miền núi có từ 5 dân tộc trở lên cư trú. Nhiều xã, bản
có tới 3 hoặc 4 dân tộc cùng sinh sống.
Tình Trạng cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt là điều kiện
để tăng cường hiểu biết nhau về phong tục, tập quán… làm xuất hiện mâu thuẫn, tranh
chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn tới khả năng va chạm giữa những người
thuộc các dân tộc sinh sống trên một địa bàn. Các thế lực thù địch trước kia cũng như
hiện nay luôn luôn chú ý lợi dụng, khoét sâu những va chạm, mâu thuẫn trong quan hệ
dân tộc để chia rẽ, làm suy yếu sự đoàn kết các dân tộc để dễ dàng thực hiện ý đồ xâm
lược hoặc duy trì ách thống trị của chúng.
Đối với chúng ta,tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc là điều kiện
thuận lợi cơ bản để tăng cường quan hệ mọi mặt giữa các dân tộc, xây dựng cộng
đồng các dân tộc ngày càng gắn bó vững chắc, để cùng nhau tiến bộ và phát triển, để
sự hòa hợp dân tộc tăng lên,sự cách biệt về trình độ phát triển từng bước thu hẹp lại.
19


Ngày nay, do sống gần nhau và trình độ dân trí dược nâng cao, các dân tộc hiểu biết
tiếng nói của nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ của các dân tộc khác nhau
ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hòa hợp giữa các dân tộc anh
em. Những vướng mắc,nếu có, đều có thể giải quyết được trên cơ sở pháp lý, có tình,
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, lấy mục tiêu đoàn kết dân tộc làm trọng.
- Các dân tộc thiểu số ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi,

biên giới, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại:
+ Về kinh tế:
Phần lớn các dân tộc thiểu số nước ta cư trú ở miền núi, chiếm ¾ diện tích
cả nước. Đây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn. Trước hết, đó là tiềm
lực về tài nguyên rừng và đất rừng. Miền núi còn là nơi có điều kiện để phát triển cây
công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, chăn nuôi đại gia súc… Ngoài ra, miền núi
chính là nơi có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản. Hàng năm, từ miền núi đã cung
cấp hàng chục tỷ mét khối nước cho thuỷ điện, thuỷ lợi; cung cấp hàng tỷ chục mét
khối phù sa bồi đắp cho vùng đồng bào ven biển. Đối với môi trường sinh thái của cả
nước, miền núi có vai trò quan trọng về điều hoà khí hậu, điều tiết nguồn nước, bảo vệ
lớp đất màu trong mùa mưa lũ. Miền núi là nơi chiếm đại đa số rừng và đất rừng, giúp
điều hoà khí hậu và ngăn chặn những trận lũ tràn, lũ ống, lũ quét…
Đường biên giới trên đất liền của nước ta dài 4.000 km, trong đó 3.000
km nằm ở khu vực miền núi. Tại đây có nhiều cửa ngõ thông thương với các nước
láng giềng. Đó là điều kiện thuân lợi để mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá giữa nước
ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Song, đó cũng là địa bàn hiểm trở, khó
khăn cho việc kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn buôn lậu, ma tuý xâm nhập, gây tổn hại
nghiêm trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cơ chế kinh tế mới đã giải phóng những tiềm năng và sức sản xuất hiện có,
thúc đẩy kinh tế của các khu vực cùng phát triển. Miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số ở nước ta có nhiều tiềm năng, điều kiện phát triển kinh tế. Sự phát triển của
vùng cây công nghiệp ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ, kinh tế trang trại, đồi rừng ở các
tỉnh miền núi phía Bắc… đã có sự tham gia tích cực của đồng bào dân tộc thiểu số,
góp phần làm thay đổi đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đại bộ phận đồng bào.
20


+ Về an ninh, quốc phòng
Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng

định. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để
xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước, sự nghiệp cách mạng
trên đất nước ta. Xét cả về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đây là địa
bàn chiến lược quan trọng. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam tất cả các giai đoạn
phát triển đều có sự đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc. Trước yêu cầu của thời
kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vị trí, vai trò của miền núi
và vùng đồng bào dân tộc thiểu số càng hết sức quan trọng. Mỗi bước phát triển cũng
như mỗi khó khăn, yếu kém ở đây đều trực tiếp tác động, ảnh hưởng đến toàn bộ quá
trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng và kháng chiến chống Pháp,
Nhật, Mỹ. Kẻ thù của chúng ta cũng hiểu rất rõ vị trí quan trọng của miền núi. Thực
dân Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự có ý nghĩa
chiếm lược không chỉ với chiến trường Việt Nam mà còn với cả Đông Dương. Pháp và
Mỹ đều dồn sức chiếm giữ Tây Nguyên, “ mái nhà của Đông Dương “. Do đó, nơi đây
luôn luôn là chiến trường quan trọng, có tính quyết định trong các cuộc chiến tranh
Đông Dương. Các chiến thắng quan trọng, có ý nghĩa bước ngoặt trong chiến tranh
như chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ( ngày 7-5-1954 ), chiến thắng Buôn Ma Thuộc
( ngày 11-2-1975 ) đều diễn ra ở những vùng rừng núi chiến lược, nơi có đông đồng
bào dân tộc sinh sống. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc thiểu số đã
góp phần xứng đáng trong lịch sử vẻ vang chống ngoại xâm của dân tộc.
Miền núi, biên giới là “ phên dậu” vững chắc của Tổ quốc, là địa bàn
chiến lược về phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, chống
âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp hòa bình, xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
+ Về quan hệ đối ngoại
Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta không chỉ vì lợi
ích các dân tộc thiểu số mà còn vì lợi ích cả nước, không chỉ là đối nội mà còn là đối
ngoại, không chỉ về kinh tế - xã hội, mà cả về chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.
21



Trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, cộng đồng dân tộc
Việt Nam phát triển hòa hợp, thống nhất, theo xu thế tiến bộ, hợp quy luật. Tuy nhiên,
để khối thống nhất toàn dân tộc tiến lên một tầm cao mới phải giải quyết đồng bộ
nhiều vấn đề, trong đó cần thực hiện đường lối “ Phát huy sức mạnh toàn dân tộc” của
Đảng, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi ”.
Nắm được tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực của các dân
tộc thiểu số Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách nhằm phat huy tiềm lực của
đồng bào dân tộc thiểu số như:
- Phát triển kinh tế ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một
bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân…
- Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa miền
núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự nghiệp chung của nhân dân cả nước, của
nhân dân các dân tộc thiểu số,đồng thời vì lợi ích chung của cả nước… Trung ương và
địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm… Nhà nước cần bố trí vốn đầu
tư thích đáng hơn cho địa bàn quan trọng này, trước mắt tập trung đầu tư cho giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, điện và nguồn nước và đất đai cho sản xuất, sinh hoạt
của dân cư, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế…, nhằm xóa đói giảm nghèo, cải thiện
và nâng cao đời sống nhân dân.
1.2.3. Nguồn lực dân tộc Khơmer trước yêu cầu đổi mới:
Khái niệm “xã đặc biệt khó khăn” gắn với Quyết định 135/1998/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt
khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nơi đây phần lớn là địa bàn dân tộc thiểu số, có
những khó khăn về điều kiện tự nhiên, hạn chế đến khả năng giao lưu; khó khăn về cơ
sở hạ tầng, nhất là điện, đường, trường, trạm, các dịch vụ khác; khó khăn về các yếu tố
xã hội như dân trí thấp, bệnh tật; khó khăn về sản xuất; khó khăn về đời sống. Tỉnh
Sóc Trăng đất đai kém màu mỡ, sình lầy, ngập mặn hoặc độ chua phèn cao, nhiều nơi
đồng bào Khơmer phải cầm cố đất dẫn đến không có đất canh tác, phải đi làm thuê

kiếm mướn. Sóc Trăng có 33 xã. Các “xã đặc biệt khó khăn” đã nhận được sự ưu tiên
của Đảng và Chính phủ trong đầu tư phát triển về mọi mặt, kể cả đào tạo nguồn nhân
22


lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng. Tuy vậy, sự phát triển
của “xã đặc biệt khó khăn” chỉ bảo đảm vững chắc, bền vững khi có một đội ngũ cán
bộ chủ chốt đủ năng lực, khả năng triển khai, thực hiện tốt các chương trình, dự án mà
Nhà nước đã ưu tiên đầu tư; sử dụng những nguồn lực ưu tiên của Nhà nước để phát
huy những tiềm năng, thế mạnh vốn có của từng địa phương tạo sức bật trong quá
trình phát triển. Mặt khác, đội ngũ này cũng chính là những người phải có năng lực để
tổng kết những kết quả, mô hình thực hiện các dự án đã đầu tư để Nhà nước có hướng
điều chỉnh thích hợp để triển khai các bước thực hiện tốt hơn trong thời gian tới, bảo
đảm đưa các “xã đặc biệt khó khăn” biến nguồn lực đầu tư của Nhà nước thành cơ hội
phát triển trong tương lai, tránh tình trạng ỷ lại thụ động một chiều vào Nhà nước.
Muốn thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt tại các “xã đặc biệt
khó khăn” trở thành một vấn đề rất quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã ở
Tỉnh.
Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đội ngũ
cán bộ ở các “xã đặc biệt khó khăn” ở Sóc Trăng đã có nhiều chuyển biến quan trọng.
Tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số tham gia các cơ quan hệ thống chính trị ngày càng
nhiều. Trình độ các mặt của cán bộ được nâng lên qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập
huấn, từ trình độ học vấn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước đến chuyên môn nghiệp
vụ. Có nhiều con em đồng bào các dân tộc Khơmer được vào học hệ thống dân tộc nội
trú, cử tuyển vào các trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp nhằm tạo
nguồn cán bộ trong tương lai.
Tuy vậy, tình hình cán bộ tỉnh Sóc Trăng vẫn còn tồn tại nhiều mặt đáng
quan tâm như:
- Trình độ của đội ngũ cán bộ các xã chưa đáp ứng được yêu cầu trong
thời kỳ mới. Về trình độ văn hoá, đa số chỉ mới có trình độ cấp II, chỉ có khoảng 10%

có trình độ cấp III, vẫn còn khoảng 20% cán bộ có trình độ tiểu học; cán bộ Mặt trận
và đoàn thể có trình độ văn hoá cấp III chỉ chiếm 15%, đa số còn ở trình độ văn hoá
cấp II (74%), còn lại là cấp I. Về trình độ lý luận chính trị, có một số mới học qua trình
độ trung cấp lý luận chính trị, nhưng do học vấn thấp nên khả năng tiếp thu rất hạn
chế, phần lớn mới học qua chương trình sơ cấp. Về trình độ chuyên môn, đa số cán bộ
23


chính quyền chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, mà chỉ mới trải qua một số lớp
tập huấn ngắn ngày. Một số cán bộ dân tộc Khơmer chưa thạo tiếng Kinh nên rất khó
khăn khi tiếp thu các kiến thức văn hoá, lý luận và khoa học - kỹ thuật.
- Về cơ cấu dân tộc, số cán bộ dân tộc Khơmer tham gia các chức danh
Bí thư, Chủ tịch và chuyên môn còn ít, chủ yếu là công tác Mặt trận và đoàn thể. Cán
bộ nữ tham gia các cơ quan hệ thống chính trị cấp xã chỉ có khoảng 2-3%, chưa nơi
nào có phụ nữ làm Bí thư hoặc Chủ tịch xã. Tuổi đời của cán bộ ở “các xã đặc biệt khó
khăn” nhìn chung khá cao, hầu hết từ 40-55 tuổi. Số cán bộ dưới 30 tuổi chỉ chiếm một
tỷ lệ ít. Nhiều nơi vẫn sử dụng một số lượng lớn cán bộ về hưu tham gia bộ máy Đảng,
chính quyền, mặt trận và đoàn thể.
- Về năng lực: Trình độ hạn chế đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực
hoạt động của cán bộ, chủ yếu lãnh đạo - quản lý bằng kinh nghiệm, kém về khả năng
tư duy và tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, các dự án của Nhà
nước. Nhiều nơi cán bộ xã phải dựa vào sự giúp đỡ của cán bộ huyện theo kiểu “cầm
tay chỉ việc”, tạo nên sự ỷ lại, thiếu năng động, sáng tạo. Cũng do thiếu trình độ để
hướng dẫn nhân dân, nên năng lực vận động quần chúng không cao, thường sử dụng
biện pháp hành chính mệnh lệnh. Có nơi, do cán bộ xã chưa nắm vững pháp luật nên
khi thi hành công vụ đã xảy ra sai phạm, xâm hại đến quyền lợi vật chất và tinh thần
của đồng bào dân tộc.
- Về phẩm chất đạo đức và phẩm chất chính trị: Nhìn chung số đông
cán bộ dân tộc Khơmer các “xã đặc biệt khó khăn” đều chất phác, cần cù, chịu khó,
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, có ý thức xây dựng

khối đại đoàn kết dân tộc. Nhưng cũng có trường hợp do trình độ học vấn thấp và trình
độ lý luận hạn chế, nên nhiều khi chưa hiểu thật rõ đúng sai. Đáng chú ý nhất là các
biểu hiện tư tưởng tự ti và tự trọng, thiếu chí tiến thủ, nặng ỷ lại vào cấp trên.
- Về công tác cán bộ, từ tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến
sử dụng cán bộ các “xã đặc biệt khó khăn” đều có những bất cập. Nguồn cán bộ có
chất lượng để cung cấp cho cấp xã rất thiếu do trình độ dân trí thấp, ít có học sinh thi
vào các trường cao đẳng, đại học và trung học chuyên nghiệp. Nguồn tại chỗ được

24


×